Henrietta
Lacks được mệnh danh là "người chạm đến sự sống nhân loại" khi giúp nền
y học mở ra lịch sử mới nhưng sự tồn tại của bà lại bị cả thế giới lãng
quên.
Henrietta
Lacks, một bà mẹ 31 tuổi đã chết vì ung thư cổ tử cung vào ngày 4 tháng
10 năm 1951. Có lẽ với gia đình cô đây là sự mất mát vô hạn nhưng với
nền y học thế giới, người phụ nữ da đen lại đã mở ra một cách cửa bất tận với những thành tựu không ngờ.
Sau
khi cô qua đời, các tế bào của Lacks - được lấy từ khối u ở tử cung đã
được sử dụng để chế ra vắc-xin bại liệt, hóa trị, nhân bản, sơ đồ gene
và thụ tinh nhân tạo. Không sai khi nói rằng, Lacks chính là "mẹ đẻ của
nền y học hiện đại" và những phát minh lịch sử.
Chân dung người phụ nữ da đen vĩ đại
Các
tế bào này được gọi là HeLa - sử dụng hai chữ cái đầu tiên trong tên và
họ của cô - đã trở thành dòng tế bào bất tử đầu tiên trong lịch sử. Các
nhà khoa học tại bệnh viện nơi cô qua đời trong nhiều năm trước đã cố
gắng tìm kiếm một dòng tế bào có thể sản sinh liên tục - nhưng dù có
được nuôi cấy cẩn thận đến mấy, tế bào luôn chết. Cho đến khi họ tìm
thấy HeLa. Bằng một lý do nào đó, tế bào ung thư của người phụ nữ 31
tuổi có sự tái tạo sinh sôi bất tận, đạt đến sự "bất tử" theo đúng nghĩa
đen.
Ngay sau khi xác định các tế bào HeLa thật sự
"bất tử", hàng loạt nhiên cứu và thí nghiệm trở nên khả thi hơn. Các nhà
khoa học có thể theo dõi sự phân chia tế bào ở bên ngoài cơ thế và cũng
có thể nghiên cứu cơ chế tấn công tế bào của các loại virus gây bệnh.
Nếu
như trước đây, việc nghiên cứu ung thư trên người sống được đánh giá là
vô đạo đức thì hiện tại, các bác sĩ có thể thoải mái cho tế bào HeLa
tiếp xúc với chất gây ung thư mà không vấp phải sự phản đối nào.
Trong
nhiều thập kỷ, tế bào HeLa được thường xuyên sử dụng trong các phòng
thí nghiệm trên khắp thế giới và mở ra nhiều đột phá cho nền y học nhưng
bà mẹ 31 tuổi lại bị thế giới lãng quên. 37 năm từ sau cái chết của
Lacks, một nữ sinh 16 tuổi tên Rebecca Skloot khi nghe cô giáo giảng về
tế bào HeLa và người phụ nữ tên Henrietta Lacks đã có thắc mắc bất ngờ:
"Tôi
hỏi giáo viên của mình Henriatta Lacks là ai, đến từ đâu, cô ấy có gia
đình và con cái không?. Nhưng các cô giáo chỉ biết rằng, đây là một
người phụ nữ da đen, đã chết vì ung thư cổ tử cung năm 1951", Skloot chia sẻ.
Tốt
nghiệp ngành sinh học, Skloot quyết định tìm hiểu về người phụ nữ đứng
sau tế bào "bất tử" HeLa và khi sự thật được công bố đã khiến cả thế
giới phải sốc. Trong khi tế bào của Lacks làm thay đổi bộ mặt của y học,
chồng và các con của cô lại không biết gì về điều này, thậm chí bản
thân họ cũng không được chăm sóc sức khỏe đúng cách.
"Điều mà hầu hết mọi
người bị sốc nhất là các tế bào của Lacks được lấy và sử dụng trong khi
không có sự đồng ý của cô ấy cũng như người trong gia đình", Skloot nói.
Bức tranh vẽ Henrietta Lacks được trưng bày trang trọng
Điều
tồi tệ là các tế bào của Lacks đã giúp các công ty dược phẩm trở nên
giàu có. Cụ thể hơn, các ngân hàng tế bào và các công ty sinh học đã bán
lẻ tế bào của cô với mức giá không hề rẻ 260$/ 1 ống (tương đương 600
ngàn đồng), nhưng lại không trả một đồng lợi nhuận nào về cho gia đình.
Trong khi các công ty ngày càng ăn nên làm ra, gia đình người phụ nữ xấu
số lại phải sống một cách nghèo nàn, khổ sở.
Chồng
của Henrietta làm việc trong một nhà máy thép ở Baltimore, kiếm được
khoảng 80 xu mỗi giờ (19 ngàn đồng) trong khi phải nuôi 5 người con.
Trước khi qua đời, Lacks đã mong mỏi chồng có thể chăm sóc tốt cho các
con nhưng số phận lại không mỉm cười với họ.
Day - con
cả của vợ chồng Lacks đã gặp vấn đề về phát triển và qua đời không lâu
sau đó. Một người con trai, Joe, sau khi bỏ học đã nhận án tù 15 năm vì
giết người. Người con gái khác tên là Deborah trở thành một bà mẹ đơn
thân vì chồng bạo hành. Vào năm 2000, khi Skloot gặp được họ tất cả đều
có sức khỏe kém. Chồng Lacks bị ung thư tuyến tiền liệt và phổi chứ đầy
amiang. Con trai Sonny bị suy tim, Deborah bị viêm khớp, loãng xương,
điếc, trầm cảm. Gia đình người phụ nữ xấu số không ai có bảo hiểm y tế
và được chữa trị đúng cách.
"Trong
khi tế bào HeLa được ứng dụng mọi lúc mọi nơi, không ai nghĩ rằng đằng
sau nó là một người sống, một người phụ nữ có gia đình và con cái như
bất cứ ai", Skloot nói.
Hiện tại Henrietta
Lacks đang được chôn cất tại nghĩa trang ở Virginia với ngôi mộ không
tên. Tuy nhiên sau khi những nghiên cứu của Skloot được công khai, một
tấm bia tưởng niệm đã được dựng lên dành cho người phụ nữ "chạm đến sự
sống nhân loại".
An An(Dịch theo Theguardian)Những ca phẫu thuật "rùng rợn" nhất lịch sử thế giới
ANTD.VN - Trong
lịch sử y học thế giới đã ghi nhận những ca phẫu thuật “rùng rợn” đến khó tin:
tự cắt bỏ ruột thừa, biến mắt cá chân thành đầu gối, cắt bỏ một nửa bán cầu não,
ghép hai tim cùng lúc…Những ca phẫu thuật này được xem là những ca phẫu thuật
“kinh dị” nhất thế giới, nhưng chính phương pháp phẫu thuật này đã làm thay đổi cuộc
sống của rất nhiều người mỗi ngày.
Với những phương pháp phẫu thuật này,
khi nhắc đến có thể sẽ khiến nhiều người “kinh ngạc” thế nhưng ở thời
điểm đó nó lại được xem như một thành tựu của nền y học.
Tự phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa
Theo Kiến thức, vào năm 1921, giới y học
thế giới hết sức kinh ngạc trước khả năng phi thường của một bác sĩ
phẫu thuật có tên Evan O’Neill Kane. Người này đã trở nên nổi tiếng khắp
thế giới vì đã tự phẫu thuật cắt ruột thừa cho mình chỉ với một chiếc
gương và phương pháp gây tê tại chỗ mà không nhờ bất kỳ sự trợ giúp nào
khác.
Tự cắt bỏ ruột thừa của mình mà không cần sự trợ giúp nào
Ca phẫu thuật này tưởng chừng như khó
thành công ấy đã khiến vị bác sĩ tài ba quyết định tiếp tục tự mình thực
hiện thêm một ca phẫu thuật phức tạp khác do bị thoát vị bẹn vào năm
1932, khi đó ông đã 70 tuổi. Dù vừa phẫu thuật, vừa nói đùa vui thoải
mái, nhưng bác sĩ Kane vẫn thực hiện chính xác đến từng milimét. Ông
được cho là người đầu tiên và cũng là duy nhất từ trước tới nay tự phẫu
thuật cho mình theo cách này.
Trong ca phẫu thuật có 3 bác sĩ khác
đứng chứng kiến ca phẫu thuật có một không hai này để sẵn sàng ứng cứu,
đề phòng trường hợp “bất trắc” có thể xảy ra. Tuy nhiên, ca phẫu thuật
đã thành công ngoài mong đợi. Bệnh nhân - bác sĩ Kane nhanh chóng phục
hồi và trở lại khoẻ mạnh bình thường.
Cắt bỏ một bên não
Ca phẫu thuật cắt bỏ một bên não do bác
sĩ phẫu thuật thần kinh Ben Karson tiến hành vào ngày 11-6-2007. Đây
được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất từ trước tới nay.
Bệnh nhân là bé gái Jessie Hall, 6 tuổi,
ở Aledo, bang Texas (Mỹ). Jessie bị mắc phải một chứng bệnh nan y hiếm
gặp có tên hội chứng Rasmussen (hội chứng viêm não) khiến cho não của em
bị ăn mòn rồi dẫn đến những cơn co thắt toàn thân.
Phẫu thuật cắt bỏ một bên não được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất
Tỉ lệ mắc căn bệnh này là 1/1000 đứa
trẻ, thế nhưng ca phẫu thuật tương tự là chưa từng xảy ra và cơ may sống
sót đối với người bệnh rất thấp. Tuy nhiên, đây lại là cách duy nhất có
thể cứu sống bé Jessie. Phần não được cắt bỏ là phần não bị mắc bệnh
viêm não không có khả năng chữa trị, còn nếu để nguyên sẽ làm tổn thương
dây chuyền sang bán cầu não còn lại.
Sau khi quyết định các bác sĩ đã chọn
phương án mạo hiểm nhất là phẫu thuật cắt nửa bên não với tỷ lệ sống hết
sức mong manh. Tuy nhiên kết quả thật bất ngờ, phương pháp này không
những đã cứu sống bé Jessie, mà còn cho em những hy vọng mới về cuộc
sống. Sau ca phẫu thuật, Jessie đã có những dấu hiệu hồi phục tuyệt vời.
Ca phẫu thuật cho bào thai trong bụng mẹ kỳ lạ nhất thế giới
Đây được xem là một ca phẫu thuật khó
tin nhất trong lịch sử y học, khi đứa trẻ chưa sinh ra nhưng các bác sĩ
đã tiến hành phẫu thuật cắt khối u cho thai nhi. Sau khi đã mang thai
được 6 tháng, Keri Mc Cartney, sống ở Laredo, bang Texas (Mỹ), mới đi
siêu âm và vô cùng lo sợ khi phát hiện ra có một khối u nguy hiểm mọc ở
xương cụt của thai nhi. Khối u này gây cản trở việc máu cung cấp cho cơ
thể thai nhi và có thể khiến cho bé tử vong.
Phẫu thuật thai nhi khi còn trong bụng mẹ
Đứng trước tình thế nguy hiểm để cứu đứa
trẻ chưa chào đời, các bác sĩ phẫu thuật thuộc Bệnh viện nhi ở Histon
(Mỹ) đã tiến hành mổ tử cung của cô để đưa 80% cơ thể của thai nhi ra
ngoài, chỉ để đầu và vai ở bên trong cơ thể người mẹ. Họ đã nhanh chóng
cắt bỏ khối u rồi đặt đứa trẻ trở lại trong tử cung và khâu bọc ối lại.
Và chỉ 10 tuần sau khi phẫu thuật, đứa trẻ chào đời hoàn toàn khỏe mạnh
và được đặt tên là Macie Hope Mc Cartney.
Tái tạo khuôn mặt đã bị biến dạng
Theo Thể thao – Văn hóa, vào tháng
1-2007, các bác sĩ ở Pháp đã thực hiện thành công một ca phẫu thuật cực
khó nhằm đem lại “ánh sáng” cuộc sống cho một bệnh nhân bị một khối u
quái dị làm biến dạng khuôn mặt một cách kinh khủng. Đây là trường hợp
của bệnh nhân Pascal Coler, 31 tuổi. Khối u khổng lồ đã làm cho Pascal
không thể ăn uống bình thường và biến anh trở thành một con người sống
ẩn dật.
Pascal Coler trước và sau phẫu thuật
Pascal đã phải trải qua hơn chục ca phẫu
thuật trước đó để làm giảm kích thước khối u này. Giáo sư Loran
Lantieri cùng các đồng nghiệp tại bệnh viện Henri - Mondor gần Paris
(Pháp) đã tiến hành cắt khối u, đồng thời cấy ghép lại toàn bộ các chi
tiết trên khuôn mặt của Pascal từ môi, cằm, mũi cho đến miệng… bởi khối u
có liên quan đến phần xương mặt. Ca phẫu thuật đã được thực hiện trong
vòng 16h và đã kết thúc thành công.
Ca phẫu thuật kéo dài kỷ lục 96 giờ
Ca phẫu thuật loại bỏ khối u buồng trứng
khổng lồ cho một phụ nữ ở thành phố Chicago (Mỹ) vào năm 1951 được coi
là ca phẫu thuật kéo dài nhất trong lịch sử ngành y khoa. Ca phẫu thuật
này bắt đầu được tiến hành vào từ ngày 4-2 đến ngày 8-2 năm 1951 với
tổng thời gian lên tới 96 giờ đồng hồ, tức 4 ngày đêm.
Bệnh nhân 58 tuổi, Gertruda Levandovski,
trước khi tiến hành phẫu thuật có cân nặng lên tới 277 kg. Thế nhưng,
khi ca phẫu thuật kỷ lục này kết thúc, cân nặng của Gertruda chỉ còn có
138 kg, chỉ còn bằng một trọng lượng lúc ban đầu.
Sở dĩ Gertruda bị sút cân nhanh và nhiều
đến vậy là vì các bác sĩ đã phải liên tục vừa phẫu thuật vừa băng khối u
rồi từ từ làm khô nước dịch chảy ra nhằm ngăn chặn sự tụt huyết áp có
thể gây ảnh hưởng tới hoạt động của tim.
Biến mắt cá chân thành đầu gối
Như TPO đưa tin, Rotationplasty là một
hình thức đặc biệt của phẫu thuật tái tạo cho phép mắt cá chân được sử
dụng như một khớp gối. Các thủ tục liên quan đến việc phẫu thuật cắt bỏ
đáy của xương đùi, đầu gối và xương chày trên. Phần dưới của chân sau đó
được xoay 180 độ và gắn vào đùi. Nói một cách đơn giản, bàn chân được
gắn vào đầu gối phía sau. Một khi chân giả được lắp vào, mắt cá chân có
chức năng như đầu gối.
Cô bé Gabi có thể trở thành vũ công nhờ phương pháp biến mắt cá chân thành đầu gối
Rotationplasty thường được thực hiện ở
trẻ em có khối u xương ác tính - chẳng hạn như osteosarcoma hoặc Ewing
sarcoma - gần đầu gối mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị
khác. Mục đích chính của rotationplasty là để loại bỏ hoàn toàn khối u,
nhưng theo cách cho phép một đứa trẻ có một lối sống năng động, mà sẽ
không thể với đầy đủ cắt cụt.
Một ví dụ tuyệt vời về sự thành công của
thủ thuật này là Gabi Shull, 14 tuổi, đến từ Missouri, Mỹ. Gabi cho
biết, phương pháp này đã thay đổi cuộc đời cô. Lúc 9 tuổi, Gabi được
chẩn đoán bị osteosarcoma ở đầu gối. Khối u không hoạt động được, và sau
12 tuần hóa trị, Gabi và cha mẹ cô quyết định chọn phương pháp điều trị
mới này. Chỉ 1 năm sau khi phẫu thuật, Gabi đã có thể đi lại và 2 năm
sau, cô ấy là một vũ công giỏi. "Phẫu thuật đã cho phép tôi làm nhiều
hơn tôi mong đợi”.
Khôi phục thị giác bằng... răng của bệnh nhân
Phương pháp này có tên gọi là OOKP, viết
tắt những chữ cái đầu của osteo-odonto-keratoprosthesis. Trường hợp đầu
tiên được thực hiện vào năm 1960 bởi Giáo sư Benedetto Strampelli, của
Bệnh viện San Camillo ở Ý.
OOKP có thể được sử dụng cho bệnh nhân
bị mù do tổn thương không thể phục hồi đến giác mạc,lớp ngoài của mắt
khi những phương pháp điều trị khác thất bại.
Tái tạo mắt giả từ răng là phương pháp kì lạ nhưng hiệu quả và đã thành công
Quy trình này bao gồm việc nhổ bỏ răng
nanh của bệnh nhân và xương xung quanh. Sau đó người ta khoan một lỗ
trong răng và nhét vào đó mắt kính plastic. Cấu trúc răng-mắt kính sau
đó được cấy vào má của bệnh nhân, nơi nó phát triển các mạch máu mới
trong một vài tháng. Cấu trúc này sau đó được lấy ra khỏi má và cấy vào
mắt. Ánh sáng có thể di chuyển qua mắt kính này và phục hồi thị lực của
bệnh nhân.
Vào năm 2013, The Telegraph đưa tin, một
người đàn ông Anh đã lấy lại thị lực của mình sau khi trải qua OOKP.
Năm 1999, Ian Tibbetts bị mất thị lực hoàn toàn sau một vụ tai nạn tại
nơi làm việc. Vào tháng 12-2012, Ian đã trải qua OOKP tại Bệnh viện mắt
Sussex - bệnh viện duy nhất ở Vương quốc Anh thực hiện quy trình - và
lần đầu tiên có thể nhìn thấy các con của mình.
Ghép hai tim cùng lúc
Thông thường, con người chỉ có một tim.
Đối với những người phải ghép tim, các bác sỹ cắt bỏ tim hỏng và thay
bằng tim mới khỏe mạnh. Các ca ghép tim đã cứu sống hơn 2.000 sinh mạng
mỗi năm tại Mỹ. Tuy nhiên, đối với những người không thể tiếp nhận tim
mới hoặc tim của người hiến tặng không hoạt động một mình được, các bác
sỹ đã sử dụng phương pháp ghép tim dị tính, cho phép một người có hai
trái tim cùng hoạt động trong cơ thể.
Ghép tim dị tính là cả hai trái tim đều
được phẫu thuật, cho phép máu từ trái tim bị tổn thương chảy vào trái
tim mới. Trái tim mới có thể bơm máu xung quanh cơ thể.
Năm 2011, các nhà nghiên cứu từ Đại học
California-San Diego, Mỹ đã báo cáo thực hiện thủ tục phẫu thuật hiếm
hoi này cho một người đàn ông tên là Tyson Smith, người bị suy tim. Tiến
sĩ Michael Madani, thuộc Trung tâm Tim mạch California-San Diego
Sulpizio giải thích: "Loại bỏ trái tim cũ và thay thế nó bằng một trái
tim mới sẽ khiến trái tim mới thất bại, bởi huyết áp phổi quá cao. Nhưng
hoạt động cùng nhau, hai trái tim chia sẻ công việc và hoàn thành nhiệm
vụ".
Cấy ghép đầu
Vào năm 2013, bác sĩ giải phẫu thần kinh
người Ý, Tiến sĩ Sergio Canavero đã công bố các đề xuất để thực hiện ca
ghép đầu tiên trên thế giới - một thủ thuật mà ông tin rằng có khả năng
điều trị tê liệt do các bệnh thần kinh hoặc cơ tật.
Thủ thuật có tên HEAVEN-GEMINI - sẽ liên
quan đến việc tách đầu của người nhận và người hiến tặng khỏe mạnh bằng
cách sử dụng "lưỡi dao siêu sắc" để tránh tổn thương tủy sống. Việc cấy
ghép đầu người đầu tiên trên thế giới được tiến hành vào tháng 12 năm
2017.
Đầu của người hiến tặng và cơ thể người
nhận sau đó sẽ được đặt vào tình trạng hạ thân nhiệt sâu trong khoảng 45
phút để giảm tổn thương thần kinh. Đầu của người hiến tặng sau đó sẽ
được gắn vào cơ thể người nhận bằng cách sử dụng hợp nhất dây thần kinh
tủy sống. Ca phẫu thuật này kéo dài 36 giờ với sự tham gia của 150 bác
sỹ và y tá lành nghề và chi phí khoảng 11 triệu USD.
Sau khi hoàn tất thủ thuật, người nhận
được giữ trong tình trạng hôn mê trong 3-4 tuần, để giảm thiểu chuyển
động và đảm bảo các kết nối thần kinh giữa cổ và cột sống có thời gian
để hợp nhất với nhau.
Tiến sĩ Canavero nói với Medical News
Today rằng việc cấy ghép đầu tiên ở người đã được thực hiện vào tháng 12
năm 2017 và đây không còn là phim khoa học viễn tưởng nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét