Nguồn: Merrill A. Mcpeak, “Bombing the Ho Chi Minh Trail”,The New York Times, 26/12/2017. Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Tôi đã dành cả năm 1967 bay trên bầu trời cùng Thunderbirds (Lôi Điểu),
phi đội biểu diễn thuộc Không quân Hoa Kỳ, trong lòng canh cánh nỗi lo
rằng chiến tranh Việt Nam sẽ kết thúc trước khi tôi kịp đặt chân đến đó.
Những anh bạn phi công của tôi đều đang ở nơi tiền tuyến, còn tôi đây
lại đang biểu diễn trước đám đông hò reo thay vì đối đầu quân địch – làm
việc tuyển mộ thay vì chiến đấu – trong một nhiệm vụ mà tôi sẽ chẳng
thể rời đi trước khi hoàn thành chuyến lưu diễn dài hai năm.
Nhưng tôi không cần phải lo lắng; cuộc chiến sẽ đợi tôi. Đến lượt
mình, tôi được giao 269 nhiệm vụ, rất nhiều trong số chúng là tối mật,
bởi đúng ra chúng tôi không được phép bay qua Lào. Nhưng chúng tôi vẫn
cứ làm, và công việc chính của chúng tôi là ngăn chặn dòng phương tiện
vận tải trên Đường mòn Hồ Chí Minh.
Thú vị là Bắc Việt không gọi con đường ấy là Đường mòn Hồ Chí Minh.
Đối với họ, cung đường uốn lượn qua dãy Trường Sơn ở Tây Nguyên, gần như
chạy hết phần chiều dài của Việt Nam dọc theo biên giới với Lào và
Campuchia- là Đường Vận tải Chiến lược Trường Sơn, hoặc Quốc lộ 559
– gọi theo tháng (tháng 5) và năm (1959) mà chính phủ miền Bắc đã chính
thức quyết định hỗ trợ tích cực cho cuộc nổi dậy ở miền Nam.
Hà Nội đã chẳng thể duy trì các hoạt động quân sự ở miền Nam nếu
không có cách để gửi quân lực và vật tư vào khu vực này. Tất nhiên,
chúng ta [người Mỹ] cũng vậy. Chúng ta đã xây dựng một cơ sở hạ tầng
hiện đại – sân bay, bến cảng, đường ống dẫn dầu, kho chứa hàng cực lớn
tại Long Bình.
Trong khi đó, kể từ cuối những năm 1950, phía Bắc Việt bắt đầu sử
dụng một phần đất của Lào với kích thước cỡ bang Massachusetts để xây
dựng cơ sở hạ tầng mà theo nhiều phương diện giống như của Mỹ: hàng trăm
dặm đường, trung tâm thông tin liên lạc, kho đạn, kho dự trữ lương thực
và nhiên liệu, bãi đỗ xe tải, trạm dừng chân tạm thời cho quân đội.
Nhưng họ đã làm điều này trong một môi trường khắc nghiệt hơn nhiều: một
khu vực thưa thớt dân cư, giữa những ngọn núi gồ ghề, rừng rậm ba tầng
và rừng mưa nguyên sinh dày đặc. Đó là một trong những thành tựu to lớn
nhất lịch sử kỹ thuật quân sự, và tất cả đều được ẩn giấu khuất khỏi tầm
mắt, ngoại trừ bản thân con đường mòn.
Tôi được chỉ định tham gia một đơn vị nhỏ gồm các tình nguyện viên
đến từ tất cả bốn căn cứ ở Nam Việt Nam vốn đang quản lý các máy bay ném
bom F-100, loại máy bay được lựa chọn để thực hiện nhiệm vụ. Về lý
thuyết thì chúng tôi là “phân đội” (detachment) của một phi đội chiến
đấu thông thường, nhưng danh tính của từng người đã được giấu kín vì
tính tuyệt mật của nhiệm vụ. Các đơn vị khác chỉ biết chúng tôi qua mật
danh Misty. Và nhiệm vụ của chúng tôi là tìm và tấn công trực tiếp vào
tất cả các cấu phần trên Đường mòn Hồ Chí Minh.
Chúng tôi muốn cho nổ tung tất cả: xe tải, vật tư và cơ sở hạ tầng,
nhưng những gì chúng tôi có thể nhìn thấy chỉ là con đường mà thôi. Vậy
nên chúng tôi đã đánh vào các “điểm chết” (choke point), nghĩ rằng mình
đã lựa chọn phương án tốt nhất, đã khóa chặn đường đi. Và rồi ngày hôm
sau, đường vòng xuất hiện. Chúng tôi đã đẩy hàng đống đá ra giữa lòng
đường, thế mà bằng cách nào đó, con đường lại vòng qua đống đất đá đó.
Chúng tôi tạo thật nhiều hố bùn, chỉ để thấy những đoạn gỗ bắc qua đống
bùn.[1] Chúng tôi vất vả tạo những khúc sông cạn, chỉ để thấy chúng được lấp đầy.
Tựa một mê cung hơn là một con đường, Đường mòn Hồ Chí Minh cứ ẩn
khuất rồi lại hiện hình, tan biến rồi ló dạng, thu hẹp rồi mở rộng, chia
tách rồi hội tụ, mất hút vào hư không rồi bất chợt hiển hiện. Chúng tôi
đã phá hủy một phần lớn đất Lào – chế độ quân chủ 600 năm tuổi, Vùng Đất Triệu Voi – biến nó thành bụi xương. Tuy nhiên, bằng cách nào đó Đường mòn Hồ Chí Minh vẫn tồn tại. Giết chết nó cũng giống như cố gắng mang vớ cho một con bạch tuộc [tức làm một điều bất khả.]
Misty chúng tôi cực kỳ ngưỡng mộ nhóm tài xế xe tải. Họ được các đồng
chí của mình gọi là “phi công mặt đất,” một phép ẩn dụ không hơn không
kém. Chúng tôi thậm chí còn sáng tác cả một bài hát giễu cợt họ – về sự
cô đơn trên đường mòn; về thứ thức ăn gớm ghiếc nếu họ may mắn được ăn;
về cái cách mà họ khó nhọc thay lốp xe khi liên tục trượt trong vũng
bùn; về cái cách họ cạy sâu bọ ra khỏi răng mình vì Misty đã bắn thủng
kính chắn gió của họ.
Nhưng những gã tài xế ấy vẫn làm việc cực kỳ nghiêm túc trong điều
kiện đáng sợ nhất có thể tưởng tượng được. Họ rời khỏi căn nhà của mình ở
miền Bắc và chấp nhận sống trên đường mòn trong nhiều tháng, thậm chí
nhiều năm, chịu đựng thứ thời tiết gió mùa kéo dài, cùng căn bệnh sốt
rét, bị thú rừng cắn và cơn đói liên tục không ngừng. Họ gửi thư mỗi
tháng một lần; nhưng để nhận được có khi phải mất cả một mùa.
Họ phải tìm cách lái xe qua vùng nông thôn hoang vắng, trong bóng
tối, không có đèn pha – những chuyến đi sẽ chẳng còn thú vị nếu sử dụng
đường cao tốc hiện đại, nếu chẳng có ai chĩa súng vào bạn.
Chúng tôi đã thả hai triệu tấn bom xuống Lào – tương đương tổng số
bom mà người Mỹ sử dụng trong suốt Thế chiến II ở cả hai chiến trường
châu Âu và Thái Bình Dương. Chúng tôi “gieo mây” để tạo ra lũ lụt, rải
chất độc da cam, đặt mìn khắp các nẻo đường, lắp đặt các cảm biến dọc
theo Hàng rào Điện tử McNamara. Không nghi ngờ gì, chúng tôi đã gây ra
những tổn thất nặng nề cho họ. Miền Bắc đã chôn cất những người lính ngã
xuống khi tham gia xây dựng, vận hành và di chuyển dọc theo con đường
này tại khắp 72 nghĩa trang quân sự.
Nhưng họ vẫn đi, vẫn vượt qua tất cả để vận chuyển: những tên lửa 122
milimet mà sau đó đã tấn công Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tại Đà Nẵng,
những quả mìn đã giết chết lính Mỹ gần khu “Mỏ vẹt” (Parrot’s Beak),
những quân trang vật dụng mà cuối cùng sẽ giúp họ chiếm được Sài Gòn.
Bằng tất cả sức lực của mình, các tài xế xe tải đã cung cấp “oxy” để Bắc
Việt duy trì khả năng chiến tranh ở miền Nam.
Chúng tôi đã chẳng thể ngừng được bước tiến của họ trên đường mòn, đã
không bao giờ hoàn tất nhiệm vụ được giao – một sự thật vẫn khiến tôi
phiền lòng cho đến tận hôm nay. Những thiếu hụt về mặt kỹ thuật của lính
Mỹ – không có khả năng hoạt động vào ban đêm, đường bay của đạn kém
chính xác – đã được cải thiện rất nhiều kể từ thời đó. Nhưng vào cái
ngày Sài Gòn sụp đổ, cái ta thấy không phải là một toán du kích Việt
Cộng đánh chiếm thành phố, mà là những chiếc xe tăng T-54 của Liên Xô
dẫn đầu một đội quân tác chiến hiện đại được hỗ trợ bởi pháo binh và tên
lửa đất đối không – tất cả đều được vận chuyển bởi những tài xế xe tải
cứng cỏi trên con đường dường như không thể phá hủy – Đường mòn Hồ Chí
Minh. Merrill A. McPeak (trong hình), cựu lính Mỹ trong chiến tranh
Việt Nam, là Tổng Tham mưu trưởng Không quân Hoa Kỳ từ 1990 đến 1994.
—————– [1] Nguyên văn “Corduroy”: Loại đường xây từ những khúc gỗ tròn, dùng để vượt qua các địa hình bùn lầy.
Đường mòn Hồ Chí Minh – con đường của những con đường…
VOV.VN-Đường Trường Sơn- Hồ
Chí Minh góp phần to lớn kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến
chống Mỹ, thu non sông về một mối.
Trong
lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã từng khai thông nhiều con
đường để mở mang bờ cõi, bảo vệ non sông, vượt lên sự bao vây, ngăn
chặn… Nhưng có lẽ con đường Trường Sơn – đường mòn Hồ Chí Minh là con
đường vĩ đại nhất, cả trong ý tưởng và thực tế. Đó là con đường sáng
tạo, đột khởi, làm thay đổi cục diện thế lực cách mạng và đi tới thắng
lợi vẻ vang… Đó cũng là con đường của những con đường, con đường của gợi
mở, tiếp nối những con đường…
Đại văn hào người Trung Quốc Lỗ Tấn có câu nói với đại ý: Trên thế giới này làm gì có đường. Người ta đi mãi rồi thành đường.
Không
hẳn thế. Trước khi có con đường hằn trên mặt đất, đã có những con đường
trong ý tưởng, con đường của ý chí. Con đường Trường Sơn 55 năm trước,
trước khi thành con đường mòn có dấu chân lớp lớp chiến sỹ giải phóng
hằn in trên đó, đã là con đường trong tâm tưởng của những người lãnh
đạo, trong khát vọng mỗi người dân Việt Nam. Đó chính là con đường thống
nhất đất nước, con đường vũ trang cách mạng. Cùng tắc biến. Con đường
đi đến thống nhất hai miền Nam – Bắc bằng hiệp thương chính trị, tổng
tuyển cử theo tinh thần Hiệp định Geneva đã không thể thực hiện, do đối
phương tráo trở, thì con đường vũ trang cách mạng phải được tiến hành,
và đường Trường Sơn mở ra, là một tất yếu lịch sử.
Đoàn xe vận tải hùng hậu và quân đội ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh 1975 trên đường Trường Sơn (Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam)
Đường
Trường Sơn, mà sau này, chính đối phương định danh đường mòn Hồ Chí
Minh, là con đường của tinh thần sáng tạo, đột khởi, bất ngờ và biến hóa
không ngừng. Từ một nhóm nhỏ cán bộ soi đường, đến tiểu đoàn giao liên
đầu tiên dẫn quân, đã hình thành một binh đoàn mang tên Binh đoàn Trường
Sơn – Đoàn 559. Từ lối mòn men theo dãy Trường Sơn, đã hình thành hệ
thống đường trục dọc, trục ngang, với đường bộ, đường sông, đường ống,
dài gần 2 vạn km. Trên hệ thống giao thông này, hơn một triệu tấn hàng
hóa, vũ khí được đưa vào các chiến trường; hơn 2 triệu lượt người, 10
lượt sư đoàn, 3 quân đoàn, 90 đơn vị binh chủng kỹ thuật vào Nam ra Bắc.
Với đối phương, đây là con đường mang đến thảm họa, báo trước sự sa lầy
và thất bại. Hơn 4 triệu tấn bom đạn, chất độc hóa học đã đổ xuống;
nhiều đời Tổng thống đối phương huy động nhiều bộ não siêu phàm để đối
phó, ngăn chặn, nhưng đường Hồ Chí Minh vẫn cứ như gọng kìm siết chặt
sào huyệt kẻ thù, chạy thẳng cả vào giấc ngủ, bữa ăn mỗi ngày của đối
phương… Chiều sâu kỳ tích và chất huyền thoại của con đường được xây đắp
bằng trí tuệ, mồ hôi, xương máu của hàng ngàn, vạn nhân dân, cán bộ,
chiến sĩ. Tính từ ngày mở đường đến ngày thống nhất đất nước, con đường
tồn tại gần 60.000 ngày đêm. Hơn 20.000 bộ đội, thanh niên xung phong,
công nhân giao thông đã hy sinh; hơn 3 vạn người bị thương…
Con
đường xuyên qua 20 tỉnh từ Bắc vào Nam; chạy qua nước bạn Lào và
Campuchia; vắt từ Đông Trường Sơn sang Tây Trường Sơn, từ Tây Nguyên
xuyên xuống miền Đông, miền Tây Nam Bộ, nếu không có sức sáng tạo và
lòng quả cảm của những người mở đường, nếu không có lòng dân chở che,
bảo vệ và tiếp thêm nguồn lực, nếu không có sự ủng hộ, sẻ chia của bạn
bè quốc tế thì làm sao có thể tồn tại và đến cái đích cần đến! Đường mòn
Hồ Chí Minh là một kỳ tích vĩ đại thể hiện sâu sắc ý Đảng lòng dân,
biểu tượng của khối đoàn kết liên minh 3 nước Đông Dương. Từ con đường
trên bộ, đã có trên đường Hồ Chí Minh trên biển, đường Hồ Chí Minh trên
không, vượt lên sự phong tỏa, ngăn chặn, hướng về miền Nam ruột thịt, vì
sự nghiệp thống nhất đất nước. Đường Trường Sơn – Hồ Chí Minh chính là
con của những con đường, con đường gợi mở, tiếp nối con đường.
Đường
Trường Sơn – Hồ Chí Minh đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử, góp phần to lớn
kết thúc thắng lợi vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ, thu non sông về
một mối. Nhưng tính chiến lược, bất ngờ, sức sáng tạo, gợi mở của con
đường có giá trị lâu bền, vượt thời gian…
Từ
mấy chục năm trước, nhà thơ Tố Hữu đã cảm nhận về tầm vóc và sức lan
tỏa con đường: “Đường mòn Hồ Chí Minh” là con đường sáng tạo/Trường Sơn
cao hay địa đạo âm thầm/ Cũng là linh hồn ta, từ bốn nghìn năm/ Tự xây
đắp để ngang tầm thế kỷ”. Và nhà thơ Tố Hữu, trong một bài thơ sau này –
Cảm nghĩ đầu xuân 2002, đã lại dự cảm: “Mở rộng con đường huyền thoại
Hồ Chí Minh/ Cho Tổ Quốc mai sau lên tuyến đầu nhân loại”.
Từ
con đường mòn trong chiến tranh, con đường Hồ Chí Minh thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa dài hơn, rộng hơn và hiện đại gấp nhiều lần
đang được các thế hệ lớn lên sau chiến tranh dựng xây, sẽ là một kỳ tích
mới trong hòa bình. Nhưng, như thế chưa đủ, 55 năm trước, nếu Chủ tịch
Hồ Chí Minh và Trung ương không có quyết định dũng cảm mở đường Trường
Sơn, thì sự nghiệp thống nhất đất nước sẽ cam go, quanh co như thế nào!
Khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc về con đường Hồ Chí Minh trong thời
đại ngày nay, đó là con đường trí tuệ, đột khởi, dũng cảm vượt lên tư
duy giáo điều mòn cũ, không ngừng đổi mới, sáng tạo, nâng tầm dân tộc
“ngang tầm thế kỷ”, đưa dân tộc “lên tuyến đầu nhân loại”./.
(PLO) - Cách đây tròn 50 năm, không quân Mỹ đã điên cuồng tấn công
vào Hàm Rồng và các khu vực trọng điểm của tỉnh Thanh Hóa. Trong cuộc
quyết chiến ngày 3 và 4/4/1965, quân và dân Thanh Hóa anh hùng đã làm
nên chiến thắng lẫy lừng, bảo vệ cầu Hàm Rồng an toàn, làm nức lòng nhân
dân cả nước.
Trận địa pháo cao xạ bảo vệ Hàm Rồng
Bị thất
bại ở chiến trường miền Nam, cuối năm 1964, đầu năm 1965 đế quốc Mỹ
vạch kế hoạch ném bom miền Bắc, xác định từ Hà Nội vào đường mòn Hồ Chí
Minh có 60 điểm tắc, trong đó Hàm Rồng được xem là “điểm tắc lý tưởng”,
là “đầu mút của khu vực cán xoong”. Phá sập cầu Hàm Rồng, Mỹ sẽ cắt đứt
được mạch máu giao thông Bắc - Nam, đồng thời phá hoại nền kinh tế Thanh
Hóa, làm suy yếu vai trò của hậu phương đối với tiền tuyến miền Nam.
Do vậy,
việc đánh phá Hàm Rồng được Nhà Trắng và Lầu Năm Góc chọn là mục tiêu
quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.
Trận đụng đầu lịch sử
Do vị
trí địa lý, điều kiện tự nhiên, các tỉnh thuộc khu IV (cũ) khi bước vào
thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ đã trở thành địa bàn
chiến lược vô cùng quan trọng. Làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh
Hóa tháng 12 năm 1967, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Nếu như Quân khu IV
là quan trọng thì Thanh Hóa là quan trọng nhất bởi vì Thanh Hóa là hậu
phương trực tiếp của mặt trận Bình - Trị - Thiên và Lào”.
Nhận rõ
bản chất của đế quốc Mỹ, Đảng ta đã dự kiến khả năng chúng sẽ mở rộng
chiến tranh ra miền Bắc và đã chuẩn bị sẵn sàng để đánh chúng.
Với âm
mưu cắt đứt sự chi viện Bắc - Nam, cô lập Hàm Rồng và tập trung đánh dứt
điểm Hàm Rồng, vào 8 giờ 45 phút ngày 3/4/1965, 16 chiếc máy bay đầu
tiên của Mỹ ném bom vào địa phận Thanh Hoá với một loạt địa điểm đánh
phá như cầu Đò Lèn (Hà Trung), cầu Cun (Nông Cống), ga Văn Trai (Tĩnh
Gia)...
Nhưng
chưa đầy 1 giờ sau, cụm hoả lực phía Bắc cầu Hàm Rồng đã bắn rơi chiếc
máy bay trinh sát khi còn cách cầu Tào Xuyên 3km. Đây là chiếc máy bay
Mỹ bị quân dân Hàm Rồng bắn rơi đầu tiên, mở đầu trang sử Hàm Rồng quyết
thắng.
13 giờ
ngày 3/4, cuộc tấn công của đế quốc Mỹ vào khu vực Hàm Rồng bắt đầu.
Từng tốp máy bay phản lực hiện đại đủ các loại F105, F8, RF101... lao
vào đánh cầu Hàm Rồng liên tục trong 2 giờ 36 phút. Bầu trời Hàm Rồng
vang rền tiếng gầm rú của máy bay giặc, mặt đất rung chuyển bởi những
loạt bom hạng nặng của kẻ thù dồn dập dội xuống.
Ngay
trong ngày đầu tiên, Mỹ đã huy động 102 lần tốp máy bay, 360 lần chiếc
máy bay và mở 14 đợt tấn công nhưng vẫn không thực hiện được ý đồ “nuốt
trôi cầu Hàm Rồng ngay”.
Cơ động bắn máy bay địch trên vùng biển cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa
Sẵn sàng đánh địch
Quân,
dân Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực dũng cảm bám chắc trận địa với ý chí
quyết chiến quyết thắng. Hàng chục khẩu súng cao xạ của bộ đội chủ lực ở
các trận địa Đồng Đá, Yên Vực, Nam Bình, Cồn Đu (bờ Bắc), đồi C4, Đám
Cháy, Tàu thuyền, đồi Không tên (bờ Nam) và hàng trăm khẩu súng trung
liên, súng trường của tự vệ các xí nghiệp Lò cao, Phân lân, Máy xanh,
Máy điện..., các tay súng dân quân các xã Hoằng Long, Hoằng Lý, Hoằng
Anh, Nam Ngạn... hợp đồng nổ súng tạo thành nhiều tầng đạn, lưới lửa bủa
vây đội hình máy bay Mỹ khiến chúng phải nối nhau bỏ chạy.
Phán
đoán địch tiếp tục đánh phá Hàm Rồng, Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân
Việt Nam điều động ba đại đội pháo cao xạ 57 ly của Trung đoàn 234, Sư
đoàn 350, Bộ Tư lệnh Phòng không đang chiến đấu tại Nghệ An tăng cường
gấp cho Hàm Rồng.
Trên
2.000 nam nữ dân quân, tự vệ xung quanh khu vực Hàm Rồng và trên 1.000
cán bộ, công nhân ngành Giao thông Vận tải gấp rút khắc phục hậu quả do
địch gây ra và tiếp tục bổ sung mọi mặt cho cuộc chiến đấu mới: chuyển
đạn, san lấp hố bom, thông đường, đào đắp tu sửa công sự, giúp bộ đội,
ngụy trang lau chùi pháo... Tất cả sẵn sàng tiêu diệt giặc Mỹ.
7 giờ
30 phút ngày 4/4/1965, nhiều tốp máy bay địch tiến vào vùng trời Thanh
Hoá và phát hiện lực lượng pháo của Trung đoàn 234 đang trên đường từ
Nghệ An vào Thanh Hoá, chúng đã tập trung đánh phá khu vực bến phà Ghép
(Tĩnh Gia) nhằm ngăn không cho xe pháo của ta qua sông. Ngay lập tức,
các đại đội 2, 4, 5 và khẩu đội 14 ly 5 cùng quân dân các xã Hải Ninh,
Tân Dân, Hải An, Hải Châu (Tĩnh Gia)... đã bắn rơi 3 chiếc F105 và bắt
sống một tên giặc lái.
Cay cú
trước thất bại sáng 4/4, đúng 10 giờ, từ nhiều hướng (sân bay Cồ Rạt -
Thái Lan, sân bay Đà Nẵng, các tàu sân bay thuộc Hạm đội 7 ngoài biển),
giặc Mỹ thay nhau bổ nhào, dội bom vào khu vực Hàm Rồng.
Bằng
nhiều phương án tác chiến, lực lượng phòng không Hàm Rồng - Nam Ngạn -
Yên Vực đã sử dụng pháo cao xạ 57 ly của Trung đoàn 234 chặn đánh vòng
ngoài trên nhiều tầng, nhiều hướng, ở mọi độ cao... làm cho đội hình
chiến đấu của máy bay giặc Mỹ rối loạn và không thể công kích mục tiêu
như dự định của chúng.
Những
chiếc nào lọt vào gần cầu lập tức bị các trận địa cao xạ trên đồi Không
tên, đồi Ba cây thông, núi Ngọc, núi Rồng nổ súng tan xác. Hoảng hốt
trước sự đánh trả mãnh liệt của quân ta, giặc Mỹ đành bay vút lên cao.
Giữa
lúc đó, Không quân Việt Nam được lệnh cất cánh phối hợp với các lực
lượng Hàm Rồng. 11 giờ trưa, sau 11 đợt công kích, 40 lần bổ nhào bắn
phá, máy bay Mỹ vẫn không thể “đánh sập cầu Hàm Rồng trong chớp nhoáng”
lại hứng chịu nhiều thương vong buộc địch phải kết thúc trận đánh buổi
sáng sớm hơn dự kiến.
Đến
chiều 4/4, các tốp máy bay Mỹ tiếp tục đánh từ hướng Tây Nam với hy vọng
lợi dụng ánh sáng mặt trời tấn công liên tục. Tốp này ném bom xong lượn
vòng lên cao tiếp tục hút hoả lực mặt đất để tốp khác vào đánh, chúng
còn nghi binh bằng đường bay ngoắt ngoéo...
Nhưng
quân, dân Hàm Rồng - Nam Ngạn - Yên Vực vẫn tỉnh táo, hiên ngang đáp trả
bằng những đường đạn chính xác, những lưới lửa chăng dày, nhiều tầng,
nhiều hướng khiến giặc lái hoảng hồn phải ném bom bừa bãi rồi tháo chạy.
Đến 16 giờ, trận chiến đấu kết thúc.
Nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển vác trên vai hai hòm đạn pháo cao xạ
nặng 98kg, gấp đôi trọng lượng cơ thể
Vang mãi bản hùng ca
Chỉ
trong 2 ngày 3 và 4/4/1965, quân Mỹ đã sử dụng 174 lần tốp, 454 lần
chiếc máy bay, ném xuống địa bàn tỉnh Thanh Hoá 627 quả bom phá, 58 quả
bom nổ chậm (gồm các loại từ 500 đến 1.000kg), hàng trăm tên lửa,
rốc-két vào các khu vực trọng điểm của Thanh Hoá. Riêng khu vực Hàm Rồng
- Nam Ngạn - Yên Vực, địch bổ nhào 85 lần, cắt bom bắn phá 80 lần, ném
350 quả bom, bắn 149 quả đạn rốc-két.
Có thể
khẳng định đây là lần đầu tiên kể từ khi mở cuộc chiến tranh phá hoại
bằng không quân ra miền Bắc, đế quốc Mỹ tổ chức một trận đánh với quy mô
lớn nhất và mức độ ác liệt nhất. Sau 2 ngày chiến đấu kiên cường, Thanh
Hoá đã bắn rơi 47 máy bay giặc Mỹ, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an
toàn cầu Hàm Rồng khiến dư luận nước Mỹ xôn xao, bạn bè yêu chuộng công
lý và hòa bình trên toàn thế giới khâm phục.
Từ
trong khói lửa ác liệt của Hàm Rồng anh hùng, đã có nhiều tấm gương
chiến đấu kiên cường, anh dũng. Giữa lúc bom đạn địch đang dội xuống dày
đặc, dân quân Yên Vực (Hoằng Long) vẫn chèo thuyền vượt sông Mã chở đạn
dược cho bộ đội cao xạ. Nữ anh hùng Ngô Thị Tuyển vượt đạn bom vác 98kg
đạn, nặng gấp đôi trọng lượng cơ thể mình tiếp cho bộ đội.
6 nữ
đồng chí trong tổ cứu thương của Nhà máy Điện Hàm Rồng luôn có mặt bên
mâm pháo băng bó cho thương binh, tiếp đạn cho bộ đội. Các cụ già Nam
Ngạn vẫn nổi lửa nấu cơm, canh, cả nhà sư chùa Mật Đa cũng tiếp tế, cứu
thương cho bộ đội...
Cuộc
chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mỹ kéo dài 4 năm
với hơn 1.000 ngày đêm xung trận. Trên mảnh đất Hàm Rồng lịch sử, mỗi
ngọn núi, dòng sông, cánh đồng, nhà máy, mỗi xóm làng thân yêu đều là
mục tiêu đánh phá của kẻ thù.
Tiếp
đó, trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ (từ ngày 26/12/1971
đến 15/1/1973), đế quốc Mỹ đã sử dụng những phương tiện chiến tranh
hiện đại từ máy bay chiến lược B52 đến tên lửa Tà-lốc, bom xuyên, bom
la-de... tập trung rải xuống Hàm Rồng.
Qua 2
cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, riêng quân và dân Hàm Rồng đã
bắn rơi 117 máy bay, tiêu diệt, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ, bảo vệ cầu
bảo đảm giao thông thông suốt, đẩy mạnh sản xuất góp phần xứng đáng cùng
quân, dân cả nước đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi
hoàn toàn./.
Tuấn Anh (Tổng hợp)
Huyền thoại 10 cô gái ngã ba Đồng Lộc
Ngã ba Đồng Lộc đi vào lịch sử
như một bản anh hùng ca về quyết tâm sắt đá tất cả vì miền Nam ruột
thịt, vì độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc; về sự hy sinh cao cả của 10
cô gái thanh niên xung phong tuổi mười tám, đôi mươi.
Ngã
ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc, Can
Lộc, Hà Tĩnh. Ngã ba Đồng Lộc nằm gọn trong một thung lũng hình tam
giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo, mặt đường giống
như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất đá cũng lǎn xuống
đường làm cản trở giao thông. Tất cả mọi con đường từ Bắc vào Nam đều
phải đi qua ngã ba Đồng Lộc. Đây được xem như cổ họng, vượt qua được sẽ
phân tán toả ra nhiều tuyến đường khác nhau đi vào Nam.
Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà
không quân Mỹ liên tục đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao
thông của quân, dân ta chi viện cho chiến trường miền Nam. Con đường độc
đạo này đã được mệnh danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng,
mỗi mét vuông đất nơi đây đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày
đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968, không quân địch đã trút xuống đây
48.600 quả bom các loại.
12 cô gái thanh niên xung phong đang san lấp hố bom tại ngã ba Đồng Lộc (ảnh chụp trước khi các cô hy sinh một tuẩn).
Tiểu đội 4 thuộc Đại đội 552, Tổng đội
TNXP 55 Hà Tĩnh gồm 10 cô gái còn rất trẻ tuổi từ 17 đến 24 do chị Võ
Thị Tần làm Tiểu đội trưởng là đơn vị làm việc thường trực tại Ngã ba
Đồng Lộc, chịu trách nhiệm san lấp hố bom ở đoạn đường này để không đứt
mạch giao thông nối hậu phương với tiền tuyến. Bình thường, tiểu đội
hoạt động về đêm để lấp hố bom mà máy bay đã bắn phá vào ban ngày.
Với khẩu hiệu “máu có thể chảy, tim có
thể ngừng nhưng mạch máu giao thông không bao giờ tắt”, mưa bom, bão đạn
không làm khuất phục ý chí anh hùng của lực lượng thanh niên xung
phong.
Tinh thần ấy được thể hiện rất rõ trong
bức thư gửi mẹ đầy xúc động của chị Võ Thị Tần: “Mẹ ơi, ở đây vui lắm mẹ
ạ, ban đêm chúng nó thắp đèn để chúng con làm đường, còn ban ngày chúng
mang bom giết cá để chúng con cải thiện. Bom đạn của chúng có thể làm
rung chuyển cả núi rừng nhưng không thể làm rung chuyển những trái tim
của chúng con. Mẹ ơi, thời gian này mặc dù địch đánh phá ác liệt nhưng
bọn con vẫn tập được nhiều bài hát mới. Cuốn sổ tay mẹ mới gửi cho con
dạo nọ đã gần hết giấy rồi, mẹ gửi thêm cho con ít giấy. Mới về thăm mẹ
mà sao con thấy nhớ mẹ quá, mẹ nhớ giữ gìn sức khỏe và đừng lo cho con
nhiều”.
Trưa ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 được
lệnh san lấp hố bom sau khi máy bay Mỹ liên tục ném bom phá nát tuyến
đường vận tải để nhanh chóng thông đường cho xe qua.
Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến hiện
trường gấp rút triển khai công việc. Họ làm việc không ngơi tay, vừa
cười, vừa nói và đã 3 lần các cô bị vùi lấp nhưng đều rũ đất đá đứng dậy
tiếp tục làm việc.
16h30 phút, trận bom thứ 15 trong ngày
dội xuống Đồng Lộc. Một quả bom rơi xuống ngay sát miệng hầm - nơi 10 cô
gái của tiểu đội 4, Đại đội 552 đang tránh bom.
Tất cả các chị đã hy sinh khi đang ở độ
tuổi mười tám, đôi mươi và vẫn chưa có ai lập gia đình. Càng khâm phục
hơn khi đến ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy thi thể của chị Hồ Thị Cúc
trên đồi Trọ Voi trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc,
10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra.
Di ảnh 10 nữ anh hùng Ngã ba Đồng Lộc.
Thương xót người em, người đồng đội, nhà thơ Yến Thanh nghẹn ngào viết bài thơ: “Cúc ơi” trong lúc đồng đội tìm thi thể cô:
“Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?...
…Gọi em,
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi!”
10 cô gái Đồng Lộc kiên cường, dũng cảm
đó là: Võ Thị Tần (24 tuổi, Tiểu đội trưởng), Hồ Thị Cúc (24 tuổi, Tiểu
đội phó), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi
(20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị
Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi), họ đã ngã
xuống khi tuổi còn quá trẻ.
Các chị đã vĩnh viễn nằm tại ngã ba
huyết mạch Bắc - Nam này như họ đã chung một chiến hào lúc còn sống. Tên
tuổi 10 cô gái thanh niên xung phong đã trở thành bất tử như nhà thơ
Vương Trọng đã viết trong bài thơ: “Lời thỉnh cầu giữa Ngã ba Đồng Lộc
năm 1995: …Hai bảy năm trôi qua chúng tôi không thêm một tuổi nào…”.
Khu tượng đài Chiến thắng Đồng Lộc.
Để ghi lại chiến tích anh hùng của 10 cô
gái tại Ngã ba Đồng Lộc, ngày 7/6/1972, Chủ tịch nước đã truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lao động cho tiểu đội 10 cô gái. Ngã ba Đồng Lộc cũng đã
được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Ngày nay, khu mộ của 10 cô gái thanh
niên xung phong Tiểu đội 4 đã được xây dựng khang trang nằm cách tượng
đài Chiến thắng Đồng Lộc gần 200m. Tượng đài người thanh niên xung phong
giơ tay phất cờ báo hiệu mở đường cho xe thẳng tiến là biểu tượng cho
sự bất hủ của sức mạnh, tinh thần vươn lên đạp bằng mọi gian nan nguy
hiểm của lực lượng thanh niên xung phong.
Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng: Quê mẹ Bảo Ninh
Mênh mông sóng biển lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiều nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn kẻ người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa...
Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây chừ biển rộng trời cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Ông nhà theo bạn “xuất quân”
Tui may cũng được vô chân “sẵn sàng”
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng nước tàu bay
Tây kia ta đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!
Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung trắng bờ...
Gan chi, gan rứa, mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước, mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc nắng mưa đưa đò...
Ghé tai mẹ, tôi tò mò:
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:
“Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!”
Vui sao câu chuyện ơn tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say... 4-11-1965
Nguyễn Viết Xuân sinh năm 1934, dân tộc Kinh, quê xã Ngũ Kiên, huyện
Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc-một vùng quê có truyền thống yêu nước, chống
giặc ngoại xâm.
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, lên
7 tuổi, Nguyễn Viết Xuân đã phải sống một cuộc đời đi ở kéo dài suốt 10
năm. Khi vừa tròn 18 tuổi, anh đã dũng cảm vượt vùng tạm chiến ra vùng
tự do, xin đi bộ đội. Nhập ngũ tháng 11 năm 1952, lúc đầu, anh làm chiến
sỹ trinh sát, rồi tiểu đội trưởng trinh sát, trung đội trưởng pháo cao
xạ, sau làm chính trị viên đại đội. Bất kỳ ở cương vị nào, Nguyễn Viết
Xuân cũng luôn nêu cao quyết tâm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc,
gương mẫu, xung phong đi đầu, cùng đồng đội hoàn thành xuất sắc mọi
nhiệm vụ được giao.
Trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, anh
đã cùng đồng đội dũng cảm chiến đấu, không ngại hy sinh, gian khổ, góp
phần vào thắng lợi chung của chiến dịch, giải phóng miền Bắc, chấm dứt
ách thống trị của thực dân Pháp trên đất nước ta, đưa cách mạng Việt Nam
chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng miền Bắc theo con
đường xã hội chủ nghĩa và tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam.
Hoà
bình lập lại ở miền Bắc, đơn vị của Anh làm nhiệm vụ huấn luyện và xây
dựng. Bản thân, tuy sức yếu hơn so với đồng đội, song công việc nào được
giao, dù nặng nhọc, vất vả, đồng chí vẫn phấn đấu hoàn thành và hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Năm 1964 bị thất bại nặng nề
trên chiến trường miền Nam, Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không
quân ra miền Bắc nước ta, Nguyễn Viết Xuân với vai trò là một bí thư chi
bộ, một chính trị viên đại đội pháo cao xạ, đã nêu tấm gương sáng ngời
về tinh thần kiên quyết tiến công địch. Tiêu biểu là trận đánh địch ngày
18 tháng 11 năm 1964. Trong trận chiến đấu này, Mỹ đã huy động nhiều
tốp máy bay đánh phá ác liệt vùng ChaLo thuộc miền tây tỉnh Quảng Bình.
Ngay đợt đầu, 3 chiếc máy bay F.100 bất ngờ lao vào trận địa của đại đội
Nguyễn Viết Xuân. Loạt đạn đầu tiên của khẩu đội 3 đã đón đánh chiếc đi
đầu trong tốp, bọn địch đổi hướng tấn công và tập trung oanh tạc vào
Khẩu đội 3. Cả trận địa nổ súng giòn giã, đánh trả quyết liệt lũ cướp
trời, một chiếc trong tốp bay của địch trúng đạn bốc cháy, nhưng một
chiếc khác đã phóng một loạt tên lửa về phía khẩu đội 3. Bất chấp nguy
hiểm, Nguyễn Viết Xuân lao ra khỏi công sự, đứng bên khẩu đội 3 đĩnh đạc
tỏ rõ khí phách và hô lớn: “Nhằm thẳng quân thù, bắn!”
Giữa làn
bom đạn địch, tiếng hô dõng dạc của anh vang trên trận địa đã trở thành
khẩu hiệu khích lệ mạnh mẽ tinh thần quyết chiến quyết thắng của toàn
đơn vị và trên khắp các chiến trường đánh Mỹ. Lưới lửa của đại đội vây
chặt lũ máy bay Mỹ và một chiếc nữa lại phải đền tội. Trận chiến đấu vừa
tạm dứt, anh đi khắp các khẩu đội để nắm tình hình động viên quyết tâm
tiếp tục chiến đấu. Máy bay địch lại ập đến, điên cuồng bắn phá trận địa
của đại đội. Một lần nữa cuộc chiến đấu lại diễn ra khốc liệt tiếng máy
bay của địch gầm rú trên bầu trời liên tiếp nhả các loạt bom xuống trận
địa, anh bị thương nặng, gãy nát đùi bên phải. Nhưng Nguyễn Viết Xuân
vẫn thản nhiên bảo y tá cắt nốt phần thịt dính vào chân, bỏ chân đi cho
đỡ vướng. Đồng chí nói: “Tôi không việc gì” và căn dặn y tá không được
cho mọi người biết. Và vẫn tỉnh táo theo dõi cuộc chiến đấu, biểu dương
kịp thời những chiến sĩ và khẩu đội lập công. Sau trận chiến đấu ác
liệt, anh chỉ định người thay thế, phân công người chăm sóc các đồng đội
bị thương, bình tĩnh bàn giao cộng việc rất tỉ mỉ, rõ ràng. Trở về
tuyến sau, vết thương quá nặng, máu ra nhiều, nguyễn Viết Xuân thấy mình
khó qua được, anh đã bình tĩnh trao đổi nhiệm vụ với người thay thế,
dặn dò cặn kẽ việc chấp hành Nghị quyết của Chi bộ và nêu một số đề nghị
về công tác phát triển Đảng, Đoàn và khen thưởng trong đơn vị. Khi hy
sinh, anh là thiếu uý, chính trị viên đại đội 3, tiểu đoàn 14 pháo cao
xạ, sư đoàn 325, Quân khu 4, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tấm
gương chiến đấu anh dũng quên mình vì nhiệm vụ của đồng chí được cán bộ
chiến sĩ trong đơn vị rất cảm phục, cả đại đội 3 đã dấy lên một cao
trào thi đua, kiên quyết chiến đấu lập công, trả thù cho người chính trị
viên yêu quý của mình.
Ngày 1 tháng 1 năm 1967, Nguyễn Viết Xuân đã được nhà nước truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Cùng Anh Tiến Quân Trên Đường Dài - Y Jang Tuyn
Khẩu pháo 37mm và chuyện về anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân
Phan Thanh Nga – Bảo tàng Quân khu 4 |
5
Đã hơn 54 năm ngày anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân hy sinh,
có những câu chuyện về anh bây giờ mới được kể lại qua dòng ký ức của
đồng đội một thời cùng anh vào sinh ra tử.
Đó là Đại tá Hồ Sĩ Bảo, người pháo
thủ Đại đội 3, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ ngày đó. Bên khẩu pháo 37mm của
đại đội đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4, ông Bảo nhớ lại
trận chiến đấu rực lửa ngày 18/11/1964 tại Siêng Pan (Khăm Muộn, Lào)...
Tháng
2 năm 1964, tôi nhập ngũ thuộc Tiểu đoàn 14 thuộc Sư đoàn 325 (tiền
thân của Tiểu đoàn 396 - một trong 6 Tiểu đoàn cao xạ 37mm, thành lập
đầu tiên năm 1953, từng tham gia chiến đấu tại chiến dịch Điện Biên
Phủ).
Tháng 9 năm 1964, theo yêu cầu của tổ chức, Sư đoàn 325 nhận
nhiệm vụ vào chiến đấu tại chiến trường miền Nam. Tiểu đoàn 14 trở
thành tiểu đoàn độc lập thuộc Quân khu 4, có nhiệm vụ cơ động chiến đấu
trên địa bàn Quân khu và các tỉnh Trung, Hạ Lào.
Ngày 12/11/1964,
được lệnh của Quân khu, tiểu đoàn cơ động đến Siêng Pan, tỉnh Khăm Muộn
(Lào) bảo vệ tuyến giao thông quan trọng trên đường Hồ Chí Minh.
Đường
hành quân dài trên 500km, trong điều kiện thời tiết không thuận lợi,
trời mưa, đường trơn, núi cao, dốc thẳm nhưng đơn vị vẫn vừa hành quân,
kéo pháo, vừa học tập quán triệt nhiệm vụ của Quân khu giao, đồng thời
tổ chức thảo luận, học tập gương hy sinh của liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi (bị
chính quyền ngụy xử bắn tháng 10 năm 1964), xác định quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ đánh thắng trận đầu.
Đại đội 1, Đại đội 3 (pháo cao
xạ 37mm 1 nòng) và Đại đội 4 (pháo 14,5mm) từ hướng Đồng Hới ngược
Đường 8 sang Đường 12 lên hướng tây Quảng Bình, qua Siêngpan (Khăm Muộn,
Lào). Đến 3 giờ sáng ngày 15/11/1964, toàn đơn vị tới vị trí an toàn,
đúng kế hoạch.
Trận địa chiến đấu cách cầu Siêngpan khoảng 600m,
điểm giao thông quan trọng trong tuyến huyết mạch Việt Nam - Savanakhet
(Lào) - Campuchia, huyết mạch của Trường Sơn Đông qua Trường Sơn Tây.
Đây cũng là cửa khẩu của những đoàn quân miền Bắc cùng khí tài Nam tiến
chi viện cho miền Nam đánh giặc. Lúc này, tôi là pháo thủ số 3, Đại đội
3, đồng chí Nguyễn Viết Xuân làm Chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 14.
Một trận địa pháo phòng không trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh BTLSQSVN.
8
giờ ngày 18/11/1964, Mỹ cho máy bay thăm dò ở hai tuyến đường chi viện
quan trọng (Đường 12 và Đường 16) và khu vực cầu Siêng Pan. Lúc này,
trận địa ta bố trí trên cánh đồng lúa mới gặt, lựa chọn đúng thời cơ, ta
nổ loạt đạn đầu tiên đánh đuổi máy bay Mỹ.
Lợi dụng núi cao, rừng
rậm, từng tốp máy bay Mỹ quay lại thay nhau lao xuống ném bom, bắn rốc
két xuống trận địa. Sau khẩu lệnh chiến đấu của Đại đội trưởng Lê Hữu
Mai, khẩu pháo 37mm cùng trận địa nổ giòn dã.
Chiếc RF-101 bay đầu
tốp trúng đạn bốc cháy rơi ngay trên đỉnh núi. Như một con thú bị
thương, chúng hùng hổ điều thêm 22 chiếc máy bay gồm F-101, F-100, AD-6,
T-28 liên tục bổ nhào trút bom đạn xuống trận địa.
Cuộc chiến đấu
kéo dài suốt 8 giờ liền. Tôi cùng Pháo thủ Phạm Hường (Khẩu đội 1),
Khẩu đội trưởng Nguyễn Duy Dĩnh, Đậu Văn Vĩnh, Nguyễn Đăng Bộ (Khẩu đội
3)… đều bị thương nhưng không ai chịu rời trận địa.
Trong khói bom
mịt mù, Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân vẫn bám từng khẩu đội, thăm hỏi
anh em, động viên các pháo thủ giữ vững trận địa. Khi quay về vị trí
chỉ huy, anh bị một loạt đạn 120mm bắn gãy nát đùi bên phải, máu chảy
đầm đìa. Dù bị thương nặng, Nguyễn Viết Xuân vẫn dựa vào thành công sự
quan sát trận địa và cùng Đại đội trưởng Lê Hữu Mai tiếp tục chỉ huy đơn
vị chiến đấu.
Cả trận địa mịt mù khói bom, ngoài chiến sĩ thông
tin Trần Hữu Tình, không ai biết Nguyễn Viết Xuân đã bị thương, anh bình
tĩnh nhờ đồng đội cắt đứt phần chân bị địch bắn nát. Nhưng chiếc kéo
thông tin chuyên dụng của Tình không còn sắc bén khiến vết thương càng
thêm đau buốt, Tình nhanh nhẹn tìm y tá Lê Đăng Nhu ở Khẩu đội 3 cắt rời
phần chân trúng đạn và băng bó.
Dù bị thương nặng, máu ra rất nhiều, nhưng Nguyễn Viết Xuân vẫn nén cơn đau, căn dặn y tá: “Đừng để anh em biết mình bị thương”.
Lúc đó, khoảng 11 giờ trưa, dù đã cuối thu, nhưng cái nắng miền Tây vẫn
gay gắt, chói chang hòa lẫn cùng trận địa khét lẹt khói bom…
Anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân. Ảnh Từ điển BKQSVN 2009.
Thấy
rõ trận chiến đấu có thể diễn ra quyết liệt và kéo dài, sức mình đã
kiệt, nhiều việc của đơn vị chưa kịp làm, nhưng hơn lúc nào hết người
chính trị viên cần phải truyền hết ý chí, lòng căm thù tột độ giặc Mỹ
xâm lược đến cán bộ, chiến sĩ đơn vị, Nguyễn Viết Xuân gượng ngồi, yêu
cầu anh em nâng mình đứng dựa vào thành công sự, dồn hết sức lực cất
tiếng hô lớn:
“Phản lực Mỹ không có gì đáng sợ… Hãy nhằm thẳng quân thù mà bắn! Bị thương nặng không kêu la, bị thương nhẹ không rời vị trí!”.
Lời động viên dõng dạc át tiếng phản lực, đạn pháo như tiếp thêm sức
mạnh, trận địa liên tiếp nổ súng chính xác, bắn rơi lần lượt 4 chiếc
F-101, F-100, bắn bị thương nhiều chiếc khác, bảo vệ vững chắc mục tiêu.
Đến
19 giờ cùng ngày, địch rút quân sau khi gặp sự đánh trả quyết liệt của
ta. 21 giờ, thu dọn xong trận địa, tôi cùng đồng đội mới có thời gian
vào thăm Nguyễn Viết Xuân. Vết thương quá nặng và mất rất nhiều máu,
không thuốc giảm đau, không thuốc gây mê, y tá muốn tiêm thuốc bổ cho
anh nhưng Nguyễn Viết Xuân nhất định từ chối: “Mình đã 33 tuổi
rồi, đã có vợ, có con... các đồng chí còn trẻ, cống hiến cho Đảng, cho
nhân dân còn dài... Mình có thể sẽ không qua khỏi, hãy dùng thuốc này
tiêm cho đồng chí Hường và các đồng chí bị thương khác. Sẽ còn nhiều
trận đánh ác liệt nữa, các đồng chí cần có thuốc…”.
Sau đó,
Nguyễn Viết Xuân chỉ định người thay thế, bình tĩnh bàn giao công việc
rất tỉ mỉ, rõ ràng, dặn dò cặn kẽ việc chấp hành Nghị quyết của Chi bộ
và nêu một số đề nghị về công tác phát triển Đảng, Đoàn và khen thưởng
trong đơn vị… Đến 4 giờ sáng ngày hôm sau, ngày 19/11/1964, Nguyễn Viết
Xuân trút hơi thở cuối cùng…
Chiều hôm đó, đồng đội chôn cất đồng
chí Nguyễn Viết Xuân, Chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ
Quân khu 4, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam tại Bãi Dinh, nơi đây
không gian khoáng đãng, đồi nối đồi, những bông lau trắng nở dịu dàng,
nền nã và ấm cúng...
Sau khi Nguyễn Viết Xuân hy sinh, khẩu lệnh
chiến đấu của anh đã trở thành mệnh lệnh bắn máy bay Mỹ không những ở
trong quân chủng cao xạ mà còn trở thành tư tưởng hành động của lực
lượng vũ trang trong cuộc chiến tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. Tấm gương Nguyễn Viết Xuân cũng tiếp thêm khí
thế cách mạng trong toàn quân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Khẩu pháo phòng không 37mm số 4227 của Tiểu đoàn Nguyễn Viết Xuân trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4.
Noi
gương anh, tôi cùng đồng đội đã lập nhiều chiến công oanh liệt, cơ động
chiến đấu suốt 10 năm, với trên 48 vạn km, thường xuyên có mặt trên
những trọng điểm giao thông ác liệt nhất trên địa bàn Quân khu 4 và các
tỉnh thuộc Trung, Hạ Lào.
Đánh hơn 1.200 trận, bắn cháy 128 máy
bay Mỹ, có 42 chiếc rơi tại chỗ, bắt sống 9 tên phi công Mỹ. Trên các
trận địa Tiểu đoàn 14 đóng quân, cho dù lớp bom sau đè lên lớp trước,
nhưng những cung đường chiến lược vẫn thông, vẫn sống, bởi chúng tôi
chiến đấu bằng sức mạnh “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”
Tại
Đại hội thi đua quyết thắng Quân khu tháng 5/1966, được sự nhất trí của
Tổng Cục Chính trị và Quân khu, Tiểu đoàn 14 được mang tên Tiểu đoàn
Nguyễn Viết Xuân. Tháng 1/1967, Nguyễn Viết Xuân được truy tặng danh
hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tiểu đoàn 14 hai lần
được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (1967,
1970); hai lần được ra thăm và báo công với Bác Hồ, được Đại tướng Võ
Nguyên Giáp đến thăm tại trận địa chiến đấu (1966, 1970), dẫn đầu bảng
vàng lập công trong hàng ngũ cấp tiểu đoàn cao xạ toàn quân.
Thời
gian sau đó, tôi cùng 6 đồng chí khác tham gia làm cố vấn xây dựng và
chiến đấu trong Tiểu đoàn 8 cao xạ tỉnh Xalavan (Nam Lào). Chỉ sau 5
tháng xây dựng, củng cố và huấn luyện đã phối hợp với Tiểu đoàn 14 chiến
đấu bắn rơi 3 máy bay T-28, sau đó Tiểu đoàn 8 độc lập bắn rơi 2 chiếc
T-28 và tiếp tục vững mạnh, lập nhiều thành tích mới.
Bản thân tôi
đã từng tham gia chiến đấu ở khắp các chiến trường ác liệt (biên giới
Lạng Sơn năm 1979), may mắn lành lặn trở về như ngày hôm nay, tôi luôn
nghĩ do tôi được chính những đồng đội đã hy sinh, được chính anh Xuân
phù hộ, che chở…
Khẩu pháo 37mm (một nòng, sản xuất tại Liên xô
năm 1944) của Đại đội 3 - Tiểu đoàn 14 Nguyễn Viết Xuân anh hùng đã lập
công lẫy lừng trong trận đánh ngày 18/11/1964 tại Siêngpan và nhiều trận
đánh khác (ngay từ trận đầu ra quân, 5/3/1952, Đại đội 612, sau này là
Đại đội 3 bảo vệ cầu Thủy Khẩu đã bắn rơi tại chỗ 1 chiếc F-8F, được Bác
Hồ gửi thư khen; Cùng đơn vị bắn rơi 8 máy bay địch trong chiến dịch
Điện Biên Phủ 1954; từ ngày 5/8/1964 đến ngày 30/12/1972, bắn rơi và bắn
cháy 128 máy bay Mỹ) giờ đây được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4
(năm 1973) với số hiệu BTQK4: 405-K3-154.
Cũng từ khi hiện vật
được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng, tôi vẫn thường xuyên ghé thăm,
để tưởng nhớ đến đồng đội, nhớ đến những ngày tháng chiến đấu hào hùng.
Với
tôi, điều xúc động nhất theo suốt cuộc đời mình là những phút giây cuối
cùng bên Chính trị viên Nguyễn Viết Xuân, người đã để lại trong hàng
triệu trái tim Việt Nam với lời hô bất tử: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét