Thứ Ba, 22 tháng 1, 2019

CUỘC CHIẾN THẦN THÁNH 44/11

-Xét được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người, và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! 
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là danh lợi. 
-Xét như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát kiếp nô lệ.
-Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó như là của thần thánh.
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người thực sự phải biết tôn sùng cuộc sống, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm phạm, hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai, hoặc triệt tiêu hận thù.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau? 
-Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!?
-Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ! 

-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
                                           
                                             Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình, Tập 11

Nhìn lại “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”

Người dân Việt Nam vẫn còn nhớ hình ảnh người Mỹ Norman Morrison đã tự thiêu ngay trước Lầu Năm góc ở thủ đô Washington để phản đối chiến tranh Việt Nam qua bài thơ “Emily, con ơi” của nhà thơ Tố Hữu. Đó là ngày 2-11-1965, 8 tháng sau khi quân đội viễn chinh Mỹ bắt đầu đặt chân vào Đà Nẵng của Việt Nam. Hành động này đã làm bùng lên phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã âm ỉ từ lâu ngay trong lòng nước Mỹ. Cùng với phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam trên toàn thế giới, phong trào phản chiến trong lòng nước Mỹ đã góp phần chấm dứt sự can thiệp của quân đội Mỹ vào miền Nam Việt Nam.
Trước Lầu Năm góc thường xuyên diễn ra các cuộc biểu tình phản đối Mỹ xâm lược Việt Nam.
Theo hồi tưởng của vợ của Norman Morrison, bà Anne Morrison Welsh, vào buổi sáng hôm đó, Morrison bế con gái thứ ba của mình, bé Emily, 1 tuổi, đi đến trước Lầu Năm góc. Sau đó, ông đặt Emily xuống, gửi cho một người trong đám đông xung quanh, đổ dầu lên người và châm lửa.

Trong cuốn hồi ký của mình, McNamara viết: “Cái chết của Morrison không chỉ là bi kịch cho gia đình anh ta mà còn cả cho tôi và nước Mỹ. Đó là một tiếng kêu gào chống lại những giết chóc đang hủy hoại cuộc đời của những người Mỹ và người Việt”.

Phong trào phản chiến bắt đầu từ đầu thập niên 1960, nhưng không gây ấn tượng nhiều. Cho đến khi Morrison tự thiêu vào năm 1965, thì dường như cả thế giới mới biết đến.

Ngày 15-11-1969, bốn năm sau đó, một cuộc tuần hành 250 ngàn người nổ ra ở đại lộ số 5 trung tâm New York, chỉ cách Quảng trường Thời đại (Times Square) vài dãy phố. Cùng lúc là hàng loạt các cuộc xuống đường ở nhiều thành phố lớn tại cả bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ.

Cuộc biểu tình này vượt tầm kiểm soát của chính quyền Mỹ. Các quan chức Mỹ hỏi nhau: chuyện gì đang xảy ra và tại sao? Trước đó, người Mỹ chỉ nghe về cuộc chiến tranh Việt Nam qua loa tuyên truyền của chính quyền Mỹ. Nhưng cho đến cuộc tấn công mùa xuân 1968, báo chí Mỹ, đặc biệt là truyền hình Mỹ đã truyền tải hình ảnh cuộc chiến Việt Nam đến tận từng gia đình người Mỹ. Người Mỹ nhìn thấy tận mắt binh lính họ châm lửa đốt nhà dân thường, bắn chết người vô tội, những em bé bị bom na pan bốc cháy, tòa đại sứ Mỹ bị tấn công, binh lính Mỹ kéo lê xác đồng đội…

Họ tự hỏi: Tại sao lại như thế và lính Mỹ đang hy sinh vì cái gì, người Mỹ mang dân chủ đến Việt Nam như thế sao? Và người dân Mỹ khẳng định Mỹ không thể thắng trong chiến tranh Việt Nam. Phong trào phản chiến lan nhanh không chỉ trong dân chúng mà cả trong quân đội Mỹ. Theo trang web của Phong trào chống chiến tranh Việt Nam, đã có hàng trăm sĩ quan Mỹ bị bắn vì phản đối chiến tranh, nhà tù Mỹ bị đốt và hàng ngàn lính Mỹ từ chối tham gia chiến đấu.

Hình ảnh phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục đi theo các cuộc biểu tình chống chiến tranh ngày nay.
Phong trào phản chiến bước sang một bước ngoặt mới khi cuộc biểu tình của sinh viên Đại học Kent State (bang Ohio) ngày 4-5-1970 đã bị Vệ binh quốc gia Mỹ đàn áp. Kết quả là 4 sinh viên bị bắn chết và 9 người khác bị thương.

Việc này gây sốc toàn nước Mỹ. Hàng trăm thành phố nổi dậy, có thể nói cả một thế hệ thanh niên và trung niên, đặc biệt cộng đồng người gốc Phi và người gốc Mỹ Latinh, đã tham gia phong trào phản chiến. Đó thật sự là cuộc chiến ngay trong lòng nước Mỹ.

Tổng cộng có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh xâm lược ở trên khắp các bang ở Mỹ, 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 2 triệu người Mỹ “gây thiệt hại bất hợp pháp” vì chống chiến tranh xâm lược Việt Nam, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh chống chiến tranh xâm lược, trong đó có cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton.

Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam được xem là hình mẫu của phương cách tập hợp quần chúng ở các nước phương Tây. Phong trào chống toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây đã từng rút kinh nghiệm từ phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam.

Có thể nói, báo chí đã đóng vai trò rất quan trọng trong phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam. Cũng từ vai trò của báo chí Mỹ trong phong trào này, Chính phủ Mỹ đã ý thức được rằng cần phải kiểm soát chặt chẽ hơn nữa giới truyền thông. Và từ đó, trong các cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, cuộc chiến Nam Tư, Afghanistan rồi Iraq mới đây, thông tin về cuộc chiến của báo chí Mỹ bị kiểm soát chặt chẽ.

Cựu Tổng thống Mỹ Nixon đã thú nhận: “Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, giới cầm quyền Mỹ không phải chỉ thua trên chiến trường mà còn thua ngay trên nước Mỹ, ở các hành lang của quốc hội, trong phòng ăn các công ty, trong các phòng giám đốc của các tổ chức nghiên cứu, chủ bút của các tờ báo và của hệ thống vô tuyến truyền hình, trong các hội trường ở Gorge Town, các phòng khách của “những người đẹp” ở New York và trong các lớp học của các trường đại học lớn. Đó là những tầng lớp đã đưa lại sức mạnh, bảo đảm thắng lợi cho Mỹ trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai, nhưng đã làm cho Mỹ thất bại một trong những cuộc chiến đấu trọng yếu nhất của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba, đó là Việt Nam...”.
QUỲNH NHƯ tổng hợp
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã được thế giới ủng hộ mạnh mẽ bằng nhiều hình thức hết sức phong phú. Trong đó, có:* Hơn 10 Ủy ban quốc tế đoàn kết với Việt Nam của các tổ chức dân chủ, tôn giáo và tổ chức xã hội trên toàn thế giới.

* Hơn 200 tổ chức, ủy ban, phong trào đoàn kết ủng hộ Việt Nam ở hầu hết các nước trên thế giới.

* Hơn 30 hội nghị quốc tế về Việt Nam và nhiều hội nghị quốc tế khác đã dành thời gian thảo luận bàn biện pháp để ủng hộ Việt Nam.

* Một Ủy ban quốc tế và hơn 20 ủy ban quốc gia điều tra tội ác chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương đã được thành lập. Họ đã cử nhiều đoàn sang Việt Nam điều tra tội ác chiến tranh xâm lược và mở nhiều tòa án quốc tế xét xử những tội ác chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, nhóm họp nhiều lần ở Thụy Điển, Đan Mạch, Pháp...

* Hàng trăm nước có mít tinh, biểu tình, bãi công chống Mỹ xâm lược Việt Nam.

* Hơn 50 nước có phong trào quyên góp ủng hộ Việt Nam.

* Hơn 160 triệu người ở nhiều nước ghi tên tình nguyện sang Việt Nam đánh Mỹ.

* 16 nước có phong trào hiến máu ủng hộ Việt Nam.

* 48 người ở bốn nước tự thiêu (trong đó có 16 công dân Mỹ) để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

* 83 cơ quan đại diện Mỹ ở các nước bị người dân đập phá, cờ Mỹ bị nhân dân ở 73 nước đốt để phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

“Hội chứng Việt Nam” trong lòng nước Mỹ sau Tết Mậu Thân 1968

Đánh giá tác giả:
09:34 thứ sáu ngày 26/01/2018
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã tạo ra “hội chứng Việt Nam” trong lòng nhiều thế hệ người Mỹ và cả trong lịch sử nước Mỹ hiện đại.

Sau hai mùa khô (1965-1966 và 1966-1967), Mỹ tưởng đã xua được quân giải phóng lên rừng, kê cao gối nằm ngủ, ngờ đâu, Tết Mậu Thân năm 1968, quân giải phóng từ đâu “mọc lên”, đồng loạt tiến công vào tất cả các thành phố, thị xã của Chính quyền Sài Gòn vừa mới yên ổn ít lâu sau khi lập Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.

Truyền thông thế giới đưa những hình ảnh chết chóc của lính Mỹ trên chiến trường Nam Việt Nam về tận gia đình bên Mỹ tạo nên cú sốc tinh thần rất lớn, trước hết, trong những gia đình có con em họ đang thực thi sứ mạng công dân Mỹ, sau đó lan nhanh trong xã hội Mỹ tạo thành chấn động tâm lý trong lòng nước Mỹ. Cuộc tổng tiến công và nổi dây Tết Mậu Thân đã tác động tới nước Mỹ trên 3 phương diện chính:

Làm rúng động tâm lý và làm tê liệt nền kinh tế Mỹ, tạo “Hội chứng chiến tranh Việt Nam”


Trước Tết Mậu Thân, Mỹ mới hoài nghi về cuộc chiến ở Việt Nam và họ, trong chừng mực nào đó, còn hy vọng vào chiến thắng. Sau Mậu Thân, thay vào đó, là sự phẫn nộ, giận dữ, sau đó là thất vọng. Nước Mỹ sau năm 1968 thực sự là một bức tranh ảm đạm. Một người Mỹ đã nói: “Tôi không nhớ có thời nào mà người Mỹ lại u sầu, chán nản và hỗn loạn đến thế, có sự chia rẽ, thiếu tin tưởng và thù ghét đến thế”.

“Cuộc tổng tiến công Mậu Thân cho người dân Mỹ thấy một sự thật là cuộc chiến này thực sự không hề có chiều hướng dịu xuống, không hề có chút ánh sáng nào ở cuối đường hầm và người ta bắt đầu chú ý nhiều tới nó. Thêm vào đó, những người lính tình nguyện Mỹ bắt đầu phản đối chiến tranh, kể cả những người đang ở Việt Nam. Họ viết thư về nhà, họ thực sự công khai phản đối chiến tranh. Nó cứ thế lớn dần lên, lớn dần lên” - Don Luce, phóng viên báo Washington Post.
Năm 1968, một nhóm nữ sinh của Đại học California - Berkeley (Mỹ) biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. (Ảnh: History.com)

Từ năm 1965 khi lính Mỹ nhảy vào Việt Nam trực tiếp tham chiến, bằng nhiều hình thức, nhân dân Mỹ đã biểu lộ sự phản chiến của mình như trốn lính, đốt thẻ quân dịch mà đỉnh cao là tự thiêu. Người Việt Nam sống ở thời điểm đó có lẽ không bao giờ quên hình ảnh anh Norman Morrison, một thầy giáo dạy Thần học trong trường phổ thông, có vợ và 2 con gái, trong một lần bế con gái Emily đi chơi, đặt con lại bên lề đường và tưới xăng, châm lửa tự thiêu ngay trước cửa Lầu Năm Góc ở Thủ đô Washington DC. Hành động này đã làm bùng lên phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã từ lâu âm ỉ trong lòng nước Mỹ.

Trong Hồi ký của mình, M.Namara đã thừa nhận: “Cái chết của Morrison không chỉ là bi kịch của gia đình anh ta, mà còn cả cho tôi và nước Mỹ. Đó là một tiếng kêu gào chống lại những chết chóc đang hủy hoại cuộc đời của những người Mỹ và người Việt”.

Dick Hughes, diễn viên Mỹ, là 1 trong 16 triệu thanh niên Mỹ đốt thẻ quân dịch. Ông phải đối mặt với án tù 5 năm cho quyết định này. Vài tháng sau đó, ông quyết định một mình sang Sài Gòn và tự tìm hiểu xem chuyện gì đang diễn ra ở đây.

“Cuộc chiến này đã luôn ám ảnh trong tâm trí tôi. Trên tivi, chúng tôi luôn nhìn thấy những trận đánh, những xác người chết và những gì đang diễn ra thật khủng khiếp tại Việt Nam. Tôi quyết định tự mình phải làm một điều gì đó cho Việt Nam. Thế là tôi tự đến Việt Nam và làm công tác xã hội” - Hughes kể.

Cuộc đời của Dick Hughes và rất nhiều người Mỹ khác đã thay đổi từ sự kiện Tết Mậu Thân.

Trong cơn ác mộng hậu Mậu Thân, tình hình nước Mỹ trở nên hỗn loạn chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ. Phong trào phản chiến diễn ra rầm rộ, sôi nổi trong quần chúng nhân dân ở Mỹ. Những cuộc biểu tình, đình công của hàng ngàn vạn công nhân làm đình trệ nền kinh tế.

Đầu tháng 10-1969, khắp nước Mỹ dấy lên những đợt đấu tranh lớn gọi là “Ngày hành động” làm tê liệt nước Mỹ. Báo chí Mỹ gọi các cuộc đấu tranh đó là “lương tâm người Mỹ nổi giận”, và đã nhận định “cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam là cuộc chiến không được lòng người nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”.

Cuộc đấu tranh của sinh viên cũng không kém phần gay gắt. Phong trào sinh viên phản chiến (SDS) khi năm học mới bắt đầu vào mùa Thu năm 1968 đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ. Trong buổi họp đầu tiên của tổ chức SDS có 400 sinh viên Đại học Harvard, 500 sinh viên Đại học Texas, 800 sinh viên Đại học Wisconsin tham gia.

Đỉnh điểm là cuộc biểu tình của sinh viên trường Đại học Kent State diễn ra vào ngày 4-5-1970 tại bang Ohio. Trong sự căng thẳng tột độ, lực lượng vệ binh quốc gia đã xả súng vào hàng ngàn sinh viên trong khuôn viên trường đại học, khiến 4 sinh viên thiệt mạng và 9 người khác bị thương. Ngọn lửa phản chiến bùng lên dữ dội hơn bao giờ hết, trở thành một cuộc chiến thực sự, một cuộc đối đầu giữa chính quyền và nhân dân Mỹ ngay trong lòng nước Mỹ, đẩy quốc gia này vào sự chia rẽ sâu sắc chưa từng có. Máu của người Mỹ đã đổ không chỉ trên chiến trường Việt Nam, mà cả ở hậu phương nước Mỹ.

Trong binh lính Mỹ, tư tưởng “thà chịu bị phạt tù chứ không chịu sang tham chiến tại Việt Nam” lan rộng. Ngày càng có nhiều binh lính Mỹ đào ngũ. Tướng Robert D.Heinl nhận xét về tình hình lính Mỹ ở Việt Nam: “Chưa bao giờ đạo đức, kỷ luật và giá trị chiến đấu của quân đội Mỹ, trừ một vài ngoại lệ, lại xuống thấp và tồi tệ đến thế trong thế kỷ này và có lẽ trong cả lịch sử nước Mỹ”.
Tổng thống Mỹ Johnson gặp Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và các cố vấn sau cuộc tiến công Tết Mậu Thân (Ảnh: History.com)

Buộc Tổng thống Johnson chấp nhận “phi Mỹ hóa” và xuống thang chiến tranh

Truyền thông Mỹ đã nhận ra sự thật và nói thẳng “chúng ta đã thua”. Sự nói “toạc móng heo” của giới truyền thông Mỹ đã làm tăng thêm không khí ảm đạm của nước Mỹ và bầu không khí ảm đạm phủ khắp toàn nước Mỹ ấy đã tràn vào Nhà Trắng, buộc Chính quyền Johnson phải lựa chọn một trong hai giải pháp:

- Tăng thêm quân cho chiến trường Nam Việt Nam theo yêu cầu của Tướng Westmoreland, tiếp tục ném bom xuống miền Bắc.

- Rút quân khỏi Nam Việt Nam, ngừng ném bom miền Bắc, đi đến thương lượng với Hà Nội.

Cuối năm 1967, Johnson vẫn tin rằng Mỹ có thể kết thúc chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam bằng một thắng lợi quân sự cuối cùng như Tướng Westmoreland đã tuyên bố trước một phiên họp của Liên nghị viện Mỹ (11-1967). Hai tháng sau Tết Mậu Thân đã có sự chuyển hướng trong nội bộ chính quyền. Nhiều cố vấn cao cấp Mỹ ngả sang chủ trương thương lượng để kết thúc chiến tranh. Ngày 18-3 tại Hạ viện Mỹ, 139 người (89 Nghị sĩ Đảng Đân chủ và 41 Nghị sĩ Đảng Cộng hòa của Tổng thống Johnson) đã ra Nghị quyết yêu cầu Quốc hội Mỹ xét lại toàn bộ chính sách của Mỹ ở Nam Việt Nam.

Rõ ràng, cuộc tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm thay đổi thái độ của phần lớn Nghị sĩ trong Quốc hội Mỹ đối với cuộc chiến tranh Việt Nam. Cuối cùng, Tổng thống Mỹ Johnson buộc phải chọn giải pháp thứ hai. Điều đó được thể hiện rõ trong Diễn văn đọc trước công chúng Mỹ ngày 31-3-1968:

- Ném bom hạn chế miền Bắc;

- Không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ 2;

- Sẵn sàng đàm phán với Chính phủ Việt Nam để đi đến kết thúc chiến tranh.

Thực sự, cuộc tổng tiến công và nổi dây Tết Mậu Thân đã đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc phải xuống thang và ngồi vào bàn đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau nhiều cuộc tiếp xúc bí mật của Chính quyền Mỹ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra tuyên bố “sẽ cử đại diện tiếp xúc với đại diên Mỹ”. Ngày 13-5-1968, cuộc đàm phán giữa phái đoàn Việt Nam do ông Xuân Thủy dẫn đầu và phái đoàn Mỹ do ông Averell Harriman lãnh đạo đã chính thức khai mạc tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Kle’ber, Paris, mở ra thời kỳ “đánh và đàn” lâu nhất trong lịch sử Việt Nam từ tháng 5-1968 đến tháng 2-1973.

Tác động tới việc hoạch định chiến lược mới của Tổng thống Nixon

Ngày 20-1-1969, Nixon chính thức nhậm chức Tổng thống, tiếp quản Nhà Trắng. Trên cương vị mới, ông đã thừa nhận: “Cuộc chiến tranh Việt Nam đã gây ra sự căng thẳng gay gắt với nước Mỹ không riêng về kinh tế, quân sự mà cả xã hội cũng như chính trị. Sự bất đồng gay gắt đã xé nát cơ cấu đời sống tinh thần của nước Mỹ và bất kể kết quả chính trị như thế nào, vết “xé rách” còn lâu mới lành”.

Những khó khăn trong nước và sự thất bại trên thế giới đã làm cho địa vị của Mỹ trên trường quốc tế suy giảm. Trước tình hình đó, Chính quyền Nixon chủ trương điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách chiến tranh ở Nam Việt Nam. Chiến lược toàn cầu mới của Mỹ ra đời mang tên “Học thuyết Nixon” và vận dụng vào miền Nam là “Việt Nam hóa chiến tranh” gồm 2 kịch bản:

- Nhanh chóng và dứt khoát thương thuyết giải quyết cuộc chiến cho các phe tham chiến.

- Dần dần trao lại trách nhiệm phòng thủ cho người miền Nam Việt Nam, do đó giảm thiểu sự can thiệp của Hoa Kỳ.

Và hơn cả, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã tạo ra một “hội chứng Việt Nam” luôn hiện hữu trong lòng nhiều thế hệ người Mỹ và cả trong lịch sử nước Mỹ hiện đại.
PGS.TS Phạm Xanh
(Nguyên giảng viên Khoa Lịch sử, trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG Hà Nội) 

Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60

Làn sóng biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam rầm rộ trong lòng nước Mỹ và nhiều nước khác đã truyền đi thông điệp phản chiến mạnh mẽ những năm 60 và đầu 70, là một trong các nhân tố quan trọng dẫn đến kết thúc cuộc chiến cách đây tròn 40 năm.
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Một nhóm sinh viên nữ tại Đại học California, Berkeley, Mỹ, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Phần lớn phong trào chống chiến tranh bắt đầu từ các trường đại học với các tổ chức như Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS). Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Mark Rudd, từ Đại học Columbia, tổ chức cuộc biểu tình sinh viên năm 1968, dẫn đến việc chiếm đóng 5 tòa nhà chính quyền và khiến trường phải tạm ngừng hoạt động. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Ngày 15/11/1969, hơn 500.000 người đổ xuống đường ở Washington, D.C., tham gia một trong những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Mỹ. "Một đội quân bất bình lớn nhưng ôn hòa ​​di chuyển qua thành phố", tờ New York Times vào thời điểm đó đưa tin về sự kiện này. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Ngày 30/4/1970, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố cần điều thêm 150.000 lính đến Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình quy mô lớn tại các trường đại học trên khắp nước Mỹ. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Tại Đại học Kent State ở Ohio, Cảnh vệ Quốc gia đối đầu những người biểu tình sau khi một tòa nhà bị đốt cháy. Lực lượng cảnh vệ nổ súng vào sinh viên, khiến 4 người thiệt mạng và làm 8 người bị thương. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Những nghệ sĩ nổi tiếng biểu diễn trong một cuộc biểu tình phản đối Mỹ ở Stockholm, Thụy Điển năm 1965. Ảnh: Holger Ellgaard
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Biểu tình tại Vancouver, Canada năm 1968. Ảnh: John Hill
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Đoàn người xuống đường trong thời tiết giá rét để biểu tình tại Lund, Thụy Điển. Ảnh: Wiki
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Ba người đàn ông đeo biển "Mỹ, hãy ra khỏi Việt Nam" đứng trước Lãnh sự quán Mỹ tại The Hauge, Hà Lan năm 1967. Ảnh: Nationalarchivebot
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Hàng nghìn sinh viên Đại học Washington, Mỹ chiếm đóng một đường cao tốc ngày 5/5/1970. Ảnh: Tomhayden
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Cảnh sát xử lý một cuộc biểu tình tại Đại học George Washington năm 1971. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Cựu binh tại Washington D.C. phản đối cuộc chiến ở Đông Dương bằng cách vứt huy chương và đồng phục của họ qua hàng rào trước tòa nhà quốc hội Mỹ Capitol. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Năm 1965, khoảng 50 giảng viên đại học tại Michigan, Mỹ tổ chức một diễn đàn để phản đối chiến tranh Việt Nam. 3.000 người tham dự sự kiện này với các hoạt động gồm tranh luận, thuyết giảng và biểu diễn âm nhạc, tất cả nhằm mục đích giáo dục cộng đồng về hòa bình.
"Điều thấy được từ sự kiện này là chúng ta có thể làm nên khác biệt chỉ trong một đêm", Giáo sư triết học Frithjof Bergmannm, nhà tổ chức chính của hoạt động nói. Trong ảnh, giáo sư Frithjof Bergmann (phải) và nhà hoạt động Alan Haber hồi tháng ba tham dự lễ kỷ niệm 50 năm tổ chức sự kiện này. Ảnh: Michigandaily
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Ngày 17/3/1968, khoảng 80.000 người biểu tình tại quảng trường Trafalgar, Anh phản đối chiến tranh tại Việt Nam và việc chính phủ Anh hỗ trợ Mỹ. Ảnh: lib.berkeley.edu
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Tariq Ali (phải), lãnh đạo Phong trào Việt Nam Đoàn kết tại Anh, và nữ diễn viên Vanessa Redgrave thông báo với người biểu tình rằng họ sẽ đưa thư phản đối đến Đại sứ quán Mỹ. Ảnh: home.bt.com 
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Hai người sau đó dẫn đầu khoảng 8.000 người biểu tình đến trước cửa Đại sứ quán Mỹ, nơi được hàng trăm cảnh sát bao quanh bảo vệ. Nhóm của Redgrave được phép chuyển thư, nhưng đám đông bị chặn lại. Cảnh sát dùng đất đá, pháo và bom khói để giải tán đám đông. Khoảng 300 người bị bắt giữ, hơn 50 người biểu tình và 25 cảnh sát phải nhập viện. Ảnh: The Guardian
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Lá cờ Mỹ với biểu tượng phản chiến được giơ cao trong cuộc biểu tình ở Washington D.C. Ảnh: history.com
Phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60
Jan Rose Kasmir, vào thời điểm đó là học sinh cấp ba, tham gia cuộc diễu hành đến Lầu Năm Góc để phản đối chiến tranh Việt Nam tháng 10/1967. Hình ảnh cô cầm hoa đứng trước hàng cảnh vệ được nhiếp ảnh gia người Pháp Marc Riboud ghi lại đã trở thành biểu tượng của phong trào phản chiến.
"Cô ấy chỉ nói chuyện, cố gắng thu hút sự chú ý của những người lính, có thể là đang cố gắng trò chuyện cùng họ", Riboud nói trong một cuộc phỏng vấn năm 2004. "Tôi có cảm giác là những người lính còn sợ cố ấy hơn cô ấy sợ những lưỡi lê".
Phương Vũ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét