Thứ Tư, 23 tháng 1, 2019

CUỘC CHIẾN THẦN THÁNH 44/12

-Xét được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người, và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! 
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là danh lợi. 
-Xét như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát kiếp nô lệ.
-Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó như là của thần thánh.
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người thực sự phải biết tôn sùng cuộc sống, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm phạm, hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai, hoặc triệt tiêu hận thù.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau? 
-Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!?
-Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ! 

-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình,Tập 12

Miền Nam chiến đấu chống “Việt Nam hóa” chiến tranh, phối hợp với Lào và Campuchia chống “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ (1969 - 1973) .

Thứ bảy - 25/11/2017 11:06
Nhân dân hai miền Nam Bắc trực tiếp đương đầu với đế quốc Mĩ xâm lược (1965 - 1973). Miền Nam chiến đấu chống “Việt Nam hóa” chiến tranh, phối hợp với Lào và Campuchia chống “Đông Dương hóa chiến tranh” của Mĩ (1969 - 1973) .
1. Chiến lược “Việt Nam hóa” và “Đông Dương hóa” chiến tranh của Mĩ

- Đầu năm 1969 Nichxơn lên làm tổng thống và đề ra học thuyết Nichxơn, về chính trị là “chiến lược hòa bình” về quân sự là chiến lược “ngăn đe thực tế”, thay thế cho chiến lược “phản ứng linh hoạt” đã bị thất bại.

- Áp dụng học thuyết Nichxơn vào Việt Nam và Đông Dương, quân Mĩ đã cho thực nghiệm “Việt Nam hóa”“Đông Dương hóa” chiến tranh.

- “Việt Nam hóa” chiến tranh là hình thức chiến tranh thực dân mới của Mĩ được tiến hành bằng quân đội ngụy tay sai, có sự hỗ trợ đáng kể của lực lượng chiến đấu Mĩ, do cố vấn Mĩ chỉ huy với trang bị hỏa lực của Mĩ để chống lại cách mạng và nhân dân miền Nam.

- Thực chất của “Việt Nam hóa”“Đông Dương hóa” chiến tranh là nhằm làm giảm bớt xương máu của Mĩ trên chiến trường, xoa dịu dư luận của nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới, tiếp tục thực hiện chiến tranh xâm lược.

- Để thực hiện kế hoạch này, Nichxơn đã vạch ra một kế hoạch toàn diện.

* Về quân sự và chính trị:

- Rút dần quân Mĩ và quân chư hầu, tăng quân ngụy lên 1 triệu, tăng cường huấn luyện và trang bị cho quân ngụy.

- Tăng cường viện trợ cho Nguyễn Văn Thiệu, giúp Thiệu củng cố chính quyền.

- Tìm mọi cách ngăn cản các nguồn tiếp tế miền Bắc vào miền Nam, mở rộng chiến tranh sang chiến trường Đông Dương, thực hiện “Đông Dương hóa” chiến tranh, gây chia rẽ giữa 3 nước Đông Dương.

* Về kinh tế:

- Tăng cường viện trợ kinh tế, đưa lương thực, thực phẩm vào miền Nam.

- Dồn tất cả 14 triệu đồng bào miền Nam vào vùng chúng kiểm soát thực hiện cái gọi là “viện trợ” cho đồng bào miền Nam.

* Về văn hóa:

Dùng báo chí, phim ảnh để tuyên truyền, xuyên tạc cách mạng, làm cho thanh niên miền Nam quên đi nỗi nhục mất nước, sẵn sàng đi lính cho Mĩ.

* Về ngoại giao:

- Lợi dụng mâu thuẫn trong các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt là mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc để gây sức ép với ta, cô lập ta.

- “ Việt Nam hóa” chiến tranh là một kế hoạch chiến tranh toàn diện nhưng kế hoạch này cũng chỉ là sản phẩm của thế thua, thế thất bại nên ngay từ đầu nó đã chứa đựng nhiều mâu thuẫn và mang nhiều mầm mống của sự thất bại.

2. Miền Nam đấu tranh chống “Việt Nam hóa” chiến tranh và “Đông Dương hóa” chiến tranh của Mĩ.

- Thừa thắng trong chiến lược chiến tranh cục bộ, Trung ương Đảng quyết định tiếp tục chiến lược tấn công, kiên quyết đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh của Mĩ.

- Thắng lợi chính trị: Mở đầu là ngày 6/6/1969 chính phủ Cách mạng Lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Vừa mới ra đời. Cộng hòa miền Nam Việt Nam được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

- Năm 1969 quân dân miền Nam mở cuộc tấn công chiến lược trên toàn miền Nam, liên tục đánh vào các vị trí, các căn cứ quân sự, các cơ quan, các kho tàng của địch.

- Trong 2 ngày 24 và 25/4/1970, đại diện ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia tiến hành Hội nghị cấp cao khẳng định quyết tâm đoàn kết chiến đấu chống Mĩ của nhân dân ba nước.

- Cũng trong thời gian trên phối hợp chiến đấu, quân dân 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược của 10 vạn quân Mĩ Ngụy, đập tan cuộc hành quân lấn chiếm cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng (Lào).

Từ 12 đến 23/3/1971 quân dân ta có sự hỗ trự và phối hợp chiến đấu của quân dân Lào đã đánh bại cuộc hành quân Lam Sơn 719 của 4,5 vạn quân Mĩ Ngụy tại đường 9 Nam Lào.

* Khắp các đô thị miền Nam phong trào của các tầng lớp nổ ra liên tục, đặc biệt tại các thành phố lớn như: Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, phong trào học sinh, sinh viên nổ ra rầm rộ, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia: “Xuống đường” “Dậy mà đi”.

- Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị... phong trào quần chúng nôi dây phá “ấp chiến lược”, chống “bình định” của Mĩ ngụy.

3. Cuộc tiến công chiến lược 1972

Phát huy thắng lợi trên các mặt trận quân sự, chính trị trong hai năm 1970 - 1971 quân dân ta đã mở cuộc tiến công chiến lược bắt đầu từ 30/03/1972. Mở đầu đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tấn công chủ yếu, từ Quảng Trị phát triển khắp chiến trường miền Nam. Đây là một cuộc tiến công với quy mô lớn và cường độ mạnh.

Sau đòn bất ngờ, quân ngụy với sự yểm trợ của hỏa lực, không quân, hải quân Mĩ, đã phản công lại gây cho ta một số thiệt hại. Lúc đó Mĩ gây trở lại chiến tranh phá hoại miền Bắc trong 12 ngày đêm.

* Kết quả: Sau gần 3 tháng chiến đấu (6/1972) quân dân ta đã giành thắng lợi to lớn, loại khỏi vùng chiến đấu 10 vạn quân Mĩ - Ngụy, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn hơn một triệu dân.

* Ý nghĩa:
Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã tạo một bước ngoặt cho cuộc kháng chiến chống Mĩ, đã giáng một đòn mạnh vào quân ngụy (công cụ chủ yếu) vào quốc sách bình định (xương sống) của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” làm cho chiến lược Việt Nam hóa bị thất bại.
ĐÁNH BẠI CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH" CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (1969 - 1972) 
CHIẾN LƯỢC "BÌNH ĐỊNH" CỦA ĐỊCH VÀ ĐỐI SÁCH CỦA TA
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã làm cho đế quốc Mỹ suy yếu một bước nghiêm trọng về quân sự, chính trị, kinh tế và bị cô lập trên thế giới. Vì vậy, sau nhiều năm leo thang chiến tranh và khi đã leo đến nấc thang cao nhất trong chiến lược "chiến tranh cục bộ" với trên nửa triệu quân Mỹ, chư hầu và một triệu quân ngụy, đế quốc Mỹ đã phải xuống thang chiến tranh, tìm cách rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam trong "danh dự" bằng cách thực hiện "phi Mỹ hóa" rồi "Việt Nam hóa chiến tranh". Thực chất của chiến lược đó là dùng người Việt Nam đánh người Việt Nam thay cho quân đội viễn chinh Mỹ, với bom đạn và đô la của Mỹ, dưới sự chỉ đạo của quân phiệt Mỹ. Với chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", Tổng thống Mỹ Ních-xơn chủ trương sử dụng sức mạnh quân sự tối đa và tiến hành cùng một lúc ba loại chiến tranh: chiến tranh giành dân, chiến tranh bóp nghẹt, chiến tranh hủy diệt, nhằm mục tiêu trung tâm là "bình định" nông thôn miền Nam Việt Nam.
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Việt Nam hóa chiến tranh" là một mưu đồ chiến lược hết sức thâm độc của đế quốc Mỹ nhằm kéo dài chiến tranh xâm lược, từng bước rút quân Mỹ ra khỏi Đông Dương mà ngụy quân, ngụy quyền vẫn mạnh lên. Quân Mỹ là chỗ dựa của quân ngụy, chỗ dựa của "Việt Nam hóa chiến tranh", quân ngụy là công cụ chủ yếu để thực hiện "Việt Nam hóa chiến tranh" thay thế dần quân Mỹ.
Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng mùa Hè 1969 và sau đó là Hội nghị lần thứ 18 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, tháng 1- 1970 , đề ra nhiệm vụ:
"Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt được, kiên trì và đẩy mạnh kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến công một cách liên tục và mạnh mẽ... đánh cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy phải suy sụp, tạo điều kiện cơ bản để thực hiện một miền Nam độc lập, dân chủ, hòa bình trung lập, tiến tới thống nhất nước nhà".
Ngày 10 tháng 6 năm 1969, Tổng thống Mỹ Ních-xơn tuyên bố rút 25.000 quân Mỹ khỏi Việt Nam (tương tương 1 sư đoàn). Thì cũng trong ngày 10-6-1969 Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập. Tiếp theo đó, ngày 15-6-1969, Uỷ ban cách mạng lâm thời tỉnh Khánh Hòa ra đời do đồng chí Lê Tụng làm Chủ tịch, các đồng chí Ngũ Hữu Ngật và Trần Văn Quế làm Phó Chủ tịch, Lê Hinh làm ủy viên thư ký, Pi Năng Xà A, ủy viên. Các huyện đều thành lập Uỷ ban Cách mạng lâm thời. Việc thành lập Uỷ ban Cách mạng lâm thời đang trong khói lửa chiến đấu, biểu thị ý chí sắt đá của nhân dân quyết đánh Mỹ, ngụy, giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam.
Từ chiến lược "chiến tranh cục bộ" chuyển sang chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", trước hết đế quốc Mỹ thực hiện "bình định cấp tốc", củng cố ngụy quân, ngụy quyền cơ sở, đào tạo, huấn luyện cán bộ quân sự, chính trị. Hầu hết số ấp trưởng, ấp phó đều được học tập ở Vũng Tàu. Lưới gián điệp và thám báo nhiều tầng, nhiều loại phát triển ở từng thôn, xã, đặt tổ chức "Phượng Hoàng" trùm lên bộ máy tề ngụy, củng cố phân chi cảnh sát, thực hiện kế hoạch "tam giác chiến"1 thường xuyên mở những cuộc hành quân cảnh sát với 4 tầng khui lục: đầu tiên là bọn cán bộ bình định "Phượng Hoàng" chuẩn bị dọn đường, sau đến là bảo an càn quét rồi đến nghĩa quân, dân vệ khui lục, cuối cùng là cảnh sát dã chiến cùng với lực lượng tại chỗ lục soát kỹ từng nhà dân, xăm, đào bới ngoài vườn, trong nhà để tìm hầm bí mật, bắt giết cán bộ nằm vùng. Bằng cách đó, địch siết chặt hơn nữa ách kèm kẹp quần chúng, nhằm vô hiệu hóa hạ tầng cơ sở cách mạng, giành giật nhân dân. Các hoạt động chiêu hồi, chiêu hàng, ly gián, mị dân được bổ sung bằng những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt hơn. Những gia đình có người thoát ly tham gia cách mạng bị buộc phải kêu gọi người thân trở về với "chính nghĩa quốc gia". Sâu độc hơn là thủ đoạn "bôi lem" quần chúng. Đối với ai, chúng cũng giao việc, không làm cũng giao, gây nghi ngờ chia rẽ làm cho cha không tin con, vợ không tin chồng, người làng xóm láng giềng không tin nhau.
Chúng ra sức bắt lính, bắt cả thiếu niên, người già vào phòng vệ dân sự, đôn phòng vệ dân sự lên nghĩa quân, nghĩa quân lên bảo an, tổ chức bảo an thành những liên đội làm nhiệm vụ cơ động địa phương.
Những thủ đoạn bình định mới của địch làm cho cuộc đấu tranh của quân và dân trong tỉnh thêm gay go, phức tạp. Trong hầu hết cán bộ các cấp từ tỉnh đến thôn xã đã diễn ra cuộc đấu tranh tư tưởng để xây dựng quyết tâm bám chiến trường, bám làng, bám dân, tiếp tục chiến đấu.
Giữa lúc sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của quân dân tỉnh nhà bước vào thời kỳ khó khăn, gian khổ, quyết liệt nhất thì Tỉnh ủy nhận được tin sét đánh: đồng chí Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam từ trần vào lúc 9 giờ, 47 phút ngày 3-9-19692, tại thủ đô Hà Nội. Tin Hồ Chủ tịch mất làm cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vô cùng đau xót và thương tiếc. Trong toàn Đảng bộ, từ tỉnh đến huyện và hầu khắp các thôn xã, ngay trong vùng địch kiểm soát, trong các nhà lao đều lập bàn thờ truy điệu Bác. Bọn công an, mật vụ, ngụy quân, ngụy quyền cai ngục, có biết cũng làm ngơ, không dám ngăn cản.
Biến đau thương thành hành động cách mạng, cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ở căn cứ, vùng tranh chấp và vùng bị địch kìm kẹp, tất cả đều tự hứa với lòng mình quyết tâm thực hiện tốt nhất lời chúc Tết đầu năm 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Vì độc lập, vì tự do, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" và Di chúc thiêng liêng của Người để lại trước khi qua đời.
Cả ba vùng chiến lược, miền núi, đồng bằng, đô thị trong tỉnh đã dấy lên cao trào diệt địch, diệt ác, phá kèm và tham gia các hoạt động kháng chiến rất sôi nổi.
Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng tháng 11-1969, có đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, Uỷ viên Ban Thường vụ Khu ủy V về dự, đã tổng kết tình hình, vạch ra phương hướng khắc phục khó khăn, đưa phong trào tiến lên bước phát triển mới.
Vào cuối năm 1970, đồng chí Nguyễn Hồng Châu, Bí thư Tỉnh ủy, đi dự Hội nghị Khu ủy và nhận nhiệm vụ khác. Đồng chí Ngũ Hữu Ngật, Chính trị viên Tỉnh đội được cử làm Bí thư Tỉnh ủy. Những năm 1970-1971 là thời kỳ then chốt của kế hoạch "bình định". Tuy nhiên, mọi cố gắng của Mỹ-ngụy đã không đạt được kết quả. Thời gian này quân Mỹ và chư hầu Nam Triều Tiên dần dần rút về phòng thủ thị trấn, thị xã, quân cảng và các đầu mối giao thông chiến lược, từng bước đưa quân ngụy thay quân Mỹ, chuyển giao quân cảng Cam Ranh, sân bay Nha Trang, cứ điểm tên lửa, ra-đa cho quân ngụy, đưa các thiết bị kỹ thuật quân sự hiện đại và 20 phản lực A.37 vào phi trường Nha Trang, mở rộng và tăng cường phòng thủ Cam Ranh, Nha Trang.
Nha Trang - Khánh Hòa là căn cứ hậu cần quan trọng của Mỹ đối với cả miền Trung và Tây Nguyên, vì thế địch tăng cường phòng thủ, cố bám giữ. Quân số lính Mỹ và chư hầu Nam Triều Tiên ở Khánh Hòa có xê dịch, thay đổi nhưng không những không giảm xuống mà còn tăng lên, cả về quân số và trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh. Năm 1971, ở Khánh Hòa có 26.000 quân Mỹ, 14.000 quân Nam Triều Tiên, 3.840 lính cộng hòa, 7.760 địa phương quân, 4.500 phụ quân, tổng số 56.000 tên, chưa kể các lực lượng vũ trang khác như biệt kích, cảnh sát dã chiến, thám báo, công an, mật vụ chìm, nổi, được giăng ra khắp nơi.
Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng (tháng 7-1971) nhận định:
"Tuy bị thất bại trên chiến trường Đông Dương, ở Nam Lào và bị thất bại nặng trong chiến dịch Xuân-Hè của quân và dân ta, địch càng lún sâu vào thế phòng ngự chiến lược, nhưng chúng vẫn ngoan cố tiếp tục thực hiện chính sách "Việt Nam hóa" với chiến lược "bình định nông thôn" bằng nhiều thủ đoạn xảo quyệt và thâm độc. Chúng đang đẩy mạnh "tam giác chiến", đánh phá hạ tầng cơ sở ta, nhất là trong mùa mưa lụt. Đáng chú ý là hệ thống điệp ngầm".
Hội nghị đặt rất mạnh vấn đề xây dựng, củng cố và phát triển thực lực chính trị, vũ trang ở cơ sở. Báo cáo chính trị trình bày tại hội nghị chỉ rõ:
"Khâu xây dựng và phát triển, nâng chất lượng thực lực chính trị bên trong là khâu có tính chất quyết định cho nhiệm vụ chống bình định, diệt kẹp, giành, giữ dân, làm chủ. Thường vụ các cấp ủy đảng phải trực tiếp chỉ đạo thật chặt, đi sát, có biện pháp cụ thể, cử cán bộ có năng lực tổ chức thí điểm rút kinh nghiệm để chỉ đạo chung".
Hội nghị còn đề cập, thảo luận giải quyết nhiều vấn đề về công tác đấu tranh chính trị, binh vận, công tác thị xã, thị trấn, công tác xây dựng vùng căn cứ miền núi, công tác kinh tế, tài chính, chủ yếu là vận động bảo đảm các nhu cầu vật chất, nhất là về lương thực".
Về công tác xây dựng Đảng, Hội nghị đặt mạnh vấn đề giáo dục tư tưởng, "làm cho nội bộ nhận rõ thời cơ chiến lược, đánh giá đúng địch, ta, thấy bước phát triển mới của tình hình, tin tưởng phấn khởi, nỗ lực phi thường, tạo mọi điều kiện để tranh thủ thời cơ đưa phong trào tiến lên".
Những vấn đề nêu ra trong Nghị quyết Tỉnh ủy lần này là bản tổng kết kinh nghiệm sinh động sau bốn chiến dịch HT mở ra từ năm 1969. Dựa vào đó, Tỉnh ủy tổ chức lại lực lượng vũ trang tập trung tỉnh, huyện theo hướng gọn, nhẹ, tinh nhuệ, cơ động; tổ chức huấn luyện cho bộ đội về phương pháp công tác phát động quần chúng; đưa từng tổ của lực lượng vũ trang huyện cùng sinh hoạt với các đội vũ trang công tác để bám làng, bám dân, xây dựng cơ sở hạ tầng hợp pháp; tổ chức các trận diệt ác táo bạo, gan dạ, đánh mạnh vào lực lượng địch kìm kẹp quần chúng tại xã thôn.
Năm 1969, năm đầu đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh", phong trào cách mạng trong tỉnh đứng trước những thử thách mới. Tỉnh ủy tổ chức, sắp xếp lại lực lượng mở các chiến dịch HT với nội dung giành dân, giành quyền làm chủ.
Trung đoàn Sao Thủy được Quân khu rút đi chiến trường khác, tiểu đoàn đặc công 407 được Bộ Tư lệnh Quân khu điều vào chuyên hoạt động đánh địch ở huyện Cam Ranh. Các đơn vị đặc công của tỉnh và của Quân khu đã đánh nhiều trận, diệt nhiều sinh lực địch, như trận đánh vào căn cứ Lam Sơn (Dục Mỹ) diệt và làm bị thương hàng trăm tên địch, phá hủy công sự, vũ khí và nhiều phương tiện chiến tranh. Trận đánh đồn Bàu Cỏ (xã Cam Tân - Cam Ranh) diệt 1 đại đội địch ngay tại căn cứ kiên cố của chúng. Tháng 9-1969, tiểu đoàn đặc công 407 lại đánh trận Lỗ Đất trên bán đảo Cam Ranh, diệt hàng trăm tên Mỹ. Đây là chiến công tiêu diệt một lực lượng lính Mỹ tinh nhuệ, có nhiều sĩ quan. Quân Mỹ hoang mang, báo động và phản ứng trên toàn khu vực. Ta phải xây dựng lực lượng gồm các chiến sĩ bơi giỏi để vượt biển vào đánh các mục tiêu trên bán đảo.
Cho đến tháng 11-1969, các lực lượng vũ trang của tỉnh đã đánh tất cả 316 trận, loại khỏi vòng chiến 6.752 tên địch, trong số địch chết có 1.965 tên Mỹ, 500 tên Nam Triều Tiên, 3 đại đội bị diệt gọn, trong đó có 1 đại đội Nam Triều Tiên, bắn rơi và phá hủy 70 máy bay, đánh chìm 4 tàu thủy, lật nhào 24 đầu máy và 84 toa xe lửa, phá hủy 6 xe quân sự. Du kích hoạt động khá nhất là Bắc Ninh Hòa, Nha Trang, Vĩnh Xương, Diên Khánh. 7.000 dân giành được quyền làm chủ, số dân lỏng kèm là 23.000 người trong phạm vi 29 thôn.
Bước vào năm 1970, lực lượng vũ trang tỉnh được chấn chỉnh. Chấp hành Nghị quyết Quân Khu ủy tháng 9-1969 và Nghị quyết của Tỉnh ủy tháng 11-1969, Ban cán sự và Ban chỉ huy Tỉnh đội tổ chức Hội nghị quân chính toàn tỉnh tại núi Chín Khúc, huyện Vĩnh Sơn. Hội nghị đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Khu ủy và Tỉnh ủy về củng cố và phát triển lực lượng vũ trang theo hướng tinh, gọn, lực lượng tinh nhuệ; bổ sung số lượng và nâng cao chất lượng bộ đội địa phương tỉnh, huyện vừa tác chiến giỏi đủ sức đánh diệt các điểm chốt, các đội bảo an, dân vệ, bình định nông thôn, vừa vận động quần chúng giỏi. Hội nghị còn bàn biện pháp củng cố và phát triển, nâng cao sức chiến đấu của lực lượng du kích ở cả ba vùng miền núi, nông thôn và thành thị, phát triển và kiện toàn các đội tự vệ, đội biệt động trong các thị xã, thị trấn.
Tổng số quân trong các đơn vị bộ đội tỉnh, năm 1970 là 2.383 người (chưa kể tiểu đoàn đặc công 407 trực thuộc Quân khu), biên chế thành 3 tiểu đoàn gồm 2 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn bộ binh. Ngoài ra còn 4 đại đội độc lập, 7 đại đội bộ binh huyện, thị xã, 1 đại đội và 2 trung đội pháo cối, 1 đại đội vận tải bộ, 1 trường quân sự, 1 trại an dưỡng, 3 xưởng: quân giới, dược, may mặc và 2 bệnh xá.
Sau khi đã chấn chỉnh lực lượng, Tỉnh ủy chủ trương mở chiến dịch HT2. Ở hướng Nha Trang, từ ngày 1-3 đến 23-3-1970, các lực lượng vũ trang đã đánh 19 trận, trong đó có 6 trận pháo kích vào sân bay Nha Trang và quận lỵ Diên Khánh. Lần đầu tiên ta dùng tên lửa mặt đất H12 pháo kích vào sân bay Nha Trang giữa ban ngày (hồi 13 giờ ngày 6-4-1970), thiêu hủy 2 bồn xăng chứa trên 8 triệu lít, gây nhiều đám cháy lớn trong khu vực sân bay, làm thương vong nhiều tên Mỹ, ngụy. Sân bay Nha Trang phải ngừng hoạt động đến ngày hôm sau để giải quyết hậu quả.
Trong đợt tấn công này các lực lượng vũ trang thị xã Nha Trang đánh 4 trận, diệt và làm bị thương 13 tên bảo an, dân vệ, ác ôn, du kích, tự vệ mật đánh 9 trận, diệt 82 tên.
Ở hướng Ninh Hòa, bộ đội địa phương huyện đánh 3 trận. Trận pháo kích vào Bộ Tư lệnh sư đoàn 9 Bạch Mã (Nam Triều Tiên) tháng 6-1970 làm cháy 1 máy bay lên thẳng HU1A, 2 nhà kho và làm hỏng 1 khẩu phảo 105 ly.
Du kích xã Ninh Thọ (Ninh Hòa) phục kích địch ban ngày, đánh 1 đại đội Nam Triều Tiên đang hành quân từ núi Ổ Gà ra càn quét các thôn thuộc xã Ninh Thọ. Du kích vừa dùng mìn định hướng "ĐH10" của ta và mìn Clay-mo thu được của địch kết hợp với súng trường, tiểu liên, diệt 37 tên Nam Triều Tiên. Bọn lính Nam Triều Tiên bắt đầu lo sợ lối phục kích bằng mìn của ta, không dám hung hăng như trước.
Trong dợt chiến đấu này, ta loại khỏi vòng chiến trên 2.800 tên địch (trong đó có 116 tên ác ôn), giành quyền làm chủ cho hơn 15.000 dân, làm lỏng kèm trên 39.000 dân (kể cả cũ lẫn mới) trong phạm vi 42 thôn, 62 xóm.
Chiến dịch HT3 bắt đầu từ tháng 7-1970. Chiến dịch triển khai trong điều kiện địch đang thực hiện "bình định đặc biệt" bung quân càn quét, đánh phá cả miền núi và đồng bằng; gần cuối chiến dịch HT3, bão lụt lớn, làm sụp nhiều hầm bí mật, nhưng Đảng bộ và lực lượng vũ trang xác định quyết tâm cao, dồn sức đánh bại chiến dịch "bình định đặc biệt" của địch.
Đoàn bình định do tên An, một ác ôn có nhiều nợ máu chỉ huy, đóng tại thôn Bá Hà (xã Ninh Diêm, huyện Ninh Hòa). Bộ đội địa phương huyện phối hợp với du kích đã tập kích vào đội hình của chúng, diệt 8 tên. Trận đánh diễn ra ở nơi địch đang tiến hành "bình định"; làm cho bọn ngụy quân, ngụy quyền địa phương lo sợ. Ta làm chủ về ban đêm các thôn Ngân Hà, Bá Hà, Thủy Đầm, Mỹ Lương. Ban ngày bọn tề, ngụy làm việc ở trụ sở, tối đến không dám ở lại trong thôn xóm mà kéo ra ngủ ở Hòn Khói, xã Ninh Hải.
Đêm 29 rạng 30 tháng 9 năm 1970, lực lượng vũ trang ta tập kích chi khu quận lỵ Ninh Hòa. Lực lượng của địch ở đây gồm: 1 đại đội bảo an, 3 trung đội nghĩa quân, khoảng 100 tên ác ôn đầu sỏ cấp quận, xã. Trong trận này quân ta đánh thiệt hại nặng 3 trung đội bảo an, 5 tiểu đội nghĩa quân, diệt một số tên ác ôn quận, xã, đánh hỏng 7 lô cốt, 1 nhà ga, 2 nhà lính, 1 đề-pô, phá hủy nhiều vũ khí, đạn dược. Đây là chiến công của tiểu đoàn 480. Trận tập kích đã tác động ảnh hưởng lớn đến tinh thần quân địch. Ngay ngày hôm sau, chúng cấp tốc rút quân, bỏ dở cuộc càn vào vùng căn cứ và giáp ranh, tập trung về phòng thủ quận lỵ. Phát huy chiến thắng, ta đẩy mạnh hoạt động vũ trang ở các xã xung quanh quận lỵ, phát triển cơ sở, thu mua 14 tấn gạo và nhiều hàng hóa khác.
Ngày 20 tháng 10 năm 1970, một phân đội của đại đội 2 tiểu đoàn đặc công 407 tập kích sân bay Mỹ Ca (Cam Ranh), đốt cháy 3 máy bay.
Tháng 12-1970, quân ta tập kích vào khu dồn dân của địch ở Xuân Vinh, Hà Già (xã Vạn Hưng), diệt và làm bị thương 190 tên, gồm 1 đại đội bảo an, 11 đội cán bộ "bình định" và một số ác ôn tề xã. Sau đó, địch buộc phải bỏ luôn kế hoạch lập ấp chiến lược kiểu mẫu Xuân Vinh - Hà Già, quần chúng trở về làng cũ làm ăn.
Nhìn chung trong chiến dịch HT3, quân và dân trong tỉnh đạt yêu cầu cơ bản là chặn đứng, đẩy lùi kế hoạch "bình định đặc biệt", loại khỏi vòng chiến 1.290 tên địch, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng, vùng làm chủ được giữ vững, đồng thời mở thêm một số thôn, xã mới. Phong trào ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận tuy không sôi nổi như trong chiến dịch HT2 nhưng phát triển có chiều sâu, chất lượng cao hơn, thế và lực bên trong khá hơn. Hoạt động của các đội tự vệ mật, việc xây dựng thực lực ở thị xã, thị trấn tiến bộ rõ. Các mặt công tác ở miền núi như tăng gia sản xuất tự túc, cảnh giới bảo vệ cơ quan, đề phòng địch càn quét, vận động nhân dân các dân tộc tham gia vào các hoạt động kháng chiến đều có bước tiến bộ. Thu hoạch vụ đông, vụ mùa đạt kết quả khá.
Bước vào Xuân-Hè năm 1971, tình hình có những chuyển biến lớn. Trên chiến trường toàn miền, lực lượng của địch bị căng ra, lại bị thất bại lớn trên đường 9 Nam Lào, Khe Sanh. Tuy vậy ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, vẫn chưa bị bẻ gãy. Bọn ngụy quân, ngụy quyền dựa vào Mỹ, ngoan cố, điên cuồng tìm mọi cách chống phá cách mạng. Trong cơn giãy chết, Mỹ-ngụy trở nên cực kỳ tàn bạo, tiến công điên cuồng vào quần chúng và cơ sở ta. Hàng ngàn người bị bắt, hàng trăm gia đình bị chúng khống chế nghiêm ngặt, làm cho thực lực cách mạng ở một số nơi giảm sút.
Ở miền núi, địch tổ chức nhiều cuộc hành quân quy mô lớn với lực lượng hỗn hợp quân Mỹ-ngụy, Nam Triều Tiên, có khi đến 2 trung đoàn, có sự hỗ trợ của các loại máy bay, kể cả máy bay chiến lược B52, thả bom bi, bom phá, bom hơi độc, hóa chất độc gây căng thẳng trong vùng căn cứ. Trong các đợt càn 6 tháng đầu năm 1971, địch đốt 33 kho, 1200 giạ lúa, bắp, giết và bắt 90 con heo, lùa xúc 25 người dân. Nhưng địch cũng phải trả giá đắt, bởi lẽ từ năm 1969, phong trào nhân dân du kích chiến tranh ở miền núi Khánh Hòa lên đều và vững chắc, nổi nhất là phong trào dùng súng trường bắn máy bay địch. Nếu trong năm 1969 mới chỉ có du kích Ba Cụm, Tô Hạp (Khánh Sơn) bắn rơi 2 và bị thương 6 máy bay địch, thì năm 1970, du kích 3 huyện bắn rơi và bị thương 59 chiếc (có 16 chiếc rơi tại chỗ), 3 tháng đầu năm 1971 bắn rơi và làm bị thương 34 chiếc (11 chiếc rơi tại chỗ). Trong thành tích dùng súng trường bắn rơi máy bay địch, nổi bật lên những gương sáng: em Xê 15 tuổi bắn rơi 1 chiếc, 1 cụ lão du kích ở Sơn Lâm bắn rơi 1 chiếc, chị Đinh, chị Bảng ở Ba Cụm, Là Út ở Liên Sang bắn bị thương 2 chiếc, du kích Liên Sang bắn rơi 3 chiếc. Du kích Giang Ly bắn rơi 1 chiếc, diệt 10 tên địch, du kích Sơn Thành bắn bị thương 2 máy bay, diệt 20 địch. Miền Một3 bắn rơi tại chỗ 2 máy bay, diệt 44 tên địch bằng chông, cung.
Trình độ tác chiến, hiệu quả chiến đấu của du kích ngày càng cao. Cách đánh sáng tạo, nhiều trận tập kích xuất sắc vào sân bay, trận địa pháo, nơi đóng quân của địch.
Nữ đồng chí Hạ, huyện ủy viên, kiêm bí thư chi bộ, chính trị viên xã đội Khánh Trung (nơi cơ quan huyện ủy đóng) đã chỉ đạo du kích với AK và thượng liên, dựa vào các gộp đá, tập kích sân bay dã chiến Hòn Xã giữa ban ngày, diệt 3 máy bay trực thăng. Cùng ngày, một tổ 3 chiến sĩ phối hợp với du kích địa phương tập kích sân bay dã chiến Hòn Mưa phá hủy 4 máy bay trực thăng, diệt 42 tên địch.
Trong chiến đấu chống càn nổi lên nhiều gương chiến đấu gan dạ, mưu trí. Du kích thôn A Xây xã Khánh Nam (Vĩnh khánh) trong 1 ngày bắn rơi 7 máy bay, diệt 49 tên địch. Tổ thượng liên do xã đội trưởng Ma Xanh chỉ huy đã lập công xuất sắc bắn máy bay địch. Tổ du kích 3 chiến sĩ do đồng chí Tài làm tổ trưởng đã chiến đấu dũng cảm đến viên đạn cuối cùng, hy sinh anh dũng.
Huyện ủy Vĩnh Khánh đã tổng kết kinh nghiệm, tuyên dương thành tích chiến đấu dũng cảm của du kích thôn A Xây tổ chức chống càn có hiệu quả cao, bảo vệ nhân dân, bảo vệ nơi đóng cơ quan đầu não của tỉnh.
Cuộc đổ quân của địch xuống thôn A Xây chỉ trong một ngày phải rút. nhưng sau đó chúng mở tiếp cuộc càn 25 ngày trên toàn địa bàn huyện Vĩnh Khánh. Bộ chỉ huy cuộc hành quân đóng ở Sở Năm Lân. Địch rải quân suốt từ sông Cái đến sông Chò, bố trí công sự trên hầu hết khắp các đỉnh núi cao, xây dựng sân bay dã chiến ở Hòn Xã, Hòn Mưa. Huyện ủy đã huy động mọi lực lượng sử dụng hầm chông, bẫy đá, mang cung, tên tẩm thuốc độc, kết hợp với súng trường, tiểu liên AK, thượng liên đánh địch.
Trong trận chống càn tháng 6-1971, xã đội trưởng Bo Bo Tới, người dân tộc Raglay đã có sáng kiến tháo gỡ mìn của địch để tiêu diệt địch. Dự đoán đúng nơi địch định đổ quân, anh gài mìn ở đó ba lần như vậy. Mỗi lần máy bay địch đổ quân xuống đỉnh núi Tà Nỉa, mìn của ta nổ tung, cả máy bay và lính Mỹ tan xác. Địch phải rút bỏ chốt Tà Nỉa. Từ sáng kiến độc đáo này, huyện ủy Khánh Sơn rút kinh nghiệm, phổ biến cho nhiều nơi, gây thành phong trào gỡ mìn địch để gài đánh địch, bảo vệ căn cứ của tỉnh, huyện, bảo vệ buôn làng. Đồng chí Mấu Năm, xã đội trưởng Ba Cụm, trong trận càn đã diệt 22 lính Nam Triều Tiên, 1 lính Mỹ, 15 lính ngụy, bắn rơi 1 chiếc máy bay trực thăng và 1 chiếc bị thương.
Tác chiến đánh địch có hiệu quả, một phần quan trọng là nhờ bố phòng tốt. Năm 1969, cả vùng căn cứ Khánh Sơn, từ cán bộ lãnh đạo, chiến sĩ, du kích và đồng bào đều tham gia bảo vệ cơ quan, buôn làng. Cả huyện đã bỏ ra khoảng 4.000 ngày công để làm công tác bố phòng, cắm hơn 3 triệu cây chông các loại, đào nhiều hầm hào, làm nhiều loại cạm bẫy, cung ná... Năm 1970, chỉ riêng 2 huyện miền núi Vĩnh Khánh, Vĩnh Sơn, số công bố phòng đã lên đến 3.388 công, gần bằng số công của cả 3 huyện trong năm 1969. Hầm chông, mang cung, tên thuốc độc, đã phát huy tác dụng sát thương địch, hạn chế được sục xạo phá phách của địch trong các cuộc càn, hạn chế bọn biệt kích, gián điệp len lỏi vào căn cứ.
Song song với bố phòng cảnh giới trong khu vực và ngoài khu vực cơ quan, du kích còn luân phiên nhau tuần tra phía trước, đề phòng và kịp thời phát hiện, diệt bọn điệp báo, biệt kích ở vùng giáp ranh. Trong 6 tháng đầu năm 1971, huyện Khánh Sơn đã huy động 7.750 ngày công tuần tra. Nhờ vậy mà bộ đội và du kích đã kịp thời phát hiện và diệt nhiều tổ thám báo, biệt kích đột nhập khu căn cứ.
Năm 1971, Tỉnh ủy và các cơ quan lãnh đạo tỉnh đã phát động chiến dịch truy quét địch trong toàn căn cứ, lấy xã Khánh Bắc làm thí điểm. Huyện Khánh Sơn lấy xã Ba Cụm, huyện Vĩnh Sơn chọn xã Sơn Phú làm thí điểm tổng quét điệp. Kết quả chiến dịch, ta đã phát hiện hầu hết số điệp ngầm trên toàn địa bàn, làm trong sạch nội bộ nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị.
Mỹ-ngụy còn đánh phá ta dữ dội về kinh tế. Chúng phong tỏa mọi ngả đường tiếp tế lương thực, thực phẩm, thuốc men, hàng nhu yếu phẩm từ miền xuôi lên căn cứ miền núi. Chúng triệt phá các rẫy trồng lúa, bắp; rải hóa chất độc tràn lan, rải nhiều đợt liên tiếp trên các rừng cây, sông suối, ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào, việc sản xuất tự túc gặp muôn vàn khó khăn. Đứng trước tình hình đó, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vẫn bám đất, bám rẫy sản xuất, vụ này mất mùa thì làm vụ khác, cây này hư thì trồng cây khác. Đợt trồng mì HT tháng 8-1969, đạt 6 triệu gốc (đồng bào 5,5 triệu, cán bộ, chiến sĩ nửa triệu). Tuy bị thiên tai, địch họa, nhưng tổng thu hoạch bắp, lúa năm 1969 tăng hơn năm 1968. Số lương thực nhân dân đóng góp cho cách mạng mỗi năm một tăng, năm 1967: 17.000 giạ lúa, bắp, năm 1968: 18.000 giạ, năm 1969: trên 19.000 giạ.
Một chuyển biến nổi bật là từ năm 1970 nhân dân các dân tộc miền núi đã mạnh dạn xuống các vùng thấp, bám các vùng đất màu mỡ để sản xuất, trồng trỉa các cây lương thực ngắn ngày, đồng thời tổ chức canh giữ chống thú rừng, chống địch rải chất độc hóa học. Những mùa đầu đạt kết quả tốt; được khích lệ, số người xuống thấp sản xuất ngày một tăng thêm, sản lượng thu được ngày càng nhiều. Sản lượng bình quân nhân khẩu năm 1972 đạt 180 kg chất bột (tương đương 300 kg thóc). Nhu cầu làm ăn tập thể phát triển mạnh, 30 tổ hợp tác vần công được đồng bào tự giác xây dựng, đạt tỷ lệ 14% tổng số lao động. Việc sản xuất nông cụ được chú ý phát triển, thành lập 167 lò rèn, sản xuất cuốc, rựa, bình quân mỗi lao động 1 cái rựa.
Phong trào sản xuất tự túc phát triển khá tốt, dù cán bộ chiến sĩ ta thường trực chiến đấu, phải thường xuyên công tác cơ động nay đây, mai đó, lại bị địch phá hoại khốc liệt, thời tiết không thuận. Mì trở thành lương thực chính trong đời sống của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ở vùng căn cứ. Một số ngành nghề thủ công phát triển. Nhờ chăn nuôi heo, gà và trồng mì, khoai, các loại đậu khá dồi dào giúp đồng bào, chiến sĩ ta không đói trong những ngày giáp hạt, lại còn dành được một phần để đổi lấy muối, vải, giải quyết nạn lạt, rách, vốn là bệnh kinh niên đối với đồng bào các dân tộc miền núi.
Chẳng những nhân dân xuống thấp, sử dụng đất soi, đất nà để sản xuất, mà các cơ quan tỉnh: Tỉnh ủy, Tỉnh đội, các ban, ngành, đoàn thể, các đơn vị bộ đội ở phía trước cũng xuống tận Suối Thơm, Bến Khế là những vùng đất bằng phẳng, màu mỡ, để trồng các loại hoa màu. Ở Nam sông Cái, tiểu đoàn 480 cũng xuống thấp để sản xuất và đạt kết quả tốt, tiết kiệm thời gian công tác và tránh được nguy hiểm khi phải xuống vùng địch kiểm soát mang lương thực lên căn cứ.
Từ năm 1969, Trung ương và Khu ủy Khu V từng bước chi viện cho Khánh Hòa về vũ khí, đạn dược, thuốc men và bổ sung quân từ miền Bắc vào, đi theo đường B3 (Đắc Lập) và Tang Rang (Đắc Lắc) phía Nam đường 21. Đây là nguồn động viên lớn đối với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong tỉnh. Tuy nhiên sự chi viện của hậu phương lớn và của Khu ủy không được nhiều vì việc vận chuyển hết sức khó khăn gian khổ. Các chiến sĩ giao vận phải cõng, vác hàng, phải vượt qua rừng núi, đèo, dốc, sông suối để đưa hàng đến địa điểm tập kết. Trên đường đi các chiến sĩ phải đề phòng bom đạn địch luôn đe dọa tính mạng, hàng hóa; mặt khác lại phải chống bọn thám báo, biệt kích thường phục trên đường đi. Mỗi tấn hàng đến được Khánh Hòa, các chiến sĩ vận chuyển phải mất không biết bao công sức, mồ hôi, xương máu.
Để khắc phục tình trạng trên, trong chiến dịch HT4, Tỉnh ủy chủ trương động viên chiến sĩ, cán bộ, đồng bào phát huy tinh thần tự lực, tự cường, tự lo hậu cần để phục vụ chiến đấu. Từ tháng 4-1971, liên tục trong hơn 120 ngày đêm chiến đấu, ta phá vỡ các trận càn của Mỹ-ngụy đánh vào căn cứ miền núi, quầng trụ đánh địch ở đồng bằng, loại ngoài vòng chiến 2.735 tên địch, trong đó có 205 tên Mỹ, 208 lính Nam Triều Tiên và 265 lính ngụy Lon-non (Campuchia). Ba phần tư số lính ngụy bị diệt là lực lượng kìm kẹp ác ôn.
Ngày 18-7-1971, một đơn vị của tiểu đoàn đặc công 407 đánh sân bay Quảng Cơ trên bán đảo Cam Ranh, phá hủy 35 triệu lít xăng, dầu. Tiếp đó, ngày 21-9-1971, đại đội 5 tiểu đoàn 407 lại tập kích kho bom núi Ké. Tham gia trận đánh có 6 chiến sĩ, do đồng chí Hà Thuận, đại đội phó chỉ huy. Kết quả ta đã phá hủy 55.000 tấn bom đạn, trong số đó có 1 kho đạn rốc-két và loại bom nặng 7 tấn, phá hủy 5 xe bọc thép M113. Đây là những trận tiến công tầm cỡ, đặc sắc của tiểu đoàn đặc công 407. Các chiến sĩ của tiểu đoàn, bằng chiến công lừng danh của mình đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang Khánh Hòa hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao trong chiến dịch HT4.
Điểm nổi bật của chiến dịch HT4 là đánh giá địch, ta đúng, hạ quyết tâm chính xác, vạch ra phương án tác chiến hợp lý. Ta dùng lực lượng nhỏ - bộ đội đặc công, bộ đội địa phương tỉnh, huyện, du kích mật, quầng lót, đánh kích, diệt ác đi đôi với phá kèm, tạo điều kiện giành dân, giành quyền làm chủ. Các cuộc tiến công địch diễn ra vào ban đêm, nhưng không hiếm trường hợp các phân đội lẻ, đội công tác hoặc cá nhân chiến sĩ diệt ác ôn giữa ban ngày. Riêng ở Diên Khánh và Nam Ninh Hòa, chỉ trong 10 ngày, các lực lượng vũ trang ta diệt 35 tên ác ôn khét tiếng, làm rung chuyển hệ thống ngụy quân, ngụy quyền từ tỉnh đến thôn xã. Chúng phải điều đoàn xe bọc thép về Nha Trang tăng cường phòng giữ sào huyệt của chúng. Địch còn điều thêm các đơn vị bảo an ở các chốt điểm và bảo vệ các quận lỵ, đề phòng ta tiếp tục tiến công. Quân chư hầu Nam Triều Tiên phải bỏ dỡ cuộc càn quét quay về phòng giữ căn cứ. Ngụy quân và một số tề thôn, xã chạy giạt, lánh, tránh. Phòng vệ dân sự ở một số nơi trả súng, trốn hoặc tan rã.
GIÀNH DÂN, GIÀNH QUYỀN LÀM CHỦ
Chính sách thực dân kiểu mới và các thủ đoạn "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ đã gây nhiều biến động trong đời sống của nhân dân. Phần lớn các gia đình ở Khánh Hòa đều có quan hệ với bộ máy ngụy quyền, ngụy quân. Số bị bắt lính, bắt làm tề, điệp tăng lên. Ở một số thôn, số đi lính ngụy có ba, bốn trăm người, như Phú Thọ huyện Bắc Ninh Hòa, 22 trong tổng số 37 gia đình ở thôn Vạn Hữu có người đi lính ngụy. Thôn có phong trào cách mạng khá như Đại Điền Nam (huyện Diên Khánh), số lính ngụy tại ngũ cũng lên tới 180 người. Có những tên đi sâu vào tội ác, có quyền lợi dính liền với địch như tên Xích, phó chi công an quận Ninh Hòa và tên Đỏ, ác ôn, trước đây nghèo xơ xác, nay trở nên giàu có nhất vùng.
Từ những người nông dân cần cù chất phác, nay bị tiêm nhiễm lối sống lai căng, ngày càng phụ thuộc vào địch. Nhiều phụ nữ nông thôn theo chồng vào sống trong khu gia binh, hoặc làm sở Mỹ, làm tăng thêm tính phức tạp trong đời sống, trong quan hệ chính trị và tình cảm gia đình. Tình trạng một gia đình, hai trận tuyến không phải là cá biệt, một bộ phận nhân dân sinh cầu an, không dám liên hệ với kháng chiến, sợ bị địch bắt, tù tội, tan nát cửa nhà.
Khánh Hòa là chiến trường vùng sau lưng địch. Từng thời kỳ, nơi này, nơi khác có được giải phóng, nhưng trong 20 năm chiến tranh, ở đồng bằng chưa có một vùng giải phóng nào tương đối hoàn chỉnh và dài ngày. Các chính sách của Đảng về tổ chức đời sống và những cải cách dân chủ chưa thâm nhập vào quần chúng, lại bị chiến tranh tâm lý của địch hàng ngày xuyên tạc làm cho một bộ phận nhân dân không tránh khỏi hiểu sai về Đảng, về những người cộng sản, về đường lối kháng chiến của Đảng.
Một số cán bộ đảng viên cho đó là mặt tiêu cực của quần chúng, từ đó thiếu tin tưởng vào tinh thần yêu nước và ý chí cách mạng của họ. Những đồng chí này không nhìn nhận đúng đắn khách quan một thực trạng chính trị phức tạp, là nỗi lo âu, day dứt của quần chúng, mà Đảng phải có biện pháp giải quyết thỏa đáng.
Đấu tranh để đánh giá đúng khả năng cách mạng của quần chúng là vấn đề lớn, được trao đổi, tranh luận trong nhiều hội nghị các cấp ủy đảng và trong các đợt sinh hoạt chính trị khác. Nói chung, các cấp ủy đảng, đảng viên đều có nhận thức nhất trí quan điểm: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Nhưng trong các hoạt động cụ thể về diệt ác, phá kèm, tổ chức và phát động quần chúng giành quyền làm chủ, một số cán bộ, đảng viên tỏ ra thiếu tin tưởng ở khả năng cách mạng to lớn của quần chúng.
Hội nghị Tỉnh ủy tháng 5-1969, chủ trương mở chiến dịch HT với nội dung chủ yếu là diệt ác, phá kèm, giành dân, giành quyền làm chủ, giải quyết những biểu hiện tiêu cực về đánh giá địch, ta trong một số cán bộ, chiến sĩ. Đến tháng 11-1969, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị tổng kết, nhận định: kết quả đạt được tuy còn ít nhưng đó là cố gắng lớn của Đảng bộ, là cơ sở tốt cung cấp những bài học kinh nghiệm qúy báu, tạo điều kiện thuận lợi đưa phong trào tiến lên trong thời gian tới.
Điều đặc biệt trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước là quần chúng đứng dậy làm chủ ngay trong vùng địch đóng quân, thực hiện nguyên lý đã được thực tế kiểm nghiệm là làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Những điểm đã đúc kết thành tiêu chuẩn của vùng làm chủ, là:
- Có tổ chức chỉ đạo tại chỗ, thực sự làm nòng cốt và chỉ đạo quần chúng.
- Quần chúng kết hợp đấu tranh ba mũi giáp công - quân sự, chính trị, binh vận để giữ quyền làm chủ, vô hiệu hóa sự kìm kẹp của địch.
- Huy động được nhân tài, vật lực trong quần chúng.
Tranh chấp, làm chủ là các hình thức đấu tranh giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Do đó liên tục có những vùng bị chiếm trở thành tranh chấp, tranh chấp tiến lên làm chủ. Có khi bị địch tạm líp lại, từ làm chủ trở thành tranh chấp lỏng kèm, hoặc bị tạm chiếm.
Tính chung cả cũ lẫn mới, trong 6 tháng đầu năm 1971, vùng làm chủ có khoảng 25.000 dân trong 24 thôn, 6 xóm. Mặc dù địch ra sức đánh phá, bắt bớ, các vùng làm chủ Ninh An, Ninh Thọ (Bắc Ninh Hòa), Phú Hòa, Vạn Hữu (Nam Ninh Hòa), Đại Điền Nam (Diên Khánh), Phú Ân, An Ninh, Đồng Nhơn, Bút Sơn (Vĩnh Trang), căn bản được giữ vững và phát triển chất lượng được nâng lên. Tuy địch có nhiều thủ đoạn khủng bố ác liệt, nhưng phong trào vẫn giữ vững. Quần chúng tiến công giành từng thắng lợi và nổi dậy phá thế kèm kẹp. Họ kiên cường trụ bám, mua bán lương thực, thực phẩm tiếp tế cho cách mạng, gia đình có con đi thoát ly tham gia cách mạng, hoặc nuôi giấu cán bộ trong nhà mà không sợ địch khủng bố. Đó là hiệu quả, sức mạnh của phương châm đấu tranh bằng ba mũi giáp công (đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận kết hợp), mà quần chúng qua sự cọ xát với địch, tự bản thân nghiệm thấy được sức mạnh diệu kỳ đó, cho nên họ rất tin tưởng.
Để tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy, ta tiến hành diệt ác, trị điệp trên một diện rộng. Một nửa số địch bị diệt trong chiến dịch HT3 và trong 6 tháng cuối năm 1970 là lực lượng kèm kẹp và ác ôn (116 ác ôn). Không những ta diệt kèm bên dưới mà còn đánh bọn đầu sỏ bên trên, đánh thiệt hại chi khu Diên Khánh, làm rung chuyển bọn bên dưới. Địch phân tán cũng bị diệt như đoàn "bình định" ở Gò Cà, cụm lại cũng bị diệt như ở Diên Sơn. Nhiều trận diệt ác rất mưu trí, dũng cảm, như trường hợp ta lót, diệt tên công an quận Ninh Hòa và ấp trưởng, ấp phó Xuân Mỹ (xã Ninh Thọ), diệt tên ác ôn làm nhiệm vụ "bình định" ở xã Ninh Giang, diệt tên thám báo quận Vĩnh Xương, đánh bọn ác ôn ở Diên An, làm chết và bị thương 9 tên, bắt sống 1 nữ thám báo, kiêm huấn luyện viên phòng vệ dân sự quận Diên Khánh, diệt tên ấp trưởng ở Mỹ Đồng (Vạn Ninh). Các trận diệt ác phần lớn diễn ra ban ngày, trở thành phổ biến ở nhiều địa phương.
Hoạt động diệt ác ôn của các lực lượng vũ trang đã làm cho bọn địch ở thôn xã và quận dao động mạnh, tinh thần sa sút rõ rệt. Bọn ác ôn lưu vong ngày càng nhiều, chúng lẩn trốn ở vùng sâu. Một số tên ra thanh minh tội ác với nhân dân mong bảo toàn tính mạng. Bộ máy ngụy quyền bị tê liệt ở nhiều nơi.
Đi đôi với việc diệt ác, phá kèm, trị điệp báo, ta còn phá rã lực lượng phòng vệ dân sự ở các xã Nam, Bắc Ninh Hòa. Cán bộ lãnh đạo đã vào bám bên trong quận lỵ Ninh Hòa để trực tiếp chỉ đạo phong trào. Chi bộ ở đây có 5 đảng viên, 2 tổ tự vệ mật hoạt động liên tục đánh địch nhiều trận, đào hầm bí mật, xây dựng cơ sở hợp pháp ở tất cả các khu phố trong quận lỵ. Trong đợt 1 của chiến dịch HT3, ta phá rã phòng vệ dân sự ở 5 thôn: Hiệp Thịnh, Hòa Thuận, Phú Hòa, Vạn Hữu, Ngọc Diêm Hạ.
Thành công của Nam Ninh Hòa là cán bộ ta đã biết sử dụng lực lượng cơ sở bên trong kết hợp với lực lượng bên ngoài, hoặc dùng áp lực của quần chúng để giải tán phòng vệ dân sự.
Thông qua diệt ác, phá kèm, việc xây dựng thực lực, xây dựng cơ cấu tổ chức bên trong có nhiều tiến bộ. Ở thôn Vạn Hữu, sau khi diệt tên thám báo, cơ sở ta tự đứng ra xây dựng thực lực. Chỉ trong 15 ngày đã ghép được 6 tổ nữ, 1 tổ binh vận, 1 tổ du kích. Ở Đại Điền, Diên An, Diên Toàn, Diên Thủy, Diên Phước (huyện Diên Khánh) và một số nơi khác dã thành công trong việc dùng cơ sở tại chỗ xây dựng và phát triển thực lực bên trong. Trong những năm 1970-1971, tại Vĩnh-Trang4 có 5 thị ủy viên, 6 ủy viên Ban chấp hành phụ nữ giải phóng, 6 ủy viên Ban chấp hành Thị đoàn thanh niên nhân dân cách mạng đều là nữ sống hợp pháp, bám trụ hoạt động bên trong thị xã. Tại thôn Lập Định (Cam Ranh) xây dựng được chi bộ đảng có 3 đảng viên hoạt động hợp pháp. Đội công tác các thôn Trà Long, Phú Bình, Lập Định xây dựng được hầm bí mật và du kích để bám trụ và hoạt động có hiệu quả.
Giành dân, giành quyền làm chủ là hoạt động tổng hợp của mọi lực lượng yêu nước cách mạng, với mọi phương thức phong phú, linh hoạt, nhưng chủ yếu là kết hợp ba mũi giáp công: đấu tranh vũ trang, đấu tranh chính trị và binh vận.
Các đội du kích ở các địa phương, thị xã, thị trấn trong toàn tỉnh đều hoạt động tích cực, linh hoạt, gây cho địch nhiều thiệt hại, góp phần quan trọng diệt ác, phá kèm, tạo điều kiện cho nhân dân nổi dậy giành quyền làm chủ. Chỉ tính trong chiến dịch HT3, du kích toàn tỉnh đã độc lập tác chiến 35 trận, loại khỏi vòng chiến 105 tên, hầu hết là ác ôn có nhiều nợ máu với nhân dân từ cấp xã, ấp đến cấp huyện, bắt 3 điệp báo, thu 14 súng, đánh sập 5 trụ sở làm việc ở xã, phá hủy 17 máy đánh chữ, 13 máy bộ đàm, 3 xe Jeep, 41 súng các loại và nhiều khí tài quân sự và phương tiện dân sự khác.
So với chiến dịch HT2, trong chiến dịch HT3, du kích toàn tỉnh hoạt động trên diện rộng hơn, sâu hơn và hiệu suất chiến đấu cao hơn. Ở Bắc Ninh Hòa, du kích hoạt động đều, liên tục trong 11/13 xã. Du kích Vĩnh-Trang tập kích, quấy rối liên tục khu vực ven quận lỵ, thị xã, trục giao thông, gây cho địch nhiều tổn thất về người và phương tiện chiến tranh. Du kích Nam Ninh Hòa đánh địch nhiều lần vào quận lỵ trong một thời gian ngắn, diệt nhiều lính và sĩ quan ngụy.
Có những trận đánh hay và rất dũng cảm như du kích xã Ninh Thọ phục kích địch giữa ban ngày, giết 3 tên ác ôn khét tiếng: 1 công an quận, 1 ấp trưởng, 1 ấp phó. Du kích xã Ninh Phụng, trong 7 ngày tập kích 6 trận, diệt 5 tên (có 1 tên ác ôn), làm bị thương 4 tên, tước 3 súng của phòng vệ dân sự, đánh sập trụ sở xã, phá hủy 1 máy đánh chữ, 1 máy thông tin, thu 2 súng. Du kích xã Ninh An đánh trực diện với bọn địch đang dồn ép nhân dân thôn Sơn Lộc vào khu tập trung Vườn Dương. Du kích quận lỵ Ninh Hòa đánh 4 trận, có trận loại khỏi vòng chiến đấu 12 lính và sĩ quan ngụy. Ở Nha Trang, 4 tổ tự vệ mật đánh 7 trận diệt và làm bị thương 61 tên (trong số đó có 2 lính Mỹ, 2 thiếu úy, 5 trung sĩ, 23 hạ sĩ quan ngụy). Đêm 7-6-1970, hai tổ du kích mật thị xã Nha Trang là tổ Nguyễn Văn Trỗi và tổ Nguyễn Văn Bé đánh vào ấp Trường Tộ và ấp Xương Huân, giết và làm bị thương 39 tên, phá hủy 39 súng, 8 vô tuyến điện, 9 máy đánh chữ, 2 tủ tài liệu và một số phương tiện chiến tranh khác. Anh chị em tù binh chính trị nhà lao Nha Trang tổ chức đấu tranh đòi cải thiện chế độ sinh hoạt đắt đỏ, chống khủng bố đàn áp. Thị ủy bắt mối và chỉ đạo xây dựng chi bộ đảng gồm 5 đảng viên nữ tại lao Nha Trang.
Phong trào chiến tranh du kích ở Diên Khánh cũng phát triển sôi nổi và đều khắp. Các đội du kích ở quận lỵ và các xã xung quanh liên tục tiến công vùng ven và trong nội thị. Tiêu biểu nhất là trận tiến công câu lạc bộ Trường Phủ, Phú Ân diệt 9 tên, trong đó có tên trưởng đoàn bình định.
Trong quá trình đấu tranh giành dân, giành quyền làm chủ, cùng với tự vệ mật, các đội vũ trang công tác hoạt động có hiệu quả cao. Đội vũ trang công tác mà tiền thân của nó là các đội vũ trang được hình thành sớm từ những năm 60-65 gồm những nam nữ đảng viên, đoàn viên thanh niên nhân dân cách mạng có lòng yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, được huấn luyện về quân sự, về công tác vận động quần chúng, xây dựng thực lực chính trị, vũ trang hợp pháp, tổ chức đánh địch bằng ba mũi giáp công (chính trị, quân sự, binh vận). Đội được trang bị vũ khí nhẹ, sử dụng hầm bí mật, để bám làng, bám dân. Đào được hầm bí mật trong nhà quả là kỳ công, một nghệ thuật phát động quần chúng kiên trì của các chiến sĩ đội công tác.
Từ năm 1967 và trước Tết Mậu Thân năm 1968, hầu hết các xã ở huyện Vạn Ninh, Nam, Bắc Ninh Hòa, Diên Khánh, ngoại vi thị xã Vĩnh-Trang, đều có đội vũ trang công tác. Riêng Cam Ranh phong trào còn khó khăn nên chỉ có 4 đội công tác. Ngoại vi thị xã Vĩnh Trang có xã có tới 2 đội vũ trang công tác. Đội ít nhất là 3 đồng chí, trung bình là 5, 7 đồng chí. Những đội công tác ở địa bàn xung yếu được tăng cường 1 tổ vũ trang 3 đồng chí, nhất là ở thị xã, thị trấn. Các đội trưởng phần lớn là huyện, thị ủy viên trực tiếp làm bí thư chi bộ. Từ sau Tết Mậu Thân năm 1968, các đội vũ trang công tác bị tổn thất nặng do chiến lược "bình định cấp tốc", "bình định đặc biệt" của Mỹ-ngụy, có nơi phải lập đi lập lại 2, 3 lần. Với hầm bí mật, cứ điểm của lòng dân, các đội vũ trang công tác dần dần bám được vào bên trong, nhiều lúc hoạt động đơn tuyến để bám dân, bám làng, dần dần xây dựng thực lực chính trị, vũ trang hợp pháp, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Ở Diên Khánh, Huyện ủy phân công một số huyện ủy viên hoạt động hợp pháp, trực tiếp làm bí thư chi bộ và đội trưởng đội vũ trang công tác. Trong hoàn cảnh lính Nam Triều Tiên viền phục hàng tháng, cán bộ bên ngoài khó vào được bên trong vùng địch đóng quân. Tỉnh ủy chủ trương xây dựng "căn cứ lõm" và "chi bộ tự động công tác". Tại xã Diên Sơn, thôn Đại Điền Nam của xã là căn cứ lõm, có chi bộ tự động công tác làm tốt các công việc tiến công địch, xây dựng cơ sở, vận động tài chính, đào hầm bí mật, vũ trang tuyên truyền diệt ác, đánh trống, mõ thanh viện khi mở chiến dịch HT. Chi bộ có trên 10 đảng viên, 3/4 là nữ, đã trải qua tù đày, địch tra tấn dã man nhiều lần nhưng không một lời khai báo làm hại phong trào cách mạng.
Có trường hợp một huyện ủy viên là nữ, lần lượt làm đội trưởng công tác ở 4 xã: Diên Sơn, Diên Điền, Diên Lạc, Diên Phước. Tại Diên Sơn, đồng chí diệt tên đoàn trưởng "bình định" giữa ban ngày, tại xã Diên Lạc bắn chết tên Lượm, mật vụ khét tiếng.
Phong trào bám dân, bám làng bằng hầm bí mật đã trở thành phổ biến và là một trong những bí quyết thành công của phong trào, nhiều đồng chí bí thư, thường vụ của cấp ủy huyện thị đã bám vào trong để chỉ đạo phong trào.
Mặc dù có những tổn thất, hy sinh nhưng đội công tác vẫn đứng vững. Vì hoạt động sâu trong lòng địch, nhiều trường hợp đội vũ trang công tác bị tổn thất hy sinh, nhưng rồi lại được củng cố và tiếp tục hoạt động. Đồng chí Ngũ Hữu Tám, đội trưởng đội vũ trang công tác xã Diên An, bị địch khui hầm đã chiến đấu dũng cảm đến hơi thở cuối cùng. Trong tinh thần bám dân huyện, Thị ủy Vĩnh-Trang đã phát động phong trào ghì bám cơ sở với khẩu hiệu: "Thà chết trong lòng dân, quyết không quay đầu về núi".
Tại Nam Ninh Hòa, đồng chí Trần Như Đoàn - Huyện ủy viên, Phó ban an ninh huyện, trực tiếp làm đội trưởng công tác hoạt động ở xã Ninh Lộc, khi bị địch khui hầm, đồng chí Đoàn đã cùng với các đồng chí Phong, Khương dũng cảm chiến đấu "Thà chết không đầu hàng". Địch tập trung các cỡ súng bắn xuống hầm. Ba đồng chí bật nấp hầm nhảy lên, với súng ngắn chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và anh dũng hy sinh.
Ở Vạn Ninh, chị Trần Thị Tư cán bộ đội công tác xã Vạn Phước trong một trận đánh chị bị trúng đạn gãy chân, nhưng vẫn tiếp tục chiến đấu bắn bị thương tên trung đội trưởng nghĩa quân. Biết rằng mình không thể sống dược, chị rút chốt trái lựu đạn cuối cùng, nằm sấp đè lên cần lựu đạn rồi tắt thở. Sáng hôm sau, bọn địch kéo đến bu quanh và kéo lật xác chị để "xem mặt con Việt Cộng to gan" thì lựu đạn nổ, nhiều tên ngã gục quanh xác chị. Năm đó là 1969, thời điểm địch tiến hành bình định vô cùng ác liệt.
Chị Ngũ Thị Mười quê Diên An, Diên Khánh, đội công tác thôn Phú Vinh xã Vĩnh Thạnh, trong một trận chạm súng với địch, chị đã bắn đến viên đạn cuối cùng và rút chốt lựu đạn gài dưới lưng khi biết mình bị thương quá nặng không thể sống được. Khi địch kéo thi thể chị lên thì lựu đạn nổ, bọn địch đứng xung quanh bị chết và bị thương khá đông.
Chị Nguyễn Thị Mỹ Liên, đội công tác xã Diên Điền, trong một cuộc chiến đấu chỉ còn đơn độc một mình tại trận địa, địch gọi hàng nhưng chỉ được đáp lại bằng những phát đạn nổ giòn. Lợi dụng lúc địch xúm lại gần chị  ném một quả lựu đạn làm 2 tên chết, 1 tên bị thương. Chị hy sinh anh dũng.
Chị Trần Thị Tính, đội viên đội công tác bàn đạp của thị xã Nha Trang, đêm 18-6-1972 được phân công đưa cán bộ từ căn cứ Đồng Bò về làng. Dọc đường bị địch phục kích, một mình với khẩu AK chị bắn mạnh vào đội hình địch để bảo vệ đoàn cán bộ chuyển sang hướng khác rút lui an toàn. Địch kêu gọi đầu hàng nhưng chỉ được đáp lại bằng những loạt AK nảy lửa. Chúng điên cuồng dồn hỏa lực bắn liên hồi vào phía chị. Chị Tính đã bắn đến viên đạn cuối cùng và hy sinh anh dũng. Năm 1976 chị Tính đã được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh lùng Lực lượng công an nhân dân.
Đồng chí Lẫm, chiến sĩ đặc công đại đội 91 tập kích cầu Bà Triêng bị thương nằm lại một mình, ngày hôm sau một trung đội địch phát hiện và gọi hàng, đồng chí dùng AK diệt 3 tên địch và hy sinh anh dũng.
Trong thời kỳ chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của đế quốc Mỹ, đấu tranh chính trị của quần chúng nòng cốt là giới phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng. Năm 1970, Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Khánh Hòa lần thứ nhất trong thời kỳ chống Mỹ, diễn ra tại thôn Tà Gộc xã Khánh Thượng, huyện Khánh Vĩnh. Chị Hồ Thị Hiếu được bầu làm Hội trưởng. Một số khá lớn trong Ban chấp hành 15 người là huyện ủy viên thường vụ Huyện ủy, bí thư chi bộ, đội trưởng công tác, dày dạn đấu tranh trực diện với địch, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Sau đêm đồng loạt tiến công của các lực lượng vũ trang ta, quần chúng đa số là chị em phụ nữ các xã Ninh An, Ninh Thọ, Ninh Giang, Ninh Phú, Ninh Quang, Ninh Bình quận Ninh Hòa và một số nơi khác trong tỉnh kéo vào quận lỵ, thị xã loan tin chiến thắng. Các xã Diên Toàn, Diên An, Vĩnh Thạnh, sau những cuộc mít tinh quần chúng xé thẻ căn cước, nhận truyền đơn và các mệnh lệnh cảnh cáo mang đến ngụy quyền xã, quận đấu tranh, làm cho địch thêm bối rối, lúng túng. Nhân dân xã Ninh An (Ninh Hòa) đấu tranh quyết liệt chống địch dồn đồng bào vào khu tập trung Vườn Dương. Đây là lần thứ tư quần chúng đấu tranh, buộc địch phải nhượng bộ. Cuộc đấu tranh thắng lợi, nhân dân Ninh An không phải tập trung về khu Vườn Dương.
 Những năm 1969, 1970, phong trào đấu tranh của phật tử nổ ra khá rầm rộ. Điển hình là cuộc hội họp của hơn 6.000 phật tử hồi tháng 4-1970, tố cáo ngụy quyền đàn áp phật giáo; tới lễ Phật Đản tháng 5-1970, hơn 8.000 phật tử sau khi hành lễ đã kêu gọi đoàn kết sinh viên, phật tử, thương phế binh chống lại những chính sách bất công của ngụy quyền Thiệu.
Phong trào thương phế binh địch ở Nha Trang do bức xúc quyền lợi cũng phát triển khá mạnh mẽ, có lúc diễn ra rất quyết liệt, đánh chết cảnh sát đi đàn áp, bao vây các công sở ngụy quyền, (9-1970). Họ nêu khẩu hiệu đấu tranh với Mỹ-Thiệu: "Nông dân có ruộng, thương phế binh có nhà", đòi Thiệu-Kỳ từ chức, đòi giải quyết thỏa đáng quyền lợi đời sống. Thương phế binh ủng hộ cuộc đấu tranh của đại úy, bác sĩ quân y Hà Thúc Nhơn tại quân y viện Nguyễn Huệ đã dùng súng bắn bọn tham nhũng có quyền thế.
Những người lao động đạp xích lô, xe ba gác, xe lam, buôn bán nhỏ ở các chợ Nha Trang và các thị trấn, bà con lao động sản xuất và dịch vụ ở Hà Ra, Xóm Bóng, Phường Củi (Nha Trang), Đá Bạc, Ba Ngòi (Cam Ranh) đấu tranh hàng ngày: chống thuế kiệm ước, đòi hạ giá sinh hoạt đắt đỏ, chống vào phòng vệ dân sự, chống bắt lính.
Nhân ngày sinh nhật của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1970), dưới hình thức lễ Phật Đản, cán bộ ta vận động đồng bào lập bàn thờ và đi chùa cầu siêu cho Người. Cũng trong dịp lễ Phật Đản 1970, hơn 3.000 phật tử và quần chúng yêu nước huyện Diên Khánh đã kéo đến chùa Phật Học gần quận dưới hình thức rước xe hoa, tố cáo Thiệu-Kỳ đàn áp phật giáo và cấu kết với ngụy quyền Lon-non giết hại Việt kiều ở Campuchia.
Ngày 14-10-1970, 2 cơ sở nòng cốt đã lãnh đạo trên 1.000 quần chúng thôn Tân Đức mang xác anh Lễ, một thanh niên trốn lính bị địch bắn chết, đến quận Vạn Ninh, vạch tội ác của địch, buộc chúng phải nhận tội và bồi thường nhân mạng.
Trong những tháng cuối năm 1971, đầu năm 1972, quần chúng đấu tranh giữ vững đoàn kết thôn xóm, chống địch gài mìn trong làng, không cho chúng chuyển xuống vùng sâu. Toàn bộ nhân dân lao động thôn Tam Ích (Ninh Hòa) đấu tranh đòi trừng trị tên lính nghĩa quân đã vô cớ bắn chết một phụ nữ. Ở xã Ninh Hà (Ninh Hòa), 8 gia đình họp nhau đấu tranh không cho địch gài mìn trên đường đi làm biển, đảm bảo an toàn tính mạng cho dân trong xã. Ở Xuân Phong (Vĩnh Trang), địch bắt cơ sở ta, chi bộ lãnh đạo 30 quần chúng ra đường đấu tranh không cho chúng bắt mang đi, một số người khác trực diện đến phản đối ở trụ sở xã, buộc địch phải thả hết số người bị bắt. Tại Cam Ranh, địch cột xác các chiến sĩ ta sau xe GMC kéo đi. Đồng bào các thôn Lập Định, Phú Bình đấu tranh, buộc địch phải để cho đồng bào chôn cất, lập bàn thờ con em mình đã vì nước hy sinh.
Ở nhiều địa phương, sau các đêm họp mít tinh, cơ sở ta đã lãnh đạo quần chúng đi chợ nhồi loan tin chiến thắng. Từ năm 1970 đến 1972, đồng chí thường vụ thị ủy, thị đội trưởng Vĩnh-Trang đã bám ở Diên An để huấn luyện cán bộ tự vệ nội thành Nha Trang và trực tiếp chỉ huy một số trận đánh của du kích và tự vệ mật. Một hệ thống công sự mật được hình thành. Do có phương thức trụ bám tốt, nên riêng Phú Ân Nam đã thành lập được 2 chi bộ gồm các đồng chí sống hợp pháp và bất hợp pháp để làm nhiệm vụ xây dựng thực lực tại chỗ và giữ vững đường dây liên lạc với nội thành thị Nha Trang.
Bước sang năm 1970, 1971, các bàn đạp và một số cơ sở vùng sâu ở thị xã Vĩnh-Trang đã khá vững vàng, các đường dây liên lạc, hòm thư mật đã hoạt động có hiệu quả, các đồng chí lãnh đạo đảng bộ thường xuyên nắm được tình hình địch, và phân công chỉ đạo từng tuyến cụ thể có đường dây liên lạc riêng với thị ủy. Lúc này thị xã Nha Trang có trên 20 đảng viên, 3 đồng chí là huyện, thị ủy viên, 1 đồng chí thường vụ thị ủy hoạt động hợp pháp, chỉ đạo các tuyến cơ sở. Đến đầu năm 1970, ở Nha Trang thành lập 4 đội tự vệ mật, mỗi đội là một chi đoàn thanh niên nhân dân cách mạng. Sau đó, các đội tự vệ mật chuyển thành một đội biệt động 30 đồng chí, do 1 nữ thị ủy viên hoạt động hợp pháp làm chính trị viên và 1 đồng chí làm đội trưởng kiêm bí thư chi đoàn thanh niên. Suốt trong 2 năm 1970, 1971 đội biệt động này đã lập được nhiều chiến công xuất sắc.
Ở các xã ngoại thành trọng điểm đều có đội du kích mật hoạt động: Diên An 2 tổ, Diên Toàn 1 tổ, Vĩnh Trung 2 tổ, Vĩnh Ngọc, Vĩnh Thạnh 1 tổ.
Tại Vĩnh Trường, Vĩnh Nguyên, Thị ủy phân công một nữ đồng chí thị ủy viên hoạt động hợp pháp góp phần đáng kể vào việc hồi phục phong trào ở đây từ sau Tết Mậu Thân, đưa được nhiều thanh niên ưu tú thoát ly lên căn cứ gia nhập lực lượng vũ trang hoặc các đội công tác.
Tại Bình Tân còn trạm liên lạc mật của Thị ủy chỉ đạo nội thành mang bí số C65 tồn tại cho tới ngày giải phóng Nha Trang năm 1975. Một số trận đánh của phân đội pháo binh C4 vào sân bay Nha Trang có phần đóng góp đáng kể của cơ sở ở Bình Tân, Vĩnh Trường.
Giành dân, giành quyền làm chủ là hoạt động tổng hợp của mọi lực lượng, mọi phương thức, kết hợp chặt chẽ đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận. Trong thành tích chung của các lực lượng cách mạng nổi bật lên vai trò lãnh đạo và những đóng góp to lớn, có ý nghĩa quyết định của các đội vũ trang công tác do các chi bộ hợp pháp và bất hợp pháp lãnh đạo.
Vị trí của phụ nữ nổi bật nhất ở khắp lĩnh vực đấu tranh 3 mũi giáp công. Nhiều đảng viên, đoàn viên, cơ sở hợp pháp đều là nữ. Sự hy sinh của họ thật vô cùng to lớn. Họ xứng đáng là đội quân tóc dài bách chiến bách thắng trong toàn bộ cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược trên đất Khánh Hòa này.
ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ SÁU
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ sáu khai mạc ngày 18-10-1971, tại Tà Gộc, huyện Vĩnh Khánh, có 80 đại biểu (76 chính thức, 4 dự khuyết) thay mặt cho 2.320 đảng viên toàn tỉnh đã về dự.
Báo cáo của Tỉnh ủy trước đại hội giải thích việc đế quốc Mỹ vẫn duy trì một lực lượng tương đối lớn quân viễn chinh Mỹ và quân đánh thuê Nam Triều Tiên trên chiến trường Khánh Hòa, là vì nơi đây có căn cứ hậu cần liên hợp Cam Ranh - Nha Trang, có các đường giao thông chiến lược số 1, số 21. Chúng đã sử dụng nhiều thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa để tiến hành "bình định" nông thôn và củng cố phòng thủ thị xã, quận lỵ, các khu căn cứ.
Đối với vùng địch tạm kiểm soát, căn bản chúng bình định được. Nhưng ở vùng làm chủ của ta, "bình định" của địch bị đánh bại về căn bản. Ở vùng lỏng kèm, địch không đánh bật được lực lượng ta, ta vẫn tiến hành xây dựng, phát triển và mở rộng thêm một số thôn mới.
Đại hội vạch rõ, theo nhận định của Khu ủy, mặc dù bị thất bại nặng nề và khó khăn ngày càng lớn, đế quốc Mỹ vẫn rất ngoan cố. Càng lúng túng, Ních-xơn càng giở nhiều thủ đoạn thâm độc về quân sự, chính trị, ngoại giao để hòng gây thêm khó khăn cho ta, tránh thất bại nhục nhã, xoa dịu dư luận nhân dân Mỹ để mong trúng cử Tổng thống một nhiệm kỳ nữa trong năm bầu cử 1972. Đại hội quyết định: "Đoàn kết nhất trí, nỗ lực động viên toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân kiên quyết đánh lâu dài, nỗ lực phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn và nhược điểm, tranh thủ thời gian, tạo thời cơ trực tiếp, nắm lấy thời cơ lớn, phát triển thế tiến công mới ở cả 3 vùng chiến lược, phát động 3 cao trào quyết thắng giặc Mỹ xâm lược: cao trào diệt và làm tan rã quân ngụy; cao trào tiến công và nổi dậy làm chủ ở nông thôn; cao trào cách mạng ở thành thị, đánh bại căn bản kế hoạch bình định của địch, góp phần đánh bại Việt Nam hóa chiến tranh".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ mới gồm 25 đồng chí, do đồng chí Ngũ Hữu Ngật làm bí thư và đồng chí Nguyễn Ngật (tức Nguyễn Lương) làm phó bí thư.
Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV có một ý nghĩa lịch sử rất quan trọng trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân tỉnh nhà:
- Tổng kết những thành tích, ưu khuyết điểm của toàn quân, toàn dân trong tỉnh trên các mặt hoạt động cơ bản đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận, xây dựng và phát triển lực lượng, xây dựng căn cứ địa, tổng kết ưu khuyết điểm trong công tác xây dựng, tổ chức và phát triển đảng.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc và chỉ đạo, lãnh đạo các mặt hoạt động nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng trong tỉnh phát triển.
- Đề ra phương hướng, nhiệm vụ và những công tác khẩn cấp trước mắt phải hoàn thành để thiết thực chuẩn bị phối hợp với chiến trường chung và Khu V trong thời gian sẽ diễn ra cuộc tiến công chiến lược lớn của quân và dân toàn miền Nam nhằm đánh bại "Việt Nam hóa chiến tranh".
THẮNG LỢI QUAN TRỌNG TRONG NĂM 1972
Bước vào năm 1972, địch tăng cường phòng thủ ở các căn cứ quân sự, thị xã, thị trấn, chi khu, quận lỵ. Thực hiện kế hoạch "bình định gấp rút", tăng cường bắt lính, đôn quân để tăng nhanh số lượng, từng bước đưa quân ngụy thay chân quân Mỹ và Nam Triều Tiên.
Ngày 2-1-1972, Hội nghị Đảng ủy Mặt trận được tổ chức tại căn cứ Đá Bàn, nêu ra phương hướng vừa đánh vừa chuẩn bị chiến trường cho chiến dịch Xuân-Hè 1972. Theo phương hướng đó, ngày 12-1-1972, một đơn vị bộ đội địa phương huyện Vạn Ninh với 9 đồng chí đã tiêu diệt 1 trung đội bộ binh địch. Đại đội 2 của tiểu đoàn 460 chặn đánh quân viện binh tại Mỹ Đồng (Vạn Lương), diệt tên đại đội trưởng bảo an và 1 trung đội, đánh thiệt hại nặng 1 trung đội khác. Thắng lợi này gây tiếng vang lớn trong nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi mở đầu cho việc chuẩn bị chiến dịch.
Hội nghị Tỉnh ủy cuối tháng 1-1972 đã nghiên cứu nghiêm túc chủ trương của Khu ủy và vạch ra kế hoạch hoạt động Xuân-Hè năm 1972, lấy Bắc Khánh làm hướng hoạt động chính. Vì ở đây, phong trào tương đối khá và nếu mở ra được sẽ nối liền với huyện Tuy Hòa (Phú Yên), tạo thành địa bàn liên hoàn vững vàng cho những năm sau. Trọng điểm đợt 1 là phía Tây huyện Ninh Hòa, đợt sau sẽ tập trung vào huyện Vạn Ninh.
Cơ quan tiền phương của tỉnh chỉ đạo chiến dịch ở trọng điểm có đồng chí Nguyễn Lương, Phó Bí thư Tỉnh ủy, phụ trách chung, đồng chí Mai Dương, Phái viên của Khu ủy V, Nguyễn Ngọc Hoanh, Tỉnh đội trưởng, Triết Giang, Thường vụ Tỉnh ủy và đồng chí Võ Tuy (Hùng), Tỉnh ủy viên, Bí thư Huyện ủy Ninh Hòa.
Thực hiện chủ trương mở tiếp những hoạt động vũ trang cần thiết để hỗ trợ cho công tác chuẩn bị chiến dịch, đêm 18-3-1972, tiểu đoàn 470 tập kích diệt gọn đội hải thuyền ngụy đóng ở thôn Đông Hà (xã Ninh Hải) thu toàn bộ vũ khí. Tiếp theo, ngày 19-3, một trung đội của đại đội 1, tiểu đoàn 470 tập kích diệt gọn trung đội của đại đội 1, tiểu đoàn 470 tập kích diệt gọn trung đội nghĩa quân đóng tại Chánh Bình xã Ninh Thọ.
Những thắng lợi trên làm tăng khí thế tiến công của quân và dân trong tỉnh.
Ngày 13-4-1972, là thời điểm mở chiến dịch Xuân-Hè của Khu V. Mở đầu chiến dịch, các đơn vị chủ lực quân khu đã tiến công mạnh các cứ điểm chủ lực ngụy ở Bắc Kom Tum, Bắc Bình Định, Tây-bắc Quảng Nam, tấn công và nổi dậy mạnh mẽ giành thắng lợi lớn ở Quảng Ngãi và Bắc Bình Định.
Tin thắng lợi từ các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên làm nức lòng quân dân Khánh Hòa, đó là nguồn động viên lớn đối với quân dân trong tỉnh đẩy mạnh tiến công địch, hòa nhịp với chiến dịch toàn miền. Rạng ngày 13-4, trên đường 21, ta phục kích đoàn xe quân sự 200 chiếc ở cây số 34-36, diệt 12 xe GMC. Cùng ngày tiểu đoàn 460 (đặc công), tập kích tiểu đoàn biệt động tại ngả ba Đồng Xuân - Dục Mỹ, diệt gần hết tiểu đoàn địch, chiếm lĩnh khu vực Đồng Xuân. Quân địch ở vùng Ninh Thân, Ninh Thượng hoang mang bỏ chạy. Ta chuyển sang trụ lại ở vùng này một thời gian, phát động quần chúng, mở ra thế lỏng kèm. Đồng bào các xã Ninh An, Ninh Thọ, dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng, có sự hỗ trợ của đội vũ trang công tác và du kích xã, nổi dậy xây dựng công sự chiến đấu, xóa sạch vết tích địch, đấu tranh bằng ba mũi giáp công, chống địch khủng bố, bảo vệ được toàn bộ cán bộ chiến sĩ trụ bám trong làng. Một bộ phận quần chúng phần lớn là phụ nữ được tổ chức kéo vào quận đấu tranh giữ thế hợp pháp, chống địch càn quét, bắn pháo vào làng, bảo vệ nhà cửa, mùa màng.
Ở nhiều xã khác thuộc Ninh Hòa như Ninh Diêm, Ninh Hà, Ninh Hưng, Ninh Quang..., nhân dân cũng nổi dậy đấu tranh quân sự, chính trị dưới nhiều hình thức rất phong phú, đa dạng. Trong đấu tranh với địch nổi lên gương hy sinh anh dũng của 3 nữ đội viên đội công tác ở xã Ninh Phụng, đó là chị Lương Thị Lứa, Nguyễn Thị Nga, Trần Thị Quyền, giữa ban ngày đã xông vào trụ sở xã diệt bọn ác ôn, 3 chị đã hy sinh anh dũng.
Ở hướng Cam Ranh, tháng 6-1972, một phân đội của tiểu đoàn đặc công 407 đánh vào kho xăng Ô Vũ, thiêu hủy khoảng 20 triệu lít xăng. Cùng thời gian ấy, một phân đội khác của tiểu đoàn 407 tập kích bót Chòi Mồng tại thị xã Cam Ranh, diệt một trung đội bảo an.
Ở Nha Trang, lực lượng pháo binh Vĩnh-Trang dùng tên lửa mặt đất H12 đánh sân bay và khu hậu cần thiêu hủy 17 triệu lít xăng, dầu và 200 tấn bom đạn. Tự vệ Nha Trang đánh 4 trận vào trụ sở phường và xe của bọn cảnh sát dã chiến, diệt 51 tên. Những đòn tiến công liên tiếp của ta đã làm cho bọn ngụy quyền phường khóm hoang mang, có tên đi thanh minh tội lỗi với quần chúng.
Tháng 6-1972, theo kế hoạch của Đảng ủy Mặt trận, ta chuyển sang phía Vạn Ninh. Ngày 1-6, một đại đội thuộc tiểu đoàn 470 tập kích đại đội bảo an địch đóng ở Vĩnh Huề, gây thiệt hại nặng cho 2 trung đội, bọn còn lại hoang mang chạy về thị trấn Vạn Giã. Thừa thắng cả đoàn xuống trụ tại Quảng Hội, phát động quần chúng, đưa vùng này lên thế lỏng kèm.
Nhìn chung trong đợt hoạt động Xuân-Hè năm 1972, các lực lượng vũ trang tỉnh đã đánh 20 trận, diệt gọn 1 tiểu đoàn biệt động, 1 đội hải thuyền, 5 trung đội bảo an khác, loại khỏi vòng chiến 2.880 tên địch, đốt cháy 37 triệu lít xăng dầu, phá hủy 200 tấn bom đạn địch. Phần lớn các căn cứ quân sự, chi khu, quận lỵ đều bị tiến công dưới nhiều mức độ, nhiều hình thức khác nhau, đưa gần 3.000 dân xã Ninh Thọ, Ninh An (Ninh Hòa) lên thế làm chủ vững chắc, 4.000 quần chúng các xã Ninh Hà, Đầm Môn, một số thôn ở Đại Điền, Phú Ân Nam lên thế tranh chấp hoặc làm chủ ở mức thấp, phá lỏng kèm ở nhiều vùng trên diện rộng, xây dựng thực lực tại chỗ.
Điều cay đắng đối với Mỹ-ngụy là một khối lượng lớn các phương tiện chiến tranh tại căn cứ quân sự Cam Ranh liên tục bị phá hủy. Đây là thành tích xuất sắc của tiểu đoàn 407 (đặc công) và các đội tự vệ mật ở thị xã Nha Trang.
Tiểu đoàn 407 được Quân khu V đưa vào chiến trường Khánh Hòa vào cuối năm 1968, phân công đặc trách đánh vào căn cứ hậu cần chiến lược của địch tại Cam Ranh.
"Phải coi đặc công với thuốc nổ mạnh là binh chủng độc đáo và là vũ khí lợi hại"6. Trung ương Đảng thường chỉ thị như vậy.
Muốn đánh được địch trên bán đảo Cam Ranh, điều rất quan trọng là phải kiên trì, khôn khéo và dũng cảm, dám lót lực lượng bên trong để nắm chắc tình hình, mục tiêu, hạ quyết tâm chính xác. Để thâm nhập mục tiêu, chiến sĩ đặc công phải vượt qua tuyến phòng thủ dày đặc ở vòng ngoài, vượt đầm Thủy Triều hoặc cửa biển Bình Ba rộng hàng cây số. Trong một đêm không thể làm xong các khâu rất cần thiết như đi và về, điều tra mục tiêu tiến công. Do đó, ban ngày các chiến sĩ phải giấu mình dưới cát, để đêm đến đi điều tra mục tiêu. Qua một số ngày như vậy, công tác chuẩn bị mới xong. Khi đã đánh rồi, có khi bị địch phát hiện chưa rút lui ngay được, anh em lại phải giấu mình bằng cách lợi dụng công sự địch, hoặc vùi mình dưới cát, khai thác từng sơ hở nhỏ của địch để vượt vòng vây vào những ngày hôm sau. Trong những trường hợp như vậy, anh em thường bị đói, khát, tinh thần rất căng thẳng.
Báo cáo ngày 28-8-1972, của Đại tá Nguyễn Mộng Hùng, thị trưởng kiêm chỉ huy trưởng đặc khu Cam Ranh có đoạn viết:
"Mặc dù với những phương tiện đầy đủ, tối tân, với quân số đông đảo, nhưng cộng quân vẫn gây được các biến cố. Tất cả tính được 30 vụ vừa đặc công vừa pháo kích trong năm 1971-1972, đáng kể nhất là vụ cháy 2 bồn xăng 400 thùng xăng, 1.280 thùng dầu cặn ở kho nhiên liệu vào tháng 4-1970 và kho đạn nổ vào ngày 28-8-1971, 2 kho đạn nổ khi giao thời chuyển giao cho Việt Nam cộng hòa (ngụy) ngày 8-4 và ngày 15-5-1972".
Trong một công văn thượng khẩn của Bộ Tổng tham mưu ngụy ngày 21-6-1972 lại có đoạn viết:
"a) Sơ kết trong thời gian từ 29-3-1972 đến 20-6-1972, đặc công CSBV (cộng sản Bắc Việt) đã gây thiệt hại nặng nề về tiếp vận cho quân đội VNCH và quân đội Hoa kỳ tại Việt Nam như sau: 30 triệu lít xăng và dầu cặn bị thiêu hủy (1/5 tổng số nhiên liệu dự trữ, dành cung ứng cho nhu cầu quân sự và dân sự tại miền Nam Việt Nam), 7.780 tấn đạn dược phát nổ.
Đặc biệt đáng kể là đêm 11-6-1972, kho xăng Cam Ranh (VN) bị thiêu hủy khoảng 20 triệu lít và đêm 18-6-1972, kho xăng Long Bình (HK) bị thiêu hủy 8 triệu lót.
b) Qua các thiệt hại nêu trên, QLVNCH (quân lực Việt Nam cộng hòa) và đồng minh hiện gặp một số trở ngại về tiếp vận, và trong thời gian tới, nếu CSBV tiếp tục thực hiện được các vụ phá hoại nhằm vào các kho xăng, đạn, căn cứ không quân, chắc chắn các hoạt động tiếp vận trợ chiến cho các chiến trường của quân đội ta sẽ bị tê liệt, gây hậu quả vô cùng tại hại, ảnh hưởng đến sự thành bại của cuộc chiến"7.
Năm 1972 là một năm thất bại lớn của Mỹ trong việc thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Ngay tại Khánh Hòa, một lực lượng hậu cần quan trọng (xăng dầu, bom đạn) dự trữ cho chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" bị phá hủy, một số lượng đáng kể lính và sĩ quan Mỹ bị tiêu diệt, xác quân ngụy chết trên các chiến trường Vùng I, Vùng II chiến thuật do cuộc tiến công chiến lược của ta chở về chôn cất một số nơi tại Khánh Hòa. Thương binh dồn dập đưa về nhà thương Nha Trang. Tình hình đó tác động mạnh đến tinh thần ngụy quân, ngụy quyền và gia đình của chúng. Bọn chỉ huy của tiểu khu Khánh Hòa đã phải kêu lên rằng:
"Sau vụ cộng sản tấn công chiếm tỉnh Quảng Trị và Tân Cảnh, dư luận đồng bào rất hoang mang lo lắng"8.
Báo cáo tháng 6-1972 của tiểu khu Khánh Hòa lại ghi:
"Theo báo chí cũng như đài phát thanh, thì sau ngày Tổng thống Hoa kỳ công du Hoa lục và Mạc Tư Khoa, đồng bào bàn tán về nền hòa bình sắp đến, nhưng dư luận vẫn nằm trong thắc mắc cho rằng, nếu có hòa bình thì bằng cách nào ?"9.
Rõ ràng là bọn ngụy quân, ngụy quyền đang lo sợ bị đế quốc Mỹ bỏ rơi. Số phận bi đát và nhục nhã làm tay sai Mỹ của chúng sắp được định đoạt.
Cuộc họp của Thường vụ Tỉnh ủy ngày 26-6-1972 đã đánh giá toàn bộ tình hình địch, ta trong thời gian qua và bàn phương hướng hoạt động trong tháng 7, là tháng chuẩn bị cho kế hoạch mang mật hiệu T, kế hoạch phục vụ trực tiếp cho Hiệp định Pa-ri sắp được ký kết. Ban Thường vụ Tỉnh ủy nhất trí khẳng định rằng, nhiệm vụ quan trọng lúc này là phải nỗ lực hoạt động mở rộng, và củng cố vùng giải phóng, vùng làm chủ, để khi ngừng bắn ta có thế mạnh, có điều kiện thuận lợi tiếp tục đấu tranh với địch trong tình hình mới.
Đồng chí Nguyễn Xuân Hữu, Uỷ viên Ban Thường vụ Khu ủy đã truyền đạt nội dung trên của Khu ủy cho đại biểu 3 tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Đắc Lắc vào thượng tuần tháng 7-1972.
Ngày 10-9-1972, điện của A15 (Thường vụ Khu ủy V) quyết định đồng chí Mai Dương làm Bí thư Tỉnh ủy, thay đồng chí Ngũ Hữu Ngật được điều về nhận nhiệm vụ mới ở quân khu. Tỉnh ủy và toàn Đảng bộ tập trung sức lực cho "kế hoạch T".
Trước ngày 27-1-1973, là ngày Hiệp định Pa-ri được ký kết, các lực lượng ta đã đưa trót lọt đội hình vào những nơi dự định, mặc dù địch ra sức tăng cường phòng ngự bắn pháo ven rừng dày đặc nhằm ngăn chặn ta. Ở huyện Diên Khánh, ta tiến công làm chủ các xã Diên Thọ, Diên Lâm, Diên Điền và một phần xã Diên Phước.
Ở huyện Vĩnh Xương, ta làm chủ các thôn An Ninh, Võ Kiện.
Ở Cam Ranh, ta làm chủ các thôn Phú Bình 1, Phú Bình 2 và thôn Vĩnh Bình thuộc xã Cam Tân.
Ở Ninh Hòa, lực lượng vũ trang ta được đồng bào tại chỗ hỗ trợ đã khôi phục vùng làm chủ xã Ninh Thọ, một số thôn xã Ninh An và các thôn Bá Hà, Ngân Hà, Xóm Mới xã Ninh Diêm.
Tại huyện Vạn Ninh, bộ đội địa phương và du kích mật có sự ủng hộ của quần chúng đã giải phóng các thôn Ninh Mã, Tuần Lễ, một số thôn của xã Vạn Thắng, Vạn Bình, Vạn Long.
Ở khu chiến đường 21, ta làm chủ đoạn đường từ cây số 27 đến cây số 29.
Địch phản kích mạnh, thực hiện kế hoạch "tràn ngập lãnh thổ". Về phía ta, tuy lực lượng ít, nhưng quyết tâm cao, quầng trụ đánh địch trong 13 xã, tiến công nhiều vị trí quân sự, cứ điểm, kho hậu cần, trụ sở ngụy quân, ngụy quyền, các trục lộ giao thông chiến lược. Trong 4 ngày lực lượng vũ trang ta diệt và làm bị thương hơn 500 tên địch, diệt gọn 6 trung đội, đánh thiệt hại nặng 2 đại đội. Kế hoạch T trên địa bàn Khánh Hòa được thực hiện tốt, góp phần vào thắng lợi trực tiếp ký kết Hiệp định Pa-ri ngày 27-1-1973.
Trong 4 năm chống chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" của Mỹ, quân và dân tỉnh Khánh Hòa đã vững vàng bám chặt cơ sở, bền bỉ đấu tranh bằng hai chân ba mũi giáp công, về căn bản phá vỡ quốc sách "bình định" của địch.
Nhìn chung, những năm chiến tranh cục bộ và "Việt Nam hóa chiến tranh" tại chiến trường Khánh Hòa sinh lực địch bị tiêu diệt trên 3 vạn tên, có nhiều tên Mỹ và Nam Triều Tiên, một số khá lớn phương tiện chiến tranh của Mỹ-ngụy bị phá hủy.
Tại một chiến trường nằm sâu trong hậu phương địch, điều kiện và địa bàn hoạt động gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng đã thu được những thành quả như trên là một cống hiến xứng đáng vào thắng lợi chung của cả nước, đưa đến việc ký kết Hiệp định Pa-ri...
Tiền đồ của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước vô cùng rạng rỡ. Hiệp định Pa-ri được ký kết là một thắng lợi về chiến lược đã "làm cho Mỹ cút", mở ra xu thế tất yếu cho "ngụy nhào".
Mỹ đã giao lại căn cứ Cam Ranh cho ngụy, một căn cứ có tầm cỡ quốc tế mà trước đây bọn ngụy đã bán cho Mỹ. Nhiều người tỏ ý lo ngại rằng tiềm lực của Mỹ lớn lắm, thua thì thua, nhưng với Cam Ranh, nơi Mỹ đã bỏ ra hàng tỉ đô la để xây dựng thì chúng vẫn có thể ỳ ra, như kiểu căn cứ Oan-ta-na-mô của Cu Ba. Nhưng nay phải rời bỏ căn cứ này là một sự thua thiệt sát đáy, một điều vô cùng cay đắng đối với Mỹ. Còn bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên thì hớn hở vui mừng vì được sống sót. Các cỡ súng, kể cả pháo lớn của lính Nam Triều Tiên đã bắn suốt đêm để đón mừng Hiệp định Pa-ri. Đến 7 giờ ngày 28-1-1973 chúng không tham chiến. 10 ngày sau 26.000 quân viễn chinh Mỹ và 14.000 quân Nam Triều Tiên rút khỏi Khánh Hòa.
Đây là lần đầu tiên, sau một 115 năm (1858-1973) ở Khánh Hòa cũng như trên toàn bộ đất nước ta không còn quân xâm lược của nước ngoài. Đó là một thuận lợi rất cơ bản để nhân dân Khánh Hòa cùng với đồng bào trong khu và cả nước tiến lên đánh bại hoàn toàn ngụy quân, ngụy quyền, tay sai của đế quốc Mỹ để giải phóng toàn tỉnh, giải phóng miền Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc.
____________
1. Tam giác chiến: Tâm lý chiến, tình báo chiến, du kích chiến.
2. Nay Đảng và Nhà nước công bố ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh mất là ngày 2-9-1969.
3. Miền Một: nay là các xã Sơn Hiệp, Sơn Lâm, Sơn Bình, huyện Khánh Sơn.
4. Vĩnh - Trang: Hợp nhất thị xã Nha Trang và một số xã của huyện Vĩnh Xương. Tháng 8-1968.
5. C6: Tức chị Trịnh Thị Hường ở phường Vĩnh Hải (Nha Trang).
6. Trích thư gửi miền Nam của đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng.
7. 8. TL.2252 lưu trữ tại Phân viện Lịch sử quân sự B2.
9.  Báo cáo của Tiểu khu Khánh Hòa, tháng 6-1972 - Bản lưu tại Bộ phận NCLS Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét