Dân trí Nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo vừa qua đời
lúc 19 giờ 50 ngày ngày 7/1/2019 tại bệnh viện Bạch Mai sau thời gian
chống chọi với căn bệnh ung thư phổi.
Chia sẻ với phóng viên Dân trí, chị Thu Hương con gái đầu
của nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo cho biết người cha kính yêu của
mình đã qua đời vào 19 giờ 50 ngày 7/1/2019 tại bệnh viện Bạch Mai. Chị
Thu Hương nói, hiện tại người nhà đang rất bối rối, nên chưa có thông
tin chính thức về tang lễ.
Theo nhà thơ Bùi Hoàng Tám, trước khi mất, nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn
Trọng Tạo sức khỏe đã yếu, điều trị nhiều ngày tại bệnh viện Bạch Mai vì
bệnh ung thư phổi.
Nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã rời dương thế.
Trước đó, vào cuối năm 2017, trong dịp về thăm quê ở Diễn Châu,
Nguyễn Trọng Tạo từng bị đột quỵ vì tai biến. Tình trạng của ông lúc đấy
bị nhận định là rất nặng, tiên liệu xấu, chảy máu não, huyết áp rất
cao, lúc tỉnh lúc mê, liệt nửa người, không nói được…
Nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo nói, ông từng “muốn chết” sau khi
tỉnh lại trên giường bệnh. Trong vòng 20 ngày đầu ông rất thất vọng khi
bản thân không cử động, không tiếng nói, mất cảm giác toàn bộ…
“Tôi như một người chết. Vô hồn. Cứ mê mê tỉnh tỉnh như thế, nhiều
lúc chỉ… muốn chết. Nhưng khi có chút ý thức muốn tự tử, tôi cũng không
đủ thời gian và sức khỏe. Có lúc nghĩ đến tự tử rồi lại mê man mất
rồi…”, ông nhớ lại quãng thời gian đầy tuyệt vọng khi phải nằm bất động,
mất cảm giác, mất tiếng vì tai biến mạch máu…
Chia sẻ về người bạn tri kỷ tại buổi giới thiệu đêm nhạc “Nguyễn
Trọng Tạo - Khúc hát sông quê” diễn ra ngày 10/8/2018 tại Nghệ An, nhà
phê bình - nhà thơ Nguyễn Thụy Kha cũng thừa nhận trí nhớ của Nguyễn
Trọng Tạo cũng đã không được như xưa.
“Đấy bạn thân mà anh Trọng Tạo nhớ mãi mới ra… tên tôi. Ảnh hưởng sau
tai biến vẫn còn. Giờ tôi cũng buồn khi không có người uống rượu cùng.
Có uống cùng, chúng tôi cũng không “cùng dòng” nữa. Tôi vẫn uống whisky,
còn anh Tạo uống… rượu vang”, Nguyễn Thụy Kha xúc động nói.
Nhạc sĩ Thụy Kha từng chia sẻ về trí nhớ bị ảnh hưởng sau tai biến của Nguyễn Trọng Tạo.
Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25-8-1947 tại Diễn Châu, Nghệ An, đi lính
năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14 tuổi.
Ông là nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ.
Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban biên
tập báo Thơ (2003–2004). Ông từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An
năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân
(1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải
thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc
các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện
ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha...
Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, hiện công tác tại tạp chí Âm nhạc và
Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt Nam, đã có 8 giải thưởng âm nhạc.
Ông là tác giả của những tập thơ, trường ca như “Đồng dao cho người
lớn”, “Nương Thân”, “Thế giới không còn trăng”, “Con đường của những vì
sao” (Trường ca Đồng Lộc), những bài hát “Làng Quan Họ quê tôi”, “Khúc
hát sông quê”, “Đôi mắt đò ngang”, “Mẹ tôi”, tác giả “Biểu tượng Ngày
thơ Việt Nam”, “Cờ thơ”...
Nguyễn Hằng
Khúc Hát Sông Quê Anh Thơ
Bị liệt nửa người, không nói được, Nguyễn Trọng Tạo từng “muốn chết”…
Dân trí “Tôi như một người chết. Vô hồn. Cứ mê mê tỉnh
tỉnh như thế, nhiều lúc chỉ… muốn chết. Có lúc nghĩ đến tự tử rồi lại mê
man…”, nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo nhớ lại quãng thời gian đầy
tuyệt vọng khi phải nằm bất động, mất cảm giác, mất tiếng vì tai biến
mạch máu…
“Khi có chút ý thức, tôi đã muốn… tự tử”
Nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo cho biết, cuối năm 2017, trong
dịp về thăm quê ở Diễn Châu, ông bị đột quỵ vì tai biến. Tình trạng của
ông lúc đấy bị nhận định là rất nặng, tiên liệu xấu, chảy máu não, huyết
áp rất cao, lúc tỉnh lúc mê, liệt nửa người, không nói được…
Theo Nguyễn Trọng Tạo sau khi tỉnh lại trên giường bệnh, trong vòng
20 ngày đầu ông rất thất vọng khi bản thân không cử động, không tiếng
nói, mất cảm giác toàn bộ. “Tôi như một người chết. Vô hồn. Cứ mê mê
tỉnh tỉnh như thế, nhiều lúc chỉ… muốn chết. Nhưng khi có chút ý thức
muốn tự tử, tôi cũng không đủ thời gian và sức khỏe. Có lúc nghĩ đến tự
tử rồi lại mê man mất rồi…”, ông nói.
Nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo kể chuyện trở về từ cõi chết khi tai biến... (Ảnh: HBN)
Tác giả bài thơ “Chia” kể lại: “Trong khoảng 20 ngày đầu, tôi thất
vọng và chỉ nghĩ đến cái chết. Nhưng đến ngày thứ 21, tôi có cảm giác
mình tỉnh lại và sẽ vượt qua được. Từ đấy, tôi ý thức mình còn sống. Rất
lạ lùng là, các nhà chuyên môn nói tôi phát triển từng ngày một, rất là
khác. Có những bệnh nhân khác bị trường hợp giống tôi, có khi phải mất
cả năm mới tiến triển được như tôi. Các bác sĩ tin tưởng, tôi sẽ khỏe
trở lại…
Tháng đầu chỉ ở trên giường, sang tháng thứ hai, tôi có thể ngồi xe
lăn. Trong mấy ngày đầu, tôi di chuyển bằng xe lăn, sang ngày thứ 5 tôi
thấy mình có thể tự đi lại được, không cần xe lăn nữa. Tôi chống gậy di
chuyển. Tôi đi lại với chiếc gậy được 4 ngày, đến ngày thứ 5, tôi không
thấy chiếc gậy đâu nên đi tìm. Tự nhiên, tôi đứng và đi lại được.
Sau đó, mỗi khi đi lại, con cháu lại mang cái gậy bên cạnh nhưng tôi kiên quyết… không dùng.”
Chị Thu Hương, con gái đầu của nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo,
người đã túc trực chăm sóc bố trong thời gian bạo bệnh cũng chia sẻ
rằng, những ngày đầu tỉnh dậy trên giường bệnh ông nói chuyện vô cùng
khó khăn. Rất nhiều người thân, bạn bè, những người mến mộ đến thăm muốn
trò chuyện cùng ông nhưng ông nói rất vất vả. “Bố tôi nói nhưng khẩu
hình không rõ, mọi người không nghe được. Sau đó các bác sĩ cũng dặn dò,
hạn chế bớt người vào thăm để bố tôi nghỉ ngơi, không bị ảnh hưởng đến
sức khỏe”, chị Thu Hương kể lại.
Sau cơn tai biến, Nguyễn Trọng Tạo cũng tích cực tập thể dục, uống,
tiêm thuốc kết hợp với việc tập vật lý trị liệu cùng bác sĩ. Ông cũng
dần đọc sách báo, viết thơ nhạc trở lại: “Mỗi đêm, tôi ngủ 6-7 tiếng.
Nếu ngủ dậy mà không ngủ lại được thì tôi lại viết, lại đọc. Nếu mình
không đọc sách báo, tự nhiên sẽ thấy trống trải, sẽ buồn. Đọc lại rất
mệt, nhưng nếu không làm gì cả lại còn buồn hơn…”, ông bộc bạch. “Khi sự sống lại thêm lần nữa được bắt đầu…”
Xuất hiện trong buổi giới thiệu đêm nhạc “Nguyễn Trọng Tạo - Khúc hát
sông quê” mới đây tại Hà Nội, vẫn phong thái “người thơ phong vận như
thơ ấy” nhưng cũng dễ nhận ra sức khỏe của ông đã yếu, sự ứng biến mau
lẹ, sắc sảo đã không còn.
Tuy nhiên, để được như hiện tại, đối với Nguyễn Trọng Tạo là sự may
mắn, bởi như lời của các bác sĩ thì trong 1.000 người bị tai biến chỉ có
một người là có thể bình phục như ông. "Ai cũng bảo Nguyễn Trọng Tạo là
người may mắn. Đến bây giờ, có thể nói tôi đã thoát khỏi tay thần chết,
thoát khỏi một cuộc sống quá khó khăn. Và cuộc sống vẫn sẽ tiếp tục,
tôi sẽ trở lại với những cảm xúc mới, thậm chí sống có cảm xúc hơn…",
ông nói.
Nhà phê bình- nhà thơ Nguyễn Thụy Kha chia
sẻ, gia đình và bạn bè ủng hộ Nguyễn Trọng Tạo thực hiện đêm nhạc tại
quê nhà sau khi vượt qua "lằn ranh sinh tử"... (Ảnh: HBN)
Hiện tại, Nguyễn Trọng Tạo vẫn sống ở căn hộ ở Linh Đàm gần nhà con
gái, có thêm người cháu đến ở cùng để tiện việc trông nom. “Cứ đến bữa
là gia đình con gái sang nấu ăn và vợ chồng, con cái ăn luôn ở nhà tôi.
Chúng nấu ăn ở nhà tôi là muốn cho bố đỡ phải đi lại sang nhà chúng và
cũng để bố vui”, vị nhạc sĩ vui vẻ “khoe”.
Ngồi bên cạnh Nguyễn Trọng Tạo, người bạn tri kỷ, nhà phê bình - nhà
thơ Nguyễn Thụy Kha chia sẻ vừa xúc động vừa hài hước: “Đấy bạn thân mà
anh Trọng Tạo nhớ mãi mới ra… tên tôi. Ảnh hưởng sau tai biến vẫn còn.
Giờ tôi cũng buồn khi không có người uống rượu cùng. Có uống cùng, chúng
tôi cũng không “cùng dòng” nữa. Tôi vẫn uống whisky, còn anh Tạo uống…
rượu vang”.
Bên cạnh tình cảm dành cho người bạn chí cốt, lời cảm ơn tới những
bác sĩ đã cứu Nguyễn Trọng Tạo trở về từ cõi chết, Nguyễn Thụy Kha cũng
nói hôm nay là ngày vui nhất trong cuộc đời ông khi thấy bạn mình khỏe
mạnh trở lại, lạc quan thực hiện đêm nhạc “Khúc hát sông quê” để kỷ niệm
sinh nhật lần thứ 71 và cũng tri ân tình cảm bà con ở quê nhà Nghệ An
vào tối 10/8 tới.
Đây là đêm thơ nhạc có thể nói là đáng nhớ nhất trong cuộc đời Nguyễn
Trọng Tạo, “khi sự sống lại thêm lần nữa được bắt đầu”, như chính những
vần thơ ông viết từ gan ruột và… dự cảm: “… Có cánh rừng chết vẫn
xanh trong tôi/… mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ/ mà đời vẫn say mà
hồn vẫn gió/ Có thương có nhớ có khóc có cười/có cái chớp mắt đã nghìn
năm trôi…”
Nguyễn Hằng
Ảnh: HBN
Cổng Làng - Nguyễn Trọng Tạo
Về thăm quê mẹ-Nguyễn Trọng Tạo- Anh Thơ
Nguyễn Trọng Tạo - một đời 'phóng túng, lang bang'
Tác giả "Khúc hát sông quê" sống phiêu lãng, tự do tự tại, làm việc và cống hiến hết mình đến cuối đời.
Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo qua đời
ở tuổi 72 tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Trước đó một tuần, nhạc sĩ
hôn mê sâu. Dù đã chuẩn bị tinh thần, nhiều người thân với ông như nhà
văn Ngô Thảo, nhạc sĩ Giáng Son... không khỏi bàng hoàng khi hay tin.
Sinh thời, ông được đồng nghiệp, bạn bè yêu quý bởi tính cách hào sảng,
hài hước, tốt bụng.
Nhà văn Ngô Thảo kể ông quen biết Nguyễn Trọng Tạo từ năm 1972, khi hai người cùng khoác áo lính.
"Tổng thống thứ 21 của Pháp - ông Francois Mitterrand từng nói: 'Phóng
túng và lang bang là phẩm chất của người nghệ sĩ'. Nguyễn Trọng Tạo có
cả hai tính cách ấy", Ngô Thảo nhận xét về người bạn thân thiết. Khi còn
sống, ông yêu tự do, thích đi du lịch, kết giao, gặp gỡ bạn bè.
Tùng Dương - người thể hiện thành công ca khúc Cỏ và mưa phổ từ
thơ Nguyễn Trọng Tạo - kể anh quen biết ông từ nhỏ, do ông kết giao với
bố anh. Thế nhưng Tùng Dương không có nhiều dịp gặp gỡ ông vì nhạc sĩ
"nay đây mai đó". "Thỉnh thoảng, tôi gọi điện cho chú, lúc thấy chú ở
Tây Nguyên, vài hôm sau đã ở TP HCM, rồi dăm bữa ngược lên miền núi phía
Bắc. Tôi cảm nhận con người nhạc sĩ tràn ngập chất 'phủi', phóng
khoáng. Đó là trái tim thích lãng du", ca sĩ nhớ lại.
Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo hồi tháng 7 năm ngoái.
Nguyễn Trọng Tạo là tâm điểm của mỗi cuộc gặp gỡ, cà kê của giới văn sĩ.
Bạn bè nhận xét ông hóm hỉnh, ăn nói có duyên, không cầu kỳ, kiểu cách.
"Bạn chí cốt của Nguyễn Trọng Tạo ở khắp tứ hải. Ai cũng mến tính cách
giản dị, thuần phác của ông. Đi đến đâu, ông cũng tựa như một thỏi nam
châm, hút lấy mọi người", nhà thơ Bình Nguyên Trang chia sẻ.
Nguyễn Trọng Tạo từng xây hẳn một căn nhà sàn ở bãi giữa sông Hồng để
cùng bạn bè đàm đạo. Ông không nghiện rượu nhưng thích ngồi nhâm nhi với
anh em. Từ những cuộc nhậu, nhiều tác phẩm của ông được bạn bè "đưa ra
ánh sáng". Nhạc sĩ vốn không khoa trương, ông viết nhiều bài từ vài chục
năm trước nhưng không chịu ra mắt. "Bạn nhậu" phải giục lên giục xuống,
ông mới tính đến chuyện thu âm.
Trong mắt nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, Nguyễn Trọng Tạo tốt bụng, nhiệt
tình, hào phóng: "Cậu ấy cũng rất tình cảm, quan tâm đến mọi người. Tạo
coi gia đình bạn bè như người thân của mình". Không chỉ đối xử tốt với
anh em cùng thời, nhạc sĩ được nhiều đàn em ngưỡng mộ. Nhà văn Ngô Thảo
kể ông không ngại khó khăn, dành nhiều thời gian dìu dắt các nhà thơ
trẻ, giúp họ chỉnh trang câu chữ, liên hệ nhà xuất bản, rồi thiết kế
bìa, viết lời đề từ. Nguyễn Trọng Tạo làm tất cả những việc ấy từ tâm,
không màng danh lợi. Ông cũng dành nhiều công sức, thời gian chấm thi,
tham gia nhiều hoạt động ở các trường đại học vì muốn tiếp xúc với những
tài năng chớm nở.
Bản nhạc "Khúc hát sông quê" - một trong những ca khúc nổi tiếng nhất của Nguyễn Trọng Tạo. Ảnh: Vnguitar.
Tính tình hào sảng, phóng khoáng nhưng khi bắt tay vào công việc, ông nghiêm túc, khó tính. Nhà thơ Bình Nguyên Trang có dịp hợp tác với nhạc sĩ khi ông thực hiện liveshowKhúc hát sông quê
hồi tháng 9/2017. "Nhiều người tưởng Nguyễn Trọng Tạo là người à uôm,
xuề xoà, thực ra không phải. Động đến công việc, ông như biến thành
người khác. Ông kỹ tính, cầu toàn, luôn muốn mọi việc chỉn chu, theo
đúng ý mình. Khi ông quyết định điều gì, khó ai lay chuyển được", nhà
thơ Bình Nguyên Trang chia sẻ.
Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo và nhà thơ Thụy Kha (phải).
Làm bạn với nhau hơn 40 năm, từng cùng làm Tạp chí Âm nhạc, Tạp chí Thơ,
nhà thơ Thuỵ Kha và nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo không tránh khỏi những lúc
xích mích: "Thế nhưng Tạo chẳng bao giờ để bụng, giận hờn ai lâu. Trong
công việc, cậu ấy quyết liệt, không dễ dàng thoả hiệp", Nguyễn Thụy Kha
nói. Ông cũng là người ôm đồm, đa mang.
Ở tuổi ngoài 70, ông vẫn làm đủ thứ việc, từ biên tập, thiết kế bìa
sách, dạy học, chấm thi âm nhạc, sáng tác thơ... Trước khi bị tai biến
cuối năm 2017, hầu như đêm nào ông cũng thức đêm, thậm chí đến sáng để
hoàn thành "tỷ thứ việc" như vậy. Sau cơn bạo bệnh,
khi hồi phục, ông vẫn dành thời gian tập thể dục, làm thơ, soạn bài phê
bình, viết nhạc. "Con người tôi là vậy. Sau khi lâm bệnh, nếu không đọc
sách báo hoặc làm điều gì có ích, tôi sẽ thấy buồn và trống trải", ông tâm sự khi chuẩn bị liveshow ở quê nhà Nghệ An hồi năm ngoái.
Sống một mình nhiều năm nay trong căn chung cư ở khu đô thị Linh Đàm, Hà
Nội, nhiều người nghĩ Nguyễn Trọng Tạo cô đơn lúc cuối đời. Thế nhưng
ông hạnh phúc, hài lòng vì mình có được sự tự do. Trải qua hai lần đổ
vỡ, tài sản lớn nhất ông giữ lại là ba người con hiểu chuyện, trưởng
thành. Con gái lớn đã lập gia đình, sống ở tòa nhà cạnh bố nên thường
xuyên thăm nom ông. Con trai thứ đã tốt nghiệp Tiến sĩ Kiến trúc ở Italy
và đang làm việc ở Huế, con gái út học Tiến sĩ Kinh tế ở Italy. Cả ba
đều coi bố là thần tượng nhưng không theo nghiệp ông vì sợ "con không
bằng được cha". Nhà thơ Thuỵ Kha tiết lộ ngoài gia đình, bạn bè, không
ít phụ nữ thầm thương trộm nhớ, ngưỡng mộ ông. Tuy nhiên, ông luôn ý tứ,
chừng mực trong các mối quan hệ.
Nguyễn Thuỵ Kha hồi tưởng: "Khi Trọng Tạo còn sống, hai chúng tôi tâm
đắc câu thơ của thi hào Nga - Boris Leonidovich Pasternak: 'Cứ sống, cứ
sống, cứ sống đến cùng'. Vậy nên cậu ấy rong ruổi khắp nơi, kết giao với
nhiều người, làm đủ việc mình thích. Tôi vẫn nói với bạn: 'Mày sống như
thế là bằng ba cuộc đời của người khác rồi, chẳng có gì phải tiếc cả'.
Bạn ra đi, tôi đau buồn nhưng không suy sụp, bi luỵ".
Lễ nhập quan diễn ra lúc 8h30 ngày 9/1 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số
5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ viếng diễn ra từ 12h đến 13h30 cùng ngày.
Linh cữu được đưa đi hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn vũ, Hà Nội lúc 14h.
Tro hài nhạc sĩ sẽ được đưa về quê ở Nghệ An sau khi gia đình xây dựng
xong khu tưởng niệm.
Hà Thu
Mẹ tôi - Thơ Nguyễn Trọng Tạo
Con sông huyền thoại - Nguyễn Trọng Tạo
Những tác phẩm nổi tiếng của cố nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo
VOV.VN - Nguyễn Trọng Tạo còn là tác giả của rất nhiều ca khúc nổi tiếng như: Làng quan họ quê tôi, Khúc hát sông quê.
Nhà
thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo sinh ngày 25/8/1947 trong một gia đình
nho học ở làng Trường khê (nay là Diễn Hoa), huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ
An.
Ông sáng tác bài thơ đầu tiên năm 14 tuổi, sáng tác bài hát đầu tiên năm 20 tuổi và xuất bản tập thơ đầu tiên (Tình yêu sáng sớm, in chung cùng Nguyễn Quốc Anh) vào năm 27 tuổi.
Trong
suốt sự nghiệp của mình, nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo xuất bản
hơn 20 đầu sách gồm thơ, văn, nhạc, phê bình tiểu luận và đoạt nhiều
giải thưởng văn học nghệ thuật.
Ông là tác giả của những tập thơ, trường ca như: Đồng dao cho người lớn, Nương Thân, Thế giới không còn trăng, Con đường của những vì sao (Trường ca Đồng Lộc).
Về âm nhạc, Nguyễn Trọng Tạo cũng có nhiều ca khúc được công chúng yêu mến như: Làng quan họ quê tôi, Khúc hát sông quê, Đôi mắt đò ngang....
Video: Trọng Tấn hát "Làng quan họ quê tôi"
Video: Bùi Lê Mận hát "Khúc hát sông quê"
Cuối
năm 2017, nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo bị tai biến khi đang ở quê
nhà Nghệ An. Mọi người tưởng ông không qua khỏi nhưng sau 20 ngày cấp
cứu tại bệnh viện, ông dần có cảm giác, nhận thức được trở lại và bắt
đầu tỉnh táo.
Sau cơn bạo bệnh, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo càng có thêm cảm xúc để sáng tạo. Tháng 8/2018, ông tổ chức đêm thơ nhạc Khúc hát sông quê.
Trong
buổi gặp gỡ báo chí, ông tâm sự: "Ai cũng bảo Nguyễn Trọng Tạo là người
may mắn. Từ sau khi bị tai biến, tôi thấy mình sống có cảm xúc hơn. Đến
bây giờ, có thể nói tôi đã thoát khỏi tay thần chết, thoát khỏi một
cuộc sống quá khó khăn".
Tuy vậy, khoảng gần 3 tháng trước, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo bị phát hiện mắc bệnh ung thư phổi giai đoạn cuối.
Ông qua đời vào lúc 19h50 ngày 7/1 tại bệnh viện Bạch Mai, hưởng thọ 72 tuổi./.
Mộc Lan/VTC News
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kể chuyện “phục sinh” sau khi bị tai biến
“Mất cảm
giác toàn bộ, không nói, không cử động, không cảm xúc… như một người
chết vô hồn, nhưng thật kỳ diệu sau 20 ngày cấp cứu, tôi đã tỉnh nhận
thức được và dần tỉnh táo trở lại. Sau 7 tháng chống chọi với căn bệnh,
tôi đã trở về là một Nguyễn Trọng Tạo như trước đây và có thể còn tốt
hơn nữa…” – Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kể chuyện ông bị tai biến vào cuối
tháng 12 năm 2017.
Tròn
một năm sau đêm nhạc đầu tiên trong sự nghiệp “Nguyễn Trọng Tạo – Khúc
hát sông quê” diễn ra cùng kỳ năm ngoái tại Nhà hát Lớn Hà Nội, nhà thơ-
nhạc sĩ tài hoa Nguyễn Trọng Tạo lại trở lại với đêm nhạc cùng tên vào
ngày 10/8 tới, nhưng được tổ chức tại Nghệ An quê hương ông.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tái sinh sau cơn bạo bệnh
Xuất hiện tại buổi họp báo vào chiều
25/7, sức khỏe của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo có phần yếu hơn trước do dư
chấn của lần tai biến cuối năm ngoái: Chỉ 3 tháng sau đêm nhạc đầu tiên
trong sự nghiệp, vào đúng ngày cuối năm về thăm quê, ông đã bị đột quỵ
vì tai biến. Tình trạng của ông lúc bấy giờ được nhận định là rất nặng,
tiên liệu xấu: chảy máu não, huyết áp rất cao, lúc tỉnh lúc mê, liệt nửa
người…
ADVERTISEMENT
Nhắc
lại cơn bạo bệnh, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo xúc động chia sẻ, khi bị đột
quỵ gia đình đưa ông vào bệnh viện Vinh cấp cứu. Với sự hỗ trợ của các
bác sĩ và bạn bè, ông đã được cứu sống bằng những loại thuốc tốt nhất
trước khi chuyển ra bệnh viện Bạch Mai điều trị. Và nhờ tình yêu thương
của mọi người và đặc biệt là sự chăm sóc của cô con gái… ông đã sống trở
lại, mà theo lời nhà thơ Nguyễn Thụy Kha – Nguyễn Trọng Tạo đã được
“phục sinh”.
Trường
hợp của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo được các bác sĩ cho biết, trong 1000
người bị tai biến, chỉ có ông là may mắn phục hồi trở về với cuộc sống.
Đó chính là lý do để nhà thơ tổ chức đêm thơ nhạc “Khúc hát sông quê”
vào tối 10/8/2018 (tại Nhà Văn hóa Lao động tỉnh Nghệ An) để tri ân
cuộc đời, tri ân quê hương và những tấm tình mà người thân, bạn bè, khán
giả, cùng các y bác sỹ… đã sát cánh bên ông lúc nguy nan.
Đêm thơ nhạc cũng nhằm kỷ niệm sinh nhật lần thứ 71 của Nguyễn Trọng
Tạo (25/8) – lần sinh nhật đáng nhớ nhất trong cuộc đời khi sự sống lại
thêm lần nữa được bắt đầu, như chính những câu thơ ông từng viết ra từ
gan ruột và… dự cảm: – “Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa Chỉ vết thương rồi thời gian làm sẹo Rồi thời gian qua đi rồi tuổi trẻ qua đi … Bao lo lắng đời thường từng làm tuổi xanh ta bạc tóc Chỉ Hy vọng và Niềm tin giúp ta thêm sức lực Câu thơ này xin bạn nhớ giùm cho: Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa!…” – “Có cánh rừng chết vẫn xanh trong tôi … mà thuyền vẫn sông mà xanh vẫn cỏ mà đời vẫn say mà hồn vẫn gió có thương có nhớ có khóc có cười có cái chớp mắt đã nghìn năm trôi…”
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo và người bạn thân – nhà thơ Nguyễn Thụy Kha (trái) cùng ê kíp tổ chức đêm thơ nhạc
Đêm thơ nhạc “Nguyễn Trọng Tạo – Khúc hát sông quê” có sự tham gia
của các nghệ sĩ: NSND Thanh Hoa, nhạc sĩ Giáng Son, Trọng Tấn, Anh Thơ,
Phương Thanh, Lê Anh Dũng, Phương Anh (Sao Mai), nhóm Con Gái, nhóm Cỏ
Lạ, nhóm Dòng Thời Gian…
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo sinh năm 1947 ở Nghệ An. Ông là tác giả của những ca khúc nổi tiếng “Làng
quan họ quê tôi”, “Khúc hát sông quê”, “Tình ca bên một dòng sông”…
cùng những bài thơ từng gây chấn động văn đàn như: “Đồng dao cho người
lớn”, “Tản mạn thời tôi sống”, “Tin thì tin không tin thì thôi”,…
Đêm nhạc Nguyễn Trọng Tạo - Khúc hát sông quê | 2018
Tối 10/8, tại nhà Văn hóa Lao động tỉnh Nghệ An đã diễn ra đêm nhạc của
nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo với chủ đề “Khúc hát sông quê”. Đây là liveshow
đầu tiên của ông được tổ chức tại quê nhà xứ Nghệ.
Đêm nhạc “Khúc hát sông quê” là lời tri ân của nhà thơ- nhạc sĩ Nguyễn
Trọng Tạo với cuộc đời, với quê hương và những tấm tình mà người thân,
bạn bè, khán giả... đã sát cánh bên ông lúc bạo bệnh, giúp ông có được
sức mạnh “trở về từ cõi chết”…
Các nghệ sỹ khách mời có NSND Thanh Hoa, nhạc sỹ Giáng Son cùng những ca
sỹ đã thành danh nhờ ca khúc Nguyễn Trọng Tạo như: Trọng Tấn, Anh Thơ,
Phương Thanh, Lê Anh Dũng, Phương Anh, nhóm Con Gái, nhóm Cỏ Lạ, nhóm
Dòng Thời Gian cùng Ban nhạc Hoa sữa
Nhà thơ – Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo ngừng hát “đồng dao” để về với “sông quê”
Vũ Gia Hà |
Thứ Ba, 08/01/2019 00:20 GMT +7
Vanhien.vn
– Sau thời gian lâm bệnh nặng, Nhà thơ – Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo đã
qua đời tại bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) vào lúc 19h50 ngày 7/1/2019. Sự
ra đi của ông đã để lại nhiều tiếc thương cho văn nghệ sĩ, cũng như
nhiều người mến mộ ông.
Kính xin tiễn biệt MỘT TÂM HỒN LỚN! Ảnh: Internet.
Người
viết bài này là học trò của Nhà thơ – Nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo. Khi hay
tin ông ra đi từ Nhà văn – Nhạc sĩ Phạm Việt Long, tôi đã hụt hẫng,
ngừng suy nghĩ về mọi thứ, những hình ảnh lúc này ùa về là bóng dáng
người thầy hiền lành, tài hoa, với những bài giảng chiều sâu về văn
chương, thời cuộc và không kém phần hài hước. Tôi đã từng viết, có lẽ
sau Nhà thơ – Nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi, thì Nguyễn Trọng Tạo là một trong
số rất ít những người làm văn chương có nhạc phẩm không thua kém gì
những Nhạc sĩ lớn chỉ chuyên về nhạc. Ông là một Nghệ sĩ đúng nghĩa
trong sáng tạo và ngoài đời. Và tôi xin khẳng định lại: Nguyễn Trọng Tạo
là một “của báu” của nước Việt!
Nguyễn
Trọng Tạo phải là người có Tâm Hồn Lớn mới viết nên được những nốt nhạc
cho “Khúc hát sông quê”, cho “Đôi mắt đò ngang”, cho “Làng quan họ quê
tôi”... Và ông phải là người có trái tim nhân hậu mới có thể làm rung
động hàng triệu trái tim khác bằng những nhạc phẩm mà tôi gọi là những
thiên phẩm. Những bài thơ của ông càng làm cho chúng ta thêm yêu hơn cái
đẹp ẩn hiện trong cõi hồng trần đau khổ.
Giữa
mùa đông lạnh lẽo này, sự ra đi của người Nghệ sĩ lớn càng làm cho cái
lạnh thêm buốt tim, dẫu rằng cái chết là không tránh khỏi. Cách đây
khoảng một tháng, sau khi cùng Nhà văn – Nhạc sĩ Phạm Việt Long và các
bạn văn trường Nguyễn Du sang thăm Nguyễn Trọng Tạo không lâu, tôi đã có
một giấc mơ kỳ lạ. Tôi đã kể với Nhà văn – Nhạc sĩ Phạm Việt Long, giấc
mơ như sau:
“Tôi
đang ngồi ở đồng cỏ thì bỗng nhiên Nguyễn Trọng Tạo xuất hiện, ông đi
lại phía tôi và rơi nước mắt, một tay che lồng ngực. Tôi ôm chặt ông.
Ông nói rõ ràng: “Thầy bị đau ngực đã một thời gian rồi, khó qua lắm”.
Nghe xong, tôi khóc. Tôi bàng hoàng tỉnh dậy khi đôi mắt còn rơm rớm,
lúc đó là hơn 2 giờ sáng, và tôi thức cho đến sáng hẳn. Sau đó một ngày,
tôi gọi điện cho Nguyễn Trọng Tạo để hỏi thăm sức khỏe, giọng ông sang
sảng và tươi trẻ. Từ lúc nghe giọng ông đến nay mới được khoảng hai
tháng. Và tôi chưa gặp lại ông. Và một cuộc trò chuyện “gai góc” giữa
hai thầy trò như đã hẹn đã không thể thực hiện.
Đến
lúc này, khi đã biết tin ông vĩnh viễn ra đi, tôi chưa thể tin nổi. Có
lẽ lúc này, nhiều người đang nghe lại các nhạc phẩm và đọc lại các thi
phẩm của ông. Và ở đó, Nguyễn Trọng Tạo cất lên tiếng nói của mình. Và ở
đó, Nguyễn Trọng Tạo đã nuôi nấng bao tâm hồn khác. Và ở đó, Nguyễn
Trọng Tạo giúp nhiều trái tim khô cứng biết rung theo nhịp vui buồn của
cuộc sống.
Giống
nhà thơ nổi tiếng người Nga Ê-xê-nhin vẽ nước Nga yêu kiều và yếu đuổi
bằng những câu thơ đẹp và bay bổng, Nguyễn Trọng Tạo trong nhiều trường
hợp thơ cũng đã vẽ nước Việt bằng những câu thơ lạ của riêng mình, ngoài
ra, nó còn hiện lên với dáng vẻ vừa mê vừa tỉnh. Ông yêu nước mình từ
vẻ đẹp đồng quê. Mà vốn dĩ, ông lớn lên từ đồng quê.
Tôi
đã từng cho rằng, thơ Nguyễn Trọng Tạo phần nào đó mang dấp Nga, đó
chính là mang dáng dấp của Ê-xê-nhin. Lần đầu tiên, khi khá lâu, còn là
sinh viên năm 2, trong một buổi ra mắt tuyển tập thơ của ông ở Trung tâm
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây ở phố Trần Quý Kiên (Hà Nội), tôi đã nhận ra
điểm này khi có trong tay tuyển tập thơ Nguyễn Trọng Tạo. Rõ ràng,
Nguyễn Trọng Tạo đã thấy “Nước Nga Vàng” rất chung với “Nước Việt Vàng”,
đó là điểm tương thích trong hai Tâm Hồn Lớn.
Tâm
Hồn Nguyễn Trọng Tạo đã đồng điệu, lồng ghép vào nhiều Tâm Hồn xưa kia,
như Hàn Mặc Tử, như Vũ Hoàng Chương, như Vũ Đình Liên, như một phần của
Nguyễn Du. Tâm Hồn ấy đã san sẻ sang cho nhạc, và cùng với thơ cất lên
đôi cánh, mang đến cho những tâm hồn khô cằn bóng mát, để từ đó tươi mới
hơn, nên người hơn.
Vâng,
lúc này đây, Nguyễn Trọng Tạo đã ngừng hát “đồng dao” để về với “sông
quê”, nhưng sự ngừng đó là để cho chúng ta hát tiếp từ những câu thơ
điêu luyện của ông. Và ông đã về với “sông quê”, chính nơi đây đã cho
Tâm Hồn ông điểm tựa. Chính nơi đây đã giúp Tâm Hồn Nguyễn Trọng Tạo phủ
mát cho biết bao tâm hồn khác. Và ông đã lại về với “sông quê”, nơi
đây, ông sống mãi trong lòng quê hương và đất nước. Nơi đây, “Khúc hát”
sẽ bay lên, vang xa mãi mãi.
Kính xin tiễn biệt MỘT TÂM HỒN LỚN!
(Chú
thích: “Đồng dao” và “sông quê” sử dụng ở tiêu đề và trong bài được lấy
từ tên tập thơ “Đồng dao cho người lớn” và nhạc phẩm “Khúc hát sông
quê” của Nguyễn Trọng Tạo)
Tạo ngày 19/01/2007 16:01 bởi Nguyễn Trọng Tạo, đã sửa 1 lần, lần cuối ngày Hôm kia 20:52 bởi Vanachi
Nguyễn Trọng Tạo (25/8/1947 - 7/1/2019) là
nhà thơ, nhà văn, kiêm nhạc sĩ, hoạ sĩ, sinh tại Diễn Châu, Nghệ An, đi
lính năm 1969, học Đại học viết văn Nguyễn Du khoá 1, làm thơ từ năm 14
tuổi. Ông là Uỷ viên Hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng ban
biên tập báo Thơ (2003–2004), từng được các giải thưởng thơ của Nghệ An
năm 1969, và giải thơ của các báo Văn nghệ, Văn nghệ quân đội, Nhân dân
(1978), hai lần được Giải thưởng Văn học nghệ thuật cố đô (Huế), Giải
thưởng Văn học nghệ thuật Hồ Xuân Hương, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc
các hội văn học nghệ thuật Việt Nam về thơ và văn xuôi. Thơ và truyện
ngắn của ông dịch ra tiếng Pháp, Anh, Nga, Tây Ban Nha...
Ngoài thơ, ông còn là nhạc sĩ, công tác tại Tạp chí Âm nhạc và Thời đại của Hội nhạc sĩ Việt Nam, đ…
Vẽ tôi con Lợn cầm tinh Con Gà cầm tháng con Tình cầm tay (Nguyễn Trọng Tạo)
Mùa
đông 1978 buốt lạnh và triền miên những bữa cơm ăn hạt bo bo. Những
tranh chấp biên giới Tây – Nam đã đến độ căng thẳng. Những người lính
tình nguyện Việt Nam lại một lần nữa dấn thân gúp bạn Campuchia để nhằm
xoá sạch “nạn diệt chủng Pôn Pốt”. Những giai điệu ngợi ca họ lại vang
lên nóng bỏng. Lúc ấy tôi đang chuẩn bị viết một chùm ca khúc để trả bài
cho lớp sáng tác thì bỗng thấy bài thơ Hát ru em bé Campuchia
của Nguyễn Trọng Tạo trên báo Văn Nghệ. Bài thơ đầy nhạc tính. Thế là
tôi dựa vào một nét dân ca Campuchia, phổ nhạc bài thơ này. Ca khúc Hát ru em bé Cămpuchia hoàn thành, được thầy Vũ Trọng Hối khen, rồi được thu thanh mở đầu cho băng ca nhạc Campuchia chiến đấu và hy vọng.
Lúc ấy tôi chưa hề gặp Nguyễn Trọng Tạo mà chỉ biết hắn cũng làm thơ
làm nhạc như mình. Vào một sáng mùa đông năm đó, Nguyễn Đình Chính đưa
tôi đến Trại sáng tác Quân đội ở làng Khương Hạ. Ở đấy, tôi đã gặp
Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Hoa. Không cần rào trước đón sau, chúng tôi
đọc thơ và hát cho nhau nghe trong men nồng “quốc lủi”. Và từ ngày ấy,
chúng tôi thành “Ba anh em họ Nguyễn” như nghĩa cử Lương Sơn Bạc cho đến
tận hôm nay.
Nguyễn Trọng Tạo quê Diễn Châu, Nghệ An. Đấy là
vùng đất Hoan Diễn của xứ Âu Lạc xưa, nơi có đền Công thờ Thục An Dương
Vương với huyền sử vua cha chém Ái nữ Mỵ Châu rồi tuẫn tiết trên đèo Mụ
Dạ, nơi có Lèn Hai Vai như vị tướng bị chặt đầu và sông Bùng như dòng
nước mắt của bà tướng khóc chồng tuôn trào ra biển. Nguyễn Trọng Tạo
sinh ra ở đấy vào ngày 25-8-1947, trùng với ngày sinh và ẩn tuổi Hợi của
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Không biết có phải do trời tạo, đất sinh mà
từ miền quê huyền sử ấy đã hun đúc nên một chàng nghệ sĩ đa tài
“cầm-kỳ-thi-hoạ” cho thời hiện đại này. Đa tài sau Văn Cao và Nguyễn
Đình Thi.
Tôi có ý nghĩ như vậy, bởi khi tôi gặp Tạo, hắn đã có
thơ in thành tập, đã đoạt liền ba giải thưởng thơ hay trong năm của ba
tờ báo lớn, đã từng vẽ tranh bán ở chợ Vinh thuở thiếu thời, và vừa viết
xong bài hát Làng Quan Họ quê tôi phỏng lời thơ của Nguyễn Phan
Hách. Bài hát đã được Thanh Hoa cùng tốp nữ Đài Tiếng Nói Việt Nam thu
thanh, để rồi nổi tiếng mãi đến bây giờ và chắc còn vang mãi mai sau.
Nghe nói hồi nhỏ Tạo đã tự làm một chiếc đàn violon khá đẹp và đã có lần
diễn tấu cho toàn trường cấp 3 Diễn Châu nghe, nhưng từ khi gặp Tạo,
tôi chưa hề thấy hắn chơi một loại nhạc cụ nào, mà xướng âm thì khá
vững. Còn vốn hoà âm, khúc thức… Tạo thụ hưởng từ thầy Ngô Trí Thậm và
qua vài lớp sáng tác âm nhạc trong quân đội cũng đã đủ để viết ra một tổ
khúc hợp xướng Đất nước Bác Hồ và cuộc hành quân không nghỉ khá
hoành tráng thời chống Mỹ cứu nước. Vậy nên, đó cũng là tạng của một
nhạc sĩ dị biệt. Về thơ, cũng ngay từ dạo ấy, Tạo đã có những đột phá
mang khát vọng cách tân như không nhiều nhà thơ khác thời đầu thanh
bình. Tạo khởi xướng ra “Thơ đời thường” nhằm đối trọng với thơ tụng ca
nhan nhản lúc bấy giờ, để rồi phóng ra một Tản mạn thời tôi sống giữa năm 1981 làm chấn động thi đàn. Với thơ, Tạo vô cùng khó tính. Tôi có bài thơ Những giọt mưa
làm lại đến lần thứ ba rồi mà Tạo đề nghị tôi “giỡ ra làm lại, không
thì tiếc quá”, và tôi đã làm theo đề nghị của hắn, để có được bài thơ Những giọt mưa đồng hành đoạt giải báo Văn nghệ
sau đó. Chúng tôi chơi với nhau như vậy, bươn trải hết biên giới Tây –
Nam lại biên giới Bắc. Rồi cả “Ba anh em họ Nguyễn” đều cùng về học
Trường Viết Văn Nguyễn Du khoá đầu tiên.
Đấy là những ngày tụ
quần ấm áp không bao giờ quên. Ấm áp và trong trẻo. Lúc đó Trại sáng tác
Quân đội đã chuyển về Vân Hồ. Tạo và Nguyễn Hoa ở chung một phòng. Hành
trình hai chiều Vân Hồ với nhà tôi 60 Hàng Bông là hành trình đi về
trong thương mến của “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi. Khi thì tôi tới Vân
Hồ, khi thì Tạo và Nguyễn Hoa lên Hàng Bông. Ở không gian nào thì cũng
vẫn là rượu, thơ và nhạc. Đấy là thời kỳ tích điện và bắt đầu phóng ra
vài luồng điện lạ vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước. Một trong những
luồng điện lạ đó của Tạo là bài thơ dài Tản mạn thời tôi sống.
Bài thơ nhức nhói bao nhiêu câu hỏi đòi phải được trả lời, đòi phải có
sự chuyển đổi. Đó là thơ “Đổi mới trước Đổi mới” như có nhà phê bình
nhận xét: “Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi/ Câu trả lời… thật không
dễ dàng chi”. Bài thơ được công chúng hào hứng đón nhận, nhưng cũng
chính bài thơ đó đã dội ngược về Tạo bao nhiêu áp lực của những thế lực
bảo thủ đương nhiệm. Những khát vọng cách tân của chúng tôi “đi tìm ngọn
lửa nào mới mẻ cho thơ” đã vấp phải những lực cản mạnh mẽ. Và Tạo là
người đầu tiên phải trả giá cho khát vọng này. Anh buộc phải dở dang
khoá học ở Trường Nguyễn Du, nhận lệnh của quân đội “Đi nhận nhiệm vụ
mới”, nhưng thực ra là về lại đơn vị cũ ở Quân Khu Bốn, nơi anh đã gắn
bó suốt cả thời chiến tranh. Song ở đời, bao giờ “cùng” cũng “tắc biến”.
Khi con người đã mang trong mình khát vọng, thì ở đâu, khát vọng đó
cũng có thể biến thành hiện thực. Khát vọng đó đã được Tạo viết trong
tập thơ Thư trên máy chữ gửi gắm tới bạn bè quan niệm nghệ thuật
của mình ngay sau những ngày đầu rời xa Hà Nội: “Rồi một ngày thành phố
sẽ nổ tung/ Bởi những hạt Sự Thật”. Đêm lột xác ấy có gì vừa tan vỡ vừa
đau đớn. Đấy là đêm tiễn Tạo về lại Khu Bốn, chúng tôi thức uống cùng
nhau trắng khuya. Vừa chớm sáng thì Tạo lên đường. Còn tôi và Nguyễn Hoa
thì ở lại với ý chí “chai rượu vỡ vụn/ chứng tỏ là thuỷ tinh” của Tạo
đang vương vãi muôn mảnh xung quanh.
Những năm tháng “hoạ vô đơn
chí” đã ập đến nặng nề như muốn đánh gục Tạo. Giấc mơ sau chiến tranh về
Hà Nội làm văn chương tan vỡ. Vợ chồng thì ly hôn. Cô em gái ruột dạy
học tận Đăc Lắc bị nhiễm độc máu. Tạo phải bám bệnh viện để chăm sóc
người em chỉ còn 1% hy vọng sống. Nhờ đức độ của giám đốc Nhà Văn Hoá
Quân Khu Bốn – nhà văn Đậu Kỷ Luật, Tạo được phép công tác trong “cơ chế
thoáng” để có thể tháng này Đắc Lắc, tháng sau Đà Nẵng, tháng sau nữa
Hà Nội… theo cùng em gái. Vừa chăm sóc em, Tạo vừa viết báo vừa đi nói
chuyện thơ và làm đủ mọi việc để có tiền cho em chữa bệnh. Chính sự tận
tình nuôi em của Tạo đã làm lay động con tim bao bác sĩ và bạn bè. Mọi
người đều sắn tay vào cuộc với Tạo. Và sau 6 tháng trời ròng rã ở bệnh
viện với 3 lần thay máu, 1 lần phẫu thuật, cô em ruột đã thoát khỏi lưỡi
hái tử thần, trở về quê tiếp tục nghề dạy học. Thật là một kỳ tích
ngoài nghệ thuật. Một kỳ tích nhân bản sau bài thơ Làng có một ngày như thế và bài hát Làng Quan Họ quê tôi.
Sau
khi hoàn thiện kỳ tích trên, Tạo rảnh rang thời gian giành cho nghệ
thuật. Tạo viết liên tiếp hai cuốn văn xuôi cho thiếu nhi là Miền quê thơ ấu và Ca sĩ mùa hè, sau này được tái bản nhiều lần và được giải thưởng Văn học nghệ thuật Cố Đô; cho xuất bản tập truyện ngắn Khoảnh khắc thời bình trong đó có truyện được dịch ra nhiều thứ tiếng. Hàng loạt bài thơ mới và trường ca Tình ca Người lính
ra đời. Năm nào Tạo cũng ra Hà Nội “cho đỡ nhớ”, và mỗi lần chia tay,
Tạo lại đề nghị đến Thuỷ Tạ uống bia hơi để “nhắm một miếng Hồ Gươm”.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại thu xếp cùng nhau một chuyến song hành xuyên
Việt. Vừa đi vừa tích điện, vừa phóng điện. Những cuộc rượu bật sáng.
Những sẻ chia ngất ngưởng với Thanh Thảo, Trần Hinh. Những dào dạt nồng
men với Trịnh Công Sơn, Đinh Cường… “Ba chàng họ Nguyễn” chúng tôi quyết
định ấn hành một tập thơ chung tại nhà xuất bản Hà Nội để làm kỷ niệm -
tập Sóng nhà Đêm biếc Tôi yêu năm 1986. Đấy cũng là năm bắt đầu của thời kỳ Đổi mới.
Qua
nửa thập niên phiêu bạt giang hồ lãng tử, Tạo lập gia đình và định cư
tại Huế. Những năm tháng “sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền
đài ngả nghiêng say” cùng bạn bè Huế, nói như Tạo: “Sông Hương và Huế đã
ném vào thơ tôi một vốc sương mù”. “Người ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo đã
cho ra hàng loạt tác phẩm thơ Sóng Thuỷ tinh, Gửi người không quen, Thư trên máy chữ và Tản mạn thời tôi sống, và đặc biệt nhất là Đồng dao cho người lớn
tung ra cái nhịp chẵn trì tục như một cách tân phương Đông làm ngỡ
ngàng những người làm thơ, đọc thơ vốn quen nếp cũ. Tập thơ xứng đáng
được trao giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam, nhưng tiếc thay khi vào
chung khảo nó đã bị Thư mùa đông của Hữu Thỉnh đánh gục, khiến
bao người yêu thơ buồn tiếc. Tạo hơi bị đau một chút, nhưng hắn lại
gượng dậy đưa ra một tiết tấu pop Nghệ cho ca khúc Đôi mắt đò ngang tình tứ đến quyết liệt, khiến tác giả Xa khơi Nguyễn Tài Tuệ thán phục như một bước tiến trong khai thác âm hưởng ví dặm. Rồi hắn lại lãng đãng với một Con dế buồn đồng cảm cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường qua giọng hát Mỹ Linh quyến rũ đến mê hồn…
“Người
ham chơi” Nguyễn Trọng Tạo vẫn chưa chịu dừng lại. Lãng du 15 năm như
nàng Kiều ở miền Trung, hắn lại quay về Hà Nội “nương thân” tít trên
tầng sáu của nhà tập thể Phương Mai thực hiện giấc mơ xưa. Cứ tưởng ra
Hà Nội để làm báo Thơ lại rơi về làm Tạp chí Âm nhạc cùng tôi sau
khi đã cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Quang Lập khởi ra tạp chí
Cửa Việt nổi đình đám, và đã vẽ măng-sét mới, dựng “phom” mới cho tạp
chí Sông Hương. Vẫn một quyết liệt cách tân thơ theo kiểu riêng hắn. Vẫn
một lối uống rượu có khi xuyên đêm không cần ngủ. Vẫn một tụ quần bè
bạn đầy thương mến để rồi lại trào ra một Khúc hát sông quê đồng
điệu qua thơ Lê Huy Mậu da diết đến tận gan ruột người xa xứ, bởi giọng
nhấn nhá như lên đồng của Anh Thơ. Bên cạnh tạp chí Âm Nhạc, Tạo thuyết
phục Hữu Thỉnh ra báo Thơ, và chính hai tay hắn đã dựng lên tờ báo Thơ
(cũng như vẽ cờ Thơ cho Ngày Hội Thơ) để trang trải khát vọng về thơ
Việt của mình. Hình như một mình hắn cặm cụi trong lặng lẽ vừa thu gom
bài vở, vừa biên tập tỉ mỉ, vừa trình bày rất “moder” giống như đã từng
trình bày Cửa Việt và làm biết bao bìa sách khá tân kỳ đã từng đoạt giải
thưởng. Báo Thơ do Tạo “tự nấu nướng” đã tồn tại được hai năm với biết
bao lời tán thưởng.
Song, hình như từ khi sang thế kỷ mới, với
một tâm niệm không chịu “lưu ban thế kỷ cũ”, muốn tự mình làm những gì
mình tâm huyết và thích thú, mùa thu 2005 “Người ham chơi” Nguyễn Trọng
Tạo tự gò mình vào công việc mới kết hợp cùng bạn bè ở Sài Gòn lập ra
công ty VVT mà hắn thường gọi đùa là “Vừa vừa thôi”, “Vừa và to”, “Vui
và thú”, “Vớ vẩn thế”… Nhưng thực ra VVT là chữ viết tắt của Văn hoá và
Truyền thông, với những chức năng làm văn hoá nghệ thuật vốn là sở
trường của Tạo. VVT đã làm sách văn học, trong đó Tạo rất tâm đắc với
tập sách “Những nhà thơ giải thưởng Nobel” dày chẵn nghìn trang khổ lớn,
và vừa qua đã kết hợp với tạp chí Sân Khấu ra phụ san hàng tháng mang
tên Sao Việt với ý tưởng là “ngôi nhà chung của hiền tài” mà hắn và cộng
sự đã nung nấu từ lâu. Đúng là một cuốn tạp chí “đẹp để đọc” chứ không
phải “đẹp để nhìn” như nhiều tạp chí màu mè loè loẹt hiện nay.
Đã gần qua tuổi tri thiên mệnh, xem ra “Người ham chơi” con Hợi cầm tinh vẫn chưa chịu ngồi chiếu lão làng. Tập thơ mới Thế giới không còn trăng
gồm 60 bài của Tạo lại đĩnh đạc trình làng sau 7 năm tận lực cho thơ.
Hình như hắn vẫn cứ “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” cho thoả chí làm
trai tang bồng cùng trời đất. Vâng, nếu không thế thì hắn không còn là
Tạo nữa. Hà Nội, ngày chớm đông 2006 NGUYỄN THUỴ KHA
NGUYỄN TRỌNG TẠO: “NẾU CÒN BẤT NGỜ…” LÊ MỸ Ý thực hiện
LÊ MỸ Ý (LMY): Thưa ông Nguyễn Trọng Tạo, trong cuộc phỏng vấn
này, tôi đang được trò chuyện với nhà thơ hay nhạc sĩ, hay là cả hai?
NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Cứ trò chuyện với Nguyễn Trọng Tạo là
được rồi. Còn các “chức” danh khác, chẳng qua người ta đặt cho thôi.
LMY: Và ông còn là một hoạ sĩ nữa. Ông đã từng thiết kế hàng trăm bìa sách và đã đoạt hai giải thưởng bìa sách?
NTT: Tôi không nghĩ mình là hoạ sĩ, nhưng cũng có thế đấy. Với
tôi, thơ là nghiệp, nhạc là hứng, hoạ là chơi. Hay nói cách khác, thơ là
chánh quán, nhạc là trú quán, hoạ là trọ quán.
LMY: Vậy
tôi xin được bắt đầu từ thơ của ông. Ông là người đã xuất bản rất nhiều
tập thơ, và Đồng dao cho người lớn hình như được đánh giá cao hơn cả?
NTT: Vâng, đúng là tôi tâm đắc nhất với tập thơ Đồng dao cho
người lớn, viết tại Huế từ năm 1986 đến năm 1994. Đây là một tập thơ
tôi đã viết khác hẳn hệ thống thơ chống Mỹ. Những nhà thơ trước đó
thường viết theo lối ca ngợi, ca ngợi dân tộc, ca ngợi đất nước, ca ngợi
lý tưởng, ca ngợi nhân dân. Đến tập thơ này của tôi, tôi đã viết với
một tinh thần rằng, chúng ta hãy sống trong sự mờ ảo của tâm hồn con
người, chúng ta phải biết đi qua hết những gì quá rõ ràng như giới tuyến
Bắc Nam. Mặc dù trong thời chống Mỹ, để vượt qua được giới tuyến Bắc
Nam là một điều quá thiêng liêng, cụ thể là máu xương của cả dân tộc.
Nhưng vượt qua giới tuyến rồi, chúng ta còn phải vượt qua sự huyền ảo
của con người. Sự huyền ảo ấy chính là tiếng nói thơ ca hiểu theo một
cách rộng rãi nhất, là một Nhân Văn không còn biên giới. Suốt một thời
làm thơ, tôi là một người thích chiêm nghiệm, và cũng là một người thích
đổi mới. Nhưng có lẽ chỉ sống ở Huế, tôi mới thấy hết sự huyền ảo của
nghệ thuật, mới ý thức thực sự nghệ thuật là tinh thần huyền ảo trong
trần gian. Nó làm nhoè mờ các ranh giới và vượt thoát ra ngoài các ranh
giới. 500 năm trước đây, đại thi hào Nguyễn Trãi đã tìm ra được 3 chữ
"An-Nhữ-Chỉ", nghĩa là , hãy yên tâm trong đường chỉ giới của chính
mình. Nhưng đến thế kỷ XX, Yanit Ritsot (HyLạp) đã phát hiện ra rằng,
"nếu tôi thấy được chân giới của tôi, tôi sẽ xuyên qua chân giới ấy".
Chỉ vì một đường chân giới mà người ta mất 5 thế kỷ mới đi qua được. Đấy
là cuộc đi qua bức tường Đông Tây. Cũng như sự đập vỡ bức tường Berlin
vậy. Còn chúng ta thì phải đi qua chiến tranh suốt 20 năm mới nhận diện
được sự huyền ảo trong thơ ca nghệ thuật. Do vậy, tôi nghĩ rằng, tôi đã
cố gắng đi qua chân giới để làm nên tập thơ "Đồng dao cho người lớn",
một tập thơ mà người ta vẫn thường nhắc tới khi nói về thơ ca Việt Nam
sau 1975.
LMY: "Sự thực của tinh thần huyền ảo trong trần
gian" mà ông nói trong tập thơ của mình, hiểu rộng hơn, cụ thể hơn là
gì, thưa ông? NTT: Đó là sự huyền ảo tâm linh của con người.
Nó nói lên tất cả những đau xót, sự nghĩa lý, những nhân tình thế thái
của cuộc đời một cách huyền ảo. Những thứ mà trước đây người ta vẫn
thường hiểu rành rọt, về sau thì khác, theo một tinh thần huyền ảo. Ngay
trước thời gian ở Huế, ở Hà Nội tôi cũng thường hiểu mọi thứ một cách
rành rọt, nhưng khi về ở Huế, tôi đã có thêm con mắt thứ ba để nhìn sự
vật. Con mắt bịa đặt. Nghệ thuật huyền ảo chẳng qua là một sự bịa đặt,
nhưng sự bịa đặt ấy làm cho người ta tin là thật, hơn cả thật, đấy là
những trạng thái sống vô cùng kỳ lạ. Trước đây, chúng ta đã biết một G.
Macket của chủ nghiã hiện thực huyền ảo, và trước cả ông, là một bậc
thầy F. Kapka. Tôi không phải là Macket hay Kapka, nhưng vẫn nói ra được
sự thật một cách "bịa đặt" mà người ta có thể tin.
LMY:
Thưa ông, tại sao chỉ có thể ở Huế, thơ ông mới mang một tinh thần huyền
ảo? Những nhà thơ khác không ở Huế thì không có tinh thần ấy trong thơ
ư? NTT: Tôi chỉ nói riêng trường hợp tôi. Ở Huế, tôi thấy có
nhiều điều kiện. Thứ nhất, không gian Huế rất lạ lùng, nó nằm giữa hư và
thực. Thiên nhiên Huế là một thiên nhiên mơ hồ. Thứ hai, ở Huế, người
ta có một tâm thái rất cục bộ. Tôi là dân ngụ cư nên càng mơ hồ bao
nhiêu càng dễ hoà nhập bấy nhiêu. Một điều nữa, trong tâm thái mình bắt
gặp có sự mơ hồ ấy mà sinh ra huyền ảo. Có lẽ những nhà thơ trụ cột của
Việt Nam thế kỷ XX đều từng sống ở Huế: Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu,
Chế Lan Viên... Xa hơn nữa là Cao Bá Quát, Nguyễn Du... Tôi có cảm giác
như là nếu không sống ở Huế thì người ta không thể làm thơ như thế. Đến
như văn Hoàng Phủ Ngọc Tường hay nhạc Trịnh Công Sơn cũng trở thành ảo
diệu một cách riêng biệt. Tuy nhiên, những điều ấy chỉ xảy ra với những
người có thực tài mà thôi. Còn một điều nữa, tôi nghĩ Huế một thời là
thủ phủ của đạo Phật, cái sắc sắc không không ấy của Phật giáo đã đi vào
tâm thức huyền ảo của thơ ca. Nguyễn Bính là một trường hợp bén duyên
với Huế hết sức kỳ lạ, chỉ cần 3 tháng ở Huế cũng đủ để ông trở thành
một nhà thơ mà lịch sử văn học không thể không nhắc tới.
LMY: Đã có "duyên nợ" nào giữa ông và Huế vậy, thưa ông? NTT: Tôi lấy vợ Huế, sinh con ở Huế, sống ở Huế, làm thơ ở Huế. Duyên nợ ấy xem như tiền định.
LMY: Có phải vì tiền định ấy mà thơ ông luôn phảng phất nét Huế?
Còn nhiều nghệ sĩ cũng đã vì Huế mà "nối vòng tay lớn" cùng nhau?
NTT: Tôi nghĩ nó không chỉ "phảng phất nét Huế" đâu, mà chính là
thấm đậm hồn Huế. Cũng như Bùi Giáng và Thu Bồn bắt thần Huế nhốt vào
câu thơ của họ: Dạ thưa xứ Huế bây giờ - Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông
Hương, hay Con sông dùng dằng con sông không chảy - Sông chảy vào lòng
nên Huế rất sâu, tôi cũng có câu thơ để cho Huế nhớ: Sông Hương hoá rượu
ta đến uống - Ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say. Nhắc đến thơ Huế sau
1975, có người nói rằng, nếu không có Nguyễn Trọng Tạo thì Huế sẽ hẫng
hụt, sông Hương sẽ chảy mạnh hơn nhiều, bởi họ nghĩ thơ tôi đã cân bằng
lại sông Hương bằng những câu thơ: Sông Hương cân bằng thành thị với
làng quê, hay: vầng trăng loã thể ướt đầm - sẩy chân thi sĩ vớt nhâm mỹ
nhân. Đúng là duyên kiếp tiền định. Nhưng tôi vẫn nghĩ, những người tài
họ vẫn gặp nhau, họ nối vòng tay lớn qua Huế, hay vì Huế thì tôi không
rõ. Còn tôi, nói khiêm tốn tôi tài mọn, nhưng cũng nhờ Huế mà có tình
bạn với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Trịnh Công Sơn, hai nhà văn hoá hành văn
mà tôi vô cùng kính nể.
LMY: Sinh ở Nghệ An, từng ở Huế, bây giờ là Hà Nội, sau này ông sẽ định cư thật sự ở đâu?
NTT: Điều ấy quan trọng thế sao? Thôi thì thế này, năm 1975 tôi đi
qua Huế và thiển nghĩ rằng, nếu làm văn chương thì nên ở Hà Nội, làm
kinh tế thì nên ở Sài Gòn, về hưu thì nên ở Huế. Nhưng tôi lại là một
người sáng tác, sáng tác làm gì có hưu (cười).
LMY: Nghĩa là ông sẽ không bao giờ ở Huế nữa?
NTT: Ít nhất là đến lúc này, tôi vẫn nghĩ là tôi ở Hà Nội. Nhưng
càng ngày, tôi càng nhớ cái làng nhỏ có núm rau của tôi bên bờ sông Bùng
xứ Nghệ.
LMY: Trở lại với tập thơ "Đồng dao cho người
lớn", khi viết lời tựa tập thơ này, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt
cho ông cái tên là "Người Ham Chơi"? Ông có thích từ này và thấy mình
"ham chơi"? NTT: Người Ham Chơi là một danh hiệu quá sang cho
một thi sĩ, hay nói rộng hơn là cái từ quá sang cho một nhà sáng tạo.
Bởi vì nếu có một người nói mình giỏi mà không biết chơi thì tôi chưa
tin người ấy giỏi; còn nói mình biết chơi mà không giỏi thì là chuyện
bình thường; nhưng bất cứ một người nào vừa làm giỏi vừa chơi giỏi thì
đấy mới thực là người chơi vĩ đại. Nói cho cùng, khi Hoàng Phủ Ngọc
Tường dùng từ Người Ham Chơi theo gốc chữ Latinh là Homoludus, thì tự nó
đã mang theo cả nghĩa người làm lẫn người biết rồi. Tôi hiểu, phải quí
tôi lắm Hoàng Phủ mới gọi như vậy. Hình như danh hiệu Người Ham Chơi,
Hoàng Phủ chỉ dành cho Nguyễn Trọng Tạo và Nguyễn Công Trứ - người đồng
hương xứ Nghệ. Đấy là một quà tặng vô giá. Nhưng nếu không chơi với tôi,
chắc chi Hoàng Phủ đã hào phóng như vậy.
LMY: Vâng, người
ta sẽ bất ngờ khi thấy ông không "ham chơi" chút nào. Rất nhiều tập thơ,
tập văn, bài báo, bìa sách, minh hoạ, ca khúc, và các bài viết mang
tính lý luận phê bình...của ông đã công bố. Ông có thấy như vậy là
nhiều, thưa ông? NTT: Không! Như tôi đã nói, từ "Người Ham
Chơi" mang cả nghĩa người làm. Riêng tôi thì không phân biệt mình làm
hay chơi. Còn người biết, nói cho cùng, chẳng ai biết gì cả. Trên thế
giới này, người ta vẫn thường nói ba chữ "bất khả tri" hoặc "càng biết
càng đau". Tôi cảm thấy mình chưa đau hơn bất kỳ ai.
LMY:
Vậy trong các công việc trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật mà ông
tham gia, đâu là "công việc" Nguyễn Trọng Tạo nhất? Đó có phải là lĩnh
vực mà ông đã thành công? NTT: Tôi làm báo để sống, làm thơ để
chết, làm nhạc, vẽ bìa sách, uống rượu... để vui. Người ta có thể chết
vì một tình yêu, người ta cũng có thể chết vì lợi nhuận. Nhưng đối với
riêng tôi, làm thơ cũng có nghĩa là làm tất cả. Việc này có thể nói như
một nhà thơ nghiệp dư trên đỉnh đèo Hải Vân tên là Lại Phiền Hà: "Em làm
thơ để em làm người". Tất nhiên là tôi thành công nhất trong thơ. Nhưng
khi ngẫu hứng, tôi đã làm nhạc. Ấy thế mà tới đâu cứ xướng "Làng Quan
Họ quê tôi" lên là người ta biết ngay đấy là nhạc của Nguyễn Trọng Tạo.
Phải nói là hạnh phúc vô cùng khi anh vừa là nhà thơ vừa là nhạc sĩ.
LMY: Với nhạc, ca khúc "Làng Quan Họ quê tôi" có phải là đỉnh cao của ông?
NTT: Có một ca khúc khác mà tôi thích hơn "Làng Quan Họ quê tôi",
đó là "Đôi mắt đò ngang". Nó ra đời năm 1995, sau "Làng Quan Họ quê tôi"
17 năm, và năm 1997 được sinh viên bình chọn là ca khúc mới hay nhất
trong đêm nhạc của 4 nhạc sĩ tại đại học Văn Hoá Hà Nội. Sau khi bài này
được phát trên đài truyền hình và đài phát thanh, nhạc sĩ Nguyễn Tài
Tuệ là người từng viết "Xa khơi" và "Tiếng hát giữa rừng Pác Bó" nổi
tiếng, đã tìm tôi và nói rất đúng ý tôi - ông rất thích "Đôi mắt đò
ngang", và cho rằng, bài này còn hay hơn cả "Làng Quan Họ quê tôi". Ở
quê tôi, người ta hát "Đôi mắt đò ngang" cả trong đám cưới. Bài hát này
cũng đã đoạt giải thưởng Hồ Xuân Hương Nghệ An và giải thưởng của Uỷ ban
toàn quốc Văn học nghệ thuật Việt Nam. Điều đó làm tôi thấy vui vì hoá
ra những điều mình thích cũng được ghi nhận, dù không được sôi nổi như
cái thời "Làng Quan Họ quê tôi" được hát trên cả nước, được JVC Nhật Bản
thu đĩa và dàn nhạc giao hưởng Lep-zich trình tấu ở Đức. Về bài "Đôi
mắt đò ngang" mà tôi rất thích ấy, tinh thần của nó là đi ngược lại với
những rào cản, ràng buộc từ trước, ngược với lời ru quá cẩn thận của
người xưa. Đó cũng là sự thoát khỏi An-Nhữ-Chỉ của Nguyễn Trãi: "Chìm
trong đôi mắt ấy, đò đầy anh cứ sang..." (hát). Còn bây giờ thì tôi đang
sướng về ca khúc mới "Khúc hát sông quê" phổ thơ Lê Huy Mậu. Nhiều
người đã hát bài này cho tôi nghe qua điện thoại di động.
LMY: Trên các diễn đàn văn nghệ, tại sao ông hay chọn đọc bài thơ
"Chia" và nhiều bạn trẻ cũng thích bài hát "Một dại khờ một tôi" do nhạc
sĩ Phú Quang phổ nhạc từ bài thơ này? NTT: Tôi cực kỳ tâm đắc
với bài thơ này. Người ta thường chia cho những con số trên 1 như Tố Hữu
từng chia trái tim làm "ba phần tươi đỏ" chẳng hạn, còn tôi, tôi chỉ
chia cho 1. Chia mà vẫn còn nguyên, chia cho1 cũng có nghĩa là tất cả,
là sự hiến dâng tất cả. Một bài thơ "Chia" mà có đến mười mấy chữ một.
Còn lý do tôi hay đọc bài thơ này vì nó là một bài lục bát dễ thuộc, lục
bát kiểu Nguyễn Trọng Tạo:
chia cho em một đời say một cây Si với một cây Bồ Đề khi đọc phải ngắt nghỉ, dừng lại đúng chỗ, nếu không thì sẽ không phải là bài thơ lục bát của tôi.
LMY: Trong số những người cùng thời, nếu nói về tài năng thi ca, ông phục ai?
NTT: Nguyễn Hoa, người đã viết được một câu thơ vĩ đại: "Em là
muối ướp nỗi đau tươi mãi", Nguyễn Thuỵ Kha, người đã viết được câu thơ
đầy can đảm:"Đưa người yêu qua nhà người yêu cũ". Thanh Thảo, Hữu Thỉnh,
Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Duy, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều là những thi
tài.
LMY: Tại sao, thưa ông? NTT: Không biết!
LMY: Vì sao ông viết nhiều tiểu luận phê bình thơ?
NTT: Tôi viết tiểu luận phê bình để ghi lại những cảm xúc khi đọc
thơ, ghi lại những suy nghĩ về thơ, để tranh luận với những quan điểm
trái với quan điểm của tôi. Nhưng cũng có lúc tôi viết vì thấy bực mình
tại sao thời của tôi không có những nhà phê bình thơ đích đáng. Một dân
tộc yêu thơ ca bậc nhất mà lại thiếu nhà phê bình thơ. Rất may Thơ Mới
còn có Hoài Thanh. Nếu tôi sống cùng thời với Hoài Thanh khi ông soạn
"Thi Nhân Việt Nam" chắc tôi sẽ tìm đến chơi với ông ấy. Đấy là người
đáng chọn để đàm đạo về thơ.
LMY: Theo tôi biết, thế hệ của ông vẫn có những nhà phê bình thơ đấy chứ, chẳng hạn như nhà thơ Vũ Quần Phương?
NTT: Vâng. Phê bình thơ của ông ta gần với văn bình giảng ở trường
phổ thông, rất dễ đọc. Bây giờ có một người trẻ có thể nói chuyện về
thơ là Nguyễn Đăng Điệp, một người rất quan tâm đến giọng điệu thơ, một
vấn đề rất quan trọng của thơ. Anh ta nói được một đôi điều khá hay.
Nên đọc cuốn sách "Giọng điệu trong thơ trữ tình" anh ta mới xuất bản
gần đây. Còn một người nữa là Nguyễn Phan Cảnh, tác giả cuốn "Ngôn ngữ
thơ" rất đáng đọc. Tôi thích đọc hai cuốn sách đó vì tác giả khám phá
sâu vào nghệ thuật thi ca, và mặc dù họ cách nhau đến vài thế hệ.
LMY: Lý do nào khiến trong những tranh luận của mình, ông luôn đặt thơ trẻ lên hàng đầu?
NTT: Trái đất không bao giờ quay ngược. Nếu nó quay ngược, hoặc
dừng lại thì nhân loại sẽ chết. Quan tâm đến thơ trẻ là việc tự nhiên
như trái đất quay, là một qui luật tất yếu. Người xưa quan niệm công
kênh trẻ con trên vai đấy mới là người ông, người cha tốt. Tôi không
phải là ông cha gì, nhưng chuyện ấy cũng đi theo một qui luật, các nhà
thơ trẻ sẽ bước lên vai những người trước, còn chuyện có đặt được chân
lên vai thế hệ trước hay không là việc của họ. Có một điều đối với những
người trẻ là không nên đòi hỏi ở họ sự chuẩn mực mà người trước đã tạo
ra, mà hãy hy vọng từ họ những cái mới lạ, khác cách và tươi mới, bởi
chính họ sẽ tạo ra những chuẩn mực mới cho thời đại. Theo thống kê học
thì những phát kiến quan trọng nhất của đời người thường xảy ra ở lứa
tuổi từ 24 đến 28. Tuổi trẻ là tuổi mở ra những cái bất ngờ. Đặc biệt
đối với thơ, tính bất ngờ là vô cùng quan trọng, nó làm thay đổi tần số
xung động của tâm hồn. Cho nên nhiều lúc người ta cứ bảo là tôi bênh bọn
trẻ quá đáng. Tôi còn hơn cả bênh, đấy là sự trân trọng. Tuổi trẻ đối
với sáng tạo thơ bao giờ cũng có những đột phá không thể lường được. Và
quả thực, thơ ca sau thế hệ tôi đã mở ra một chân trời mới. Điều tất yếu
này không phải ai cũng nhận ra, và không phải ai cũng trân trọng cả
đâu.
LMY: Tuổi trẻ của ông có làm nên điều gì bất ngờ không, thưa ông?
NTT: Năm 14 tuổi tôi đã làm cho cậu (cha) tôi bất ngờ khi tôi viết
được bài thơ đầu tiên, chịu ảnh hưởng của Hàn Mặc Tử. Nhưng bài thơ đó
của tôi hơn 20 năm sau (thời đất nước đổi mới) người ta mới cho in, vì
thời trước đó đang phải in những bài thơ xây dựng đất nước, bảo vệ tổ
quốc. Làm sao người ta có thể in thơ tôi viết: "Trăng trên ngọn liễu
trăng ngồi - Tôi trên ngọn liễu tôi rơi bây giờ" hay "Bây giờ tôi dịu
tôi hiền - Biết đâu dại tôi điên bao giờ "... được? Chỉ nghe dại dại
điên điên là họ đã không thích rồi. Một bất ngờ nữa là năm 1981, sau khi
cho in bài thơ "Tản mạn thời tôi sống" trên báo Văn Nghệ với những câu
"Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật không dễ dàng
chi" hoặc "Như con chiên sùng đạo chợt bàng hoàng - Nhận ra Chúa chỉ
ghép bằng đất đá" tôi liền bị "bay" khỏi Hà Nội mất 15 năm, ngang với
thời gian lưu lạc của nàng Kiều. Còn bây giờ thì có người đã coi "Tản
mạn thời tôi sống" như là "bài thơ dự báo cho dòng thơ đổi mới " của ta
(cười).
LMY: Hình như ông cũng viết nhiều về âm nhạc?
NTT: Những năm làm báo Âm nhạc, tôi và Nguyễn Thuỵ Kha là hai cây
bút tác chiến của tờ báo này và một số tờ báo khác, nhưng tôi không viết
nhiều về âm nhạc bằng Kha. Tuy nhiên tôi cũng có một số bài được người
ta thích như "Nguyễn Thiên Đạo - hợp lưu văn minh Đông Tây", "Ngọc Đại -
Phó Đức Phương, lửa và nước tương đồng", "Nhạc sĩ và sao và sự vong
ơn", "Tốp, tốp và tốp đi về đâu?", "Bản sắc dân tộc và âm nhạc hôm nay",
"Âm nhạc ơi, ngươi ở đâu?"... Nói chung là tôi cổ vũ, bênh vực cho âm
nhạc có tính khai phá, phê phán thứ âm nhạc cũ rích, rẻ tiền, mồi chài,
chợ búa... Nếu tập hợp lại, tôi cũng có thể in thành một tập sách "Âm
nhạc ơi, mi ở đâu?".
LMY: Người ta bảo tên tuổi ông gắn liền với một số nhà thơ trẻ?
NTT: Họ nói thế là họ cho Nguyễn Trọng Tạo ăn theo các nhà thơ
trẻ? Không bao giờ có điều đó. Nếu nói ngược lại thì đúng. (Cười).
Chẳng qua là những người không thích thơ trẻ mới nói thế. Còn chính tôi
là người đi tìm kiếm các nhà thơ trẻ, đến với họ và biết họ là ai. Nếu
nói đọc thơ trẻ thì không phải ai cũng đọc họ một cách trân trọng như
Nguyễn Trọng Tạo. Nếu chưa đọc họ với thái độ trân trọng, chưa đọc kỹ họ
thì đừng có phán bừa. Đấy là căn bệnh chộp giật của phê bình. Phải tiếp
cận, chia sẻ, phải nhìn theo kiểu "trái đất quay" thì mới hiểu được thơ
trẻ, còn nếu chỉ nhìn thơ trẻ với cái nhìn kẻ cả thì người ta sẽ la
lối, chụp mũ, rồi cho rằng bọn trẻ con ấy thì có tư tưởng gì? Đấy là
những người cổ hủ, thô thiển, chỉ nhìn thấy họ, sau lưng họ mà không
nhìn thấy trước mặt. Họ không có mắt ở trước mặt mà chỉ có mắt ở sau
gáy. Còn tôi là một người bình thường, có mắt ở mặt.
LMY: Ông thường nhắc nhiều tên tuổi các nhà thơ trẻ, vậy ai là người ông thực sự quan tâm nhất?
NTT: Người làm thơ trẻ mà tôi quan tâm nhất, đó là Văn Cầm Hải. Đó
là một người còn hơn cả Kapka trong thơ vì Kapka không làm thơ. Còn nếu
Kapka làm thơ chắc cũng gần bằng Văn Cầm Hải (cười). Còn lại những
người khác là Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Ly
Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Lê Vĩnh Tài, Lê Mỹ Ý, Lý Đợi... Có những
người xướng tên lên cũng chả ai biết và cũng chả ai đọc. Họ đi theo con
đường thơ bằng tư duy khác cách, tôi từng nói trên báo là tư duy lập
trình, tư duy của thời đại mới. Còn Nguyễn Quang Thiều (lớp thượng cận)
có thể có một đóng góp lớn khiến một số người trẻ thích, nhưng Nguyễn
Quang Thiều là một nhà thơ không có bài dở và cũng không có bài hay.
LMY: Cơ sở nào khiến ông khẳng định về Văn Câm Hải như vậy, thưa ông?
NTT: Văn Cầm Hải là một tư duy rất khác biệt trong thơ Việt Nam,
chưa từng có trong thơ Việt Nam. Anh ta viết rất khác, rất lung tung,
rất phức tạp nhưng đọc kỹ, ở đằng sau vẫn thấy có một văn hoá nâng đỡ
thơ ca, đó là cảm quan Việt trong thế giới hiện đại.
LMY: Nhà thơ Hoàng Hưng từng nói Văn Cầm Hải và cả Nguyễn Quốc Chánh đều có sự bắt chước siêu thực?
NTT: Nguyễn Quốc Chánh là một người hiểu biết về phương Tây, đặc
biệt là chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa siêu thực. Còn Văn Cầm Hải thì
đấy là một người dung hợp và sáng tạo ra một thứ hậu siêu thực ở Việt
Nam. Những thi ảnh chắp nối, gãy khúc rất khó nắm bắt. Những tư tưởng ẩn
khuất, nhiều khi chỉ đọc được bằng cảm giác. Cảm giác được thì đó là sự
tổn thương của một thế giới tâm linh hiên đại. Hải đã tạo ra một thế
giới hiện đại có thể đổ vỡ nhưng tâm linh con người thì luôn tổn thương
và khát khao tồn tại.
LMY: Tại sao khi nhắc tới người này, lại thường chỉ thấy sự chỉ trích của các nhà phê bình, thưa ông?
NTT: Ở nước ta rất ít người biết Văn Cầm Hải. Thơ Hải là thơ khó
đọc, vì vậy đôi khi những sự chỉ trích gay gắt lại mang ý nghĩa của câu
chuyện "thầy bói xem voi".
LMY: Thế còn các nhà thơ trẻ mà ông vừa kể tên, ông có nhận xét gì về họ?
NTT: Ly Hoàng Ly là nhà thơ và hoạ sĩ, thi ảnh của Ly rất cũ nhưng
cô ấy lại có tài sắp đặt các thi ảnh, có lẽ là ảnh hưởng chi phối từ
hội hoạ, thành ra lạ và có sức quyến rũ. Phan Huyền Thư là người mang
trong mình một văn hoá cổ điển nhưng lại có cá tính "Thị Mầu thời hiện
đại" nên thơ mạnh, sắc và chua (chanh). Vi Thuỳ Linh là sự xô bồ bạo
liệt, ném hết tất cả tâm can ra xã hội, nên thơ cuộn lên có bài hay, có
bài tầm thường, nhưng dù sao cũng đã tạo ra một ý thức quyết liệt hết
mình với thơ, dám trình bày một "cái tôi không xấu hổ". Nguyễn Hữu Hồng
Minh nôn nóng đi tìm tư tưởng mới trong những trạng thái sống bất
thường, đang mất nhiều hơn được; nhưng đừng ngại khi mất mười mà chỉ
được một...
LMY: Những bài phê bình thơ trẻ của ông hầu như
lúc nào cũng gặp lời "cự nự" từ một số nhà phê bình khác như Nguyễn
Thanh Sơn, Lê Quý Kỳ, Nguyễn Hoà... Ông có bực mình không? NTT:
Tôi chẳng bực mình gì cả, bởi vì tôi đọc kỹ họ mới thấy họ không hiểu
mấy về thơ. Họ rất thiếu rung động thơ nên không cảm nhận được cái tinh
tế thơ, nhưng lại thích dạy dỗ về thơ. Đành chia sẻ với họ về tinh thần
can đảm.
LMY: Thưa ông, cứ tranh cãi mãi với nhau như vậy trên báo ông không sợ sẽ ảnh hưởng đến tên tuổi của mình?
NTT: Chả sao cả, vì đấy mới là Nguyễn Trọng Tạo. Tôi không thích
làm ra vẻ cao đạo, và thường gọi những người thích cao đạo là nhà nho
dởm. Tôi không phải nhà nho dởm, cũng không phải nhà nho, nên tôi phải
bàn trong sự hiểu biết của mình. Điều ấy đôi khi lại khiến nhiều người
thích thú và ủng hộ. Một lần Hoàng Hưng kể với tôi rằng, Nguyễn Thanh
Sơn hỏi anh: "Chú thấy cháu viết như thế nào?", và anh đã trả lời Sơn:
"Cháu viết rất hay, chỉ có điều quan trọng là cháu viết về thơ mà không
hiểu thơ là gì!". Sự thật có mất lòng không?
LMY: Ông có thể nói thật ý nghĩ về phê bình?
NTT: Phê bình không được dối lòng mình. Thấy hay, thấy dở có thể
viết hoặc không viết, nhưng khi đã viết là phải có chính kiến. Khi tôi
viết cuốn "Văn chương cảm và luận", là tôi chỉ viết cái tôi thích viết,
thấy hay thì khen thấy dở thì chê, chẳng vị tên tuổi của ai. Nếu cứ đua
nhau chạy theo những tên tuổi có sẵn, dễ đẻ ra một nền phê bình ăn theo
tên tuổi. Phê bình phải phát hiện những tên tuổi mới, là tìm vàng trong
cát, làm sáng giá cái hay đang bị khuất lấp. Nhà thơ Viên Mai đời Thanh
nhờ tỉ mẩn lý giải cái hay cái dở trong thơ thiên hạ mà trở thành nhà
phê bình thơ kỳ tài. Thơ ta bây giờ chất thành núi mà các nhà phê bình
thơ thì vẫn vô cảm với thơ, hoặc thiên về mạt sát thơ. Khi tôi phản ứng
về những "thói hư" ấy, là vì tôi quá yêu cái hay cái đẹp của văn
chương. Nhiều người cứ quen nghĩ là thợ rừng thì phải bổ búa vào cây, có
ai nghĩ phải chăm những cây non thì mới có rừng?
LMY:
Những nhận xét, phê bình về thơ của ông có thể là một cứ liệu xác đáng
để mọi người, dư luận xã hội căn cứ vào đó nhận định thơ trẻ không?
NTT: Đấy là chuyện không thể áp đặt. Nhưng nhìn chung, dân trí thơ
chưa ngang tầm với những nhà thơ cách tân tài năng. Muốn bước đi của thơ
tiến tới thì phải đồng thời nâng cao dân trí thơ. Những cuộc thuyết
trình cho Thơ Mới trước đây như là sự dọn đường cho cách tân thơ rất
thành công. Và như vậy, trong bầu trời đầy sao là công chúng, những tài
năng chính là những ngôi sao rực sáng xác định cho bầu trời, như là sao
Bắc Đẩu dẫn đường. Một bầu trời mà không ai biết đến những ngôi sao
sáng, đó là bầu trời mù.
LMY: Vậy ông có sợ dư luận trong bầu trời những ngôi sao nhỏ quanh mình không? NTT: Tôi không phải là người không biết sợ. Nhưng tại sao tôi lại phải sợ nhỉ?
LMY: Mọi người đều biết có khá nhiều dư luận về ông, kể cả tốt lẫn xấu. Ông nghĩ thế nào?
NTT: Dư luận tức là luận thêm ra, phải không? Việc riêng của mình
chỉ mình biết là đủ. Người ta chẳng ai biết hết về ai cả. Đời tư tôi
rất phức tạp. Vợ không biết. Con không biết. Mà người ta biết hết về
mình có phải là điều hay không nhỉ?. Một cây đa có ma, mọi người bảo thế
nhưng bọn trẻ con vẫn đến ngồi chơi, người nông dân đi làm đồng vẫn
dừng nghỉ chân mà chẳng ai thấy ma đâu cả. Muốn biết cuộc đời tôi, tốt
nhất là hãy đọc tôi.
LMY: Ông có cho mình là người nổi tiếng? NTT: Tất nhiên. Chỉ có nổi ít hay nổi nhiều thôi. Nếu không, sao thiên hạ lại mất thì giờ để đàm tiếu về tôi?
LMY: Theo ông, điều gì hay nhất mà thế hệ của ông đã làm được? Và điều gì là dở nhất? NTT: Điều hay nhất thế hệ nhà thơ chúng tôi làm được là đánh giặc và làm thơ. Điều dở nhất là rất kém ngoại ngữ.
LMY: Trong "Bài thơ khác", hình như ông có dấu một bí mật bất ngờ?
NTT: Bài thơ này là một câu chuyện có thật. Sự thật nó xảy ra bất
ngờ mà tôi không biết trước. Tôi nghĩ, nếu một ai còn biết bất ngờ thì
còn biết làm thơ, nếu không, sẽ chỉ như một cái cây đã khô.
LMY: Chân dung của ông do chính ông phác thảo cũng sẽ bất ngờ đến mức "tin thì tin không tin thì thôi" chứ, thưa ông? NTT: Tin thì tin không tin thì thôi. Tôi núp dưới cái bóng râm của tên tôi!
LMY: Xin cảm ơn nhà thơ! Hà Nội, 18.3.2003
Lê Mỹ Ý
Bài đã đăng trên vannghesongcuulong.org
chia cho em một đời say một cây si/ với/ một cây bồ đề tôi còn đâu nữa đam mê trời chang chang nắng tôi về héo khô
“Ôi, có những câu hát ta biết bao giờ
hát lại. Những tấm ảnh thời thanh xuân của em chẳng là những câu hát
như vậy đó sao?”. Đó là những câu thơ của Nguyễn Trọng Tạo trong bài
Những tấm ảnh thời thanh xuân mà mỗi lần đọc, tôi thấy như được trở lại
thời thanh xuân của chính mình, và trở lại thời thanh xuân của một ai
đấy nữa! Thanh xuân của tình yêu đầu đời! 54 bài thơ trong tập thơ nhỏ
xinh và mỏng mảnh này là 54 trạng huống tình yêu, say đắm và buồn, buồn
như một ngày xuân không còn hoa cúc, buồn như cây khóc lá, buồn như một
đêm tỉnh giấc, ta chợt thấy nỗi buồn đang ngồi bên: Là khi tỉnh giấc
trong đêm/ một mình ta thấy ngồi bên nỗibuồn… và một van nài lạ lùng, hi
hữu:
Buồn ơi, Buồn có thương tôi. Đừng làm tôi phải mồ côi Nỗi Buồn. (Xon nê Buồn)
Cách
nói, cách cảm và cách thơ ấy chỉ riêng Nguyễn Trọng Tạo mới có. Ngoa
ngôn chăng, thậm xưng chăng, phách lối chăng? Ai nghĩ gì thì nghĩ, nhưng
Tạo không thể sống nổi nếu không có một Nỗi Buồn cặp kè bên cạnh: Buồn
đừng đi, Buồn đừng tan/ mất Buồn còn lại tro tàn mà thôi! Trong con mắt
nhà phê bình Trần Mạnh Hảo thì thế nào Nguyễn Trọng Tạo cũng sẽ biến
thành một nhà “Buồn học”, nhưng nếu thay nỗi buồn kia thành niềm vui
chẳng hạn, thì cơ sự sẽ ra sao? Chẳng lẽ lại phải đọc là: Vui đừng đi,
vui đừng tan/ mất vui còn lại tro tàn mà thôi! Vô duyên biết mấy, nông
nổi và hạn hẹp vô cùng!
Hình như, với Nguyễn Trọng Tạo, tình yêu
là cặp song sinh với Nỗi Buồn. Cả tập thơ với 54 bài này, tôi không bắt
gặp Tạo cười hơ hớ lần nào, chỉ thấy anh đã buồn và sẽ lại buồn hơn,
ngay cả trong một ngày vui là ngày có Quà sinh nhật:
hai mươi bài hát vui hát tặng một nỗi buồn hai mươi bài hát buồn hát tặng nỗi buồn hơn…
Ngay
cả một ngày vui là trong tiệc cưới của Em: Nếu ngày mai khi tiệc cưới
của em/ bạn bè đến nói cười và chúc tụng/ xin em hãy coi tôi như bè bạn/
và xin đừng dù khẽ gọi tên tôi… giọng điệu bài thơ này phảng phất chất
giọng Nguyên Sa một thời xa lắm, nhưng nó hiện đại hơn vì không sướt
mướt và quá bi luỵ, nó ở một chiều kích khác của tâm thức,
tôi còn đi. Mưa gió. Đường dài trái tim phải lội qua bao thác lũ dẫu gió lạnh thổi mãi con chim nhỏ em đừng buồn - trời rộng phía yêu thương… (Nếu ngày mai).
Nỗi
buồn trong tình yêu của Nguyễn Trọng Tạo đã được nâng lên thành một
triết lý hoặc là một định đề - bất di bất dịch. Nhiều khi nỗi buồn của
anh lại khiến cho người đọc phải bật cười, cười trong cay đắng và như
thế còn hơn cả nỗi đau thương.
hoa đã tặng. Người đã không còn nữa. em đã yêu. Em đã bỏ tôi đi sẽ dở hơi nếu là tôi đứng khóc nhưng cười vui thì tôi sẽ còn gì?
Nói
tập thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo là thơ tình yêu thì đúng rồi,
nhưng hình như chưa đủ, chưa thoả đáng, chưa thấu suốt cái nội hàm của
nó. Thơ tình của Tạo chứa cả một trời thế sự, một biển tâm linh, thăm
thẳm linh hồn người. Không có tình yêu con người, tình sự sống, tình yêu
hoa cỏ, gái trai, sẽ không viết được những câu thơ đau xót như thế này,
và cũng hài hước như thế này: Anh làm vua không ngai, em vẫn là hoàng
hậu/ chàng hoàng tử khóc nhè, nàng công chúa hờn dai/ chợt thương quan
không dân/ chợt thương ngai không chủ/ thương những đời người chung
thân/ trong áo mão cân đai… (Cổ tích thơ tình).
Và rồi đây nữa:
Chặt cây mà bắc cầu sang Không em, anh sống lang thang hai lần Ước chi em giận một tuần Em xa vài tháng, em gần… cả năm. (An ủi)
Phẩm
chất cốt lõi trong thơ tình Nguyễn Trọng Tạo trở thành bức thôngđiệp
gửi tới người đọc là tình yêu, yêu đến hết mình, đến tan xác, đến rỗng
không, đến không còn hồn vía:
Chia cho em một đời tôi một cay đắng một niềm vui một buồn tôi còn cái xác không hồn cái chai không rượu tôi còn vỏ chai. (Chia)
Người
biết yêu đến tận cùng thì cũng biết hiến dâng đến tận đáy. Nhiều khi
nhà thơ tự ví mình như bông hoa ly vàng, nhỏ tí xíu, khuất lấp trong
muôn ngàn loài hoa rực rỡ, khiêm nhường và cao thượng: Dẫu nhỏ nhoi tôi
có một cái tên/ khi ngập nước và khi thì ngập nắng/ hoa li vàng mùa hạ
chính là tôi… và một niềm run rẩy rất đỗi dịu dàng, mong manh và thuỷ
chung biết bao:
Biển đầy vơi thương nhớ, biển xanh ơi Thân thể ai hồng hào pha ngọn sóng Da thịt người chạm vào tôi nóng bỏng Rồi có thể người quên Còn tôi mãi giữ gìn… (Hoa li vàng)
Càng
đi sâu vào mê cung thơ tình Nguyễn Trọng Tạo, người đọc càng khám phá
thêm những miền tâm trạng mới, đặng làm phong phú thêm, chất lượng tâm
hồn người. Cái mà nhà thơ tưởng mất lại là phù sa bồi đắp cho tâm tưởng
ta thêm phì nhiêu, và đó chính là cái mà ta được:
tôi về khép lại căn phòng thấy trong lồng ngực như không có gì trái tim đã bỏ tôi đi ai mà nhặt được gửi về giùm tôi. (Gửi)
Ở
đây chỉ là cách nói, cách diễn đạt bằng thơ những điều khó nói. Tuy
nhiên một nhà thơ thực sự tài năng không nhờ vào cách nói, phải có một
nội lực cường tráng để có gì mà nói! Với nhà thơ “trữ lượng tâm hồn” là
điều cần thiết hơn cả, cái mỏ ấy hệt như một mỏ dầu, càng khai thác,
càng phát sáng. Và tôi không nghi ngờ Tạo là một mỏ dầu có trữ lượng
cao, anh đã từng làm cháy, thậm chí thiêu đốt bao tâm hồn yêu và đang
yêu:
cho thơ tôi được nói lời tình-yêu-tôi, gửi tới người-tôi-yêu. bởi tôi tin những sớm chiều người không quen… sống rất nhiều cho tôi. (Thơ gửi người không quen)
Đọc
Thơ trữ tình của Nguyễn Trọng Tạo, bạn đọc sẽ không muốn ngồi trong nhà
nhìn ra mưa nữa, mà bạn sẽ… nhảy ra đường. Ra đường để làm gì thì chưa
biết, nhưng cứ phải ra đường, để có thể đắng cay nhặt lại được một “nỗi
buồn” nào đó, đau xót và quyết liệt vô cùng:
một ngày người bán rẻ ta ta thành đồ vật giữa nhà người dưng một ngày người đến rưng rưng mua gì vô giá? xin đừng mua ta (Nỗi buồn kiêu)
Yêu và buồn là cặp trẻ song sinh, Nguyễn Trọng Tạo đã minh chứng cho điều ấy.
Ai
từng quen biết Nguyễn Trọng Tạo, chỉ ngồi với anh một buổi chiều thôi,
uống rượu và nghe anh hát Làng quan họ quê tôi hay Khúc hát sông quê… sẽ
cảm nhận rằng, Tạo là người vô tư lắm, hồn nhiên và sung mãn lắm!
Không, không phải vậy đâu, Nguyễn Trọng Tạo vốn là người cả nghĩ, đến
nỗi: Người đẹp nhìn tôi trên đường/ về đêm tôi cảm thấy buồn…, đến nỗi
nhìn ai cũng ngỡ là mình thuở ấy, thuở xa xôi nào:
có ai ngồi xuống chỗ chúng mình kia chàng trai ấy cùng với cô gái ấy cô gái đẹp sao giống em đến vậy và chàng trai run rẩy giống anh sao cỏ biếc xanh như cỏ đêm nào… (Cỏ xanh đêm trước)
Trong
tập thơ này của Nguyễn Trọng Tạo, tôi đặc biệt yêu thích bài Thơ tình
người đứng tuổi. Có cảm giác rằng anh viết cho tôi, và viết riêng cho
một người nào đấy nữa, một người nào trong vô vàn chúng ta:
bây giờ cao bổng vòm cây dòng sông trôi đã vơi đầy tháng năm áo tôi đạn xé bao lần tóc người hao mấy mùa xuân đợi chờ (Thơ tình người đứng tuổi)
Con
người ngỡ là từng trải, từng trải qua chiến trường, qua cả “tình
trường” mà không hề chai sạn, cứ run rẩy như thuở mới vào đời, như một
khúc mộng mơ, như một kẻ mắc nợ. Nợ cái gì thì chưa biết, nhưng Tạo là
con nợ của trăm năm:
tôi còn mắc nợ áo dài một làn gió trắng một bài thơ hay tôi còn mắc nợ mi mày một con thuyền lá xanh đầy mắt nai (Tôi còn mắc nợ áo dài)
Trắng
nợ như thế thì sẽ còn nợ tiếp, nợ chung thân, nợ tử hình! Tử hình rồi
còn chưa hết nợ: “Có lúc ngôn từ biệt tích/ đam mê trơ đá gan lỳ/ em mèo
ơi đừng đến nữa/ sợ em dựng dậy tử thi!… (Chiêm cảm). Và đến nông nỗi
ấy thì phải giấu biệt mình đi, lặn một hơi để không ai tìm thấy nữa:
có một chàng đơn độc bước trên đường Không Tên có một nàng Hạnh Phúc ở số nhà Lãng Quên… (Nỗi nhớ không tên)
Nguyễn
Trọng Tạo đã tự mình làm ra một đường phố, một số nhà cho riêng mình,
đấy là số nhà Lãng Quên trên đường Không Tên vậy! Có tin được không?
“Tin thì tin không tin thì thôi”. Và tôi gọi tập thơ trữ tình của Nguyễn
Trọng Tạo là Bức tranh tình không năm tháng!…
Hà Nội, tháng 4 năm 2004 Trịnh Thanh Sơn
Thơ trữ tình: NXB Hội Nhà văn - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, ấn hành, 2004
Nguồn: Báo Văn nghệ, 2000
chia cho em một đời say một cây si/ với/ một cây bồ đề tôi còn đâu nữa đam mê trời chang chang nắng tôi về héo khô
Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn
đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách
giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa
buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt
bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về
như những luồng điện làm vỡ oà bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười/
có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một
trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người
lớn (1). Cách nói Đồng dao cho thấy được ý hướng sáng tạo của Nguyễn
Trọng Tạo. Thơ anh là những khúc hát ngân lên từ cõi nhớ của một kẻ nhà
quê lưu lạc. Lưu lạc mà vẫn nhớ mình là nhà quê, là phương Đông chính
hiệu. Vì thế, nếu có đọc thơ Tây cũng là một cách mở rộng, tham bác để
cho cái chất nhà quê vừa gắn với cổ điển, vừa đáp ứng được nhu cầu hiện
đại. Hai câu thơ trên đây khép lại bài thơ mà cũng là để mở ra về phía
“ngàn năm” từ cái “chớp mắt” khóc cười nghệ sĩ. Những câu thơ đẫm niềm
riêng nhưng cũng là những trải nghiệm khóc cười nhân thế. Nó như bật ra
từ tuệ nhãn, vừa mới mẻ vừa mang theo cái uyên súc Đường thi. Đó là một
kiểu chiêm nghiệm, một cách nói khác của Bùi Giáng: Bây giờ riêng đối
diện tôi/ Còn hai con mắt khóc người một con. Nói thế để thấy rằng
Nguyễn Trọng Tạo đã biết lắng lại và tự giác ngộ mình trước cõi
tham-sân-si trần tục. Mối tương quan giữa chớp mắt và ngàn năm đẩy cảm
xúc lên tầm mỹ học về nhân sinh qua cái nhìn của một người biết mình
cũng đầy ưu, nhược như ai. Nhưng người thơ ấy biết tự dặn mình coi thơ
như một tôn giáo, đứng trước thơ phải thanh khiết và để lại sau lưng
những phiền luỵ không đâu. Là một thi sĩ có ý thức đổi mới, Nguyễn Trọng
Tạo thấu hiểu một cách sâu sắc, rằng, sự sống còn của người viết là
phải nương thân vào chữ nghĩa. Nơi ấy, hồn nằm trong xác và xác ngụ
trong hồn. Không còn cách nào khác, tư cách của nhà thơ chỉ có thể đo
ướm bằng sự toả sáng của chữ. Tại đó, anh ta trình với mọi người cái vân
tay vân chữ của mình trên tờ căn cước bằng giấy trắng mực đen. Hay, dở
đã thuộc về kẻ khác. Mọi phân trần hay biện hộ của nhà thơ đều trở thành
vô nghĩa.
Thuộc típ người tài hoa đa mang lắm mối, nhưng
trước sau, hồn vía Nguyễn Trọng tạo vẫn sống chết với thơ. Tại đây, anh
dựng lên xác tín nghệ thuật của mình: “Thi ca là ngôn từ rung lên bằng
âm nhạc”(2). Cấu trúc thơ Nguyễn Trọng Tạo hàm chứa rất nhiều âm nhạc là
vì thế. Nhạc cất lên từ nhịp: Chia cho em/ một đời tôi/ một cay đắng/
một niềm vui/ một buồn (Chia). Nhạc cất lên từ vần: tình trao mắt cho
thơ/ trời xanh mi ướt bờ/ tình trao nắng cho mưa/ chìm vào nhau bất ngờ
(Rượu chát), từ sự bung phá một cách phóng túng để diễn tả chính sắc màu
của nhịp điệu: ôi nhịp điệu- thân xác không mang nổi/ ta thoát khỏi ta/
như đứa trẻ thoát áo quần quá chật (Nhịp điệu Tây Nguyên)…Nhưng thủ
pháp thường gặp nhất trong thơ Nguyễn Trọng Tạo là cách tổ chức điệp
khúc. Điệp trong bài, điệp bằng lối hai câu song song, nương tựa nhau…
Những thủ pháp ấy bắt nguồn từ niềm đam mê nhịp chẵn theo quan niệm của
Nguyễn Trọng Tạo (khác với nhịp lẻ của thơ Trung Hoa). Nhưng đó không
phải là kiểu hài thanh cân đối cổ điển mà trên sự cân đối ấy nhằm tạo
nỗi chơi vơi trong tình điệu thẩm mỹ của anh. Với Nguyễn Trọng Tạo, hình
thức điệp cú và điệp cấu trúc có khả năng đạt các hiệu quả nghệ thuật:
1- sự chặt chẽ trong cấu tứ và sự trùng phức về giai điệu; 2- sự nhoè mờ
của các “vân chữ”; 3- trên cơ sở đó tạo nên những bất ngờ và bung phá.
Dĩ nhiên, thủ pháp này cũng tiềm ẩn một nguy cơ: khi cảm xúc vơi hụt,
tỉnh nhiều mà say ít, thơ sẽ rơi vào tình trạng ít ý nhiều lời. Hiện
tượng này cũng từng xảy ra với chính Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng nhìn chung,
Nguyễn Trọng Tạo đã kết hợp được hài hoà giữa ý tình và âm nhạc. Xin
đừng hiểu rằng một khi thơ giàu nhạc thì ý tưởng bị khuất chìm. Chính
các nhà tượng trưng đã từng nêu lên một tuyên ngôn bất hủ: “Âm nhạc đi
trước mọi điều”. Những câu thơ sau đây của Paul Verlaine sẽ mất đi rất
nhiều dư vị nếu ta tước bỏ nhạc thơ: Đang khóc trong lòng tôi/ Như đang
mưa trên phố/ Buồn chán gì vô cớ/ Đang len vào lòng tôi (3). Ở nước ta,
thơ hàn Mặc Tử, Hoàng Cầm, Vũ Hoàng Chương…đều là những thế giới đầy âm
nhạc. Điều quan trọng là nhạc thơ phải diễn tả được nhạc lòng, là một
thành tố trong nghệ thuật tổ chức cấu trúc giọng điệu. Âm nhạc chính là
một thủ pháp khiến người đọc dễ say với cái say thi sĩ vốn là một phần
bản thể Nguyễn Trọng Tạo. Là người ít nhiều tìm hiểu giọng điệu thi ca,
tôi nghĩ, ngoài âm và nghĩa dồi dào, thơ phải có giọng. Không có giọng,
anh ta lập tức bị biến khỏi bản đồ thơ. Với cách hiểu như thế, tôi nghĩ,
Nguyễn Trọng tạo là người có giọng điệu riêng. Nhưng cái nốt riêng ấy
không tự dưng mà có. Thực lòng, tôi không tìm thấy nó ở thời “Gương mặt
tôi yêu” mà phải đến những ngày khúc “Đồng dao cho người lớn” ra đời,
tôi mới thấy rõ đó là cách nói của Nguyễn Trọng Tạo. Những câu thơ của
anh mang chất giọng tưng tửng, ngu ngơ ngỡ như chơi vơi nhưng kỳ thực
chứa rất nhiều ngẫm ngợi, trí tuệ. Một chất giọng mà khi đọc kỹ ta mới
thấy hết cái da diết bên trong. Học lấy cái nhoè mờ trong thi pháp
phương Đông, Nguyễn Trọng Tạo đã biết tựa vào âm nhạc để trình bày các ý
tưởng của mình. Đây chính là yếu tố tạo nên chất phiêu lãng trong giọng
điệu thơ anh. Phía sau những âm giai phiêu lãng ấy là chiều sâu của cảm
hứng về nhân thế, là những lăn lóc thân phận. Chiều sâu mỹ cảm thi ca
Nguyễn Trọng Tạo trước hết bắt nguồn từ yếu tố cơ bản này.
Là
kẻ lang bang lữ thứ, tất nhiên, Nguyễn Trọng Tạo thường nói đến say:
Sông Hương hoá rượu ta đến uống/ ta tỉnh đền đài ngả nghiêng say (Huế
1); chín can…rượu chẳng còn đâu/ còn em hoá rượu. Cúi đầu anh say…( Rượu
cần). Đó cũng là một hình thức nhà thơ phiêu diêu về tâm tưởng, một
cách lang thang trong cõi nhớ của mình. Từ làng quê xứ Nghệ đến với Huế,
văn hoá Nguyễn Trọng Tạo được bồi đắp thêm một lần nữa. Có thể nói, Huế
đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên hồn cốt thơ Nguyễn Trọng Tạo.
Phải chăng, anh đã học được ở đây cái uyên sâu của đời sống tâm linh
trầm mặc? Với cách xây tứ khá độc đáo, tôi nghĩ, Huế 1 thuộc số những
bài thơ ấn tượng nhất về Huế trong thơ ca sau 1975. Những cơn say của
Nguyễn Trọng Tạo cho phép anh nhìn sâu vào bản thể hồn mình, hiểu hơn về
những bước chân lưu lạc của mình. Bởi thế, say còn là một hình thức tự
vắt kiệt, tự đốt cháy: Tôi còn cái xác không hồn/ cái chai không rượu
tôi còn vỏ chai (Chia). Sống thế là đến đáy. Là dám chấp nhận. Hoá ra, ở
những giây phút thăng hoa nhất, men thơ men tửu men đời đã hoà lẫn
trong nhau. Nguyễn Bính xưa cũng như thế: Tôi uống hồn em và uống cả/
Một trời quan tái mấy cho say. Tôi nhớ, trong căn hộ chung cư tầng sáu
mà Nguyễn Trọng Tạo đang nương thân ngoài đời, có một tấm ảnh rất ấn
tượng anh chụp với tiên chỉ Văn Cao qua bàn tay của nhiếp ảnh gia Nguyễn
Đình Toán. Chai rượu choán lấy mặt tiền của ảnh và hai kẻ tài hoa, một
anh một em nâng ly mừng thơ nhạc và chia sẻ muộn phiền. Nhưng vấn đề là
sau những cơn say và những ngày tháng phiêu du ấy, Nguyễn Trọng Tạo còn
lại gì? Còn lại một nỗi cô đơn. Theo ý tôi, cô đơn là phần sâu nhất
trong bản ngã Nguyễn Trọng Tạo. Cái mầm cô đơn ấy có đủ vị, có cả niềm
cay đắng xen lẫn nỗi ngọt ngào Trái tim đã bỏ tôi đi/ ai mà nhặt được
gửi về giùm tôi. Một đời đuổi bắt cái đẹp hoá ra cũng là để tìm chính
mình, tìm lại một nửa cái tôi đang nằm đâu đó trong đời. Tiếng gọi của
tâm linh đấy chăng? Hay đó là những thầm thì của nỗi đê mê, đắm đuối tạo
thành sự phân thân không định trước. Ai nghĩ gì, kệ họ. Riêng mình,
nguyễn Trọng Tạo thật lòng: Tin thì tin không tin thì thôi . Những câu
thơ tưng tửng, ngu ngơ và da diết này cũng là một kiểu tuyên ngôn, một
cách gây sự với đám đông của Nguyễn Trọng Tạo. Nó như một chuỗi “phản
đề” trước khi nhà thơ nêu lên “chính đề” là gan ruột của người viết:
Nhưng tôi người cầm bút, than ôi Không thể không tin gì mà viết.
Nhìn
từ chiều lịch đại, Nguyễn Trọng Tạo thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ.
Thơ anh cũng từng một thời phơi phới tin yêu, một thời tha thiết thật
lòng “mỗi chiếc lá đều ghi lời tự nguyện”. Sự trong trẻo ấy thật đáng
quý nhưng rõ ràng có phần đơn giản. Trong khi những cây bút như Phạm
Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Trần
Mạnh Hảo… đã được nhiều người nhớ thì Nguyễn Trọng Tạo vẫn mải miết kiếm
tìm. Phần hay nhất của thơ Nguyễn Trọng Tạo nằm ở thời hậu chiến. Đây
là giai đoạn Nguyễn Trọng Tạo chủ trương một thứ thơ đời thường. Hướng
về đời thường, thơ gần hơn với con người, những vui buồn nhân thế cũng
được đề cập đến sâu sắc hơn. Theo ý tôi, mặc dù thập kỷ 80 của thế kỷ
XX có sự nỗ lực đổi mới của nhiều nhà thơ, nhưng cần ghi dấu ba giọng
điệu đáng chú ý: Ý Nhi, Nguyễn Trọng Tạo, Dư Thị Hoàn. Những bài thơ của
họ thể hiện rất rõ sự “vỡ giọng” và sự thay đổi về tư duy nghệ thuật.
Đó là quá trình tự nhận thức lại chính mình và người khác. Những thần
tượng một thời giờ đây đã hết uy lực: Khi đang đắm yêu có tin được bao
giờ/ Rồi một ngày người yêu ta đổi dạ/ Rồi một ngày thần tượng ta tan
vỡ/ bạn bè thân thọc súng ở bên sườn (Tản mạn thời tôi sống). Đây là
những câu thơ hàm chứa rất nhiều cay đắng ở bên trong vì nó nói về sự đổ
vỡ. Mà có sự đổ vỡ nào lớn hơn là sự đổ vỡ về tình yêu và thần tượng!
Sau 1975, thơ ca Việt Nam từ quỹ đạo của cái ta trở về với cái tôi cá
nhân. Nhưng đó không phải là cái tôi tách rời hoàn cảnh như thơ ca lãng
mạn. Đó là cái tôi như một điểm tựa để nhìn về nhân thế và con người
trong sự phức tạp và nhiêu khê khó lường. Góc nhìn đời tư và những dằn
vặt cá nhân được quan tâm thể hiện. Những điều ấy đều có mặt trong thơ
Nguyễn Trọng Tạo thời sau - thời mà cái nhìn riêng của anh được mài sắc
hơn, sự thay đổi cái nhìn nghệ thuật diễn ra quyết liệt hơn: Như con
chiên sùng đạo chợt bàng hoàng/ Nhận ra Chúa chỉ ghép bằng đất đá. Trong
hoàn cảnh ấy, con người đang tìm mình, loay hoay kiếm tìm các giá trị,
đường chân trời không hẳn cứ trong veo như trước đây ta vẫn tưởng. Đây
là thời điểm các cây bút phải biết xác lập vị thế của mình trong dòng
chảy lịch sử. Bản lĩnh nghệ thuật của nhà thơ phải được thiết lập bằng
quan niệm riêng của anh ta về đời sống. Biết bứt thoát khỏi những quy
phạm nghệ thuật của thời đã qua, Nguyễn Trọng tạo đã trổ được cái nhìn
riêng về “cõi nhân gian bé tí” nhưng lại hết sức rộng lớn này với những
thay đổi vừa mang tính bất thường, vừa mang tính quy luật. Tản mạn thời
tôi sống (1981) là thi phẩm cho thấy cái nhìn rất nhạy cảm của nhà thơ.
Đây là bài thơ được nhiều người nhớ. Có thể, những người khó tính sẽ
nhận thấy ở bài thơ này mạch thơ còn dàn trải, câu chữ chưa thật chắt
lọc. Đúng thế, cái hay của bài thơ không nằm nhiều ở cấu trúc hay ở sự
kỳ công về nghệ thuật mà nằm nhiều hơn ở khả năng tiên cảm chính xác và
đầy chất triết lý: Những bông hoa vẫn cứ nở đúng mùa/ như thời đã đi
qua như thời rồi sẽ đến. Nguyễn Trọng Tạo đã lấy hai câu thơ mang âm
hưởng ví dặm để làm giai điệu nền tảng cho dòng cảm xúc “trái mùa” tản
mạn của anh. Thực ra, bài thơ đâu có tản mạn, nó xoáy vào người đọc một
câu hỏi buốt nhói, một vấn đề quá lớn: Thời tôi sống có bao nhiêu câu
hỏi/ Câu trả lời thật không dễ dàng chi. Chính vì cái câu hỏi quá riết
róng ấy mà Nguyễn Trọng Tạo từng phải lao đao. Phải đến những năm đổi
mới, những băn khoăn kia của Nguyễn Trọng Tạo mới được “giải oan”. Người
ta bắt đầu nhận thấy một sự thật: bài thơ đã khái quát được tâm thế của
một thời. Về sau, kiểu câu hỏi nhạy cảm ấy lại xuất hiện trong thơ Hữu
Thỉnh: Tôi hỏi người: - Người với người sống với nhau thế nào?, trong
văn xuôi Phùng Gia Lộc: Cái đêm hôm ấy đêm gì?...Không quá khó khăn,
người đọc nhận thấy phía sau niềm trắc ẩn kia của Nguyễn Trọng Taọ là
nỗi cô đơn, đắng đót của kẻ mang bản mệnh đa đoan. Mà Nguyễn Trọng Tạo
đâu có che giấu cái tôi bản thể của mình:
vẽ tôi mực rượu giấy trời nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau vẽ tôi thơ viết nửa câu nửa câu ma quỷ đêm sâu gọi về… (Tự hoạ)
Đây
là những câu thơ ngất ngưởng, đùa đấy mà cũng là thật đấy. Ngẫm ra, chỉ
những ai dám là mình mới có cái ngất ngưởng, tếu táo đến nhường ấy: vẽ
tôi lặng nhớ mưa xa/ tiếu lâm đời thực khóc oà chiêm bao. Tôi nghĩ,
cái khóc cười qua những dòng tự hoạ trên đây có phần gần gũi với tâm
trạng Khi vui lại khóc, buồn tênh lại cười của cây hát nói tài danh đất
Nghi Xuân Nguyễn Công Trứ. Trong thơ, nhiều khi quá cố công để tìm đến
cái sâu sắc lại gặp phải sự hời hợt, trơn lỳ, bởi đó là cái “cố” bằng lý
tính. Nhưng nhiều khi, nhà thơ ngỡ như bất lực lại chính là lúc nẩy lên
những ý lạ đến khó ngờ. “Tâm trạng nhạc tính” của người sáng tạo một
khi bắt gặp những chớp loé tư tưởng sẽ tạo nên sự bùng nổ. Điều này
khiến tôi chợt nhớ đến một ý kiến rất hay của E. Weber: “Tảng đá tư
tưởng rơi vào tâm trạng này và dấy lên những đợt sóng tinh thần, những
đợt sóng này vươn tới sự biểu hiện bằng ngôn ngữ và sẽ phải trở thành
thơ”(4). Đó là phút “giời cho”, là trạng thái “ngây ngất”, “mê sảng” như
A. Pushkin có lần bày tỏ. Có lẽ trong đời, Nguyễn Trọng Tạo đã hơn một
lần bắt gặp giây phút “giời cho” mà Tản mạn thời tôi sống là một ví dụ
điển hình. Những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo thường là những
bài thơ xuất phát từ cái nhìn sâu vào bên trong, lắng nghe âm vọng đời
sống qua tiếng gõ rất riêng của cái tôi “nửa khóc nửa cười” ấy. Thời
gian 1 là bài thơ có những bước nhảy độc đáo về tứ:
còn chi bóc nữa? hãy bóc hồn tôi tôi thành tờ lịch bóc sang luân hồi.
Khúc Xonê Buồn cũng có cách nói khá ấn tượng:
Là khi tỉnh giấc trong đêm Một mình ta thấy ngồi bên: nỗi buồn Là khi cạn một ly tràn Đáy ly ta lại thấy làn mi xanh.
Những
câu thơ này ít nhất cho phép người đọc nhận thấy hai điều. Trước hết,
hé ra chiều sâu của một nỗi cô đơn thường trực; thứ hai, mở ra một
trường liên tưởng lớn nói về sự cô đơn và khát khao chia sẻ. Ý tưởng ấy,
đến Nguyễn Trọng Tạo, được hoá vào hồn lục bát, lấy cái duy tình để
diễn tả cái duy linh: Buồn ơi Buồn có thương tôi/ Đừng làm tôi phải mồ
côi nỗi buồn!... Buồn là em, là người đẹp, là một nửa của tôi, là ai đến
bên tôi “khít ơi là khít” như Hàn Mặc Tử xưa kia một mình trong bãi
biển đầy trăng chập chờn ma mị. Nếu Đồng dao cho người lớn mở ra bước
chuyển về thi pháp, đưa thơ đến với chất giọng triết lý sau cái vỏ ngu
ngơ như thật như đùa thì Chia lại là một nỗ lực cách tân của Nguyễn
Trọng Tạo trên con đường làm mới thể thơ lục bát. Với Nguyễn Trọng Tạo,
việc cách tân không đồng nghĩa với việc phải đập vỡ và tẩy chay mỹ học
truyền thống. Anh biết nâng niu di sản văn hoá quê hương và cố gắng tạo
nên sự “hoà giải” giữa cái cũ và cái mới trong thơ. Bởi thế mới có
chuyện Một cây si với một cây bồ đề (Chia); con đường từ ghét đến yêu/
đỏ đen sấp ngửa liêu phiêu một đời (Ví dụ 4)... Trên nền ổn định của thể
loại, Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cách xoay trở. Anh chơi vần, tạo ấn
tượng thị giác bằng cách biến đổi cấu trúc dòng thơ, xây dựng những hình
thức nhịp điệu, tiết điệu mới:
chia cho em một đời Thơ một lênh đênh một dại khờ một tôi chỉ còn cỏ mọc bên trời một bông hoa nhỏ lặng rơi mưa dầm…
Lục
bát Nguyễn Trọng Tạo không nghiêng hẳn về âm hưởng ca dao như Nguyễn
Duy, không sấn sổ táo tợn như Đồng Đức Bốn sau này, và cũng khác với
cách “gảy khúc trăng vàng” của làng quê Bắc bộ như Phạm Công Trứ trong
lời thề cỏ may. Cái riêng của lục bát Nguyễn Trọng Tạo là sự phiêu diêu
của cảm xúc, ma lực của âm nhạc và sự kỹ lưỡng nghiêng về phía sang
trọng của chữ nghĩa. Đây là thế mạnh nhưng cũng là một cái bẫy với chính
nhà thơ cho dù anh muốn quẫy đạp và vượt thoát khỏi tiền nhân. Đây đó
vẫn có những câu mang hơi hướm của Nguyễn Bính. Nhưng thời Nguyễn Bính,
sự nới giãn cấu trúc dòng thơ để tạo nên sự lạ hoá trong cấu trúc văn
bản hãy còn quá hiếm. Còn hiện thời, hình thức xuống thang, ngắt câu
thành những đoạn ngắn nhằm lạ hoá khuôn hình sáu-tám trở thành ngón chơi
của nhiều người. Song có thể nói, Nguyễn Trọng Tạo thuộc số những người
tiên khởi. Trong số những khúc lục bát hay của Nguyễn Trọng Tạo, bên
cạnh Chia, tôi đặc biệt ấn tượng với Mẹ tôi. Thi phẩm này không mang
mang nỗi niềm như Trông ra bờ ruộng của Hữu Thỉnh mà sử dụng giọng kể
nhà quê rất thích hợp:
mẹ tôi dòng dõi nhà quê trầu cau từ thuở chưa về làm dâu áo sồi nâu, mấn bùn nâu trắng trong giải yếm bắc cầu nên duyên.
Nói
thế để thấy rằng, mặc dù kỹ lưỡng và có ý thức trau chuốt ngôn từ,
nhưng khi cần, Nguyễn Trọng Tạo biết cách đổi giọng để vần điệu hài hoà
với cảm xúc. Từ những chuyện đời ngỡ như thật riêng tư, bài thơ mở ra
một khung trời tâm tưởng, và bóng mẹ trở nên da diết lạ lùng: mẹ tôi tóc
bạc răng đen- nhớ thương xanh thẳm một miền nhà quê. Sức hút của bài
thơ này nằm ở sự giản dị của ngôn từ và giọng kể chứ không nằm ở kỹ xảo
thuần tuý. Vậy là sau rất nhiều lưu lạc, vẫn có một miền quê ẩn sâu
trong hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo:
ngác ngơ giữa phố một thằng nhà quê nhớ thương mộ tổ biết bao giờ về (Lưu lạc)
Tôi
nghĩ, cái gốc quê ấy không đơn giản là nơi sinh trưởng, lớn lên nhìn từ
góc nhìn địa lý mà rộng hơn, là hồn vía văn hoá của quê mình, dân tộc
mình ám vào hồn thơ Nguyễn Trọng Tạo và qua nhạc, qua vần điệu, tiết
tấu, chữ nghĩa mà rung lên thành thơ:
Cỏ may khâu áo làng quê Cớ chi gió thổi bay về trời cao Ta lên sân thượng chạm vào Cỏ may. Ta cúi xuống chào…Cỏ may! (Cỏ may trên sân thượng)
Trước
đây, người ta thường nhắc đến hình ảnh Cao Bá Quát đê thủ bái mai hoa.
Nay kẻ hậu sinh Nguyễn Trọng Tạo cũng biết lãnh tinh thần hướng về cái
đẹp ấy trước cỏ may. Đó là một hành động nghĩa khí và nghệ sĩ. Nhưng nếu
hoa mai trong thơ Cao Bá Quát có ý nghĩa như một siêu mẫu nói về sự
thanh cao quen thuộc trong hệ từ vựng thơ ca cổ điển thì cỏ may trong
thơ Nguyễn Trọng Tạo là hình bóng của quê hương, là nỗi niềm của một con
tim nhạy cảm: loanh quanh sân thượng mà thương cánh đồng. Một nhành cỏ
may bất chợt đã đánh thức cái nhìn hoài nhớ tuổi xưa của Nguyễn Trọng
Tạo. Bài thơ gợi lên một tình yêu da diết và sâu sắc. Trong con người
ấy, quê hương bao giờ cũng bình dị và thiêng liêng. Thêm một lần nữa,
tôi muốn khẳng định, cái chất nhà quê cứ chảy hoài trong kẻ lưu lạc kia
đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên dải phổ cảm
xúc thơ Nguyễn Trọng Tạo. Nhưng cũng cần lưu ý thêm rằng, đó là chất
nhà quê vùng Hoan Diễn - Nghệ An và đã được bồi đắp thêm những tố chất
văn hoá của các vùng quê khác mà bước chân lưu lạc của Nguyễn Trọng Tạo
đã từng đặt chân đến. Thế mới ngu ngơ, tưng tửng nhưng cũng hết sức ngọt
ngào mềm mại . Đó là cái mềm mại hiện lên sau cái vẻ gẫy gập, trúc
trắc, xa xót của những câu ví dặm quê anh.
Thế ra, với
Nguyễn Trọng Tạo, chuyện mê mải với vần, nhịp, câu, chữ đâu phải chuyện
hình thức đơn thuần. Nói cách khác, Nguyễn Trọng Tạo đã biết nâng cái
nhà quê trong anh lên tầm hiện đại. Lao động chữ, đúng như Leonov từng
nói, nhằm bảo đảm cho mỗi tác phẩm “phải là một phát hiện về nội dung và
là một phát minh về hình thức”. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trọng
Tạo lại hăng hái cổ vũ cho thơ trẻ. Đơn giản, đó là điểm gặp của một
người mang ý hướng cách tân và những nỗ lực cách tân của thế hệ mới.
Biết là trong những cách tân kia của tuổi hai mươi, vẫn còn có nhiều bất
cập, non nớt thậm chí vụng về. Nhưng không nên nhìn những cây bút măng
tơ ấy bằng cái nhìn của mẹ chồng: Xưa kia ai cấm duyên bà… Thực ra, đổi
mới là nhu cầu của bất cứ cây bút nào. Một khi nhu cầu ấy không còn nữa
thì cũng là lúc sự nghiệp thơ của người đó chấm dứt. Tôi nghĩ, trong
quá trình làm mới thơ mình, Nguyễn Trọng Tạo đã có những thành công đáng
trân trọng. Sự đổi mới ấy không dựa vào những thủ pháp đồng hiện, cắt
dán, những hình ảnh mang màu sắc lập thể, những từ ngữ lạ tai, chói mắt
mà là quá trình trở về với nhịp chẵn, với lục bát đồng dao, với vần lưng
vần nối để nói lên tâm tính người hiện đại. Câu chữ của anh nhô lên từ
truyền thống nhưng không bị áp chế bởi cái nhìn xưa cũ mà có những phá
cách về nghệ thuật. Sự phá cách ấy không nhằm tạo ra thời thượng trong
nghệ thuật mà bắt nguồn từ nhu cầu đổi mới cảm xúc và giọng điệu của
chính bản thân anh. Vì thế, nó diễn ra tự nhiên chứ không rơi và gượng
ép như nhiều người vẫn nghĩ.
Bên cạnh những vần thơ về nhân thế,
về nỗi cô đơn xa xót, cảm hứng về tình yêu cũng là một nhịp mạnh trong
thơ Nguyễn Trọng Tạo. Thậm chí, lắm khi nhà thơ ngỡ rằng đó là một phần
cốt yếu của thơ anh: vẽ tôi con Lợn cầm tinh/ con Gà cầm tháng con Tình
cầm tay. Vâng, cái con tình ấy xuất phát từ nòi tình Nguyễn Trọng tạo.
Tài hoa đa đoan là thế, Nguyễn Trọng Tạo mê đắm với những khoé mắt đa
tình, những làn tóc rối , những ngón nhỏ thon mềm cũng là điều dễ hiểu.
Không chỉ có những khúc hát nhẹ nhàng tha thiết kiểu “người ở đừng về”,
Nguyễn Trọng Tạo còn nói đến sự bốc lửa, đê mê. Cảm giác Biển Hồ hay là
Thơ bên miệng núi lửa là một bài thơ như thế. Một kiểu nuy trang nhã:
Anh nín thở đến kiệt cùng máu ứa/ Cột lửa phun nham thạch phì nhiêu/ Rồi
chết lịm trong vỗ về mơn trớn/ Mười ngón dài thon của gió chiều… Lại có
khi, tình yêu gắn với được-mất, hoài tiếc, nhớ nhung:
rồi cũng khóc như em khóc cho điều đã mất trâm Cỏ Thi. Ừ nhỉ, cỏ thôi mà nhưng nước mắt…cũng như em, tôi đã thêm một lần tái diễn trước cỏ hoa. (Tái diễn)
Cái
chất libido trong thơ Nguyễn Trọng Tạo có nhiều cung bậc khác nhau, khi
nồng nàn bốc lửa, cuồng nhiệt đắm say, khi ngơ ngẩn một niềm hối tiếc,
khi xót xa máu ứa… Nhưng tất cả đều trang nhã, nó không quá mạnh như lứa
thi sĩ trẻ sau anh. Cũng phải thôi, đó là cách nói của hai thế hệ. Thế
hệ sau bảy lăm dám nói thật những cuồng nhiệt của mình cho dù đó là một
sự thật gây sốc với nhiều người nhất là những người đạo đức giả. Còn
Nguyễn Trọng Tạo, anh biết tìm đến cách nói “nửa phô mình ra nửa giấu
lại mỉm cười” trong nguồn mạch thi hoạ phương đông. Đây cũng là một lựa
chọn để tạo thành một bản tính trong thơ .
Mặc dù thơ
tình là phần thể hiện khá rõ phẩm chất tài hoa nơi anh nhưng một khi quá
ỷ vào tài hoa mà tình chưa thật đậm, nhà thơ có thể hút hồn người đọc
bằng âm điệu nhưng sự lắng lại về chiều sâu ý tứ chưa thật nhiều. Thậm
chí, có khi Nguyễn Trọng Tạo chưa thoát khỏi sự mòn cũ cho dù anh luôn
có ý thức tìm đến những cách thức biểu hiện mới. Mới hay, giữa ý thức
đổi mới và cái mới thực sự được kết tinh trong tác phẩm bao giờ cũng là
một khoảng cách. Khoảng cách ấy ngỡ mỏng thôi nhưng kỳ thực, đó là cả
một thế giới. Chỉ khi nào Nguyễn Trọng Tạo biết mở rộng cái nhìn nhạy
cảm của mình, khi những trăn trở của anh gắn với trăn trở của nhiều
người, khi niềm cô đơn và tê tái chắt lại thành triết lý qua những bài
thơ mang chất giọng vừa sâu sắc vừa phiêu diêu thì thơ anh mới đủ sức
sống lâu dài trong tâm trí người đọc.
Với những gì đã
có, Nguyễn Trọng Tạo thực sự là người có những đóng góp đáng quý trong
quá trình đổi mới thơ ca. Trong những thi phẩm xuất sắc nhất của mình,
anh đã ngộ ra được lẽ sống của thơ là sự đổi mới không ngừng. Chính vì
thế mà anh trở thành một gương mặt sáng giá trong đội ngũ những nhà thơ
mấy thập niên qua. Nguyễn Đăng Điệp
1.
Nhà thơ Nguyễn Hoàng Sơn cũng cho rằng bài thơ Tin thì tin không tin
thì thôi trong tập Đồng dao cho người lớn “có lẽ là bài thơ hay nhất của
Nguyễn Trọng tạo”(Xem Lời giới thiệu Nguyễn Trọng Tạo- Thơ, Nxb Kim
Đồng, H.2003) 2. Nguyễn Trọng tạo trả lời phỏng vấn , Phan Hoàng thực hiện, báo Sài Gòn giải phóng, thứ bảy, ngày 22. 9. 2001. 3. Theo bản dịch của Vương Tử Ba trong Tuyển tập thơ hay của Pháp, Nhà xuất bản Văn học, H.1995. 4. Dẫn theo M. Arnaudov- Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Hoài Ly dịch, Nxb Văn học, H.1978, trang 536.
Nguồn: Báo Văn Nghệ, 2006
chia cho em một đời say một cây si/ với/ một cây bồ đề tôi còn đâu nữa đam mê trời chang chang nắng tôi về héo khô
LÊ
MỸ Ý (LMY): Ông là một trong những người nổi tiếng đặc biệt là với
những bài thơ tình. Thơ tình của ông là từ cảm hứng với các người đẹp mà
ra, hay do cảm xúc... tưởng tượng?
NGUYỄN TRỌNG TẠO (NTT): Tôi
có trên 100 bài thơ tình, và nhiều bài được bạn trẻ chép vào sổ tay hoặc
thuộc nằm lòng. Trên 100 bài thơ ấy có phải để dành cho trên 100 đối
tượng tình yêu hay không thì chính tôi cũng không giải thích được. Nhà
thơ Neruda viết 100 bài thơ tình chỉ để dành tặng riêng cho một người
phụ nữ ông yêu. Còn tôi thì không phải như vậy. Có bài thơ sinh ra chỉ
vì một đối tượng tình yêu duy nhất, nhưng cũng có khi đối tượng chỉ là
cái cớ của bài thơ tình tôi viết, bởi nó khơi dậy toàn bộ ký ức tình yêu
của tôi. Có một bài thơ tình rất nhiều thế hệ sinh viên thuộc, đó là
bài Không đề, mở đầu bằng câu “Anh trót để tình yêu tuột mất…” lại là
bài thơ tôi viết tặng cho mối tình đầu của một anh bạn nhà thơ có thời
sống ở Qui Nhơn. Đó là nhà thơ Ngô Thế Oanh. Sau cuộc chia tay với mối
tình đầu, Oanh chỉ còn yêu những cô gái có đôi mắt giống đôi mắt của
người yêu đầu tiên. Điều đó ám ảnh tôi rất ghê. Cái đôi mắt đó cũng đẹp
như đôi mắt người yêu đầu tiên của tôi, nó luôn ám ảnh tôi. Và nó ám
ảnh vào đoạn kết bài thơ: “Anh trót để ngôi sao bay khỏi cát/ Biếc xanh
em mãi chớp sáng vòm trời/ Điều CÓ THỂ đã hoá thành KHÔNG THỂ/ Biển bạc
đầu nông nổi tuổi hai mươi”. Nhưng cũng có bài thơ sau khi công bố, tôi
nhận được điện thoại của “đối tượng thứ thiệt” nói rằng: “Có nhiều người
tặng thơ cho em nhưng em nghĩ họ tặng ai cũng được; chỉ bài thơ của anh
là tặng riêng em”. Khi ấy, tôi thấy mình thật hạnh phúc. Đấy là trường
hợp bài thơ "Nỗi nhớ không tên".
Lang thang đường phố Huế nhớ chiều nào xa Vinh trời thắp vì sao xanh thương nhớ về mắt biếc
Đường xưa toàn người đẹp Nay đỏ trời phượng bay Huế dầm mưa Nguyễn Bính Vinh nắng hừng phương ai
Còn chi là rượu nữa uống hoài mà không say bia biệt ly quán lạ ngả nghiêng bao tháng ngày
Ngỡ sông là cánh tay Mát mềm như ngà ngọc ngỡ chiều như chiều nay gió thổi mùa xanh tóc
Có một chàng Đơn Độc bước trên đường Không Tên có một nàng Hạnh Phúc ở số nhà Lãng Quên…
LMY:
Có lần tôi đã hỏi ông rằng, đã có bao nhiêu người đẹp đi qua cuộc ờii
ông, ông chỉ cười. Cho đến thời điểm này, ông đã có thể tạm thời "thống
kê" chưa?
NTT: Một câu hỏi như thế thường làm khó cho những người
đàn ông đang có vợ, hoặc đang yêu, hoặc đang có… bồ. Có lần tôi định
viết các chuyện tình của anh nhà thơ bạn tôi, nhưng anh ta chỉ vào vợ mà
nói: “Vợ tôi vẫn còn đó, ông viết sao để cô ấy không tự tử được
không?”. Thế thì còn công khai cai gì được nữa! Nhưng với tôi thì câu
hỏi của Mỹ Ý cũng có thể trả lời được. Cười cũng là một cách trả lời đấy
chứ. Vâng, tôi đã gặp một người đàn ông trong giới nghệ thuật, cái giới
mà người ta thường cho là “lăng nhăng nhất trần đời” khi anh ta đã trên
50 tuổi mà vẫn chưa biết đến người đàn bà thứ 2 là gì. Còn một anh bạn
thích đùa của tôi lại cứ đòi phải lập Câu lạc bộ 1000. Cái con số 1000
làm tôi nhớ đến thi sĩ đẹp trai nhất thế giới là Xergay Esenin của Nga.
Người ta nói rằng, phải có đến 1000 người đẹp đi qua cuộc đời thi sĩ
này. Có ai tin điều đó không? Riêng tôi thì tôi tin, bởi thơ tình Esenin
vô cùng chân thành và quyến rũ, còn ảnh chân dung ngậm tẩu thuốc của
anh ta thì đã trở thành một món hàng đắt giá không chỉ cho phụ nữ yêu
thơ của nhiều thế hệ. Nhưng ai lại đi “thống kê” những người đẹp đi qua
đời mình? Để làm gì nhỉ? Để tự kiểm hay để khoe khoang? Làm thế e có xúc
phạm đến phái đẹp hay không?
LMY: Tôi nghĩ cũng không nghiêm
trọng đến như ông nghĩ đâu. Nhưng câu hỏi này chắc là ông không phải trả
lời khôn khéo đến thế đâu: Mối tình dài nhất và ngắn nhất trong cuộc
đời ông káo dài bao lâu?
NTT: Mối tình ngắn nhất của tôi vừa đúng
3 ngày từ khi “tỏ tình” với nhau. Một tình yêu song phương hẳn hoi.
Nhưng khi biết gia đình tôi thành phần địa chủ (dù đã được sửa sai thì
vẫn mang tiếng địa chủ), cô gái đã từ chối ngay tình yêu của tôi. Mối
tình dài nhất chính là mối tình đầu. Cô gái hoa khôi của trường cấp 3
ngày ấy giờ tóc đã điểm bạc, nhưng trong mắt tôi, cô ấy vẫn cứ xinh đẹp
như thuở nào. Đến nay cô ấy vẫn sống độc thân, và thỉnh thoảng chúng tôi
vẫn gọi điện cho nhau. Mấy năm trước tôi có làm một bài thơ tặng cho cô
ấy, đăng báo hẳn hoi. Tên bài thơ là “GỬI H.”:
Bây giờ ngày ấy mai sau em mười bảy tuổi và câu thơ buồn giọt mưa rơi xuống cội nguồn bởi chưng mái giột mưa còn ướt anh
một ngày héo một ngày xanh một đời nhớ một đời thành lãng quên mấy chàng yêu cũ điên điên chuyền nhau điện thoại gọi em đường dài
yêu nhiều sao chẳng kết ai trớ trêu đời thực sắc tài kỵ nhau bây giờ ngày ấy mai sau người không còn tuổi và câu thơ thiền...
LMY: Vậy là khi yêu, ông đều làm thơ tặng người ta?
NTT:
Nếu làm được điều đó thì thật tuyệt vời. Làm được một bài thơ hay cho
người yêu càng tuyệt vời hơn nữa. Nhưng rất nhiều khi, tôi đã không làm
được điều đó. Đấy là một món nợ to lớn trong đời một nhà thơ.
LMY:
Phụ nữ thông minh có nằm trong “typ” mà ông yêu không? Người xưa
thường quan niệm phụ nữ đẹp đi kèm với kém thông minh, phụ nữ thông minh
thì không xinh đep. Nhung ngày nay quan niệm đó có lẽ đã khác đi nhiều.
Một người phụ nữ hiện đại, nếu xinh đẹp, phải biết chứng tỏ sắc đẹp
của mình (không chỉ ở bề mặt), dieđiều đó đòi hỏi cô ta cũng phải rất
thông minh? Giữa một người phụ nữ thông minh và một người phụ nữ đẹp,
ông chọn ai?
NNT: Tôi chọn cả hai. Nhà thơ Xuân Quỳnh vừa đẹp vừa
thông minh, đã có một quan niệm độc đáo: Sắc đẹp của phụ nữ chính là
tài năng của họ. Đấy là một cách nói cực đoan hóm hỉnh. Và tôi nghĩ,
thông minh cũng là một vẻ đẹp của nữ giới. Cả hai thứ đẹp và thông minh
đều là “của Trời cho”.
LMY: Theo ông, giữa vợ và người yêu, có
những điểm gì khác nhau? "Vợ đẹp là vợ người ta", nhưng những người phụ
nữ trong cuộc đời ông đều rất mặn mà, vậy khi sống với họ, ông có mệt
mỏi vì phải ghen tuông?
NTT: Người yêu là người yêu. Vợ là người
yêu mà ta đã cưới. Hay vợ là người không yêu mà ta đã cưới? Hay vợ là
người không yêu mà ta đã cưới rồi mới yêu? Tôi có một câu thơ trong bài
“Tự hoạ” nói về điều chị hỏi: “Vẽ tôi thấy Đẹp là mê/ Thấy ghen là sợ
thấy quê là nhà”.
LMY: Có lẽ, phụ nữ phải ghen tuông và đau khổ
vì ông không ít thì đúng hơn? Nhưng đã có người phụ nữ nào khiến ông đau
lòng nhất?
NTT: Hơn một người. Trong tình yêu, không gì đau lòng
hơn là khi anh vỡ mộng về họ. Thú nhận là nhiều khi tôi đã quá hy vọng
về người mình yêu. Và vì thế mới sinh ra vỡ mộng.
LMY: Nếu phải nói một câu rất ngắn gọn về phụ nữ, ông sẽ nói gì?
NTT: Hãy yêu và kính trọng họ.
LMY:
Là một người nổi tiếng, và những người nổi tiếng trong giới văn nghệ
sĩ Việt Nam thì thường bị gán cho là "hay lăng nhăng". Cá nhân ông có
ngoại lệ?
NTT: Nếu nói “lăng nhăng” thì giới nào chẳng “lăng
nhăng”. Nhưng cái giới nghệ sĩ thường nổi máu bốc đồng hơn cả. Vui nhanh
buồn lâu là đặc tính của họ. Và người đời cũng thường quá tò mò về tài
năng và đời tư của nghệ sĩ, nên lắm chuyện thêu dệt cũng trở thành giai
thoai. Tôi cũng không ngoài “tầm ngắm” của đàm tiếu thường nhật. Nhưng
tôi biết là trong quan hệ tình cảm hay đúng hơn là trong tình yêu, tôi
luôn sống thật với chính mình. Tôi không nghĩ yêu chân thật là “lăng
nhăng”, dù anh ta có yêu tới 1000 phụ nữ. Một người đàn ông có thể qua
một nghìn phụ nữ, nhưng làm sao họ có đủ năng lượng yêu để yêu 1000 phụ
nữ?
LMY: Ông có dễ xiêu lòng bởi những cô gái chân dài? Người
phụ nữ như thế nào thì dễ quyến rũ ông và khiến ông thèm muốn người ta
nhất?
NTT: Tôi có một nhược điểm là không thích phụ nữ cao hơn
mình. Vậy nên đối với các nữ vận động viên bóng chuyền xinh đẹp hay hoa
hậu số đo thời hiện đại chú trọng chiều cao là là tôi “ngán” lắm. Tôi tự
an ủi mình rằng, nếu họ có yêu mình, chắc họ cũng chỉ yêu xa xa mà
thôi. Còn người phụ nữ khiến tôi bị quyến rũ hay thèm muốn lại chính là
người phụ nữ có vẻ đẹp thánh thiện.
LMY: Khi sex với một người phụ nữ, ông sử dụng bản năng hay kinh nghiệm?
NTT:
Hình như tôi chưa bao giờ chú ý đến điều chị hỏi. Câu trả lời ở đây
phải bấu víu vào ký ức. Ký ức tôi mách bảo rằng, có cả bản năng và kinh
nghiệm. Vâng, kinh nghiệm làm phong phú phấn hứng của con người. Nhưng
về việc này, tôi cứ thích một câu thơ của bạn tôi: “Những câu thơ suốt
đời lóng ngóng”. Có lẽ lóng ngóng mới chính là trạng thái thật sự của
tình yêu. Chị có tin điều đó không?
LMY: Có lẽ ông nói đúng. Còn một câu hỏi thêm cho ông đây: Lúc đó (sex), vai trò nhà thơ có ý nghĩa gì không?
NTT:
Chỉ có nhà thơ dở hơi mới đọc thơ hay làm thơ vào lúc đó… Nhưng tự thân
hai chữ nhà thơ đã mang theo ý nghĩa văn hoá của nó. Cái cảm giác chung
sống với một người nghệ sĩ hay một người quê mùa có khác nhau chứ. Nếu
ai không hiểu được ý nghĩa ấy khi chung sống (hay chung đụng), kể cũng
là thiệt thòi lắm. Trường hợp nhiều phụ nữ thèm muốn Esenin cũng là điều
dễ hiểu, bởi anh ta không chỉ là một anh chàng đẹp trai đầy sức sống,
mà anh ta còn là một nhà thơ vô cùng diệu vợi. Lê Mỹ Ý
Đăng bởi saoviet vào 19/09/2008 17:32 Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 19/09/2008 20:10
1. NET MÙA THU là tập thơ có ý
tưởng lạ: kết hợp bài thơ đăng trên mạng và các comment. Điều này có thể
thu hút bạn đọc. Song ngoài điều đó, có phải điểm chính là những bài
thơ lạ, mới và hay?
Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Trước hết tôi khẳng
định đây là tập thơ NET đầu tiên xuất bản tại Việt Nam được chọn trên
cơ sở "bầu chọn trực tiếp" của bạn đọc bằng comment (cảm nhận, góp ý)
của người đọc văn học mạng (Internet) và quan điểm của Ban Tuyển Chọn
(Nguyễn Trọng Tạo - Hà Linh - Phan Chí Thắng). Có bài thơ hiện hàng trăm
cảm nhận của bạn đọc và cũng có bài thơ không nhiều comment. Tuy vậy,
hầu hết những bài thơ được chọn trong NET MÙA THU đã gây được sự chú ý
của "dư luận" bạn đọc văn học mạng. Một tập thơ phong phú về đề tài, đa
dạng về phong cách và đặc biệt có nét táo bạo về cách tân cả nội dung và
hình thức, thậm chí có bài mà báo giấy "sợ" không dám đăng.
2.
Khi tham gia tuyển chọn, điều gì làm cho anh thấy hứng thú ở tập thơ
này? Anh đánh giá Net Mùa Thu ở mức độ nào: một tập thơ kỷ niệm hay một
tập thơ đáng đọc...?
Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Có lẽ hứng thú
nhất là hình thức in bài thơ kèm những comment. Tôi nghĩ tới bạn đọc
rộng rãi khi đọc xong bài thơ rồi đọc "ý kiến nóng" của người khác về
bài thơ đó, họ sẽ có sự so sánh với cảm nhận của chính họ, và điều thú
vị sẽ xảy ra là người đọc sẽ "động não" và có "ý thức phê bình" hơn khi
đọc thơ. Điều đó làm cho thơ gần gũi và đi sâu vào bạn đọc hơn. Vì vậy,
nó vượt qua quan niệm in thơ hiếu hỷ, và tất nhiên tôi tin nó có sức hấp
dẫn bạn đọc.
3. "Nhà nhà làm thơ, người người làm thơ"- gần như
ai cũng biết. Thế nhưng chúng ta thấy Nhà thơ thực sự có câu thơ in vào
trí nhớ bạn đọc lại không phải nhiều. Và các tập thơ hàng ngày, hàng
tháng xuất hiện nhưng số lượng chỉ 500-1000 cuốn. Lâu rồi chưa có 1 tập
thơ, bài thơ ấn tượng truyền tai nhau, chưa có một nhà thơ trẻ nào được
tôn vinh như thời các anh. Cái này theo anh do bối cảnh văn chương hay
do chính tác giả, tác phẩm?
Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Tôi từng
tin "thơ ta vẫn hay", và hiện nay tôi vẫn tin như thế. Nhưng kinh tế thị
trường xáo động đã chi phối xã hội thưởng thức thơ. Nếu nhà thơ trước
những năm 1990 được sủng ái hâm mộ vào bậc nhất trong công chúng yêu
thơ, thì bây giờ được thay thế bằng minh tinh màn bạc, bóng đá hay hoa
hậu. Tôi đọc thơ trên mạng, đặc biệt trên các blog thỉnh thoảng ngạc
nhiên về những giọng thơ lạ, những bài thơ lạ và hay mà không thấy xuất
hiện trên báo giấy. Có những "tài thơ" như thế đấy, họ chỉ đi tìm tri âm
trên mạng.
4. Tình trạng nhà thơ trẻ gần như được nhắc đến hay
bị dư luận tranh cãi bởi các xu hướng mới, nhưng cũng mới chỉ được nhớ
đến tên hoặc vài câu thơ. Một phần vì chỉ có một số người quan tâm, một
phần chỉ được nhắc trên báo, thiếu những bài phê bình thực sự thấu đáo.
Phê bình nhờ nhờ, thiếu trình độ hay thiếu bản lĩnh. Phải chăng có một
lý giải khác: chúng ta thiếu nhà phê bình như Hoài Thanh, Hoài Chân để
có thể mang tới những chọn lựa và cái nhìn sắc sảo hơn với thơ?
Nhà
thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Chỉ những nhà phê bình thực sự đam mê thơ mới có
thể phê bình thơ hay. Lòng đam mê cho họ sự gần gũi, hiểu biết về thơ,
và đặc biệt là chân thành với thơ. Nhiều comment trên các blog như những
bài bình thơ thực sự, những bài "bình nóng" và trực tiếp thường bộc lộ
rất rõ chính kiến, cảm xúc của "nhà-phê-bình-bạn-đọc". Nếu Hoài Thanh
còn sống để đọc thơ trên blog, chắc ông cũng sẽ là "nhà phê bình nóng"
mà nhà thơ nào cũng sẽ vinh dự khi được ông gõ comment vào bài thơ của
họ. Về phê bình thơ hiện nay, tôi lo lắng nhưng chưa hề thất vọng.
5.
Với anh, những bài thơ của anh được bạn đọc nhớ đến và thuộc có xuất
hiện chậm so với thời gian sáng tác hay là ngay lập tức được đón nhận?
Nhà
thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Khi bài thơ xuất hiện trên blog, sự phản hồi của
bạn đọc rất nhanh: khen, chê, hoặc thờ ơ. Những bài nhiều comment cảm
nhận, thậm chí thành bài bình luận ngắn, thường để lại ấn tượng cho
người đọc. Thời hoàng kim của công chúng thơ trước đây, những bài thơ
hay của tôi được người đọc nhớ rất nhanh. Chỉ loại thơ cách tân quá bạo
liệt mới phải chờ thời gian "xếp hạng".
6. Thơ văn rõ ràng đang
đi ngược: rất nhiều tác phẩm đăng trên mạng rồi mới quay trở lại in
sách. Anh có cho rằng đây là xu hướng của văn học hiện đại? (Trung Quốc
đã khá thành công với mô hình này)
Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Nếu
nhà văn công bố tác phẩm và giữ bản quyền trên mạng trước khi in báo, in
sách thì không thể gọi là ngược. Nó như là giai đoạn thăm dò và điều
chỉnh khiếm khuyết của tác phẩm cho đến hoàn hảo. Nhiều tác giả đã sửa
lại tác phẩm qua ý kiến sâu sắc, thong minh, bất ngờ của bạn đọc mạng.
Ngay trong một thời gian nằm trên mạng, có tác phẩm được sửa chữa nhiều
lần khác nhau. Vấn đề công chúng mạng khuyến khích nhà văn rất nhiều
trong sáng tạo. Cách biên tập và xuất bản chưa chuẩn của ta cũng góp
phần thúc đẩy văn học mạng phát triển. Xu hướng hiện đại là xu hướng tự
do cho văn học phát triển.
7. Tiểu thuyết, truyện ngắn để tạo nên
những cuốn best seller trong bối cảnh hiện nay đang là điều vô cùng khó
khăn. Nhưng khi thơ văn đẩy lên mạng ta cũng có thể thấy có một lượng
độc giả khá và các bài thơ đã có sự phản hồi. Theo anh, thơ liệu có sự
bứt phá nào đấy, hay chỉ là những tác phẩm in đẹp, kỷ niệm, còn giờ là
thời của internet-các bài thơ cũng chỉ được đón nhận từ mạng?
Nhà
thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Thời nay cuốn sách bestseller thường cộng hưởng
với quảng cáo, tiếp thị. Tất nhiên nó cũng phải có "nội lực" nhất định.
Có chiêu quảng cáo độc hơn là "thuê thu hồi sách rồi phạt vi phạm hành
chính dăm triệu thôi". Ha ha, thế đấy, "của cấm là của quí", bạn đọc tha
hồ tìm sách cấm qua chợ đen. Lợi nhuận trôi vào nhà sách, còn tác giả
thì ngoài tiền bạc còn được công chúng phong danh hiệu "hiệp sĩ bị trù
dập". Vấn đề thực chất của văn chương phát triển lại nằm ở chỗ khác, đó
là văn tài và văn hay.
8. Thời gian vừa qua cũng có một số nhà
thơ, khuynh hướng thơ được coi là lạ lẫm, bạo dạn và gây sock xuất hiện.
Tuy họ chưa tạo được một khuynh hướng mới, một tên tuổi thơ đủ sức hấp
dẫn và lôi cuốn bạn đọc nhưng họ đã dám thể nghiệm, dám sống với suy
nghĩ của mình. Ông nghĩ thế nào về các cây viết trẻ và sự đón nhận của
công chúng với thơ mới - thơ hậu hiện đại?
Nhà thơ NGUYỄN TRỌNG
TẠO: Không ai muốn làm thơ như cũ, phải làm mới. Nhưng rất nhiều, rất
nhiều người kể cả người đã nổi tiếng vẫn lực bất tòng tâm. Ngay cả trẻ
cũng vậy, nhưng trẻ bao giờ cũng có lợi thế của họ, lợi thế nhất là họ
trẻ nên nhìn thế giới mới mẻ hơn. Thơ hiện đại hay thơ hậu hiện đại chủ
yếu là thay đổi hình thức, cách nói. Nó cũng chẳng hơn lục bát hay
xon-nê Đường luật... về hình thức. Nhưng nếu nó làm cho công chúng thích
thì kho tàng thơ sẽ phong phú và mới mẻ hơn. Tôi tin rồi sự pgas cách
và phá phách của lớp trẻ sẽ đến lúc trưởng thành hơn.
9. Con
đường của các nhà thơ trẻ bây giờ gần giống nhau: ban đầu say mê, miệt
mài với thơ, với rất nhiều tuyên ngôn và sự dấn thân. Song dần dần bị
giảm nhiệt và làm thơ như một sự trang trí, còn hầu hết chuyển nghề báo,
văn, hội hoạ, biên kịch... Con đường thơ văn vì thế mà cũng rời rạc?
Đây có phải là cách làm không chuyên nghiệp và ngõ cụt của các nhà thơ?
Nhà
thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Đó là đồ thị phổ biến của các nhà thơ trẻ, một đồ
thị lên nhanh xuống nhanh rồi đi ngang. Có lẽ nó nhuốm phải căn bệnh
"đi tắt đón đầu" "ăn xổi ở thì" mà cha ông đã chỉ ra. Đó không phải phẩm
cách của nhà thơ. Cuộc sống khó khăn cũng xô đẩy họ và ta có thể ngậm
ngùi thông cảm và chia tay họ. Nhưng với những tài năng văn chương thật
sự thì ta vẫn có quyền hy vọng họ sẽ vẽ một đồ thị khác lạc quan hơn.
10. Nếu được chọn 5 gương mặt thơ trẻ, anh sẽ chọn ai? Liệu đủ đủ để chọn 5 hay đông hơn, có thể chọn được 10?
Nhà
thơ NGUYỄN TRỌNG TẠO: Thú thực tôi không thích làm giám khảo để lựa
chọn nhà thơ. Đối với người trẻ, tôi thích cá tính và dấu hiệu bí ẩn của
tài năng. Những tên tuổi thơ trẻ giao thời giữa hai thế kỷ tôi đã nói
nhiều đến Văn Cầm Hải, Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly... và
họ đã dần tự khẳng định tên tuổi của mình. Giờ thấy xuất hiện Trang
Thanh, Dương Anh Xuân, Trương Quế Chi, Nguyên Anh hay Nguyễn Thế Hoàng
Linh... Hy vọng thì nhiều, nhưng quan trọng phải là sự tự bứt phá của
chính họ. Nếu họ tung thơ lên blog riêng chắc sẽ hiểu rõ mình hơn qua
bạn đọc, bởi thơ trên blog đang làm xao động và thu hút sự chú ý của
công chúng thơ hiện nay. 9.2008 Hằng Nga thực hiện
Con sông mình hạc xương mai Vàng son in bóng đền đài hoa khôi Đến đây tôi gửi bóng tôi Vớt lên thì vỡ tan rồi lại nguyên
Con sông mướt cỏ tóc tiên Những đêm kỹ nữ bỏ quên nguyệt cầm Vầng trăng loã thể ướt đầm Sẩy chân thi sĩ vớt nhầm mỹ nhân
Con sông đám cới Huyền Trân Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn Hèn chi thơm thảo nỗi buồn Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ Nửa mong Lý Bạch nửa chờ Khuất Nguyên...
Huyền
thoại là một giải pháp thẩm mỹ khi con người chưa đủ sức mạnh tri thức
nhằm giải thích những hiện tượng tự nhiên, nhưng khi con người đã nắm
được tri thức khoa học thì huyền thoại lại là một giải pháp tối ưu để
nhận thức khám phá cuộc sống, làm giàu cảm thụ và mở rộng liên suy tưởng
của mình. Trong nghệ thuật ngôn từ, trường hợp thứ nhất thuộc về phương
pháp sáng tác huyền thoại - dân gian, trường hợp thứ hai thuộc về
phương pháp sáng tác huyền thoại - hiện đại.
Bài thơ Con sông
huyền thoại của Nguyễn Trọng Tạo là một "siêu văn bản" của tư duy huyền
thoại - hiện đại. Tác giả đã tích hợp các hình ảnh, động thái liên
tưởng theo kiểu đồng nhất hoá thần thoại (identification mysthique) cũng
do mình tưởng tượng ra để tôn vinh một con sông mang tên huyền thoại.
Đây là kiểu tư duy độc đáo, tạo thành hình tượng thơ mới lạ ngỡ như siêu
thực nhưng lại tiềm ẩn những giá trị thẩm mỹ hiện thực, nghĩa là người
đọc có thể hình dung về một con sông có thật nào đó, và cũng có thể nó
chỉ là một con sông mơ hồ tuyệt đẹp như cổ tích trong tâm tưởng của
riêng mình.
Con sông mình hạc xương mai Vàng son in bóng đền đài hoa khôi Đến đây tôi gửi bóng tôi Vớt lên thì vỡ tan rồi lại nguyên
Đấy
hẳn là một con sông thiếu nữ đài các. Những hình ảnh "mình hạc xương
mai" và "vàng son in bóng" gợi lên cảm giác mảnh mai mà lộng lẫy, dịu
dàng mà rực rỡ, quí phái vô cùng. Con sông nữ tính này dường như tượng
trưng cho cái Đẹp, và người đến gửi bóng chính là nhân vật trữ tình lấy
cái Đẹp làm đối tượng để gửi gắm lòng mình. Cái hay của câu thơ ở đây là
hình tượng cái bóng gửi vào sông đã hoá thành hữu thể, có thể vỡ tan
rồi lại lành nguyên, như tình yêu không bao giờ tan biến mất. Chính ảo
giác và ảo ảnh đã làm cho đoạn thơ trở nên lung linh, huyền diệu và giàu
sức quyến rũ lạ thường. Khi cái bóng gửi vào sông đã nguyên lành trở
lại, tác giả đưa liên tưởng trở về với hiện thực, và ngay cả hiện thực
cũng đồng hiện trong liên tưởng đa chiều, khiến cho đoạn thơ tiếp theo
bỗng trở nên sinh động hẳn lên:
Con sông mướt cỏ tóc tiên Những đêm kỹ nữ bỏ quên nguyệt cầm Vầng trăng loã thể ướt đầm Sẩy chân thi sĩ vớt nhầm mỹ nhân
Có
một chút gì thật liêu trai trong những câu thơ nửa thực nửa ảo ấy. Từ
ngữ ở đây hàm chứa những nghĩa kép liên tưởng đồng hiện: "cỏ tóc tiên"
là cỏ hay là tiên? "bỏ quên nguyệt cầm" là bỏ quên đàn hay là bỏ quên
trăng? "Vầng trăng loã thể" hay là sông loã thể, hay là mỹ nhân...? Rõ
ràng đây là một dòng sông của tài tử và giai nhân có đàn ca xướng hoạ
trong đêm trăng tuyệt đẹp. Hai chữ "vớt nhầm" xuất hiện khá bất ngờ và
đắc địa khiến câu thơ trở nên thi vị khác thường. Lối kiến trúc thơ theo
kiểu tư duy ảo này đã làm cho không gian và thời gian nghệ thuật vừa kỳ
ảo lại vừa thăng hoa, gieo vào lòng người những cảm xúc nên thơ và
thánh thiện. Đến đây, liên tưởng của thi sĩ còn đi xa hơn nữa.
Nguyễn Trọng Tạo như muốn ngược về quá khứ mờ xa của lịch sử để dệt nên
một huyền thoại chưa ai từng biết tới:
Con sông đám cưới Huyền Trân Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn
Đồng
hiện chi tiết lịch sử có thật là đám cưới của công chúa Huyền Trân (với
vua Chiêm là Chế Mân) để đổi lấy 2 châu Ô, Lý cho nước Việt (1306), có
liên quan đến "con sông huyền thoại", gợi ta nhớ đến con sông Hương thơ
mộng trong thực tại. Phải chăng "giải lụa phù vân" mà Huyền Trân bỏ quên
đã hoá thành dòng sông hay chính dòng sông đẹp như giải lụa phù vân ấy?
Câu thơ huyền thoại hoá lịch sử này đã tạo nên một nhận thức mới về
Huyền Trân. Có bi kịch nào giữa Huyền Trân và số phận lịch sử của nàng
không? Câu trả lời dành cho người đọc, còn thi sĩ ở đây chỉ giúp ta nói
lên cái nỗi buồn như định mệnh mà cao cả và thiêng liêng của một bậc
"quyền quí trâm anh", biết nén tình riêng vì đại cuộc, vì chính nghĩa.
Vì thế mà hai câu thơ tiếp theo là một tiếng than thầm, một lời đồng
vọng, đồng cảm đến day dứt của tác giả:
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Đến
đây, người đọc có thể khẳng định được "con sông huyền thoại" chính là
con sông nào rồi. Một con sông lưu hương nỗi buồn thiên cổ cùng với
hoàng hôn màu tím riêng biệt, hiếm con sông nào có được. Đấy chính là
con sông Hương của xứ Huế mộng mơ. Dùng ảo để gợi thực, dùng xưa để
đánh thức nay, quả là bài thơ đã hướng tới vẻ đẹp nhân văn bằng lối đi
của sương khói vô thường. Nhưng Nguyễn Trọng Tạo không dừng lại ở đấy,
anh muốn đẩy cái Đẹp tới đỉnh điểm tuyệt đối:
Con sông nửa thực nửa mơ Nửa mong Lý Bạch nửa chờ Khuất Nguyên...
Hai
câu kết bài thơ bỗng mở ra một liên tưởng xa vời, gợi ta nhớ đến hai
con sông Tương Giang và Mịch La nơi hai bậc kỳ tài là Lý Bạch và Khuất
Nguyên đã gửi thân vào miền miên viễn. Khuất Nguyên nhảy xuống sông tự
tử, Lý Bạch nhảy xuống sông ôm trăng mà chết. Hai cái chết cũng "nửa
thực nửa mơ" như huyền thoại vậy. Nhưng tại sao Lý Bạch và Khuất Nguyên
lại xuất hiện bất ngờ ở cuối bài thơ? Và con sông mong chờ hay nhân vật
trữ tình trong bài thơ mong chờ? Cả hai! Người ta sống vì cái Đẹp, nhưng
cũng có thể chết vì cái Đẹp. Đấy mới chính là thông điệp mà nhà thơ
muốn gửi tới người đọc - thông điệp về vẻ Đẹp tuyệt đối của Con sông
huyền thoại. Và vẻ Đẹp ấy lại được chuyển tải bằng điệu thơ lục bát vô
cùng điêu luyện, hữu duyên, hàm súc và thăng hoa của Nguyễn Trọng Tạo,
nên càng đọc càng có cảm giác là ta đang hoà nhập vào thế giới huyền
thoại sông, huyền thoại bóng ảo diệu của riêng anh.
Ngày
28 tháng 7 năm 2007, tại Vancouver, đã diễn ra cuộc ra mắt sách lý thú
và ít gặp của hai người viết, một trong nước và một ở hải ngoại. Nhà văn
Nam Dao từ Quebec với bộ tiểu thuyết lịch sử Bể Dâu, gồm hai tập. Nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo từ Việt Nam với tập Thế Giới Không Còn Trăng.
Chương trình được tổ chức bởi tạp chí Người Việt Hải Ngoại (Nhóm Chủ
Trương: Vân Hải, Việt Phong, Hà Chính Bình, Trịnh Độ, Đỗ Quyên). Rất
đông bạn đọc đã đến dự, đóng góp ý kiến, nhiều người đọc tham luận hội
thảo. Sau đây là bài của Nguyễn Đức Tùng.
Thật khó để cùng một lúc nói về hai người khác nhau, nhất là khi một người là nhà viết tiểu thuyết và một người là nhà thơ. Điều
may mắn của tôi là ở chỗ nhà văn Nam Dao cũng là người làm thơ và nhà
thơ Nguyễn Trọng Tạo cũng không xa lạ gì với văn xuôi. Hôm nay tôi
muốn kể với các bạn và hai tác giả, hai vị khách của chúng ta từ xa đến,
về những kinh nghiệm của tôi như một người đọc.
Lúc còn nhỏ và
khoảng chín mười tuổi, tôi đã bắt đầu tập đọc sách. Thật khó nhớ lại xem
cuốn tiểu thuyết đầu tiên hay tập thơ mà ta đọc lúc ấu thơ là cuốn sách
nào. Vậy tôi xin gọi đó là những cuốn sách đầu tiên trong đời sống mỗi
người.
Mẹ tôi đọc ca dao và kể chuyện cổ tích cho tôi nghe, nhưng
cha tôi thường đi xa và ông để lại cho tôi một tủ sách khá lớn. Tuy
nhiên, tôi còn nhớ rằng niềm say mê với văn học chỉ bắt đầu trong một
buổi trưa hè trong căn nhà của bà ngoại tôi, trên một vựa lúa lớn, nơi
tôi tìm thấy cuốn sách đầu tiên của đời mình. Tôi còn nhớ đó là cuốn
sách rất cũ, ố vàng của ai để lại nhiều năm, một tập tiểu thuyết đường
rừng hình như của Lan Khai. Mặc dù cha tôi là một người đọc sách, ông ít
khi ở nhà, vì vậy thuở vào đời, tôi thật sự không có ai hướng dẫn. Vả
lại thời đó nước ta còn nghèo và chiến tranh, lượng sách trên thị trường
ít, nên người đọc không có nhiều chọn lựa. Tôi đọc tất cả những sách
nào cầm được trong tay hay có thể năn nỉ mượn được.
Trước khi các
chính phủ ban hành luật kiểm duyệt thì các bậc cha mẹ đã thực thi chúng
rồi. Những cuốn sách bị cha tôi cấm đọc hồi ấy, thường là các sách kiếm
hiệp và trinh thám. Tôi thường phải chui vào gầm bàn thờ, phía sau bức
mành tre để đọc. Chị tôi còn táo bạo hơn, và tôi nhớ có lần chị ấy mê
một cuốn võ hiệp Kim Dung, đã chui vào trong chăn và mở đèn pin lên để
đọc, trong khi ngoài trời mưa lớn. Cái thú đó bỗng cắt ngang vì bị cha
tôi bắt gặp.
Những kinh nghiệm đọc như thế của tuổi thơ, ngày nay
kể lại chỉ là những kỉ niệm đáng yêu. Tuy nhiên, việc đọc sách, đối với
nhiều người có thể là một công việc gian nan, thậm chí nguy hiểm. Lịch
sử của nhân loại và Việt Nam đã để lại biết bao câu chuyện đau thương về
việc những người đọc sách, hay cất giữ sách báo bị cấm đoán, hay phát
tán các sách báo này, đã bị hành hạ, ngược đãi, thậm chí tù tội ra sao.
Ngày nay việc người đọc trong nước đọc sách báo hải ngoại và người đọc
hải ngoại đọc sách báo trong nước, cũng không dễ dàng như ta tưởng. Ngày
nay ở Việt Nam hay ở hải ngoại, viết là một hành động can đảm. Ngày
nay, đọc cũng là một hành động can đảm. Con đường đi từ tác giả đến
người đọc là con đường chông gai vạn dặm. Đáng ngạc nhiên thay, cùng một
lúc, nó lại ngắn vô cùng, như con đường đi từ tâm hồn đến tâm hồn. Nhà
văn Canada David Bergen, một người bạn mới quen của tôi kể cho tôi nghe
là trong khi đi Việt Nam để tìm tác giả Bảo Ninh của cuốn Nỗi Buồn Chiến
Tranh (Sorrow Of War) mà ông yêu thích, mặc dù không gặp, đã thai nghén
tác phẩm The Time in Between, được Nguyễn Tuệ Đan dịch ra tiếng Việt là
Ở Lưng Chừng Thời Gian, khá nổi tiếng. Mặc dù theo tôi cả hai cuốn sách
nói trên đều chưa phải là những tác phẩm cực kỳ xuất sắc, mối tình tri
âm của một người đọc và một nhà văn như thế trong thời hiện đại là điều
đáng suy nghĩ.
Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu có người nói với chúng
ta rằng: tiểu thuyết của Nam Dao và thơ của Nguyễn Trọng Tạo là các
loại sách báo tuyên truyền của nhà nước Việt Nam. Tôi cũng không ngạc
nhiên nếu có người khác lại khuyên chúng ta rằng: các tác phẩm của các
anh là chống phá nhà nước, chống phá Việt Nam.
Những điều như thế
không có ích gì cho văn học và thực sự là không dân chủ. Người đọc hãy
lắng nghe tác giả của chúng ta nói về chính mình.
Người ước mình trẻ lại người ước mình già đi Người ước mình.vĩ đại người ước mình li ti Ta không trẻ không già Không li ti không vĩ đại Ta trung bình nhưng ta không giả dối
(Nguyễn Trọng Tạo, Tội Đồ Của Thời Gian)
Nguyễn
Trọng Tạo là người có khả năng chỉ ra tính chất đặc trưng của xã hội mà
người Việt đang sống với những câu thơ hồn nhiên. Chính vì hồn nhiên
nên thơ anh không trở thành phương tiện chuyển tải của các ý tưởng.
Những ý định chuyển tải nội dung như thế thật ra là chống lại thơ ca, hạ
thấp chúng.
Tôi hỏi Công chúa: Thạch Sanh đi đâu Công chúa lầu bầu trả lời: không biết
Tôi hỏi Nguyệt Nga: Vân Tiên đi đâu Nguyệt Nga âu sầu: hình như đã chết
Tôi hỏi cave. Cave cười ngất Chợt nhận ra mình giữa quán Lý Thông
(Trong Quán Lý Thông)
Như
thế là Nguyễn Trọng Tạo đã xông thẳng vào quán Lý Thông, tức là cái
hang ổ của lịch sử, của bi kịch lịch sử. Ở trong cái quán ấy, nếu tôi
được phép nói một cách hình ảnh, anh cũng sẽ gặp Nam Dao từ một cánh cửa
khác tiến lại, trên tay cầm bộ tiểu thuyết Bể Dâu hai tập, gần một ngàn
trang, vừa viết xong.
Nếu thơ là dòng suối thì tiểu thuyết là
dòng sông, nếu thơ là dòng sông thì tiểu thuyết là biển cả. Nếu thơ là
lời tâm tình của chính tác giả, thì tiểu thuyết là sự mô tả lịch sử bằng
những giọng điệu khác nhau, hay trong lý luận văn học, gọi là bằng
nhiều mặt nạ (persona). Nhà viết tiểu thuyết Nam Dao huy động rất nhiều
các nhân vật tưởng tượng và có thật trong lịch sử vào một mặt trận lớn.
Cuộc hội ngộ này dùng để làm gì?
Nam Dao đã từng viết: “Với tôi,
lịch sử không là những xác chết và những sự cố biên niên ù lì. Trong
tiểu thuyết lịch sử, quá khứ là lịch sử nhìn bởi nhà văn, nhà văn như
chủ thể. Đó là thứ quá khứ tái chiếm hữu và tái tạo từ vị thế của chủ
thể, với ý thức về giới hạn của sự truy lùng chân lý “khách quan”, một
từ lẽ ra không bao giờ nên có ngoài cái chúng ta quen miệng gọi là khoa
học tự nhiên! Để tái chiếm hữu lịch sử, nhà văn phải nhìn ngược thời
gian, suy xét phân giải những sự cố, và thậm chí phán xử, cách này hay
cách khác, những con người có tên tuổi trong chính sử. Minh oan, buộc
tội… tuỳ nặng nhẹ, nhà văn bắt họ đội mồ đứng dậy.”
Với tôi, khi
đọc tiểu thuyết, câu hỏi thường đặt ra cho mình là “Những sự việc nào
đã xảy ra và sẽ xảy ra?” (What?). Bất cứ người đọc nào cũng thích thú
theo dõi diễn tiến của câu chuyện kể, và khoan khoái trước sự hồi hộp
(suspense). Tính chất giả sử và hư cấu là đặc điểm hàng đầu của tiểu
thuyết, tuy nhiên trong Bể Dâu, tình chất này, hình như lần đầu tiên
trong văn học Việt Nam, bị thách thức một cách có hệ thống khi tác giả
đưa vào những nhân vật lịch sử có thật, với nhiều chi tiết mà ta có thể
tin là chính xác hay gần như vậy.
Câu hỏi kế tiếp của tôi là:
“Sự việc ấy đã xảy ra như thế nào?” (How?). Tiểu thuyết tự nó bao giờ
cũng có tính xã hội, nhưng tiểu thuyết lịch sử không những có tính xã
hội mà còn chuyên chở trong nó các sự kiện chính trị vang động của một
thời đại.
Nhưng đọc tiểu thuyết lịch sử, trong trường hợp này là
cuốn Bể Dâu của Nam Dao, tôi thường có một câu hỏi thứ ba, đó là: “Tại
sao nó lại xảy ra như thế?” (Why?). Thật ra các nhân vật của tiểu thuyết
thường có các cấu trúc và diễn tiến tâm lý phức tạp, hơn là đơn giản.
Nếu một nhân vật thuần túy là xấu (phản diện), hay thuần túy là tốt
(chính diện), thì nhân vật ấy thường là tiêu biểu cho một ý tưởng, hay
cùng lắm là những nhân vật phụ, mà không thể trở thành nhân vật chính
của tiểu thuyết. Sức mạnh của tiểu thuyết Nam Dao là ở chỗ hầu hết các
nhân vật quan trọng của ông đều trải qua những biến đổi tâm lý phức tạp
và vì vậy mà rất gần với cuộc đời. Một người kể chuyện thành công thường
gây cho người đọc cảm giác muốn đi tìm câu trả lời cho mọi thứ. Nhưng
ít khi họ tìm thấy câu trả lời như thế trong các cuốn tiểu thuyết. Theo
tôi, Bể Dâu thành công nhất ở điều này: cả người đọc lẫn tác giả có vẻ
như cùng một lúc đi tìm câu trả lời cho những nhân vật của họ, và cứ mãi
mãi theo đuổi như thế. Nhưng một cuốn tiểu thuyết hay không phải là một
cuốn từ điển chứa những câu trả lời.
Thế mà người đọc vẫn không
thể không tự hỏi: tại sao dân tộc mình lại có một lịch sử rắc rối khốn
khổ và con người Việt Nam lại có một lịch sử khiếp nhược đến thế? Tức
là, nói như Nguyễn Trọng Tạo: tại sao Lý Thông lại nhiều như thế?
Như
vậy, theo tôi, trong khi thưởng thức nghệ thuật kể chuyện của Nam Dao,
vốn là hành động chính của người đọc văn học, chúng ta cũng cùng lúc đi
tìm câu hỏi: giải thích lịch sử như thế nào?
Cách giải thích của
Nam Dao có khác với cách giải thích của tôi. Điều đó tất nhiên là bình
thường. Nhưng con người có tìm cách giải thích lịch sử của dân tộc mình
thì mới đủ khả năng để tin rằng:
“Tôi ngửng lên. Cao vót, một
cánh chim trắng liệng tròn. Cái có thể hiểu rất giới hạn. Nhưng tôi hiểu
chim sinh ra để bay. Tôi hiểu, tư duy với chúng ta hệt như chim vẫy
cánh. Và làm thơ, những nhà thơ mong phục hồi cái chức năng ấy cho chính
mình và cho tất cả mọi người”
(Nam Dao, đoạn kết của tiểu thuyết Bể Dâu, trang cuối, 981)
Thú
vị vô cùng là ở đoạn cuối cuốn tiểu thuyết, Nam Dao lại nhắc đến thơ và
nhà thơ. Tôi không biết anh có ý định như thế từ đầu hay đây là cái kết
thúc tự nhiên của toàn bộ câu chuyện..qua nhân vật Phan Thượng Dân.
Nhắc
đến thơ là nhắc đến cái tình. Trong vài ngày nữa, Nam Dao và Nguyễn
Trọng Tạo tạm biệt chúng ta. Trên chuyến bay rời Vancouver về nhà, các
anh chắc sẽ thầm đọc:
Mây như sóng như bông như núi trắng mịt mùng Mây như biển duềnh lên tóc trắng Không còn sông Visla tiếng khóc cười xa vắng Bó hoa hồng người tặng chẳng còn tươi
(Nguyễn Trọng Tạo, Trên chuyến bay giã biệt)
Hoa thì không, nhưng tình vẫn còn tươi.
Riêng
đối với chúng ta, những người đọc văn học Việt Nam, chúng ta vẫn còn hy
vọng. Không những giá trị văn học của tập thơ Thế Giới Không Còn Trăng,
lãng mạn và nhân đạo, nhưng hoàn toàn thoát ra khỏi khuynh hướng cổ
điển, và của tập tiểu thuyết Bể Dâu, trải rộng mà vẫn đi vào được từng
số phận cá nhân, mà còn bản thân sự hiện diện của hai nhà văn khác nhau,
một từ Quebec, một từ Việt Nam, trong buổi tối hôm nay giữa đông đảo
người đọc của thành phố Vancouver thân ái và nồng nhiệt, như tôi chứng
kiến, là những lý do của niềm hy vọng rằng văn học chúng ta trong thời
gian tới sẽ lớn lên hơn nữa, đủ sức xuyên qua các biên giới của không
gian và của lịch sử, tìm đến với người đọc, vốn lúc nào cũng rộng lượng
và kiên nhẫn đối với các nhà văn.
(VietNamNet) - Với Nguyễn Trọng Tạo,
phong vị trữ tình chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh
thức được bản năng gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung
sướng pha lẫn nỗi hoài nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.
Nói
đến Nguyễn Trọng Tạo là người ta nhớ ngay đến một nhà thơ, một nhà báo,
một kẻ lãng du không bến đỗ nhưng ít ai nhớ đến một Nguyễn Trọng Tạo
với những ca khúc khá trong sáng.
Cũng như đa số các nhạc sĩ
cùng thời, Nguyễn Trọng Tạo sáng tác bằng cảm hứng bản năng, bằng nguồn
sữa dân ca không bao giờ cạn. Người ta nhớ đến một Làng quan họ thấm đẫm
chất trữ tình với chiếc nón quai thao, cơn gió, bờ tre, vầng trăng, câu
hát gọi bạn vv... rất khác với làng quan họ của nhạc sĩ Phó Đức Phương.
Cảm
xúc về quê hương, về ngôi làng ám ảnh Nguyễn Trọng Tạo đến mức anh sáng
tác một loạt những ca khúc như: Cảm xúc biển quê, Chèo thuyền trên sông
Bùng, Đôi mắt đò ngang, Làng tôi bên dòng Ô Lâu, Khúc hát sông quê
vv...Có lẽ anh là nhà thơ yêu thích kinh Thi, thơ Đường nên phần ca từ
rất được anh chú trọng, được anh trau chuốt tỉ mỉ như nét vẽ trên tranh
thuỷ mặc.
Sự khác biệt thể hiện ở chỗ cùng là làng tôi nhưng với
Nguyễn Trọng Tạo phải là một cái làng cụ thể, gắn bó máu thịt với hồi ức
tuổi thơ như ngôi làng quan họ có con sông Cầu âu yếm ôm "ngang lưng
làng quan họ xanh xanh...". Với Nguyễn Trọng Tạo, phong vị trữ tình
chưa đến mức lẳng lơ nên rất may nó cũng chưa đánh thức được bản năng
gốc đáng sợ nhưng nó khơi dậy trong ta niềm sung sướng pha lẫn nỗi hoài
nhớ về những kỷ niệm êm đềm đẹp đẽ và sâu lắng.
Trong CD Tình
khúc 4 mùa, chỉ với 12 ca khúc nhưng Nguyễn Trọng Tạo đã cho thấy sự
giao hoà giữa yếu tố lãng mạn mang đậm chất dân dã với nỗi buồn chiêm
nghiệm cá nhân trước dòng đời vô cùng vô tận.Phận người, phận dế, bài ca
của loài dế trong đêm trăng, suy nghiệm của con người trong đêm vắng
mới buồn làm sao, đẹp làm sao!
Cảm nhận về nỗi ngang trái trong
tình yêu, tình đời về những tai hoạ ẩn giấu ngay dưới mỗi bước chân buồn
bã của lữ khách cô đơn khiến anh viết nên những lời như khóc trong ca
khúc Vầng mây bất hạnh. Niềm vui và nỗi đau, hạnh phúc và bất hạnh, sáng
và tối,... cùng vật lộn trong tâm hồn của mỗi con người mang bản chất
nhị nguyên và Nguyễn Trọng Tạo đã nghe được tiếng động từ cuộc giao
tranh ấy nên các ca khúc của anh vừa có tính hiện sinh vừa có nỗi khắc
khoải hoài nhớ vẻ đẹp yên lành cổ kính. Quang Hải
Nguyễn Trọng Tạo thuộc lớp nhà thơ
tiêu biểu thời kỳ chống Mỹ. Nếu phải phát biểu ngắn gọn về thơ của lớp
nhà thơ này thì thơ Hữu Thỉnh là thơ lấp lánh. Thơ Phạm Tiến Duật là thơ
thông minh. Thơ Nguyễn Đức Mậu là thơ thơ đậm đà. Thơ Nguyễn Duy là thơ
thuần Việt. Thơ Bằng Việt là thơ trí tuệ. Thơ Vũ Quần Phương là thơ
sang trọng. Thơ Nguyễn Trọng Tạo là thơ tài hoa. Thơ tài hoa là thứ thơ
khiến người ta có cảm tưởng như đó không phải là kết quả logic của tư
duy mà là sự thăng hoa của ngôn từ. Đã và sẽ còn có nhiều công trình
nghiên cứu nghiêm túc về họ. Tôi chỉ “Kính nhi, viễn chi”, cứ bạo miệng
nhận xét vắn tắt thế. Đúng hay là sai, ý kiến của tôi cũng không mấy
quan trọng. Tôi gặp nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo lần đầu tại
Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ III (tháng 12-1985). Đấy là đêm
đi xem ca nhạc do nhà hát ca-múa-nhạc Việt Nam biểu diễn phục vụ hội
nghị tại Cung Văn hoá lao động, Hà Nội. Khi nhà văn Chu Lai giới thiệu
tôi với nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, anh nói ngay: Lê Huy Mậu phải không?
Bài thơ “Cầu Tiên” in trên Văn nghệ Quân Đội của Mậu là mình biên tập
đấy. Hồi đó, được một nhà thơ nổi tiếng như Nguyễn Trọng Tạo nhớ đến
tên, nhớ đến tác phẩm của mình là sướng lắm. Tôi mừng rơn!
Cùng
dự Hội nghị viết văn trẻ toàn quốc lần thứ ba với tôi có 156 đại biểu
chính thức. Nhiều tác giả trẻ nhưng tên tuổi của họ đã lẫy lừng khắp
trong Nam, ngoài Bắc như Nguyễn Quang lập, Nguyễn Đức Thọ, Y Phương, Hồ
Anh Thái, Đinh Thị Thu Vân, Nguyễn Trọng Tín… Tôi lọt thỏm vào cái hội
nghị “toàn sao” ấy nên không dễ gì gặp được Nguyễn Trọng Tạo lần nữa.
Sau lần đó, tôi có gặp Nguyễn Trọng Tạo một hai lần ở Huế. Chính xác là
hai lần. Một lần là khi tôi tham gia đoàn cán bộ văn hoá Đặc Khu Vũng
Tàu-Côn Đảo ra Huế thẩm định mấy vở cải lương mới dựng của đoàn cải
lương Trùng Dương, và một lần là cùng đoàn cán bộ Tuyên giáo đi tham
quan các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Nguyễn Trọng Tạo là người dễ
gần. Anh không cố tạo khoảng cách để phân biệt đẳng cấp với người đi
sau, với người ngưỡng mộ mình. Tôi nguyên là một Chánh văn phòng. Có
thâm niên trong việc tiếp các loại khách. Ngoài khả năng tổng hợp, viết
văn bản, tôi còn có khả năng tự biết mình phải ngồi vào vị trí nào trong
bàn tiệc. Không ai dạy cả. Không ai bắt mình phải ngồi chỗ này, hay chỗ
khác trong bàn tiệc. Nhưng nếu mình láu táu ngồi sai vị trí là có người
khó chịu ngay. Là nhà văn, nhưng không phải nhà văn nào cũng dễ tiếp
xúc, dễ gần. Tôi nhớ mãi, lần tôi dự hội nghị Văn hoá - Văn nghệ toàn
quốc tại Cửu Long. Nhà thơ Hữu Thỉnh có tổ chức một buổi tham quan, tiếp
xúc với Hội Văn nghệ Cửu Long. Đoàn chỉ có mấy người, trong đó có nhà
thơ T.Th. Tôi cũng lịch sự bắt tay nhà thơ, rồi đi gần cạnh nhà thơ,
nghe nhà thơ chuyện trò với nhà thơ Hữu Thỉnh suốt cả buổi. Nhưng tuyệt,
ông không hề hỏi tôi công tác ở tỉnh nào, có viết văn hay làm thơ gì
không? Nhà thơ Hữu Thỉnh, có lẽ là do thương tình tôi, thỉnh thoảng ông
có quay sang nói với tôi một câu gì đó cho đỡ tẻ. Tôi không có cách nào
“đi chỗ khác chơi”, đành phải làm chú cún con, lẽo đẽo theo chân hai nhà
thơ lớn. Với Nguyễn Trọng Tạo thì khác. Nguyễn Trọng Tạo nâng niu
tất cả. Anh từng viết lời tựa, lời bạt cho các tập thơ trẻ, viết lời
giới thiệu in báo cho nhiều tác giả mới có sách đầu tay. Bằng tất cả sự
trân trọng cần thiết, mà không phân biệt người ấy đã nổi tiếng hay chưa
nổi tiếng. Nguyễn Trọng Tạo khen chê rất chân thành, nhiều khi chân
thành đến cực đoan. Người thiếu bản lĩnh, hay người luôn “quan trọng
hoá” đẳng cấp của mình thường không dám mạnh dạn thế. Tôi biết, có nhiều
nhà thơ đã thành danh hiện nay, nhưng những bước chập chững vào nghề
luôn nhận được sự khích lệ, sự quan tâm đúng mực của Nguyễn Trọng Tạo.
Không phải chỉ có tấm lòng, Nguyễn Trọng Tạo còn là “nhà” phát hiện tài
năng văn học có đẳng cấp trong cả nước. Anh nhanh nhạy, sâu sắc, có khả
năng “đọc” được cái tiềm năng văn học dù chỉ mới đọc qua họ một bài, một
chùm bài sáng tác đầu tay của họ. Chính nhà thơ Ngô Minh cũng rất khâm
phục tài “đọc” tiềm năng văn học của Nguyễn Trọng Tạo. Sau này, được
quen biết, được uống rượu nhiều lần với Nguyễn Trọng Tạo, tôi thấy, anh
luôn luôn quên mình là Nguyễn Trọng Tạo. Vui đến giọt rượu cuối cùng.
Nhớ hôm liên hoan bế mạc trại sáng tác âm nhạc của Hội nhạc sĩ Việt Nam
tại Vũng Tàu, Giám đốc nhà sáng tác Đỗ Mão cắn vào áo Nguyễn Trọng Tạo
làm rách toạc cái áo anh đang mặc. Đỗ Mão cởi ngay cái áo của mình đưa
cho Nguyễn Trọng Tạo và nói: Đây! Ông mặc cái áo này, đưa cái áo tôi cắn
rách đây, cho tôi làm kỷ niệm. Kiến trúc sư Trần Tam Thiên - bạn Đỗ Mão
thấy thế, bèn cởi ngay quần dài của mình ra để đổi quần với Nguyễn
Trọng Tạo. Tôi thấy, cuộc đùa vui đã có phần hơi “quá trớn”, đã đến lúc
phải dừng lại. Tôi sợ Nguyễn Trọng Tạo khó chịu, sợ anh nổi nóng lên thì
có mà mất vui. Nào ngờ, anh cũng vui vẻ cởi quần dài ra trao đổi với
Trần Tam Thiên ngay tại chỗ. Độ dài của hai vị khá là bằng nhau, nhưng
vòng bụng của Trần Tam Thiên phải thua Nguyễn Trọng Tạo vài số. Một anh
thì không cài khuy bụng được, còn một anh phải thắt túm quần lại.
Nguyễn Trọng Tạo là người đa tài. Điều đó nhiều người biết. Nhưng tôi
còn nể anh ở sức làm việc, năng lực làm việc. Nhớ lần tôi theo chân
Nguyễn Trọng Tạo đến nhậu ở nhà hoạ sĩ Văn Sáng. Dọc đường, có điện
thoại của báo Gia đình trẻ em hẹn đầu giờ chiều xin anh bài viết về Đại
hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VII vừa bế mạc. Nhậu riết, hết chai nọ đến
chai kia, đến chiều, tôi sực nhớ ra anh còn nợ bài viết như đã hứa và
nhắc anh. Nguyễn Trọng Tạo uống nốt ly rượu dở rồi mới ngồi vào bàn viết
– khi anh cầm bài viết, chừng hai trang đánh máy A4 ra, nhậu tiếp, tôi
phục lắm. Lại một lần khác, tại nhà khách Dầu khí cạnh nhà tôi, lúc nhậu
về, cũng đã khá khuya. Tôi nằm lăn ra giường. Còn Nguyễn Trọng Tạo lôi
máy laptốp ra gõ cạch cạch. Tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tôi
tỉnh dậy, thấy Nguyễn Trọng Tạo gục đầu lên màn hình máy laptốp ngủ ngon
lành. Tiếng ngáy nghe êm đều như tiếng xe máy chạy rôđa. Tính thức anh
dậy lên giường ngủ nhưng thấy anh đang ngủ ngon lành quá, đành thôi. Gần
sáng, thức dậy, tôi lại đã nghe tiếng gõ máy laptốp lạch cạch rồi. Anh
vừa làm xong cái trả lời phỏng vấn cho một tờ báo nào đó - để ngày hôm
sau đã có thể “ngồi” với bạn bè cả buổi được! Mỗi nhà văn có một
phong cách lao động sáng tạo riêng. Các nhà văn lớn, theo chỗ tôi biết,
thường có chút gì đó hơi đồng bóng, khác thường. Trời phú cho họ một trí
nhớ tuyệt vời, một trí tưởng tượng tuyệt vời. Quá trình sáng tạo là quá
trình nhập đồng, là sự thăng hoa của trí tưởng tượng. Tôi không định so
sánh Nguyễn Trọng Tạo với những tài năng lớn, tôi chỉ muốn nói về phong
cách lao động sáng tạo của Nguyễn Trọng Tạo có gì đó cũng nhập đồng,
cũng thăng hoa khác thường. Anh làm việc trong một trạng thái không
chuẩn bị sẵn, không theo một kế hoạch trước (hay chí ít anh cũng gây cho
tôi cảm giác như vậy) mà bằng những cảm hứng. Trường hợp ra đời của
bài hát “Khúc hát sông quê” là một minh chứng cho điều đó. Đêm trước,
khi tôi chở Nguyễn Trọng Tạo về Nhà sáng tác, Nguyễn Trọng Tạo đã ở
trong trạng thái lâng lâng bia rượu. Tôi bỏ tập bản thảo chừng 5 bài thơ
trên bàn làm việc rồi về. Rượu là ngà, phòng mát mẻ anh ngủ một giấc
ngon lành. Sáng hôm sau, khi tắm biển về, anh mới cầm mấy bài thơ của
tôi đọc thử. Và, theo anh nói, chừng khoảng 30 phút, anh đã “ký âm” xong
và anh hát thử bài hát “Khúc hát sông quê” và gọi điện cho tôi. Như mọi
người đều biết, bài hát “Khúc hát sông quê” nhanh chóng tìm được cảm
tình của người hâm mộ. Tôi luôn được anh coi là đồng tác giả, nhưng tôi
biết, nhiều lắm, tôi cũng chỉ đóng vai trò gây cảm hứng sáng tạo cho
anh. Cái làm nên âm hưởng ngọt ngào, vang vọng của bài hát chính là phút
thăng hoa Nguyễn Trọng Tạo. Tôi đã học về học thuyết phản ánh của
Lênin. Nhưng, tôi thấy, trong lao động sáng tạo đặc thù, đem học thuyết
phản ánh của Lênin để giải thích là hơi bị khiên cưỡng. Cảm hứng sáng
tạo là cái gì đó gần với duy tâm hơn. Nó ma thuật, vô thức lắm! Khi đọc
cuốn “Tích hợp đa văn hoá Đông-Tây cho một chiến lược giáo dục tương
lai” của Giáo sư Hoàng Phương, tôi thấy, ông giải thích về cơ chế hoạt
động sáng tạo có phần đúng. Hình như ngoài con người Nguyễn Trọng Tạo
bằng xương, bằng thịt như mọi người đều biết, còn có một Nguyễn Trọng
Tạo, ở ngoài Nguyễn Trọng Tạo nữa. Một cơ thể Ơ-ten-lích trừu tượng
nhưng có thực, đứng bên ngoài, đứng đằng sau Nguyễn Trọng Tạo sáng tạo
ra các tác phẩm. Đành thì tài hoa nào, sự thăng hoa nào cũng đều bắt
nguồn từ một kiến thức thượng thặng. Mà kiến thức thì không thể bằng
cách nào khác có được ngoài sự học, sự đọc, sự tích luỹ, sự cày cuốc
chăm bẵm trên từng trang sách. Có chăng, đấy là sự hơn đời trong sự đọc,
sự học của họ. Nguyễn Trọng Tạo đã tự học như thế nào, tôi không rõ.
Nhưng tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi đọc tạp chí Văn Học Nước Ngoài của
Hội Nhà Văn, thấy anh có tên trong danh sách các nhà dịch thơ. Tạp chí
Văn Học Nước Ngoài còn in một lúc gần ba chục bài thơ dịch của anh. Tôi
lại ngạc nhiên hơn, khi đọc cuốn “Văn chương cảm và luận” hơn ba trăm
trang của anh. Ngoài cái khả năng phát hiện như tôi đã kể ở trên, Nguyễn
Trọng Tạo còn bộc lộ một sức đọc, sức nhớ và sức vận dụng những tri
thức khoa học để lý giải nhiều vấn đề mang tính học thuật của văn học,
khiến các nhà lý luận phê bình văn học phải nể phục. Tôi từng nghe
bạn bè, người thân Nguyễn Trọng Tạo kể lại, Nguyễn Trọng Tạo vốn là một
học sinh giỏi toán của trường cấp III Diễn Châu. Đại sứ Ngô Quang Xuân
cũng xác nhận, hồi cùng học cấp III với nhau, Ngô Quang Xuân cũng giỏi
như Nguyễn Trọng Tạo, nhưng thua Nguyễn Trọng Tạo ở cái ngón đàn hát. Vì
vậy, có một người đẹp mà cả hai cùng theo đuổi thì cuối cùng Nguyễn
Trọng Tạo cuỗm mất. Ngô Quang Xuân cú lắm. Ra nước ngoài, anh mày mò học
thêm nhạc và học hát. Ngày tôi và Nguyễn Trọng Tạo gặp Ngô Quang Xuân
tại khách sạn Mường Thanh (Hà Nội) Ngô Quang Xuân ôm đàn hát “Khúc hát
sông quê” ngon lành. Tôi có ông anh con bà cô ruột, nguyên là Trưởng
ban Tuyên huấn đoàn 22, nơi mà Nguyễn Trọng Tạo từng làm trưởng đoàn
văn công ở đó. Anh tôi, nhiều lần ca ngợi Nguyễn Trọng Tạo với tôi. Khi
biết được ông em quen biết Nguyễn Trọng Tạo, lại có bài thơ được Nguyễn
Trọng Tạo phổ nhạc hát trên tivi, ông anh tôi tự hào lắm! Ngày tôi và
Nguyễn Trọng Tạo đến thăm anh, anh tôi lôi chai rượu Tây ra và tuyên bố:
Từ ngày anh bị tai biến mạch máu não đến nay, anh bỏ rượu, nhưng hôm
nay anh phải uống với hai chú đến say mới thôi! Từ Bắc chí Nam,
Nguyễn Trọng Tạo có nhiều bè bạn. Không ít người mắc chứng “nghiện”
Nguyễn Trọng Tạo. Tôi từng chứng kiến có người, tiễn Nguyễn Trọng Tạo
lên tàu cánh ngầm xuống Vũng Tàu đi dự trại sáng tác xong, anh ta lại cử
con đi xe máy xuống Vũng Tàu, chờ đó, khi nào bác Tạo cần đi đâu thì
chở bác đi! Tôi cũng đã nhiều lần lẳng lặng quan sát Nguyễn Trọng Tạo
giữa đám đông, và thấy ở đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng là tâm điểm chú ý của
đám đông. Hôm ăn thịt chó nấu theo kiểu Diễn Châu tại khách sạn Mường
Thanh, tôi thấy, ngoài ông Đại sứ WTO Ngô Quang Xuân, còn có anh Ngô Trí
Nhân (anh ruột Ngô Quang Xuân) là thiếu tướng cục trưởng cục chiến
tranh điện tử, lại có cả một ông thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển
nông thôn và nhiều người nổi tiếng khác, nhưng Nguyễn Trọng Tạo vẫn
“oách” nhất, được nhiều người nể phục nhất. Chẳng những Nguyễn Trọng Tạo
có tài chinh phục đám đông, mà chính anh còn là người mang lại “hồn
vía” cho đám đông. Trong bạn bè văn nghệ cũng vậy, Nguyễn Trọng Tạo đến
đâu là làm cho câu chuyện ở đó, không khí ở đó bớt tẻ nhạt đi. Vui
là thế, nhưng khi cần Nguyễn Trọng Tạo cũng nóng nảy, quyết liệt. Anh
không chấp nhận sự khoe giàu, hãnh tiến về địa vị hay tiền bạc trước đám
đông. Anh có thể ngồi cả ngày (chính xác là 25 tiếng đồng hồ) được,
nhưng sẵn sàng đứng dậy khi tiệc vừa bắt đầu, nếu không thích. Theo một
hệ quy chiếu nào đó, thì Nguyễn Trọng Tạo cũng là người gặp không ít gập
ghềnh trên đường đời. Nhưng suy cho cùng, tất cả những khó khăn, khúc
khuỷu, gập ghềnh mà người nghệ sĩ phải nếm trải nó cũng chỉ làm cho họ
thêm đầy đủ hơn “gia vị” ngọt, lạt, chua, cay của cuộc đời, để hun đúc
nên chính họ. Hãy hình dung một Nguyễn Trọng Tạo chính khách, một nhà
quản lý, một giáo chức,v,v… thì chưa hẳn đã có một Nguyễn Trọng Tạo hiện
diện trong tâm hồn họ, trong sự quý mến của họ như là Nguyễn Trọng Tạo
nhà thơ, nhạc sĩ, như là Nguyễn Trọng tạo là tác giả “Làng quan họ quê
tôi” và “Khúc hát sông quê” nổi tiếng. Tôi thầm nghĩ, làm Nguyễn
Trọng Tạo cũng mệt thật. Vừa nhận được tin nhắn của anh đang ở Điện
Biên, đang uống rượu, múa xoè với các em Thái Trắng ở Điện Biên, ít hôm
sau lại nhận được tin anh và Nguyễn Thuỵ Kha đang trên đường hành phương
Nam. Đi đến đâu Nguyễn Trọng Tạo cũng được săn đón, và, nhậu thâu đêm
suốt sáng. Ngay như ở Hà nội, ở Huế, ở Vũng Tàu…hễ Nguyễn Trọng Tạo có
mặt là lại vui như tết. Tôi không hiểu anh lấy đâu ra sức lực để vui với
tất cả hàng lô, hàng lốc bạn bè khắp cả nước như vậy! Nguyễn Trọng Tạo
còn rất mệt với điện thoại di động. Người hâm mộ anh khắp cả nước. Họ
hứng lên lúc nào là gọi cho anh lúc ấy. Rất nhiều trong số họ chưa từng
gặp Nguyễn Trọng Tạo lần nào. Họ có số điện thoại của anh là vừa điện
hỏi thăm đâu đó, tệ hơn, họ gọi cho anh lúc đã say ngất ngưởng, giọng
rượu khê đặc. Nhiều cuộc điện thoại dai như đỉa, dứt không ra. Tôi cũng
không ít lần gây phiền toái cho anh, chỉ vì người ta mê bài “Khúc hát
sông quê” quá, gặp Lê Huy Mậu chưa đã, phải nói được vài câu với Nguyễn
Trọng Tạo mới chịu. Có lúc tôi cũng “buôn” anh, đang ngồi với mấy ông
quan khách nhưng mê “sông quê” như điếu đổ, nhận hết công lênh về mình
thì xấu hổ, đành phải khai là của Nguyễn Trọng Tạo thôi, và thế là người
ta đòi nói chuyện với Nguyễn Trọng Tạo. Tôi run lắm, nhỡ Nguyễn Trọng
Tạo đang bực bõ điều gì, lão cáu tiết lên thì bỏ mẹ. Nhưng hình như
Nguyễn Trọng Tạo biết mình là Nguyễn Trọng Tạo, nên chấp nhận “thương
đau”, hầu chuyện khắp cả nước. Anh còn kể, khi ra nước ngoài, phải mở
máy liên hệ, làm việc gì đó ở trong nước, nhưng làm việc thì ít mà phải
nghe điện thoại thăm hỏi, chuyện trò và hò hát thì nhiều. Anh là người
phải trả tiền cho tất cả những cuộc gọi đi từ trong nước. Vậy mà vẫn
nghe… Làm Nguyễn Trọng Tạo mệt thật! Và, biết làm sao được, Nguyễn
Trọng Tạo lại vẫn phải đóng vai Nguyễn Trọng Tạo trong cái đất nước Việt
Nam tươi đẹp này thôi. Và hơn thế nữa, anh còn phải đóng vai Nguyễn
Trọng Tạo vì người Việt Nam yêu nước ở nước ngoài, bởi Nguyễn Trọng Tạo
là của họ, là niềm tự hào của họ trước bạn bè thế giới../.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét