-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí. -Nhưng xét trên bình
diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn
nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con
người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn
vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! -Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì: trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc! -Chân lý là đây: Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau! -Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là danh lợi. -Xét
như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết
tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát
kiếp nô lệ. -Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó như là của thần thánh. -Như
vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người phải thực sự phải biết
tôn sùng cuộc sống, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm
phạm, hoặc không còn lòng tham
và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai, hoặc triệt
tiêu hận thù. -Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau? -Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!? -Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ!
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình Tập 6
Ngô Đình Diệm - Bước đường từ Tri huyện lên Tổng thống
22:45 06/11/2013
Giai đoạn lịch sử đầy biến động tại miền Nam từ năm 1945 đến
năm 1975 gắn liền với tên tuổi Ngô Đình Diệm - Tổng thống đầu tiên của
chính quyền Sài Gòn. Khi tôi bắt đầu thực hiện loạt bài viết này,
cũng là đúng 50 năm ngày hai anh em ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị
nhóm đảo chính quân sự bắn chết, 1/11/1963 - 1/11/2013.
Quốc trưởng Bảo Đại.
Ngô
Đình Diệm sinh ngày 3/1/1901, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong
một gia đình có truyền thống khoa bảng. Cha ông là Ngô Đình Khả, từng
làm quan dưới triều Nguyễn. Sau khi Vua Thành Thái bị Pháp đày sang châu
Phi, ông Khả trả ấn từ quan về quê làm ruộng. Một thuyết khác cho rằng,
vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành Thái thoái vị, nên bị
thực dân Pháp cách chức.
Ngô Đình Diệm bẩm sinh thông minh, đường học vấn lẫn chốn quan
trường đạt nhiều thuận lợi. Năm 1921, khi mới 20 tuổi, ông tốt nghiệp
Trường Hậu Bổ tại Hà Nội, được phong chức Tri huyện Hương Trà, sau đó
chuyển sang làm Tri huyện Hương Thủy, Quảng Điền (Thừa Thiên Huế). Năm
năm sau, năm 1926, ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Hải Lăng (Quảng Trị).
Năm 1929, ông nhậm chức Tuần vũ tỉnh Phan Thiết (Bình Thuận).
Bốn năm sau, ông được bổ nhiệm làm Thượng thư Bộ lại dưới triều Vua Bảo
Đại. Đó là năm 1933, khi Ngô Đình Diệm 32 tuổi, ông là Thượng thư trẻ
nhất trong triều Nguyễn lúc bấy giờ.
Ngay khi nhậm chức, ông Diệm đề trình việc thành lập Viện Dân
biểu với quyền hành pháp, nhưng chính phủ bảo hộ không thừa nhận. Tháng
7/1933, Ngô Đình Diệm từ quan để phản ứng lại sự phủ nhận Viện Dân biểu
của Pháp. Rời quan trường
Sau khi rời khỏi quan trường, Ngô Đình Diệm lui về ở ẩn, nhưng
vẫn ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để đang sống lưu vong tại Nhật với
ý định thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ Pháp hoàn toàn.
Suốt từ năm 1933 cho đến năm 1940, ông Diệm được coi là một
nhân vật quá khích, xếp chung với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam.
Có hai nhận định về ông Ngô Đình Diệm rất đáng lưu ý, nhận định
này được đưa ra từ người Mỹ, những người vốn được xem là dựng lên Ngô
Đình Diệm. "Ông ấy (tức Ngô Đình Diệm) là một con người luôn muốn được
tất cả, hoặc không có gì", đây là tính cách nhất quán của ông Diệm từ
khi ông làm quan cho đến lúc ông bị bắn chết, đúng nghĩa "được ăn cả,
ngã về không". Và, "ông Ngô Đình Diệm là một con rối. Nhưng con rối ấy
tự giật dây mình và giật dây luôn cả chúng ta". Điều này cho thấy, người
Mỹ không xem ông Diệm là một kẻ bù nhìn, như bấy lâu nhiều người nhầm
tưởng.
Khuya ngày 9/3/1945, người Nhật âm thầm thay thế vị trí của
người Pháp tại An Nam. Thời điểm này, ông Diệm đang hoạt động tại Sài
Gòn. Người Nhật thế chỗ người Pháp, ông Diệm rất hy vọng người Nhật sẽ
đưa Hoàng thân Cường Để về để nắm giữ chính quyền, nhưng trái ngược với
hy vọng của ông, người Nhật quay ngoắt sang ủng hộ Vua Bảo Đại. Bảo Đại
mời ông Diệm làm Thủ tướng, nhưng ông từ chối. Sau cuộc thương lượng với
người Nhật, ông Trần Trọng Kim ngồi vào vị trí này.
Ngày 17/4/1945, Chính phủ Trần Trọng Kim ra mắt nhân dân với
dàn nội các toàn là những bậc trí sĩ, thức giả đầy uy tín. Chính phủ do
Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu, thừa về tinh thần dân tộc, khát vọng
tự do, chính sách đổi mới nhưng lại thiếu nghiêm trọng về thực quyền.
Ông Ngô Đình Diệm.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Vua Bảo Đại thoái vị, Chính phủ
Trần Trọng Kim tan rã theo. Rồi Pháp lại nhanh chóng tái chiếm Việt
Nam, Bảo Đại tiếp tục được biến thành con cờ trong tay người Pháp.
Năm 1949, Hiệp định Élysée được ký kết, Bảo Đại thêm lần nữa
mời ông Diệm đứng ra làm Thủ tướng thành lập nội các. Ông Diệm lại từ
chối: "Tôi không tin người Pháp, lại càng không tin vào nền độc lập nửa
vời mà người Pháp vẽ ra".
Sau lần từ chối này, ông Diệm cùng Giám mục Ngô Đình Thục và
người em ruột là Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã hội Thiên Chúa giáo. Ông
Diệm muốn xây dựng đảng này thành một đảng độc lập với tất cả các thế
lực khác trong nước. Thời điểm này, ông trông chờ vào sự giúp sức của
Mỹ.
Năm 1950, ông Diệm cùng ông Thục sang Nhật, tìm cơ hội xin diện
kiến Thống tướng Douglas MacArthur, tuy nhiên Thống tướng Douglas
MacArthur tiếp kiến ông Diệm, ông Thục rất lạnh nhạt và tỏ ý khiên
cưỡng, hoàn toàn không có động thái cho thấy sẽ ủng hộ.
Thất bại trong cuộc vận động Thống tướng Douglas MacArthur,
nghe theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học
Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ, dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ
của chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì hai lẽ. Thứ
nhất, Mỹ đang bận tham chiến tại Triều Tiên. Thứ hai, người Mỹ không
muốn làm mất lòng người Pháp.
Điều may mắn nhất của ông Diệm vào thời điểm tuyệt vọng này,
chính là vị Hồng y Spellman nảy sinh hảo cảm với ông Thục và đồng ý nhận
lời làm trung gian giúp ông Diệm có cơ hội diện kiến với những nhân vật
quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ.
Từ sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman, ông Diệm đã tranh thủ được
tình cảm của dân biểu Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Đặc
biệt là Thượng nghị sĩ John F. Kennydy rất nhiệt tình với ông Diệm.
Suốt trong những năm dài ở Mỹ, thi thoảng ông Diệm sang các
nước châu Âu, như Bỉ, Ý, Pháp... nên ông có thêm nhiều kinh nghiệm hoạt
động chính trị.--PageBreak-- Ngày trở về…
Đầu năm 1954, Pháp kẹt cứng tại trận địa Điện Biên Phủ. Bảo Đại
liên tục bắn tín hiệu sang Hoa Kỳ, yêu cầu ông Diệm trở về nước để
thành lập chính phủ mới. Vẫn với lý do, "Không tin người Pháp", ông Diệm
từ chối lời mời của Bảo Đại.
Thất bại ở trận địa Điện Biên Phủ, ngày 4/6/1954, Hiệp ước
Laniel - Bửu Lộc được ký kết, Pháp đồng ý trao trả hoàn toàn độc lập cho
Việt Nam. Ngày 16/6/1954, ông Diệm đồng ý trở về nước theo lời yêu cầu
của Bảo Đại. Thế nhưng, ông Diệm vẫn buộc Bảo Đại phải đồng ý để chính
phủ do ông thành lập được toàn quyền về chính trị và quân sự. Thêm lần
nữa, Bảo Đại nhượng bộ ông Diệm.
Ngày Song thất, 7/7/1954, chính phủ do ông Ngô Đình Diệm thành
lập chính thức ra mắt với nội các gồm 18 người, như: Thủ tướng kiêm Nội
vụ và Quốc phòng: Ngô Đình Diệm; Quốc vụ khanh: Trần Văn Chương, Tổng
trưởng Ngoại giao: Trần Văn Đỗ; Tổng trưởng Tài chính và Kinh tế: Trần
Văn Của; Tổng trưởng Lao động và Thanh niên: Nguyễn Tăng Nguyên; Tổng
trưởng Công chánh: Trần Văn Bạch; Tổng trưởng Y tế và Xã hội: Phạm Hữu
Chương; Tổng trưởng Canh nông: Phan Khắc Sửu; Tổng trưởng Quốc gia Giáo
dục: Nguyễn Dương Đôn; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng: Trần Chánh Thánh; Bộ
trưởng Thông tin: Lê Quang Luật; Bộ trưởng Đặc trách Công vụ Phủ Thủ
tướng: Phạm Duy Khiêm; Bộ trưởng Nội vụ: Nguyễn Ngọc Thơ; Bộ trưởng Quốc
phòng: Lê Ngọc Chấn…
Ngay sau khi thành lập chính phủ, ông Diệm đã có những động
thái kiên quyết đến độc đoán, theo đúng cá tính của ông. Ông dẹp yên
chuyện tướng Nguyễn Văn Hinh công khai đối đầu và đòi đảo chính. Tướng
Bình Xuyên là Bảy Viễn (Lê Văn Viễn) đòi tắm máu Sài Gòn nếu không được
tham gia chính quyền cũng bị ông Diệm từ chối cương quyết.
Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô Đình Diệm
cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đòi Mỹ thay bằng được ông
Diệm. Ý của Bảo Đại là muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc
chí ít là Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng còn
tướng Bình Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Các giáo phái lớn tại miền Nam thì chơi trò đi hàng hai, nửa
ngã chiều này, nửa nghiêng chiều kia. Thậm chí, Đại sứ J. Lowton Collins
cũng muốn thay thế gấp ông Diệm. Hơn một lần, Collins ngược về Mỹ,
thuyết phục những người cầm quyền ở Washington thay thế ông Diệm.
Đại sứ Mỹ J. Lowton Collins nhận xét về ông Diệm: "Ông ấy quá
quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt, không có bất cứ sáng kiến đáng kể
nào từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều
khó chịu về thói quen quyết định trên đầu người khác của ông Diệm. Ông
Diệm hoàn toàn không trông cậy vào họ, mà đặt hết niềm tin vào hai người
em cùng những người chịu phục tùng ông ấy. Ông là người hoàn toàn không
biết nhân nhượng và với thái độ của một người khổ hạnh, ông không thể
đương đầu với những thế lực thực tại, điển hình nhất là Bình Xuyên…".
Ngô Đình Diệm và Đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge.
Thời điểm này, chính phủ của ông Diệm cũng như bản thân ông tồn
tại được thực chất là nhờ những tác động hết sức cần thiết của những
người bạn là dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đã tranh thủ được họ
khi ông sang Mỹ vận động vào năm 1950.
Điển hình nhất của mối thân hữu này, là khi Đại sứ J. Lowton
Collins một hai yêu cầu Washington phải thay thế Diệm, Ngoại trưởng Hoa
Kỳ khi đó là Dulles nhờ đến sự tham vấn của Thượng nghị sĩ Mike
Mansfield. Được hỏi, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield dành hết lời khen
ngợi để nói về các ưu điểm của Ngô Đình Diệm. Kết quả, Ngoại trưởng
Delles chỉ thị Đại sứ J. Lowton Collins phải nhất tâm ủng hộ Ngô Đình
Diệm.
Thật ra, tất cả động thái của người Mỹ chỉ là nhằm câu giờ, để
thông qua sự đối phó với các thế lực trong nước, họ sẽ có cái nhìn chính
xác hơn về khả năng của Ngô Đình Diệm. Sau vụ dẹp yên tướng Hinh, bình
ổn nhất thời các giáo phái và quan trọng hơn nữa là vụ bình định được
cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, ông Diệm trở thành một cá nhân khác trong
mắt người Mỹ.
Một cứ liệu quan trọng khác, để xét về Ngô Đình Diệm, thông qua
lời Ngoại trưởng Hoa Kỳ là Dulles, ông Dulles nhận định: "Chúng tôi chỉ
thị cho tất cả những nhân viên Sứ quán ở Sài Gòn bằng mọi cách trì hoãn
việc thay thế ông Diệm. Bởi, nếu ông ấy không thoát ra được cuộc hỗn
loạn thì ông ấy sẽ bị thay thế. Còn ngược lại, ông ấy sẽ trở thành nhân
vật anh hùng trong buổi tao loạn. Một khi kết quả đã an bài, chúng tôi
sẽ tính đến việc thay thế ông ấy bằng một trong hai nhân vật mà chúng
tôi đã lựa chọn sẵn".
Khi tập trung được quyền lực trong tay thông qua cuộc đối đầu
sống mái, chuyện gì đến sẽ đến, ông Diệm nhân danh tập thể phế truất
chức Quốc trưởng của Bảo Đại, bác bỏ yêu cầu tổ chức Hội nghị hiệp
thương để thảo luận về tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tổ chức cuộc
bầu cử sặc mùi gian lận để khẳng định sự tín nhiệm của nhân dân...
Ngày 26/10/1956, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống
đầu tiên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Người ta gọi đây là nền Đệ
nhất Cộng hòa… * Đón đọc kỳ 2: Những sai lầm của Ngô Đình Diệm Ngô Kinh Luân
Cuộc đời Ngô Đình Diệm (Kỳ 2): Những sai lầm chết người
Người Mỹ hoàn toàn bất lực trước quyết
sách của Ngô Đình Diệm. Đại sứ Elbridge Durbrow, ngửa mặt than: "Cần
phải có người thay thế ông Diệm trong tương lai gần".
Sau khi dẹp yên sự phản kháng của tướng Nguyễn Văn Hinh, bình định
cuộc nổi loạn Bình Xuyên, phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đẩy các giáo
phái chống đối vào hàng ngũ tạm thời có trật tự… Uy tín lẫn vị thế của
Ngô Đình Diệm tăng lên rất cao.
Nhiều tờ báo bắt đầu quay sang ủng hộ Diệm, người Mỹ biểu hiện sự tin
tưởng vào ông gần như tuyệt đối. Bên ngoài là như vậy, còn bên trong,
ông Diệm là người cao ngạo.
Sự thành công quá sớm trên con đường quan lộ, biến ông thành một cá
nhân cực kỳ tin vào quyết định của chính mình. Thêm nữa, ông luôn có
những quyết định mà theo giới sử gia thì đúng nghĩa là "gia đình trị".
Từ ba yếu tố này, ông Diệm bắt đầu bộc lộ những sai lầm nghiêm trọng. Tính cách Ngô Đình Diệm
Ngô Đình Diệm là người rất kỹ tính trong việc ăn uống. Mỗi bữa 3 thức
ăn phải có trên bàn ăn của ông gồm: bồ câu dồn yến, trứng gà lộn và xôi
với muối mè. Những món khác thì có thể thay đổi, nhưng 3 loại thức ăn
này thường buộc phải có trên mâm cơm của ông.
Theo hồi ức của tướng Trần Văn Đôn: "Ông Diệm là người tuy điềm đạm
bên ngoài nhưng tính rất nóng. Một hôm tôi vào Dinh, thấy thức ăn, cơm
canh văng tung tóe dưới sảnh, người bồi đang lau dọn. Sau khi trò chuyện
với ông Diệm xong, tôi quay ra hỏi tùy viên có chuyện gì xảy ra, thì
được biết ông Diệm hất đổ mâm cơm vì thiếu một món mà ông thích".
Mỗi lần đi kinh lý bất cứ nơi nào, ông Diệm đều dùng cơm riêng đã nấu
sẵn mang theo. Vì đã nhiều lần thoát hiểm khỏi các âm mưu bắt bớ, ám
sát nên ông Diệm rất sợ bị đầu độc. Đầu bếp kề cận ông là một người gốc
Huế, do Ngô Đình Cẩn tuyển chọn và gửi vào. Ông Diệm không có thói quen
uống rượu, thức uống thường xuyên của ông chỉ là trà.
Quá đề cao bản thân lẫn người cùng huyết thống, ông Diệm có cách cư
xử không khéo đối với thuộc cấp. Đa phần tướng tá, sĩ quan ông Diệm đều
gọi bằng thằng. Ngoại trừ, Tổng tham mưu Trưởng Lê Văn Tỵ, ông Diệm gọi
là ngài. Còn tướng Nguyễn Văn Đôn thì ông gọi khách khí bằng ông.
Ông Diệm tôn trọng ông Tỵ thật sự, riêng ông Đôn, ông Diệm nhớ cái ơn
cưu mang của gia đình ông Đôn khi Ngô Đình Diệm lâm vào cơn bĩ cực
trước lúc nắm quyền. Thêm sự phi lý trong tính cách của ông Diệm là ông
hiểu rõ bản thân ông cần quân đội, nhưng ông luôn tỏ ý coi rẻ trình độ
của quân đội. Trong lúc, ông rất thích những bộ trưởng dân sự biết cách
nịnh hót.
Ngoài ra, ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ
thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: "Chỉ có dân miền
Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán,
còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền".
Cách hành xử của ông Diệm cũng rất cao ngạo. Ông xem Việt Nam Đệ nhất
Cộng hòa là quốc gia của riêng ông và của gia đình ông. Ông ban phát ân
huệ cho thuộc cấp theo ngẫu hứng, bất chấp năng lực lẫn tình hình thực
tế. Không có gì là quá ngạc nhiên khi nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ nhất
Cộng hòa là Ngô triều.
Theo nhiều hồi ký của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, thì khi
vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: "Các ông
đi cổng hai bên, vì cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn
trọng nguyên tắc này".
Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Nội chuyện xây dựng Dinh Độc
Lập và ý định dời đô từ Sài Gòn lên cao nguyên đã khiến ông Diệm càng
trở nên xa cách với giới tướng lĩnh. Ngay cả người gần gũi với gia đình
ông như tướng Trần Văn Đôn còn bất mãn với sự độc đoán này của ông Diệm.
Trong số các anh em, người được ông Diệm trọng nhất là Ngô Đình Nhu.
Người được ông cưng yêu nhất là Ngô Đình Cẩn. Còn người hay bị ông rầy
rà nhất là Đại sứ lưu động Ngô Đình Luyện. Ông Diệm cưng yêu ông Cẩn, vì
ông Cẩn thay mặt anh em ông, chăm sóc mẹ ruột ở Huế. Ông Nhu được xem
như là bộ não của ông Diệm.
Ông Ngô Đình Diệm tiếp ký giả nước ngoài tại Dinh Độc lập.
Còn ông Luyện, mất điểm với ông Diệm khi ông Luyện úp mở: "Nếu điều
hành kiểu này, Việt Nam Cộng hòa sẽ sụp đổ". Ông Diệm giận ông Luyện, vì
cho rằng ông tin lời các phần tử trí thức bất mãn với chế độ tại Sài
Gòn.
Với ông Nhu, ông Diệm trọng đến độ, khi ông Diệm trả lời phỏng vấn ký
giả Pháp, phải gọi điện thoại cho ông Nhu để hỏi ý kiến xem nên trả lời
như thế nào. Ông Nhu hướng dẫn ông Diệm từng chút một... Suốt 9 năm ông
Diệm cầm quyền tại Việt Nam Cộng hòa, rất nhiều người đã nghĩ chính Ngô
Đình Nhu mới là lãnh đạo thật sự.
Với người anh Ngô Đình Thục, ông Diệm đặt hết sự tin tưởng của mình
vào vị giám mục này. Ông hay gọi ông Thục bằng danh xưng kính trọng:
"Đức cha". Ông Diệm thường nói: "Cả thế gian này có thể lừa dối tôi,
người thân của tôi cũng có thể lừa dối tôi. Nhưng, riêng Đức cha thì
không bao giờ lừa dối tôi cả".
Ông Diệm cũng thực tâm quý mến bà Trần Lệ Xuân (vợ Ngô Đình Nhu). Ông
Diệm không có vợ, cũng không để ý đến nữ nhân nào khác. Mặc dù không
thích những hành động thái quá của Trần Lệ Xuân, nhưng ông Diệm chỉ rầy
la theo kiểu trong nhà, anh chồng mắng em dâu. Còn trước mặt mọi người,
ông vẫn bảo vệ bà Trần Lệ Xuân hết mực. Sự thất vọng của người Mỹ
Ngoài việc dung dưỡng cho những cá nhân trong gia đình như Ngô Đình
Thục, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Trần Lệ Xuân… mặc sức hoành hành, ông
Diệm còn có những động thái bảo vệ quyền lợi của cá nhân đó một cách cực
đoan, bất chấp tất cả. Ngay cả việc điên cuồng chống lại những người
Cộng sản từ miền Bắc cũng cho thấy sự bấn loạn của Ngô Đình Diệm trong
giai đoạn ông cầm quyền.
Với Đạo luật 10/59, lê máy chém khắp miền Nam, ông đã không đập tan
được ý chí của người dân trong việc chống đối ông, thay vào đó, ông gieo
rắc nỗi sợ hãi, hoài nghi vào cái mà ông gọi là "Chính nghĩa Quốc gia".
Chính từ sự quá khích này, ông Diệm càng ngày càng khiến người Mỹ thất
vọng, và đây có thể là sai lầm trọng yếu dẫn đến sự kết thúc của Việt
Nam Đệ nhất Cộng hòa.
Với những gì đã diễn ra tại miền Nam trong giai đoạn này, đặc biệt là
cuộc đảo chính hụt ngày 11.11.1960, cho thấy rằng tất cả những biến
động lớn trên chính trường Việt Nam Cộng hòa, đều phải có được cái gật
đầu của người Mỹ. Bất chấp trước đó, người Mỹ nhìn nhận rằng: "Ông Ngô
Đình Diệm là một con rối. Nhưng con rối ấy tự giật dây mình và giật dây
luôn cả chúng ta".
Cố vấn Edward G.Lansdale là một người rất có hảo ý với Ngô Đình Diệm.
Bản thân Ngô Đình Diệm, cũng có tình cảm sâu sắc với ông Edward
G.Lansdale. Họ coi nhau là bạn. Edward G.Lansdale có hảo ý với Ngô Đình
Diệm đến độ, ngày 30.1.1961, về Mỹ được 2 tuần sau chuyến công du tại
Việt Nam Cộng hòa, Edward G.Lansdale đã viết một lá thư riêng gửi cho
Ngô Đình Diệm với hy vọng ông Diệm sẽ chân thành nghe theo lời khuyên
của ông. Edward G.Lansdale viết:
"...Nguy cơ hiện tại của ngài xuất phát từ những hành động của chính
ngài. Họ (những thuộc cấp, phe chống đối ông Ngô Đình Diệm - PV) nói
rằng Ngài muốn tự làm quá nhiều việc, rằng ngài không chịu trao trách
nhiệm thật sự cho người khác và cứ can thiệp vào việc của họ. Họ nói,
Ngài cho rằng ngài không bao giờ mắc sai lầm, và có quá nhiều tổ chức
của ngài là ép buộc người khác phải tham gia, người ta tham gia trong lo
sợ chứ không phải tự nguyện... Một việc ngài có thể làm là thông báo
sắp cải tổ chính phủ. Ngài hãy triệu tập một phiên Hội nghị với sự tham
gia của các tư lệnh và quân đội. Ngài có thể tuyên bố điều này trước Hội
nghị và cho truyền thanh đến nhân dân trên toàn quốc… Phiên họp sẽ rất
có lợi cho Ngài, nếu có sự tham gia của một số người Mỹ đang muốn giúp
ngài. Hãy mời những người mà ngài tin rằng là thành thật... Đàn áp đối
lập chính trị bằng cách bắt giam người hay đóng cửa báo chí sẽ chỉ làm
cho những lời chê trách biến thành những cảm xúc thù hận…".
Bà Trần Lệ Xuân tại Dinh Độc lập sau cuộc oanh tạc tháng 2.1962.
Đọc toàn bộ lá thư, mới thấy hết thiện ý mà Edward G.Lansdale dành
cho ông Diệm. Có những đoạn, Edward G.Lansdale miêu tả chi tiết kế hoạch
lấy lại lòng dân đến độ, ông Diệm chỉ cần làm theo là ngay lập tức có
thể thu phục nhân tâm, cải thiện tình hình. Tuy nhiên, với một cá nhân
như ông Diệm thì quá khó để nghe lời chỉ dạy từ một người không phải là
người trong thân tộc họ Ngô.
Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, người ủng hộ hết lòng giúp Ngô Đình
Diệm khi ông cùng Ngô Đình Nhu sang Mỹ kiếm tìm sự ủng hộ trước đây, đã
bắt đầu cảm thấy chán ngán với tính cách cũng như việc điều hành quốc
gia của ông Diệm.
Nghiêm trọng hơn, sau chuyến đi thị sát tại Việt Nam Cộng hòa vào
tháng 12.1962, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield đã viết một bản phúc trình
đệ trình Tổng thống Mỹ thời điểm này là J.Kennedy, trong đó cho rằng:
"Chúng ta nên rút hết quân tại miền Nam Việt Nam để khỏi rơi vào một
cuộc chiến tranh tuyệt vọng".
Không chỉ dừng lại ở bản phúc trình đầy bất lợi cho ông Diệm, Mike
Mansfield còn liên tục trực tiếp gặp Tổng thống J.Kennedy để trình bày ý
kiến của mình. Ở lần gặp thứ hai, Tổng thống J.Kennedy đã đồng ý với
Thượng nghị sĩ Mike Mansfield rằng, Mỹ sẽ rút hết cố vấn quân sự ra khỏi
miền Nam Việt Nam. Nhưng về sau, Tổng thống J.Kennedy đã không thể thực
hiện ngay lời đồng ý của mình. Cho đến mãi sau năm 1965, Mỹ mới có dấu
hiệu rút dần cố vấn quân sự Mỹ về nước.
Một cố vấn khác từng có mối quan hệ mật thiết với ông Diệm là Wolf
Ladejinsky, người trước đây rất có thiện cảm đối với ông Diệm cũng đã
bắt đầu xa lánh ông. Thay vì nói những lời tốt đẹp về Diệm, Wolf
Ladejinsky quan tâm nhiều hơn đến những chính sách thái quá, sự yếu kém
trong chính quyền của Ngô Đình Diệm.
Để cứu vớt người bạn mà mình yêu quý, cố vấn Edward G.Lansdale tha
thiết thỉnh cầu Chính phủ Mỹ cho phép ông được trở lại Việt Nam để làm
việc thêm lần nữa với Ngô Đình Diệm. Nhưng, thỉnh cầu này đã không được
chấp thuận.
Bộ Ngoại giao Mỹ thông qua Đại sứ Elbridge Durbrow liên tục kêu gọi
Ngô Đình Diệm phải kiềm chế, cải thiện các điều kiện chính trị và bộ máy
hành chính, nhưng đều không có kết quả.
Ngày 11.11.1960, Sài Gòn xảy ra đảo chính. Diệm - Nhu may mắn thoát
nạn. Sau vụ đảo chính hụt này, Ngô Đình Diệm càng rốt ráo thực hiện
những chính sách độc tài, mạnh tay hơn với những thành phần đối lập,
kiểm soát sự trung thành của quân đội...
Ngày 27.2.1962, hai phi công Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc điều
khiển máy bay oanh tạc Dinh Độc Lập. Vụ oanh tạc này khiến một nữ hầu
cận của bà Trần Lệ Xuân thiệt mạng, bà Xuân bị thương nhẹ, còn anh em
ông Diệm vẫn an toàn. Vài tháng sau, Phủ Tổng thống phát đi công văn của
Ngô Đình Diệm, yêu cầu các nơi phải yểm trợ trong việc xây dựng lại
Dinh Độc Lập.
Ngày 5.7.1963, 19 quân nhân trong vụ đảo chính ngày 11.11.1960 ra Tòa
án Quân sự đặc biệt Sài Gòn. Ngày 8.7.1963, cũng Tòa án Quân sự này
tiếp tục xét xử 35 đảng viên trong các đoàn thể, tôn giáo đã ủng hộ cuộc
đảo chính ngày 11.11.1960.
Sau mỗi lần bị đảo chính, chống đối, Ngô Đình Diệm lại càng thẳng tay
đàn áp phe đối lập lẫn bất kỳ ai có ý định phản kháng ông. Người Mỹ, đã
hoàn toàn bất lực trước các quyết sách của Ngô Đình Diệm. Đại sứ
Elbridge Durbrow, ngửa mặt than: "Cần phải có người thay thế ông Diệm
trong tương lai gần".
Theo Tổng hợp (An ninh thế giới)
Người bắn hạ hai anh em ông Ngô Đình Diệm nói gì trước khi chết?
Ai ra lệnh giết anh em ông Ngô Đình Diệm? Ai cầm súng cầm dao hạ sát
hai ông ấy? Từ trước đến nay dư luận đều đổ vào cho hai người đó là
tướng Dương Văn Minh và Đại úy Nguyễn Văn Nhung.
Về tướng Dương Văn Minh có nhiều tài liệu đã viết. Còn chuyện
đại úy quân đội VNCH Nguyễn Văn Nhung sống chết như thế nào chưa có
nhiều người biết.
Ngô Đình Diệm (Phải) và Ngô Đình Nhu - Ảnh: TL
Đảo chánh lật đổ chế độ Diệm chưa đầy 100 ngày thì các tướng Trần
Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh và đại tá Nguyễn Chánh Thi làm cuộc “chỉnh lý
30.1.1964”. Để “trả thù cho ông cụ” (cụm từ của tướng Nguyễn Khánh đã
nói với bà Trần Trung Dung-cháu gọi ông Diệm bằng cậu), những người làm
“chỉnh lý” bắt ngay thiếu tá Nguyễn Văn Nhung. (Nguyễn Văn Nhung mới lên
thiếu tá từ sau ngày đảo chánh 1.11.1963).
Ngày 17.2.1964, sĩ quan báo chí Bộ Quốc phòng của Nguyễn Khánh chính thức tiết lộ: “Thiếu
tá Nguyễn Văn Nhung sỹ quan tổng quát và tùy viên của trung tướng Dương
Văn Minh bị bắt giữ hồi đêm 30-1 và giam tại Lữ đoàn Nhảy dù trại Hoàng
Hoa Thám, ông Nhung tự vận bằng dây giày”.
Là một trong những người lãnh đạo cuộc “chỉnh lý 30.1.1964”, ông
Nguyễn Chánh Thi đã kể lại chuyện nầy trong hồi ký của ông như sau:
“Trời sáng rõ. Các cánh quân bắt đầu đem về Bộ chỉ huy đảo
chánh (“chỉnh lý”) những người mà họ cho là không ít thì nhiều “có tội
với đất nước” (Sau này ông Khánh đã đặt ra những tội “trung lập” và
“thân cộng” gán cho họ). Trong số này tôi (Nguyễn Chánh Thi) thấy có thiếu tá Nhung, viên sĩ quan cận vệ của trung tướng Dương Văn Minh.Thiếu
tá Nhung được lệnh phải làm một bản tường trình về việc “tại sao, và
bằng cách nào, đã quyết định giết chết ông Nhu và ông Diệm. Thiếu tá
Nhung khai hoàn toàn không biết gì về quyết định của Hội đồng Quân nhân
Cách mạng cả. Ông ta đã thuật lại việc giết hai ông Diệm, Nhu như sau:
Tờ khai của thiếu tá Nhung - người ám sát anh em Ngô Đình Diệm
Khi đó lại thấy tướng Thu đưa lên hai ngón tay (ngón trỏ và
ngón giữa) của bàn tay trái, với hai ngón khép lại với nhau, chỉ vào
hai ngón tay của bàn tay phải giơ lên. Họ nghĩ rằng ông ra lệnh bắn cả
hai anh em ông Diệm. Tôi (thiếu tá Nhung) rút khẩu súng Colt 12, bắn mỗingười 5 phát.
“Tôi (Nhung) được lệnh đi theo Đoàn Thiết giáp lên đón hai ông
Diệm, Nhu, sau khi được tin hai ông này từ một nhà thờ ở Chợ Lớn gọi
điện thoại xin đầu hàng. Đoàn Thiết giáp do trung tá Nghĩa chỉ huy. Có
một số sĩ quan ở Bộ Tổng Tham mưu đi theo, trong đó có thiếu tá Đày. Trách nhiệm tổng quát chỉ huy vụ này là thiếu tướng Thu (?).
Đoàn Thiết giáp lên đến ngôi nhà thờ Chợ Lớn thì hai anh em ông
Diệm ngoan ngoãn lên xe (xe M113 thiết giáp). Xe chạy về ngã Saigòn. Đi
được chừng 500 thước thì từ phía Sài Gòn chạy ngược lên một đoàn mấy cái
xe Jeep, trên đó có thiếu tướng Thu. Khi hai đoàn xe gặp nhau, đậu cách
nhau chừng 30 thước, thiếu tướng Thu và đoàn tùy tùng xuống xe.
Lúc đó bên đoàn thiết giáp có ý chờ đợi thiếu tướng Thu cho lệnh về
việc xử trí với anh em ông Diệm như thế nào. Từ đằng xa họ thấy tướng
Thu đưa lên một ngón tay trỏ. Bên đoàn xe thiết giáp dự đoán rằng ông ta
ra lệnh giết một trong hai anh em ông Diệm. Họ còn đang ú ớ muốn hỏi
lại cho rõ, xem phải giết người nào, thì đồng bào ùa đến xem quá đông.
Bên đoàn xe thiết giáp bắt đầu lo ngại về an ninh của anh em ông Diệm
cũng như về an ninh của chính họ (Họ nghĩ rằng dư đảng Cần Lao có thể
trà trộn giải vây cho anh em ông Diệm, hoặc dân chúng phẫn uất có thể
giết chết hai ông này). Họ muốn chạy băng qua để hỏi lệnh cho rõ, nhưng
dân chúng vây chặt, không thể nào đi được. Khi đó lại thấy tướng Thu đưa lên hai ngón tay (ngón trỏ và ngón
giữa) của bàn tay trái, với hai ngón khép lại với nhau, chỉ vào hai ngón
tay của bàn tay phải giơ lên. Họ nghĩ rằng ông ra lệnh bắn cả hai anh
em ông Diệm. Tôi (thiếu tá Nhung) rút khẩu súng Colt 12, bắn mỗingười
5 phát. Sau đó hăng máu bồi thêm cho ông Nhu 3 phát nữa vào ngực. Đồng
thời đoàn xe thiết giáp được lệnh dẹp đường chạy về Bộ Tổng Tham mưu.
Cùng lúc, tướng Thu cũng cho đoàn xe quay đầu chạy trước đoàn xe thiết
giáp cùng hướng về Bộ Tổng Tham mưu. Trong lúc xe chạy thì thiếu tá Đày
cúi xuống lấy cái cặp của ông Diệm, nói là sẽ đem về trình Hội đồng Quân
nhân Cách mạng. Dường như trong cặp ấy có nhiều đồ vật, tài liệu quý
giá”.
Cuối tờ khai, Thiếu tá Nhung kết luận:
“Tôi chỉ vì hăng say theo lệnh cấp trên mà đã làm như thế”.Nội
trong đêm, sau khi làm tờ khai, Thiếu tá Nhung trong phòng tạm giam ở
Bộ Tổng Tham mưu, đã lấy dây giầy của mình thắt cổ tự sát.Tôi
(Nguyễn Chánh Thi) được tin, không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp của một sĩ
quan trung thành với cấp trên, không lường được hậu quả to lớn của việc
mình làm, không có ý thức chính trị hướng dẫn, đến khi một mình chịu
tội một mình thác oan…” [1].
Đoạn trích trên đây có lời tự thuật của thiếu tá Nhung - người được
xem là xạ thủ đã giết chết anh em ông Ngô Đình Diệm. Không rõ ông Thi
ghi lại bản tự thuật đó có trung thực hay không, vì sau lần tự thuật đó
thiếu tá Nhung không còn ở trên đời nên không thể kiểm chứng được. Giả
như bản tự thuật đó trung thực thì ta thấy thiếu tá Nhung vào giờ phút
nguy nan nhất vẫn rất bình tĩnh:
1. Nhận hết trách nhiệm về việc hạ sát anh em ông Ngô Đình Diệm;
2. Khẳng định “không biết gì về quyết định của Hội đồng Quân nhân
Cách mạng” để tránh những rắc rối đối với tướng Dương Văn Minh. Tất cả
những người có liên quan đến vụ đi bắt và giết anh em ông Diệm đều được
khai với những cái tên hoàn toàn không có trong thực tế, về cấp bậc và
nhiệm vụ cũng sai để những người nầy khỏi phải bị nêu tên thật trong bất
cứ hoàn cảnh nào: Ví dụ Nhung khai:
-Trung tá Nghĩa chỉ huy đoàn thiết giáp (sự thực là đại úy Dương Hoà Hiệp)
-Thiếu tá Đày sĩ quan ở Bộ Tổng Tham mưu đi theo (trong đoàn không có
ai tên là Đày cả, chỉ có thiếu tá Dương Hiếu Nghĩa (lúc đi bắt ông
Diệm, Nghĩa mới đeo lon đại úy); theo Nhung thiếu tá Đày là người “lấy
cái cặp của ông Diệm nói là sẽ đem về trình Hội đồng Quân nhân Cách
mạng”.
-Thiếu tướng Thu trách nhiệm tổng quát chỉ huy vụ nầy (sự thực
trong Hội đồng tướng lãnh tham gia đảo chánh không có ai tên là Thu cả
mà là thiếu tướng Mai Hữu Xuân - người được tướng Dương Văn Minh cử đi
theo dõi đoàn xe “rước anh em tổng thống Diệm”.
Sau ngày chỉnh lý 30.1.1964, có dư luận cho rằng đại tá Thi đã tham
gia vào việc đánh đập tra tấn Nguyễn Văn Nhung đến chết. Trong hồi ký,
Nguyễn Chánh Thi cho biết:“Sau khi làm tờ khai,thiếu tá Nhung trong phòng tạm giam ở Bộ Tổng Tham mưu, đã lấy dây giầy của mình thắt cổ tự sát”. Và tướng Thi tỏ ra ngậm ngùi thương tiếc: “Tôi
được tin, không khỏi ngậm ngùi cho số kiếp của một sĩ quan trung thành
với cấp trên, không lường được hậu quả to lớn của việc mình làm, không
có ý thức chính trị hướng dẫn, đến khi một mình chịu tội một mình thác
oan”.
Và cái chết bí ẩn được cho là tự sát bằng dây giày
Tôi (NĐX) không nghĩ tướng Thi cố ý viết đọan hồi ký nầy để đính
chính dư luận nghi ngờ ông đã tham gia vào việc tra khảo Nguyễn Văn
Nhung. Vì thế tôi đã tìm gặp bà Huỳnh Thi Nhi vợ góa của thiếu tá Nguyễn
Văn Nhung sống với gia đình ở quận 8 TP.Hồ Chí Minh. Bà quả phụ Huỳnh
Thị Nhi cho biết: khi được báo tin chồng chết bà đến nhận xác chồng ở
Bệnh viện Cộng Hòa, nhưng các bác sĩ pháp y không ai dám xác nhận chồng
bà đã chết bằng cách gì. Ngay cả bác sĩ Nicola Võ Minh Kỵ làm giám đốc
Bệnh viện Cộng Hòa có bà con với gia đình bà cũng đóng cửa phòng để
tránh việc phải xác nhận về cách chết của Nguyễn Văn Nhung. Nếu ông
Nhung tự tử bằng dây giày thì việc xác nhận có gì khó khăn đâu để những
người có trách nhiệm trong pháp y sợ hãi phải từ chối né tránh đến vậy?
Bà Huỳnh Thị Nhi cho biết thêm khi khâm liệm ông Nhung bà thấy trên
mặt trên đầu trên thân thể ông có hàng chục vết bầm tím, có vết còn in
nguyên dấu đế giày bốt-đờ-xô. Có lẽ Nguyễn Văn Nhung bị trả thù bằng
những đòn đấm đá của nhiều người nên các bác sĩ pháp y không dám xác
nhận chăng? Bà Nhi khẳng định chồng bà bị tra khảo mà chết chứ không
phải tự sát bằng dây giày như đại tá Thi đã viết. Theo báo Dân Ý xuất bản ở Sài Gòn, từ số 140 ngày 01.10.1970 đến số 160 thì thiếu tá Nhung đã “bị đá bể lá lách sau khi ông đã khai tất cảnhững bí mật trong vụ thanh toán anh em tổng thống Diệm. Lời khai của ông được thâu băng và trao cho tướng Khánh”.
Cái chết của anh em ông Ngô Đình Diệm như thế nào báo Hồn Việt số
ra mắt (tháng 7-2007) đã đề cập rõ và cái chết của Nguyễn Văn Nhung -
người bị dư luận qui kết là thủ phạm đã gây ra hai cái chết trên chưa
được bạch hóa. Nguyễn Văn Nhung bị “ép cung” đã phải viết ra bản “cung
khai” nêu trên chứng tỏ dư luận qui kết cho Nhung là có cơ sở. Qua bản
“cung khai” do kẻ thù của Nhung công bố giúp cho những người quan tâm
lịch sử thấy được bản chất “anh hùng hảo hớn” của Nhung. Nguyễn Văn
Nhung không phải là một người tầm thường. Người nói đúng được bản chất
của Nguyễn Văn Nhung không ai khác là chính đại úy Đỗ Thọ - người đối
đầu số 1 của Nguyễn Văn Nhung trước giờ anh em ông Ngô Đình Diệm bị bắt
lên xe thiết giáp M113 trước Nhà thờ Cha Tam, Chợ Lớn.
Sau khi nghe Nguyễn Văn Nhung bị bắt và bị giết để trả thù cho anh em ông Ngô Đình Diệm, Đỗ Thọ viết trong nhật ký: “Đối
với tôi thiếu tá Nhung nổ súng vào đầu tổng thống Ngô Đình Diệm phải
vất vả lắm. Thiếu tá Nhung rất can đảm lắm mới dám bắn như thế…Thiếu tá
Nhung còn là người “chịu cam số phận”. Đáng ra trong hồ sơ khẩu cung sau
ngày chỉnh lý 30.1.64, thiếu tá Nhung phải khai thêm một sĩ quan đồng
lõa tên Nghĩa nữa, nhưng không hiểu tại sao thiếu tá Nhung lại không
tiết lộ. Phải chăng vị sĩ quan cận vệ của tướng Dương Văn Minh là một
anh hùng vì bạn bè. Dù sao một sĩ quan trung thành như thế cũng đáng
trọng vậy” [2]
Chú thích: [1] Nguyễn Chánh Thi, VIỆT NAM - Một trời tâm sự, Nxb Anh Thư, California (USA) 1987, tr.230-1 [2] “Nhật ký Đỗ Thọ”, Nxb Đồng Nai, SG. 1970, tr.331. Nhân đây
cũng xin nói thêm một chút về Đỗ Thọ. Đỗ Thọ nguyên là một phi công lái
tàu bay vận tải của quân đội Sài Gòn, được chuyển qua làm sĩ quan tùy
viên cho Tổng thống Ngô Đình Diệm. Đỗ Thọ tuyệt đối trung thành và tận
tụy với ông Diệm. Sau khi ông Diệm bị bắt và bị giết (2.11.1963), Đỗ Thọ
trở lại nghiệp bay. Thọ rất thương tiếc cho cái chết của Tổng thống
Diệm và đã thổ lộ tâm sự của mình trong cuốn hồi ký mang tên “Nhật ký Đỗ
Thọ”. Ngày 14.2.1964, trong một chuyến bay đón “thủ tướng” Nguyễn Khánh
tại Đà Nẵng, Đỗ Thọ đã tử nạn trên không phận Quảng Nam. Năm đó Thọ mới
29 tuổi, chưa có vợ con, chỉ để lại cho gia đình cuốn hồi ký “Nhật ký
Đỗ Thọ”. Năm 1970, một người em đã “sưu tầm và xuất bản” tập hồi ký nầy.
(Theo Đỗ Mậu, Sđd). Là một sĩ quan tùy viên, Đỗ Thọ đem hết trí lực để hoàn thành
nhiệm vụ bảo vệ Tổng thống Diệm. Cho nên, hơn ai hết Đỗ Thọ hiểu được
những khó khăn của sĩ quan tùy viên Nguyễn Văn Nhung trong cố gắng hòan
thành lệnh của tướng Dương Văn Minh giao. Đỗ Thọ không thù ghét người đã
giết chủ của mình mà ngược lại có lời khen đúng đắn đối với một đồng
nghiệp. Bởi vì Nguyễn Văn Nhung không những là người rất can đảm trong
nhiệm vụ khó khăn mà còn tỏ ra hào hiệp nhận hết trách nhiệm về mình để
tránh những hệ lụy cho người khác.
Theo Nguyễn Đắc Xuân
Một Thế Giới
Tiểu Sử Dòng Họ NGÔ ĐÌNH DIỆM - Số Phận Toàn Thể Con Cháu 3 Họ Gia Đình Nhà Ngô Đình Diệm
17-1-1960 :Cuộc đồng khởi của đồng bào tỉnh Bến Tre.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, nhân dân miền Nam đã từ các hình thức
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang vùng lên khởi nghĩa, mở đầu
bằng những cuộc đồng khởi.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, nhân dân miền Nam
đã từ các hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang vùng lên
khởi nghĩa, mở đầu bằng những cuộc đồng khởi.
Đêm 2-1-1960, tại xã Tan Trung, ban lãnh đạo tỉnh Bến Tre họp bàn về
chủ trương đồng khởi. Hội nghị nhất trí: phát động một tuần lễ toàn dân
đồng khởi, diệt ác ôn, phá thế kìm kẹp, giải phóng nông thôn, làm chủ
ruộng vườn và quyết định khởi nghĩa thống nhất từ ngày 17-1-1960 đến
ngày 25-1-1960, lấy cù lao Minh, cụ thể gồm 3 huyện Minh Tân, Mỏ Cày,
Thạnh Phú làm điểm đột phá mà điểm chính là Mỏ Cày. Hội nghị đề ra một
số biện pháp tiến hành phải đánh tới tấp; phát triển phải phát triển hết
khả năng không hạn chế; khi sóng gió nổi lên thuyền phải mạnh dạng căng
buồm lướt sóng.
Kế hoạch tiến hành được giữ
bí mật tuyệt đối. Đúng 8 giờ sáng ngày 17-1-1960, tại xã Định Thủy
(cách huyện lỵ Mỏ Cày 3 km), các đồng chí lãnh đạo đã chớp thời cơ nổ
súng. Thạnh Phú, Minh Tân, Mỏ Cày đồng khởi nhất loạt đêm 17-1-1960.
Qua một đêm đồng khởi, bộ máy kìm kẹp của địch ở một số xã bị tan
rã hẳn. Sau 2 ngày địch mất bốt Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp. Ta
giải phóng hoaøn toàn 3 xã: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh. Trung đội
giải phóng đầu tiên của Bến Tre sinh ra trong phong trào đồng khởi đã
làm lễ ra mắt tại một vườn dừa xã Bình Khánh, huyện Mỏ Cày.
Từ thắng lợi này, chỉ trong một tuần (từ ngày 17 đến ngày
24-1-1960), 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày, Giồng Trôm, Châu Thành, Ba
Tri, Thạch Phú, nhân dân nhất tề nổi dậy. 22 xã diệt ác, lấy đồn, giải
phóng hòan toàn xã. 25 xã khác giải phóng nhiều ấp.
Trước thắng lợi của cách mạng, địch điên cuồng phản kích lại. Ngày
22-2-1960, chúng cho một đại đội từ Mỏ Cày vào Phước Hiệp. Ngày
24-2-1960, địch huy động 3.000 quân đánh vào Phước Hiệp, Bình Khánh,
Định Thủy hòng tiêu diệt cách mạng, nhưng chúng thất bại. Cuộc đồng khởi
của nhân dân Bến Tre kết thúc thắng lợi. Từ đây làn sóng đồng khởi như
nước vỡ bờ lan ra khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở miền
Trung Trung Bộ.
Từ sau phong trào đồng khởi
nổ ra tại Bến Tre tháng 1-1960, từ tháng 2-1960 trở đi, phong trào đồng
khởi nổ ra trên khắp miền Tây Nam Bộ và Trung Nam Bộ.
17-1-1960 :Cuộc đồng khởi của đồng bào tỉnh Bến Tre.
Lịch Sử Đồng Khởi Bến Tre 17/1/1960 Quê Hương Trong Máu Lửa
Chiến dịch Bình Giã: Nét độc đáo trong nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”
QĐND Online - Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến
công đầu tiên của bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc
chuyển hóa tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và
lực mới để đánh bại Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ...
QĐND
Online - Chiến dịch Bình Giã là chiến dịch tiến công đầu tiên của bộ
đội chủ lực miền Đông Nam Bộ, góp phần vào việc chuyển hóa tương quan so
sánh lực lượng trên chiến trường, tạo ra thế và lực mới để đánh bại
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch Bình
Giã không chỉ đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của quân chủ lực miền
Nam mà còn góp phần phát triển nghệ thuật chiến dịch trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Đầu năm 1964, trên chiến trường miền Nam,
phong trào đấu tranh chính trị cùng với hoạt động quân sự của lực lượng
vũ trang địa phương đã làm thất bại một bước quan trọng quốc sách “ấp
chiến lược” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn; mâu thuẫn trong nội bộ chính
quyền Sài Gòn càng thêm sâu sắc; kế hoạch Xtalây-Taylo phá sản hoàn
toàn. Với bản chất hiếu chiến và ngoan cố, từ tháng 3-1964, đế quốc Mỹ
thực hiện kế hoạch mới, Kế hoạch Giônxơn - Mắc Namara, nhằm bình định
miền Nam trong vòng 18 tháng, hòng cứu vãn nguy cơ sụp đổ hoàn toàn
chiến lược “chiến tranh đặc biệt”.
Quán triệt tinh thần Hội nghị lần thứ 9
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy và
Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch Đông Xuân 1964- 1965 trên chiến
trường miền Đông Nam Bộ, lấy Bình Giã làm điểm quyết chiến của chiến
dịch. Chiến dịch Bình Giã diễn ra từ đêm 2-12-1964 đến ngày 3-1-1965,
được chia thành 2 đợt: đợt 1: từ ngày 2 đến 17 tháng 12 năm 1964; đợt 2,
từ 27 tháng 12 năm 1964 đến 3 tháng 1 năm 1965.
Một lính Mỹ bò qua ruộng lúa để thoát khỏi tầm bắn của quân Giải phóng. Ảnh tư liệu.
Rạng sáng ngày 2 tháng 12 năm 1964, chiến
dịch mở màn, Bộ Chỉ huy chiến dịch đã sử dụng Đại đội 445 (bộ đội địa
phương tỉnh Bà Rịa) đánh vào “ấp chiến lược” Bình Giã thực hiện mở đầu
và “khơi ngòi” chiến dịch. Khi ấp Bình Giã bị tiến công, địch điều Tiểu
đoàn 38 biệt động quân đến ứng cứu và đã bị ta đánh thiệt hại nặng. Tuy
nhiên, do ta sử dụng lực lượng “khơi ngòi” không phù hợp, nên không
chiếm được toàn bộ “ấp chiến lược” Bình Giã; khi địch phản kích, ta
không trụ lại được, chưa tạo điều kiện cho lực lượng chủ yếu tiến công
tiêu diệt địch ngoài công sự, trận đánh khơi ngòi không đạt yêu cầu đề
ra, bộ đội ta phải chuyển ra ngoài khu vực Bình Giã. Đến ngày 7 tháng 12
năm 1964, ta sử dụng Đại đội 445 được phối hợp 1 đại đội của Trung đoàn
761 tiến công ấp Bình Giã lần 2 và điều 2 tiểu đoàn của Trung đoàn 761
và 762 tiến công chi khu quân sự Đất Đỏ để kéo địch đến tiếp viện. Trong
trận tiến công này ta tiêu diệt được 1 đại đội quân Việt Nam cộng hòa.
Sáng ngày 9 tháng 12 năm 1964, do áp lực của ta ở Bình Giã, Đức Thạnh,
Đất Đỏ, địch phải tổ chức cuộc hành quân “Bình Tuy 33”, dùng Chi đoàn
thiếp giáp số 3 giải tỏa dọc Đường số 2 lên đến Bình Giã, Đức Thạnh. Khi
đoàn xe cơ giới địch từ Đức Thạnh trở về, lọt vào trận địa phục kích
của ta, toàn trung đoàn vận động xuất kích, thực hiện chặn đầu, khóa
đuôi, chia cắt đội hình địch ra làm hai. Sau khoảng 1 giờ chiến đấu, ta
làm chủ trận địa, tiêu diệt gọn Chi đoàn thiết giáp số 3, gồm 14 chiếc
M113, diệt trên 100 tên địch, có 9 cố vấn Mỹ, 5 sĩ quan quân đội Sài
Gòn, thu nhiều vũ khí trang bị. Đây là lần đầu tiên ở chiến trường miền
Đông, ta diệt gọn 1 chi đoàn thiết giáp địch, đánh bại chiến thuật
“thiết xa vận” của địch và bước đầu ta đã thành công trong việc điều
viện binh của địch tới để tiêu diệt.
Rút kinh nghiệm đợt 1, bước vào đợt 2, Bộ
Chỉ huy chiến dịch đã tập trung toàn bộ lực lượng trên khu vực Bình
Giã, Đức Thạnh và Đường số 2 đánh chiếm và trụ lại “ấp chiến lược” Bình
Giã, dùng hỏa lực uy hiếp mạnh chi khu quân sự Đức Thạnh, buộc địch phải
tiếp viện ứng cứu. Lực lượng còn lại của Trung đoàn 761 bố trí sẵn sàng
vận động tiến công tiêu diệt quân địch đến tiếp viện bằng đường bộ hoặc
đường không. Đêm ngày 27 tháng 12, ta tiến công và làm chủ “ấp chiến
lược” Bình Giã; ngày 28 tháng 12, địch điều Tiểu đoàn 33 biệt động quân
để cứu nguy cho “ấp chiến lược” Bình Giã. Do phán đoán đúng ý định của
địch, ta đã bố trí lực lượng phòng không, hạ tại chỗ 12 máy bay lên
thẳng, địch không thể đổ quân xuống đông bắc Bình Giã mà buộc phải đổ
quân xuống đông nam Bình Giã, vào đúng trận địa phục kích của Trung đoàn
761. Khi Tiểu đoàn 33 biệt động quân vừa đặt chân xuống đất liền bị hỏa
lực của ta bắn trùm lên đội hình, các đơn vị đồng loạt xung phong diệt
gần hết tiểu đoàn này. Ngày 30-12, Trung đoàn 761 đã bắn rơi máy bay lên
thẳng trinh sát có cố vấn Mỹ. Đảng ủy, Bộ Chỉ huy chiến dịch nhận định
và xác định phương án phục kích diệt địch khi địch đưa lực lượng đến tìm
xác cố vấn Mỹ. Chiều ngày 31 tháng 12, khi địch lọt vào trận địa phục
kích, bộ đội nhất loạt nổ súng nhanh chóng diệt gọn Tiểu đoàn 4 lính
thủy đánh bộ với gần 600 tên, kết thúc thắng lợi trận then chốt thứ 3
của chiến dịch... Sau 7 ngày chiến đấu liên tục, ta giành thắng lợi lớn.
Đến ngày 3 tháng 1 năm 1965, Bộ Chỉ huy chiến dịch ra lệnh kết thúc
chiến dịch tiến công Bình Giã.
Trực thăng và bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Ảnh tư liệu.
Thắng lợi của chiến dịch Bình Giã đã đánh
dấu bước trưởng thành vượt bậc về chiến thuật, đặc biệt là nghệ thuật
“tạo thế, khơi ngòi” để điều viện binh địch. Việc chọn điểm “khơi ngòi”
vào “ấp chiến lược” Bình Giã là một quyết định sáng suốt của Đảng ủy, Bộ
chỉ huy chiến dịch, bởi vì “ấp chiến lược” Bình Giã là một vị trí có
giá trị cả về quân sự và chính trị; là một mắt xích trong hệ thống phòng
thủ phía đông Sài Gòn. “Ấp chiến lược” Bình Giã được chính quyền Sài
Gòn coi là ấp “kiểu mẫu”, vì ở đây tập trung phần lớn là gia đình hậu
phương của các lực lượng biệt động quân và thủy quân lục chiến của quân
đội Việt Nam cộng hòa cùng phần đông giáo dân bị địch lợi dụng chống phá
ta. Vì vậy, khi ta đánh ấp Bình Giã, địch sẽ phản ứng ngay bằng cả
đường bộ và đường không. Mặt khác, Bộ chỉ huy chiến dịch chọn “ấp chiến
lược” Bình Giã phù hợp với trình độ tác chiến của bộ đội chủ lực lúc đó.
Nếu như chọn chi khu Xuyên Mộc làm điểm khơi ngòi của chiến dịch thì ta
hoàn toàn bất lợi, bởi vì ở đó địch xây dựng công sự vững chắc, mà
trình độ đánh công kiên của bộ đội ta còn hạn chế, nên khó chiếm được
chi khu để kéo địch ra tiêu diệt. Thực tiễn diễn biến của chiến dịch
đúng như nhận định và kế hoạch tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Khi
“ấp chiến lược” Bình Giã bị tấn công, địch đã vội vã điều quân đến ứng
cứu trong thế bị động, lúng túng. Ngược lại, lực lượng ta chủ động chặn
đầu, khóa đuôi, bao vây, chia cắt, đánh cả phía trước, phía sau, bên
sườn, đánh địch cả trên không, mặt đất tiến tới tiêu diệt gọn từng bộ
phận. Ngoài việc tập trung lực lượng tiến công trên hướng chủ yếu thì
Đảng ủy, Bộ chỉ huy chiến dịch đã phát động nhân dân nổi dậy, giành
quyền làm chủ, giải phóng đất đai.
Chiến dịch Bình Giã tuy nhỏ, với quy mô
liên trung đoàn, nhưng có ý nghĩa lớn về chiến lược và nghệ thuật chiến
dịch, có nghệ thuật đặc trưng, đó là nghệ thuật “tạo thế, khơi ngòi”,
một cách đánh độc đáo và sáng tạo của quân chủ lực miền Nam. Thắng lợi
của chiến dịch đã để lại những kinh nghiệm vô cùng quý báu cho chiến
dịch sau này trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Thạc sĩ VŨ BÌNH TUYỂN (Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)
Trận
Bình Giã là trận đánh chính nằm trong Chiến dịch Bình Giã xảy ra vào
cuối tháng 12 năm 1964 tại địa bàn làng Bình Giã, tỉnh Phước Tuy, cách
Sài Gòn 67 km, giữa Quân giải phóng miền Nam và Quân lực Việt Nam Cộng
hòa với cố vấn Mỹ chỉ huy. Lúc xảy ra trận đánh, Bình Giã có độ khoảng
6.000 dân, phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa di cư từ miền Bắc Việt
Nam sau năm 1954. Đây là trận đánh quan trọng trong chiến dịch Bình Giã
do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Tiểu đoàn 4 Thủy quân Lục chiến Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Tiểu đoàn 30 và Tiểu đoàn 31 Biệt động quân Quân lực Việt Nam Cộng Hòa
(Chỉ huy trưởng Đại úy Franklin P. Eller (cố vấn cao cấp)
Quân giải phóng miền Nam
Trung đoàn 271; Trung đoàn 272
Chỉ huy Dương Văn Nhứt; Trần Đình Xu
Diễn tiến chiến sự
Ngày 28 tháng 12 năm 1964: Một tiểu đoàn của QGPMN tấn công và chiếm
làng Bình Giã do 2 trung đội Địa Phương Quân của QLVNCH trấn giữ. Tiểu
đoàn 30 Biệt Động Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa được trực thăng vận
đến tái chiếm làng Bình Giã bị phục kích và thiệt hại nặng, phần còn lại
rút và cố thủ trong nhà thờ làng.
Hôm sau, ngày 29 tháng 12, Tiểu
đoàn 38 Biệt Động Quân được trực thăng vận xuống phía nam làng và tổ
chức đánh trả. Trận chiến kéo dài cả ngày nhưng lực lượng Biệt Động Quân
không tái chiếm được làng Bình Giã.
Ngày 30: Vào buổi sáng, tiểu đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến được gởi đến tăng cường thế nhưng QGPMN đã rút lui ra khỏi làng.
Ngày 31: Tiểu đoàn 4 TQLC nhận lệnh đi tìm chiếc trực thăng và phi hành
đoàn bị bắn rơi trước đó trong đồn điền cao su cách Bình Giã 4 km. Đại
đội 2 TĐ4TQLC lọt vào ổ phục kích của QGPMN, phần còn lại của TĐ4TQLC
đến cứu viện cũng bị thiệt hại nặng và phải lui về Bình Giã.
Ngày 1
tháng 1 năm 1965: hai tiểu đoàn Nhảy Dù của Binh chủng Nhảy dù Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa, TĐ1 và TĐ3 được trực thăng vận đến phía đông làng để
tăng viện nhưng lực lượng QGPMN đã rút lui.
Thiệt hại và thương vong
Phía Việt Nam Cộng hòa tổng cộng có 201 quân nhân thiệt mạng (trong đó
có 5 cố vấn Mỹ), 192 người bị thương (trong đó có 8 người Mỹ), và 68
người mất tích (trong đó có 3 người Mỹ)[2]. Thiệt hại của TĐ4TQLC bao
gồm 112 tử trận, 71 bị thương, 29/35 sỹ quan của TĐ đã tử trận kể cả
Tiểu đoàn trưởng[3]. Các cố vấn Donald G. Cook (cố vấn TĐ4TQLC), Harold
G. Bennett và Charles E. Crafts (cố vấn TĐ33BĐQ) bị bắt làm tù binh [4].
Tháng 6 năm 1965 cả đài Hà Nội lẫn Thông tấn xã Việt Nam đã loan tin
rằng ngày 24 tháng 6 năm 1965 Bennet đã bị bắn chết để trả đũa việc
chính quyền VNCH xử tử hình công khai ông Trần Văn Đang [5] bị bắt ngày 3
tháng 5 năm 1965 khi mang chất nổ dự định tấn công cư xá sỹ quan Hoa Kỳ
trên đường Võ Tánh, Sài Gòn [6]. Bennet là người tù binh chiến tranh
đầu tiên bị xử bắn trong Chiến tranh Việt Nam [7][8][9] .
Trong cuộc
họp báo ngày 4 tháng 1 năm 1965 MTGPMNVN tuyên bố rằng đã tiêu diệt
2.000 quân nhân, 28 cố vấn Mỹ, tiêu diệt 37 xe quân sự và bắn rơi 24 máy
bay. Con số này dĩ nhiên là quá lớn nếu so với số lượng binh lính của
lực lượng Việt Nam cộng hòa được tung ra tham chiến.
Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam.
1.Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ ở miền Nam
Từ
cuối năm 1960, hình thức thống trị bằng chính quyền tay sai độc tài Ngô
Đinh Diệm bị thất bại, đế quốc Mĩ buộc phải chuyển sang thực hiện chiến
lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965).
“Chiến tranh đặc biệt”
là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng quân
đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống “cố vấn” Mĩ, dựa vào vũ
khí,trang bị kĩ thuật, phương tiện chiến tranh của Mĩ nhằm chống lại các
lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Âm mưu cơ bản của chiến lược “Chiến
tranh đặc biệt” là “dùng người Việt đánh người Việt”.
Mĩ đề ra kế
hoạch Xtalây-Taylo mà nội dung chủ yếu là bình định miền Nam trong vòng
18 tháng,. Thực hiện kế hoạch, Mĩ tăng cường viện trợ quân sự cho Diệm
đưa vào miền Nam nhiều cố vấn quân sự, tăng nhanh lực lượng quân đội Sài
Gòn, tiến hành dồn dập dân “ấp chiến lược”, trang bị phương tiện chiến
tranh hiện địa, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới như “trực thăng
vận”,”thiết xa vận”. Bộ chỉ huy quân sự Mĩ ở miền Nam (MACV) được thành
lập để trực tiếp chỉ đạo quân đội Sài Gòn.
“Ấp chiến lược” (sau đó
gọi là “ấp tân sinh”) được Mĩ và chính quyền Sài Gòn coi như “xương
sống” của Chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” và nâng lên thành “quốc
sách”. Chúng coi việc “ấp chiến lược” như một cuộc chiến tranh tổng lực
nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách
mạng, tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình “bình định” miền Nam.
Chúng dựu định dồn 10 triệu nông dân vào 16 000 ấp trong tổng số 17 000
ấp toàn miền Nam.
Được Mĩ hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy bằng hệ
thống cố vấn, quân đội Sài Gòn liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét
nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành những hoạt động phá hoại
miền Bắc, phong tỏa biên giới, vùng biển nhằm ngăn chặn sự chi viện của
hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam.
2. Miền Nam chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ
Đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng miền Nam, tháng 1-1961, Trung ương Cục miền Nam ra đời; tháng 2-1961, các lực lượng vũ trang thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam.
Dưới
ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận Dân tộc giải phóng do Đảng lãnh
đạo, quân dân miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chống Mĩ và chính quyền Sài
Gòn, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nổi dậy tiến
công địch trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và
đô thị), tiến công địch bằng cả ba mũi (chính trị, quân sựu, binh vận).
Trong những năm 1961-1962, Quân giải phóng đã đẩy lùi nhiều cuộc tiến công của địch, tiêu diệt nhiều đồn bốt lẻ của chúng.
Cuộc
đấu tranh chống và phá “ấp chiến lược: diễn ra gay go, quyết liệt giữa
ta và địch; có hàn chục triệu người tham gia phá “ấp chiến lược” đi đôi
với xây dựng làng chiến đấu. Với quyết tâm “Một tấc không đi, một li
không rời”, nhân dân miền Nam kiên quyết bám đất, giữ làng, phá thế kìm
kẹp của địch.
Mĩ và chính quyền Sài Gòn dù tập trung sức dồn dân, lập “ấp chiến
lược” nhưng cũng chỉ thực hiện được một phần kế hoạch (non nửa số 16 000
ấp).
Đến cuối năm 1962, trên nửa tổng số ấp với gần 70% nông dân ở miền Nam vẫn do cách mạng kiểm soát.
Trên
mặt trận quân sự, quân dân ta giành thắng lợi mở đầu vang dội trong
trận chiến Ấp Bắc (Mĩ Tho) ngày 2-1-1963, đánh bại cuộc hành quân càn
quét của hơn 2 000 binh lính quân đội Sài Gòn có cố vấn Mĩ chỉ huy được
pháo binh, máy bay, xe tăng, xe bọc thép yểm trợ. Sau trận Ấp Bắc, khắp
miền Nam dấy lên phong trào “Thi đau Ấp Bắc, giết giặc lập công”.
Phong
trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân trong các đô thị, cả
những đô thị lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, có những bước phát triển
mạnh mẽ, nổi bật là cuộc đấu tranh của các tín đồ Phật giáo, “đội quân
tóc dài” chống lại đàn áp của chính quyền chính Diệm.
Phong trào
đấu tranh chính trị ở các đô thị cùng với phong trào phá “ấp chiến lược ở
nông thôn và những đòn tiến công liên tiếp của lực lượng vũ trang cách
mạng đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Ngày 1-11-1963, Mĩ giật dây các tướng lĩnh trong quân đội Sài Gòn do
Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính giết Diệm-Nhu, đưa tay sai mới
lên cầm quyền, với hi vọng ổn định tình hình để đẩy mạnh chiến tranh
xâm lược. Cuộc đảo chính này đã làm cho chính quyền Sài Gòn lâm vào
khủng hoảng triền miên. Chỉ trong vòng 18 tháng sau đó, liên tục diễn ra
hơn 10 cuộc đảo chính.
Sau khi lên làm Tổng thống (thay Kennơđi
bị ám sát ngày 22-11-1963), Giônxơn quyết định đẩy mạnh hơn nữa “Chiến
tranh đặc biệt”. Kế hoạch Giônxơn-Mác Namara thay thế kê hoạch
Xtalây-Taylo, nhằm tăng cường viện trợ quân sự, ổn định chính quyền Sài
Gòn, bình định miền Nam có trọng điểm trong 2 năm (1964-1965).
Mặc
dù vậy, từng mảng lớn “ấp chiến lược” của địch bị phá vỡ. Cuối năm
1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3 300 ấp (khoảng 1/5 số ấp dự kiến);
tới tháng 6-1965, giảm xuống mức thấp nhất, chỉ còn kiểm soát 2 200 ấp.
“ấp chiến lược”- xương sống của “Chiến tranh đặc biệt” đã bị phá sản về
cơ bản. Vùng giải phóng ngày càng mở rộng, trở thành hậu phương trực
tiếp của cách mạng. Tại vùng giải phóng, chính quyền cách mạng các cấp
đã được thành lập, ruộng đất của Việt gian bị tịch thu chia cho dân cày
nghèo.
Sau chiến thắng Ấp Bắc, Quân giải phóng nhanh chóng trưởng thành và tiến lên đánh những trận có quy mô lớn.
Trong
đông –xuân 1964-1965, quân dân ta mở chiến dịch tiến công địch ở miền
Đông Nam Bộ với trận mở màn đánh vào ấp Bình Giá (Bà Rịa ngày
2-12-1964). Trong trận này, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 1700 tên
địch, phá hủy hàng chục máy bay và xe bọc thép, đánh thắng các chiến
thuật “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của địch; chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” bị phá sản về cơ bản. Tiếp đó, quân ta giành thắng lợi ở An
Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước) v.v…gây cho
quân đội Sài Gòn những thiệt hại nặng, có nguy cơ tan rã, làm phá sản
hoàn toàn chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mĩ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét