Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
TẬP HỢP BÍ ẨN THẾ GIỚI 3
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những hiện tượng bí ẩn nhất hành tinh - Tập3
Thâm nhập đại kim tự tháp Ai Cập: Giải mã những bí ẩn ngàn năm của nhân loại
Công Khanh |
2
Sâu bên trong kim tự tháp của Khufu.
Kim tự tháp Ai Cập, công trình ngàn năm bền vững với thời gian,
vẫn là một trong những bí ẩn khiến giới khoa học hiện đại đau đầu.
Trải qua hơn 4.000 năm lịch sử, những kim tự tháp
khổng lồ ở Giza vẫn đứng vững cho tới ngày nay. Chúng đã trở thành biểu
tượng của nền văn minh Ai Cập cổ đại, thách thức trí tuệ của nhân loại
suốt hàng ngàn năm qua. Ai là người đã xây dựng những kim tự tháp này? Liệu có phải là những người nô lệ? Kỹ thuật xây dựng mà họ đã sử dụng là gì?
Bài viết dưới đây của José Miguel Parra, phóng viên National Geographic, sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về câu trả lời cho những câu hỏi này. "Những gã khổng lồ" ở Giza
Vào
cuối thế kỷ 19, Amelia Blanford Edwards là một trong những du khách
châu Âu đặt chân đến Ai Cập để chiêm ngưỡng những kỳ quan của thế giới
cổ đại. Trong cuốn sách được xuất bản năm 1877 - "A Thousand Miles Up the Nile",
cô đã miêu tả cái nóng cháy da cháy thịt của sa mạc, cho tới khi "Đại
kim tự tháp, trong kích thước khổng lồ và uy nghi, xuất hiện ngay trên
đầu tôi... Một cảm xúc đột ngột dâng trào. Bầu trời dường như tắt nắng.
Nó làm lu mờ các kim tự tháp khác. Mọi thứ bị xóa bỏ, chỉ còn cảm giác
kinh ngạc và kỳ diệu".
Ngày nay, hầu hết các du khách hiện đại
cũng sẽ sử dụng những từ ngữ như vậy khi đứng trước những kim tự tháp
khổng lồ tại Giza. Chúng đã trở thành những biểu tượng của thế giới cổ
đại. Thật khó tưởng tượng rằng cách đây 4.600 năm, cao nguyên nơi chúng
đang đứng là một vùng sa mạc hoang vắng nằm dưới ánh mặt trời như thiêu
như đốt.
Cùng với Tượng nhân sư Sphinx bí ẩn, các ngôi mộ và tượng
đài nhỏ khác, Giza có 3 kim tự tháp: Khufu (ban đầu cao 146m, còn được
gọi là Cheops hoặc Đại kim tự tháp); Khafre (cao 143m) và Menkaure (cao
65m). Được xây dựng vào triều đại thứ 4 của Ai Cập, chúng là thành quả
của một trong những dự án kỹ thuật táo bạo và sáng tạo nhất mà thế giới
từng biết đến.
Quần thể 3 kim tự tháp ở Giza.
Các
vị pharaoh của triều đại thứ 4 cai trị Ai Cập từ năm 2575 đến 2465 TCN.
Trong thời kỳ vàng son của Vương quốc cổ, trung tâm quyền lực của họ
được đặt ở Memphis, thành phố bên bờ sông Nile, cách Giza 24 km về phía
Nam.
Khufu, vị vua thứ 2 của triều đại, cai trị trong một thời kỳ
tương đối hòa bình ở Ai Cập, mặc dù sau này sử gia Hy Lạp Herodotus đã
mô tả ông và con trai là độc ác và ngạo mạn.
Các kiến trúc sư và
kỹ sư của Khufu đã bắt tay vào một dự án vượt qua giới hạn của bất kỳ
công trình kiến trúc nào khác trong thời đại đồ đồng. Khi hoàn thành, nó
đã biến đổi hoàn toàn cao nguyên. Tại sao lại là cao nguyên Giza?
Khufu
đã chọn địa điểm này, một phần, để tách mình khỏi các kim tự tháp tráng
lệ do cha ông - Snefru, đã xây dựng ở Dahshur, một thành phố khác gần
Memphis. Bên cạnh đó, một vài yếu tố khác cũng biến nơi đây trở thành
một địa điểm lý tưởng. Địa hình cao của cao nguyên giúp các kim tự tháp
trông càng to lớn hơn.
Nó cũng gần Heliopolis, thành phố vốn sùng
bái thần mặt trời Re. Vì đã có một số ngôi mộ ở Giza trước đó, vùng đất
này đã được thần thánh hóa và rất phù hợp để xây dựng một lăng mộ của
một pharaoh chưa từng thấy trước đây.
Sau khi Khufu chết, con trai
ông là Redjedef đã cai trị trong một khoảng thời gian ngắn và bắt đầu
cho xây dựng một lăng mộ ở Abu Ruwaysh, nhưng chưa bao giờ được hoàn
thành. Vị pharaoh tiếp theo là Khafre - em trai của Redjedef, đã xây
dựng một kim tự tháp - cũng như Nhân sư vĩ đại như một số học giả khẳng
định, tại Giza.
Thế hệ tiếp theo cũng đi theo cùng một con đường: Menkaure - con trai của Khafre, cũng xây dựng kim tự tháp của ông ở Giza.
Mỗi
pharaoh khi xây dựng kim tự tháp của mình ở Giza đều tuân theo một số
quy tắc đơn giản để đảm bảo sự hài hòa trên cao nguyên: mặt tiền của
ngôi đền cao của Khafre liên kết với mặt phía tây của kim tự tháp Khufu.
Và mặt tiền của ngôi đền cao của Menkaure liên kết với mặt phía
tây của kim tự tháp Khafre. Đồng thời, một đường thẳng tưởng tượng gần
như nối các góc phía đông nam của ba kim tự tháp hướng về phía đền thần
Re ở Heliopolis. Ai là người xây dựng những kim tự tháp?
Herodotus
từng khẳng định công việc xây dựng Đại Kim tự tháp - theo tính toán đã
tiêu tốn tới 6 triệu tấn đá - được thực hiện bởi các nô lệ. Tuy nhiên,
hiện nay người ta đã chứng minh được rằng, thực tế công việc này được
đảm nhận bởi những người lao động được trả công đàng hoàng.
Những
dự án xây dựng khổng lồ như vậy luôn để lại một số dấu vết khảo cổ học.
Vào năm 1990, các nhà khảo cổ đã khai quật được một nghĩa trang của
những người thợ đã xây dựng nên hai kim tự tháp sau này của Khafre và
Menkaure.
Các ngôi mộ được chia thành những hàng phía trên và
dưới dựa theo địa vị của người đã chết. Tiếp sau đó, vào năm 1999, một
ngôi làng dành cho những người thợ xây cũng được phát hiện.
Snefu
- cha của Khufu, đã xây dựng một số kim tự tháp nhưng thất bại. Trong
hình là một ví dụ, một kim tự tháp được xây dựng ở Meidum.
Cả
2 phát hiện quan trọng này đã giúp các nhà khảo cổ có một mỏ dữ liệu vô
cùng giá trị về các điều kiện mà hai kim tự tháp nhỏ hơn ở Giza đã được
xây dựng - từ đó, có thể đặt ra các giả thuyết về việc xây dựng kim tự
tháp Khufu.
Một nghiên cứu trên xương của những người lao động cho
thấy công việc xây dựng là hoàn toàn thủ công - theo nghĩa đen. Tuy
nhiên, những người lao động này không phải là những nô lệ, mà trái lại
còn được hưởng những đặc quyền đáng ghen tị.
Các
phân tích cho thấy họ được hưởng một chế độ ăn giàu protein mà những cư
dân còn lại của Thung lũng sông Nile có thể còn chưa từng nghe đến. Các
bằng chứng cũng cho thấy, những cánh tay và chân bị gãy cũng được nối
lại một cách chính xác cho thấy họ được chăm sóc y tế rất tốt.
Một
trong những bộ xương trong nghĩa trang có một chân bị cắt bỏ một cách
chính xác mà các chuyên gia ước tính rằng anh ta đã sống được thêm 20
năm sau cuộc phẫu thuật.
Việc khám phá ra ngôi làng của những
người lao động cũng cho phép các nhà khảo cổ gỡ bỏ một tuyên bố sai lầm
khác của Herodotus rằng: 100.000 người đã tham gia xây dựng kim tự tháp
của Khufu. Trên thực tế, ngôi làng dường như chỉ có sức chứa tối đa
20.000 người, và có lẽ chỉ có một nửa trong số đó tham gia vào công việc
xây dựng tại một thời điểm.
Vậy bằng cách nào mà họ có thể xây dựng được những công trình đồ sộ như thế này với một lượng nhân công "ít ỏi" như vậy? Kỹ thuật xây dựng đầy bí ẩn
Những
thách thức của việc xây dựng một công trình khổng lồ và việc quản lý
hàng ngàn lao động đòi hỏi một kế hoạch tỉ mỉ. Người Ai Cập cổ cũng cần
phải tính toán số khối đá cần thiết để xây dựng một kim tự tháp với vật
liệu đã chọn.
Trong trường hợp của kim tự tháp Khufu, các mặt bên
của nó hợp với mặt đáy một góc 52 độ - vấn đề này đã được ghi lại trong
giấy cói của người Ai Cập, cho thấy họ là những người cực kỳ xuất sắc
trong toán học.
Những hình vẽ và chữ được khắc trên tường của khu
di tích cho phép các học giả có thể hình dung được cuộc sống của những
người thợ đã xây dựng nên những công trình khổng lồ này. Những khối đá
được tìm thấy với đầy đủ các ngày, các mùa trong lịch Ai Cập cho thấy
công việc xây dựng được tiến hành quanh năm, chứ không chỉ vào dịp sông
Nile bị ngập lụt.
Có nhiều loại kim tự tháp khác nhau và không
phải tất cả đều được xây dựng theo cùng một cách. Những khối đá ở vị trí
thấp nhất của kim tự tháp Djoser ở Saqqara - kim tự tháp đầu tiên ở Ai
Cập, được xây dựng từ một thế kỷ trước triều đại của Khufu - là gạch.
Tuy
nhiên, khi việc xây dựng tiến triển, các kỹ sư đã trở nên tự tin hơn,
và bắt đầu sử dụng các khối đá lớn hơn. Trong đó, những khối đá lớn nhất
ở Giza nặng khoảng 3 tấn, được sử dụng để xây dựng kim tự tháp của
Khafre.
Phần lớn vật liệu để xây dựng các kim tự tháp ở Giza đến
từ một mỏ đá chỉ cách Kim tự tháp Khufu khoảng 1 km về phía Nam. Những
khối đá vôi trắng đã từng là vỏ bọc bên ngoài của kim tự tháp thì được
di chuyển bằng thuyền dọc theo sông Nile từ Tura, cách đó khoảng 13 km.
Khi
làm việc ở Karnak vào những năm 1930, học giả Henri Chevrier phát hiện
ra rằng một khối đá nặng 5 tấn có thể được kéo dọc theo một con dốc bằng
đất sét đã được làm ướt chỉ với 6 người đàn ông.
Những hình ảnh
được tìm thấy trong các lăng mộ đã chứng tỏ điều đó, đôi khi những khối
đá kích cỡ đó cũng được kéo bởi bò. Các con dốc được dùng để nâng các
khối đá lên các vị trí của kim tự tháp cũng được mô tả trong các hình vẽ
ở một số ngôi mộ, và vẫn còn những bằng chứng khảo cổ về những con dốc
như vậy ở Giza.
Bức bích họa được tìm thấy trong lăng mộ của Rekhmire, mô tả cách các thợ xây vận chuyển các vật liệu.
Dạng
hình học của kim tự tháp cũng khắc phục những vấn đề hậu cần khi nâng
những khối đá lớn lên cao: Khoảng 40% khối lượng của kim tự tháp được
tập trung ở phần dưới cùng. Tuy nhiên, việc nâng các khối đá bằng một
con dốc vẫn là một thách thức lớn, và người ta vẫn chưa biết người Ai
Cập cổ đại đã giải quyết vấn đề này như thế nào.
Một giả thuyết là
có thể họ đã sử dụng cấu trúc bên trong của kim tự tháp - vẫn còn nhìn
thấy ngày nay, bởi vì vỏ bọc bên ngoài đã biến mất từ lâu.
Các
hàng tạo nên Đại kim tự tháp Khufu cao hơn trung bình một chút. Vì vậy
rất có khả năng, với đủ nhân lực, đòn bẩy đã được sử dụng để nâng các
khối đá lớn vào vị trí - và cứ thế, cho đến khi công trình được hoàn
thành dưới hình thức đỉnh cao, được gọi là kim tự tháp.
Sâu
bên trong kim tự tháp của Khufu, Hành Lang Lớn dẫn đến căn phòng nơi
một số người tin rằng một chiếc quan tài được làm từ một khối đá granit
rỗng để bảo quản cơ thể của Khufu
Phần ngọn trên đỉnh
kim tự tháp Khufu từ lâu đã bị đổ, được cho là làm từ đá trắng ở Tura.
Công trình được tạo thành từ tổng cộng hai triệu rưỡi khối đá, giúp nó
trở thành một trong những công trình lớn nhất hành tinh, kỳ quan duy
nhất trong số 7 kỳ quan của thế giới cổ đại vẫn còn đứng vững cho đến
ngày nay.
Nguồn: National Geographic
Nhà thờ Chartres, Pháp và những thông điệp gợi ý của thần linh
La Cathédrale de Chartres nằm ở
thành phố Schalter, cách thủ đô Paris khoảng 80km về phía tây nam. Nhà
thờ tọa lạc trên một ngọn đồi, đã được trùng tu và xây dựng nhiều lần,
kết hợp giữa kiến trúc của phong cách Romanesque và phong cách Gothic
với những bức tranh kính màu cổ nhất thế giới, là nơi hội tụ kỹ nghệ
tranh thủy tinh khéo léo tinh tế với những thông điệp gợi ý của thần
linh.
Trong
thời Trung Cổ, các tác phẩm điêu khắc của nhà thờ đều có màu đỏ, xanh
dương, vàng, xanh lá cây hay những màu sắc vô cùng tươi sáng. Nhưng đến
thế kỷ XVI và XVII, kiến trúc các tòa nhà không còn sử dụng các màu sắc
nữa; dường như màu sắc đã bị xóa sổ. Ngày nay, tới nhà thờ vào ban ngày
sẽ là màu sắc thật của trời xanh mây trắng, trang nghiêm mà yên tĩnh;
khi màn đêm buông xuống, thông qua các ánh đèn màu sắc sặc sỡ quang tú,
mới có thể tái hiện được dáng vẻ ban đầu của nó vào thời Trung Cổ.
Nhà thờ Chartres (Ảnh: MesSortiesCulture)
Mê cung – Con đường sinh mệnh
Khi bắt
đầu bước chân vào nhà thờ, thấy sàn phía trước có một mô hình mê cung;
mô hình này có cùng kích thước với cửa sổ hoa viên của nhà thờ, và được
gọi là “con đường sinh mệnh”. Mê cung này do 272 khối đá trắng tạo
thành, 272 là thể hiện thiên số báo tin lành trước ngày chúa Giê-su ra
đời, có ý nghĩa gắn với quá trình sinh mệnh của một vị thần. Trước kia
những thánh giả khi tới này này đều phải cầu khấn và dùng đầu gối đi hết
toàn bộ “con đường sinh mệnh” này trước khi tiến vào bên trong.
Nội
thất của nhà thờ có một mê cung gồm 272 viên đá trắng, có cùng kích
thước với đường kính của cửa sổ hoa viên của nhà thờ, còn được gọi là
“Con đường sinh mệnh” (Ảnh: epochtimes)
Ý nghĩa
của “con đường sinh mệnh” chính là nói với mọi người rằng: đời người
giống như một mê cung, mặc dù chúng ta sẽ phải trải qua một vài thời
điểm khó khăn quanh co trong cuộc đời, nhưng đến cuối cùng sẽ đều kết
thúc tại một điểm. Quá trình đi qua mê cung cần một sự tha thứ bao dung,
đôi khi bạn sẽ cảm thấy người này đang ở trước mặt bạn, nhưng thực ra
họ lại ở phía sau bạn. Trong quá trình tiến lên, bạn phải học cách tôn
trọng người khác và tôn trọng nhịp điệu của người khác. Bởi lẽ, người
trước mặt bạn có thể đi rất chậm, nhưng bạn luôn không thể vượt qua được
họ, nhất định bạn phải nhẫn nại chờ đợi. Đây chính là mê cung, phải
dùng trái tim khoan dung để đi hết quãng đường của cuộc sống. Chúng ta
không biết được số phận của chính mình, nhưng chúng ta biết rằng ở điểm
cuối mọi người sẽ gặp nhau.
Câu chuyện của những bức họa thủy tinh
Những
bức họa bằng thủy tinh trong các nhà thờ vừa có tác dụng kể chuyện vừa
có tác dụng trang trí. Vào thời Trung cổ, các cha xứ dùng các bức tranh
thủy tinh để giảng giải cũng như truyền thụ kiến thức Cơ Đốc giáo. Những
tín đồ từ xa xôi trên khắp thế giới đến đây, họ có thể không biết chữ
nhưng nhìn hình vẽ sẽ cho họ sự liễu giải dễ dàng.
Trong
nhà thờ có 2.600 mét vuông tranh thủy tinh, 172 cửa sổ thủy tinh, với ba
trong số đó là những bức tranh thủy tinh lâu đời nhất thế giới, được
làm từ thế kỉ 12. Màu xanh da trời trong bức tranh này hoàn toàn khác
với những bức tranh thủy tinh khác, thời kỳ ấy sử dụng thủy tinh Cô-ban
(Co) trong suốt. Đến thời kỳ nghệ thuật Gothic thế kỷ thứ 13, đa số các
cửa kính trong tòa nhà đều được dùng bằng thủy tinh Man-gan (Mn) vì thủy
tinh Cô-ban quá đắt đỏ.
Cửa sổ hoa hồng đã được thực hiện vào năm 1233, trung tâm là Đức Trinh Nữ Maria. (Ảnh: pinterest)
Thiết kế
màu sắc sặc sỡ của cửa sổ là để đề cao cảnh giới tinh thần của người
xem, do đó thứ tự quan sát sẽ là từ dưới đi lên. Hình vuông đại biểu cho
thế giới mặt đất, vòng tròn đại biểu cho thiên đàng. Trong văn hóa Cơ
Đốc giáo, màu xanh thường biểu hiện cho sự tinh khiết, áo choàng của
thánh Maria có màu đỏ đại diện cho sự chịu đựng khổ nạn; còn màu xanh lá
tượng trưng cho hy vọng.
Có một
bức mô tả toàn bộ câu chuyện về Chúa Giê-su. Bên phải là nguồn gốc của
Chúa Giê-su, tổ tiên của ông nằm ở nơi đó, từ trên bụng mọc lên một cái
cây. mỗi nhánh cây là một vị tổ tiên của Chúa, chỗ cao nhất là của tự
thân ông. Ở giữa bức tranh có tên là “Hạ thế”, kể về câu chuyện Giê-su
xuống thế gian với sự khắc họa của một khung hình vuông và hình tròn, vì
ông được cho là con của Thượng đế, nên ông tồn tại đồng thời trên cả
thế giới mặt đất và thế giới thiên quốc.
Cây phả hệ của gia đình Giê-su (l’arbre de Jessé ) (Ảnh: pinterest)
Ở phía
bên trái phía dưới của một bức tranh thủy tinh khác có một bức họa màu
đỏ, một thiên sứ có đôi cánh màu xanh nói với Maria rằng: “Người sẽ có
một đứa con”. Maria đi gặp người em họ Isabella và nói rằng: “Ta đang
đợi một đứa trẻ hạ xuống”. Isabella nói: “Ta cũng vậy”. Cả hai cùng mang
thai. Tiếp đến là bức “Sự ra đời của Chúa Giê-su”. Tầng thứ hai là bức
“Bữa ăn tối cuối cùng”. Tầng thứ tư là hình ảnh Chúa Giê-su bị đóng trên
thập tự giá. Thập tự giá có màu xanh lá, báo hiệu sự hồi sinh của Chúa
Giê-su, mang một sự kỳ vọng của mọi người về sự trở lại của ông. Ở tầng
cao nhất chính là bức “Chúa Giê-su phục sinh”.
Bên trái: Thiên sứ báo giai âm. Bên phải: Sự ra đời của Chúa Giê-su (Ảnh: epochtimes)
Nhìn vào
những bức tranh thủy tinh kể về câu chuyện của Thiên Chúa, chúng ta có
thể cảm nhận được lòng kính ngưỡng tôn giáo của những người thợ thủ
công; họ ca ngợi thần linh bằng những vật liệu cùng kỹ nghệ màu sắc tốt
nhất. Khi ấy mọi người đều tin vào thần linh, họ vô cùng thành kính, rất
nhiều người đã quyên góp cho nhà thờ. Tất cả phía dưới những bức tranh
thủy tình đều có một phần miêu tả những người quyên góp. Có một bức họa
miêu tả một đôi ủng màu trắng dưới những người thợ đang làm việc, thể
hiện rằng bức tranh này được quyên góp bởi những người thợ sửa giày.
Thời ấy, nghề sửa giày là một nghề làm ra tiền; họ rất giàu có, vì thế
có thể quyên góp rất nhiều tiền trong việc làm những bức tranh thủy tinh
cho nhà thờ. Ngoài thợ sửa giày còn có thợ mộc, thương nhân, công nhân
vận chuyển nước v.v. đều đã quyên tặng tiền cho nhà thờ.
Đây là bức họa thủy tinh về những người thương nhân buôn rượu (Ảnh: epochtimes)
Điêu khắc trên vòm cửa
Ở trung
tâm vòm cửa phía tây của nhà thờ (hay còn được gọi là cửa Vương Giả) là
bức điêu khắc Chúa Giê-su nghênh tiếp mọi người, xung quanh là bốn biểu
tượng gợi ý trong kinh thánh: con người, sư tử, bò và đại bàng.
Tác phẩm
điêu khắc Chúa Giê-su bay lên không trung, chung quanh là kiến trúc
hình vòng cung và các chòm sao theo các tháng. Mỗi vì sao đều có những
câu chuyện liên quan tới thời gian. Tỷ như ở dưới tác phẩm điêu khắc
chòm sao Scorpio (Thiên Yết) là cảnh mọi người giết lợn làm chân giò hun
khói và giăm bông chuẩn bị cho mùa đông. Phía dưới chòm sao Capricorn
(Ma Kết) là một người với hai đầu, một đầu là thanh niên, còn đầu kia là
ông già; chòm sao này vào tháng một, vì thế mà nó có ý nghĩa năm cũ
trôi qua, năm mới bắt đầu.
Vòm cửa phía tây của nhà thờ (hay còn được gọi là cửa Vương Giả) (Ảnh: epochtimes)
Các tác
phẩm điêu khắc trên cổng phía nam của nhà thờ mô tả câu chuyện của Tân
Ước. Cánh cửa ở giữa có hình ảnh Chúa Giê-su đang truyền giáo. Các tác
phẩm điêu khắc trên đỉnh của xà ngang là phán quyết cuối cùng: Thánh
chúa Saint Michel đứng ở chính giữa đang sử dụng sự chiếc cân để đo
lường linh hồn; những người tốt ở một bên, những kẻ xấu ở bên kia. Người
bên trái có một nụ cười hạnh phúc và đang cầu nguyện, được dẫn dắt bởi
các thiên sứ để đến thiên đàng. Những người bên phải có biểu hiện bất
hạnh, họ đang bị quỷ kéo xuống địa ngục. Có một con quỷ nhỏ đang gánh
một người phụ nữ trần truồng; một người đàn ông phạm tội ăn cắp tiền bị
con quỷ nhỏ kéo đi và thậm chí bị lấy túi tiền. Hiện nay, chiếc cân trên
tác phẩm điêu khắc đã bị hư hỏng và đang được sửa chữa tu bổ.
Pho tượng điêu khắc vòm cửa phía nam nhà thờ, chiếc cân trên tay thiên sứ đã bị hủy hoại (Ảnh: epochtimes)
Trong
thời kỳ Trung Cổ, mỗi khi có một cuộc hành hương lớn, nhà thờ sẽ mở cửa
suốt ngày đêm; một số người hành hương ngủ trong nhà thờ, ăn uống và
sinh sống ở đây; nơi này vừa là nơi sinh hoạt vừa là nơi cúng tế địa
phương. Ở bên ngoài tường rào nhà thờ có một dãy cửa hàng, để tạo thuận
tiện cho khách hành hương ở lại.
Bởi vì
những người hành hương đã trải qua một cuộc hành trình dài để đến đây,
nên điều đầu tiên cần làm trước khi vào nhà thờ là sửa chữa giày. Gần
nhà thờ có hẳn một “phố sửa chữa giày”. Ngoài ra, các thành phố khác
nhau trong vương quốc tại thời điểm đó đều có các loại tiền tệ khác
nhau, là cần thiết để đổi tiền địa phương ở những nơi khác nhau. Đường
phố nơi có các cửa hàng đổi tiền hay được đặt tên là “phố đổi tiền”.
Đi bộ
dọc theo những con phố quanh nơi này, dù là nhà thờ hay nhà dân, kiến
trúc bên ngoài đều mang theo những triết lý sâu sắc, cho mọi người hiểu
về thiện ác báo ứng, giải thích quan hệ giữa con người và trời đất. Mọi
người dường như luôn được Thiên Chúa chăm sóc mọi lúc mọi nơi, chỉ cần
chú ý xung quanh một chút, sẽ có thể khám phá được những gợi ý sâu sắc
của các vị thần.
Theo epochtimes.com Uyển Vân biên dịch
Nhà thờ Đức Bà Chartres - Pháp
704
Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Pháp đã
công nhận Nhà thờ Đức Bà Chartres của nước Pháp là Di sản văn hóa thế
giới năm 1979.
Nhà thờ Đức Bà Chartres - Di sản thế giới tại Pháp
Nhà thờ Đức Bà Chartres là một nhà thờ thuộc thành phố Chartres nằm ở
tỉnh Eure-et-Loirr, cách thủ đô Paris của Pháp khoảng 80 Km về phía Tây
Nam.
Có thể nói Nhà thờ Chartres là một nhà thờ còn nguyên vẹn nhất trong
một loạt các nhà thờ quan trọng ở vùng Eure-et-Loirr, ngoại ô của nước
Pháp. Nhà thờ nổi tiếng bởi phong cách kiến trúc Gothic hoàn hảo mà nó sở hữu.
Trong lịch sử của nước Pháp, thời cổ Chartres là kinh đô của người
Gôloa. Năm 858, những người Norman xâm chiếm đập phá thành phố tuy nhiên
không thể chiếm được thành phố. Đến thế kỷ thứ X, vùng Chartres trở
thành thái ấp của nhiều gia đình quý tộc rồi sát nhập vào lãnh địa của
Hoàng gia. Từ đó các Hoàng đế phong cấp cho công tước thường cấp đất ở
đây để cho họ xây dựng cung điện. Đến đời vua Louis 14, ông đã cho em
trai là Philippe Orlean đến đây và phong hiệu công tước Chartres.
Nhà
thờ đầu tiên được xây dựng ở đây vào thế kỷ thứ IV, nhưng đến năm 473
nó đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Nhà thờ thứ hai được xây dựng năm 858
nhưng cũng bị cháy hoàn toàn vào năm 1020. Ngay sau đó nhà thờ này tiếp
tục được xây dựng lại lần thứ 3 những lại tiếp tục bị cháy rụi trong một
trận hỏa hoạn vào năm 1194. Lần thứ 4 được xây lại, chính quyền địa
phương đã kêu gọi sự ủng hộ của người dân và các giáo xứ khác để quyên
góp tiền. Trong 26 năm, nhà thờ mới được xây dựng xong về căn bản nhưng
lần này do khoảng thời gian xây dựng kéo dài quá lâu nên kiến trúc nhà
thờ không có được sự đồng nhất như những lần trước đó.
Phần
kiến trúc và nội thất bên trong nhà thờ. Những mái vòm, cột và các hình
trạm khắc cho thấy sự tinh xảo và cầu kỳ trong thiết kế làm Nhà thờ Đức
Bà có một vẻ đẹp không giống bất kỳ nhờ thờ nào.
Nhà thờ mà du khách thấy ngày nay được xây
dựng vào khoảng năm 30 của thế kỷ thứ XIII, và được xây dựng trong 26
năm, nhiều năm sau đó nó vẫn còn tiếp tục được bổ sung những chi tiết
nhỏ bên trong, Những trụ hành lang phía tây của Nhà thờ là tháp còn lại
của công trình trước đó được xây dựng vào thế kỷ thứ XII.
Hình
ảnh và tượng trên cổng và mặt ngoài Nhà thờ với nội dung chính miêu tả
cuộc đời của Đức Mẹ, Chúa Jesus và những nhân vật trong Kinh Thánh.
Gian chính điện của Nhà thờ có 3 cửa chính, bên trên có những hình vẽ về cuộc đời của Chúa Jesus. Cửa phía Bắc và Nam được trang trí những bức tượng với chủ để trong Kinh Cựu Ước và Kinh Thánh truyền thống.
Mái của Nhà thờ có hình mũi nhọn chính là hai gác chuông cổ. Một gác
được xây dựng vào thế kỷ thứ XII, còn cái kia lại được xây dựng sau đó 4
thế kỷ là thế kỷ thứ XVI. Người xây dựng nên gác chuông thứ hai có tên
là Yehan de Beauce, ông xây dựng tháp chuông theo kiến trúc Gothic với
ảnh hưởng từ kiến trúc thời phục hưng. Phần lan can đá chỗ mà ngày nay
dàn đồng ca vẫn đứng hát cũng do Yehan de Beauce thiết kế cùng. Khu hầm
mộ dưới giáo đường được xây dựng trong suốt 2 thế kỷ từ thế kỷ thứ IX
đến thế kỷ XI.
Những ô kính màu được coi như những bức tranh kính tuyệt tác góp phần tạo nên sự nổi tiếng của Nhà thờ Đức Bà
Có thể nói toàn bộ Nhà thờ Đức bà là một viện bảo tàng tuyệt đẹp với những bộ sưu tập và những tác phẩm nghệ thuật cổ về Đức mẹ Đồng Trinh
phong phú nhất trên thế giới. Bên cạnh kiến trúc Gothic đặc trưng, Nhà
thờ còn sở hữu bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh nổi tiếng được đánh giá là
kiệt tác của thế giới.
Thánh đường của nhà thờ rộng và cao hơn so với những nhà thờ xây dựng
trước thời gian này. Nhà thờ có cổng cộng một đại sảnh ( gian chính
điện ) và 7 gian không đều nhau được phan bổ hai bên cánh phía Đông và
phía Tây. Tổng diện tích trong lòng thánh đường là 580 m2 với chiều cao
36,55 mét.
Các cổng ra vào nhà thờ cũng được thiết kế rất đẹp. Cổng Nam có phù
điêu và tượng miêu tả sự xuất hiện lần đầu tiên của Chúa Jesus, với hình
tượng đứa trẻ sơ sinh nằm trong vòng tay Đức Mẹ Đồng Trình. Cổng Bắc có
hình ảnh miêu tả sứ mệnh của Chúa Jesus nơi trần thế. Cổng giữa, cổng
trung tâm có hình ảnh ngày chúa tái thế, cảnh Nữ thánh Anne đang bế Đức
Mẹ Đồng Trinh lúc thơ ấu. Ngoài ra, hai bên cổng người ta còn nhìn thấy
nhiều nhân vật của kinh Cựu ước, kinh Tân ước như: Thánh Pierre, thánh
Baptiste, thánh Jean...Trên đỉnh của cổng vòm còn có hình ảnh Chúa sáng
tạo ra thế giới với cuộc sống của Adam và Eva..
Mặc dù có kiến trúc đẹp và độc đáo như vậy nhưng điểm khiến cho nhà thờ nổi tiếng nhất lại là những giàn kính màu.
Thời kỳ Trung cổ kính màu không có vẻ trong suốt và rực rỡ như bây giờ
mà có màu đục, sẫm như đá quý. Nếu vào trong nhà thờ thì phải 1 lúc mới
quen được với mức độ ánh sáng ở đây, chính khó khăn này lại là đặc điểm
rất riêng của nhà thờ Đức Bà.
Nhà thờ Đức Bà Chartres không phải
những năm gần đây mới nổi tiếng mà nó đã nổi tiếng từ thế kỷ thứ XIII
bởi những bức tranh kính màu. Bốn tấm kính cổ nhất ở đây có từ giữa thế
kỷ VIII, tổng cộng nhà thờ có 173 tấm kính gắn ở các cửa sổ với tổng
diện tích lên tới 2.000 m2. Ánh sáng từ bên ngoài hắt qua các ô cửa kính
tạo thành đủ màu sắc: đỏ, lam, lục, vàng, tím....bên trong nhà thờ. Mỗi
tranh kính ở đây đều miêu tả một tình tiết trong Kinh Thánh hoặc trong
lịch sử của Giáo hội. Nhờ những bức tranh kính này mà nơi đây giống như
một thư viện lớn, một viện bảo tàng hơn là một nhà thờ. Tất cả những bức
tranh kính đã tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp, nhẹ nhàng, làm giảm bầu
không khí trang nghiêm vốn có ở các nơi thờ phụng.
Cho đến nay, nếu
như đến thăm nước Pháp, du khách sẽ nhận thấy nhà thờ Đức Bà Chartres
luôn là điểm đến được lựa chọn hàng đầu không chỉ bởi nó nổi tiếng mà
thực sự kiến trúc và những tác phẩm trong nhà thờ là những tuyệt tác của
nghệ thuật.
Cập nhật: 03/12/2015Theo disanthegioi
11 công trình kiến trúc cổ đại bí ẩn trên thế giới thách thức giới khoa học
Một
số công trình cổ đại đồ sộ trên thế giới có niên đại hàng ngàn năm được
xây dựng hết sức công phu và chính xác khiến các kiến trúc sư, kỹ sư,
các nhà khoa học không khỏi ngỡ ngàng và thán phục.
Kể từ khi
được phát hiện, các nhà khoa học đã mất hàng chục, thậm chí hàng trăm
năm để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi ai, tại sao và làm thế nào mà
những công trình độ sộ đó được dựng lên. Nhưng cho tới nay, những câu
hỏi đó vẫn là bí ẩn chưa thể giải mã khiến các nhà khoa học đau đầu.
1. Stonehenge, Anh Quốc
Những cột đá bí ẩn ở nước Anh. (Ảnh: pixabay.com).
Theo
truyền thuyết, những cột đá bí ẩn này được pháp sư Merlin xây dựng lên.
Nhưng các nhà khoa học cho rằng, Stonehenge đã xuất hiện trước khi
Merlin, người thân tín với vua Arthur ra đời khá lâu.
Khu vực
quanh Stonehenge hàng trăm km không hề có nơi nào để khai thác đá, nghĩa
là những tảng đá khổng lồ này đã được vận chuyển từ nơi rất xa đến.
Nhưng người xưa đã làm thế nào thì đây vẫn là câu hỏi chưa có câu trả
lời.
Cho tới nay, các nhà khoa học vẫn không biết rõ ai và mục
đích xây dựng của công trình này là gì. Rất có thể đó là đài quan sát
thiên văn do vị trí của các hốc đá nằm đúng với những thiên thể trong hệ
Mặt Trời, hoặc là nơi cầu nguyện với thần thánh của các linh mục
Celtic... Nhưng tất cả chỉ là giả thuyết chứ không có bằng chứng cụ thể
nào.
2. Baalbek, Lebanon
Ảnh: Anton Ivanov.
Ngôi
đền này thuộc quần thể kiến trúc cổ tại Lebanon, là tàn tích để lại của
thành phố Baalbek từng phát triển cực thịnh vượng. Theo truyền thuyết,
ngôi đền này chính là nền móng của ngọn tháp Babel vĩ đại trong Kinh
Thánh.
Ngôi đền được xây dựng bằng những khối đá có trọng lượng
lên đến 1.000 tấn trong khi các khối đá lớn nhất ở Kim tự tháp Ai Cập
chỉ nặng 90 tấn. Vậy bằng cách nào mà người La Mã cổ đại không có kỹ
thuật, công nghệ nào mà vẫn có thể xếp chồng những khối đá có trọng
lượng khổng lồ để xây nên ngôi đền kỳ vĩ này?
3. Newgrange, Ireland
Ảnh: Internet.
Mặc
dù được một công ty xây dựng phát hiện ra Newgrange từ thế kỷ 17, nhưng
mãi 300 năm sau giới khoa học mới bắt đầu nghiên cứu về những bí ẩn của
công trình này.
Các nhà khoa học đã tìm thấy những lối đi với
đường tròn hoàn hảo, có niên đại còn lớn hơn các Kim tự tháp ở Ai Cập, ở
trung tâm là những ngôi mộ.
Nếu quan sát từ bên trong lăng mộ
này vào ngày Đông chí và Hạ chí, chúng ta có thể chiêm ngưỡng một hiện
tượng cực kỳ thú vị, những tia sáng của các vì sao sẽ lấp đầy những căn
phòng. Người Ailen tin rằng nơi đây là thế giới thần tiên, nơi ở của
những chú lùn và tiên nữ.
4. Mộ người Celt, bắc Caucasus, Nga
Ảnh: mariakraynova.
Một
ngôi mộ cổ có niên đại lên tới 5000 năm có cấu trúc rất đặc biệt. Nằm
trên một sườn núi, ngôi mộ được xây bằng những khối đá nặng hàng tấn mài
rất phẳng, có những lỗ nhỏ có thể đóng lại được bằng những cái nắp cùng
khổ.
Đặc biệt, những kết cấu được kết nối với nhau chính xác đến mức, chúng không cần những thanh xà hay vật liệu gì để ghép nối.
5. Tikal, Guatemala
Ảnh: Simon Dannhauer.
Tikal
là một trong những thành phố cổ đông dân cư nhất của người Maya nằm sâu
trong rừng rậm. Tại thành phố này có những ao nước nhân tạo, một cánh
đồng lớn, một sân chơi các trò thể thao dân gian, một cung điện. Tikal
được mệnh danh là "Thành phố của tiếng vọng" hay "Thành phố của sự thì
thầm vang vọng" vì chỉ cần một lời thì thầm dù nhỏ nhất cũng bị dội âm
khắp thành phố cổ này.
Đặc biệt, tại thành phố cổ này tồn tại
những kim tự tháp có hình dạng vuông vức tuyệt đối nhưng các nhà khoa
học vẫn chưa biết được chức năng của chúng là gì.
6. Mê cung đá trên đảo Bolshoi Zayatsky, Nga
Ảnh: Internet.
Hòn
đảo Solovetsky nằm bên bở biển Trắng ở Nga được tô điểm bởi những mê
cung đá cổ đại kỳ lạ, có hình dạng bậc thang xoắn ốc, được gọi là
Babylons. Mê cung đá đặc biệt này có lối vào và lối ra giống như nhau.
Rất
nhiều giả thuyết đưa ra về nguyên nhân và mục đích tồn tại của nó từ
hàng nghìn năm trước như một cái bẫy, một nơi dùng trong các nghi thức
truyền thống, thực hiện các nghi lễ kết nối với thế giới tâm linh...
Nhưng tất cả mới chỉ là giả thuyết và cho tới nay các nhà khoa học vẫn
đang điên đầu đi tìm câu trả lời.
7. Petra, Jordan
Ảnh: Pocholo Calapre.
Rất
nhiều bức tượng được tạc trên vách đá cao hơn 900 mét so với mực nước
biển trên sườn núi Hor. Những người thợ đã phải cực kỳ kiên nhẫn khi đục
đẽo cả khối đá lớn để tạo nên một kiệt tác như thế.
Các nhà
nghiên cứu tin rằng, đây là cổng vào của một ngôi đền hoặc một lăng mộ
cổ đại nhưng họ chưa tìm được bằng chứng lý giải cho giả thuyết đó.
Ngoài mục đích tạo nên nó, các nhà nghiên cứu cũng không biết được cách
những người cổ đại đã tạo ra nó ở độ cao như vậy, phải chăng họ sử dụng
giàn giáo?
8. Đội quân đất nung, Trung Quốc
Ảnh: Internet.
Cho
tới nay, các nhà khảo cổ mới phát hiện khoảng 2000 tượng binh sĩ bằng
đất nung trong tổng số khoảng 8000 tượng trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng,
sau 40 năm tìm kiếm. Đội quân đặc biệt này được tạo ra từ năm 200 trước
Công nguyên.
Điều gây ngạc nhiên với các nhà khoa học, là mỗi bức
tượng trong hàng ngàn bức tượng được tạo ra với kích thước như người
thật và chính xác đến từng chi tiết này đều mang được điểm riêng từ quần
áo, tóc tai cho tới nét mặt. Không thể tìm thấy hai bức tượng hoàn toàn
giống nhau.
9. Angkor Wat, Cambodia
Ảnh: lastdjedai.
Cụm đền Angkor Wat tại Campuchia của người Khmer được coi là công trình tín ngưỡng rộng lớn nhất trên thế giới.
Đây
là một quần thể với 200 đền thờ được đặt tại những vị trí được tính
toán trước trải rộng trên diện tích 162ha. Điểm đặc biệt của quần thể
kiến trúc này là dù đứng ở bất cứ góc nào, khách du lịch cũng chỉ có thể
nhìn thấy được ba ngôi đền cùng một lúc.
Lối thoát nước cũng
được người Khmer xây dựng rất khoa học, khi mùa mưa đến, nước sẽ ngập
những nơi được vẽ ra và biến khu này thành một hòn đảo giữa biển nước
bao la.
Những bức tường rất dày đặc, không thể tìm thấy những kẽ
hở. Những viên đá rất phẳng, chúng được xây dựng và tính toán nhằm đảm
bảo chịu được tổng khối lượng của công trình.
10. Đảo Phục Sinh, Chile
(Ảnh: Amy Nichole Harris).
Một
hòn đảo nhỏ nằm giữa Thái Bình Dương được bao phủ xung quanh bởi 887
tượng đá hình người khổng lồ (Moai) được tạc bởi người Rapa Nui vào giữa
những năm 1250 - 1500.
Mỗi bức tượng Moai có trọng lượng lên tới
75 tấn và cao khoảng 10m, thậm chí có bức nặng tới 270 tấn và cao 21m.
Có nhiều bằng chứng được tìm thấy chứng minh rằng chúng đã được vận
chuyển đến đây từ một nơi khác. Nhưng người Rapa Nui dựng những bức
tượng Moai để làm gì và họ đã làm thế nào để di chuyển chúng chôn khắp
hòn đảo?
11. Đại Nhân sư Giza, Ai Cập
Ảnh: Internet.
Những
bức tượng nhân sư tồn tại qua hàng ngàn năm giữa sa mạc bao la có lẽ là
bí ẩn lớn nhất mọi thời đại. Các nhà nghiên cứu cho rằng các bức tượng
nhân sư là công trình của các Pharaohs và bên trong là những căn phòng
với các lối đi được tạo ra rất khoa học.
Trải qua rất nhiều trận lụt lớn, nhưng các tượng nhân sư vẫn trường tồn mãi suốt hơn 5 thiên niên kỷ qua.
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét