Thứ Sáu, 22 tháng 5, 2015

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 74

(ĐC sưu tầm trên NET)

Đỗ Tống

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đỗ Tống (chữ Hán: 杜綜, 1504 - ?), người xã Lại Ốc, huyện Tế Giang, phủ Thuận An, Kinh Bắc (nay thuộc xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông đỗ trạng nguyên khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Minh Đức thứ 3 (1529) đời Mạc Thái Tổ. Ông làm quan cho nhà Mạc, giữ các chức quan như như Tả Thị lang Bộ Hình, Đông các Đại học sĩ.

Gia đình tiến sĩ

  • Thân phụ ông là Đỗ Nhân (杜絪, 1466-1518), tự Đôn Chính (敦政) hiệu Nghĩa Sơn (義山). Ông đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, khoa Quý Sửu niên hiệu Hồng Đức thứ 24 (1493) đời vua Lê Thánh Tông. Ông giữ các chức quan, như Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đô Ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị Kinh diên, ông đổi tên là Đỗ Nhạc (杜岳) và được cử đi sứ. Ông bị Mạc Đăng Dung sai Đinh Mông chém chết. Sau thời Lê Trung hưng ông được tặng Thiếu bảo, tước Văn Trinh bá.
  • Em trai ông là Đỗ Tấn (杜縉, 1514-?) đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất Mùi năm Đại Chính thứ 6 (1535) thời Mạc Thái Tông. Ông làm quan đến chức Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Trà Quận công. Sau bị tử trận, được tặng tước Quốc công.
  • Con trai ông là Đỗ Trực (杜直, 1537-?). Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Diên Thành thứ 3 (1580) đời Mạc Mậu Hợp. Ông làm quan đến chức Hiến sát sứ. Sau ông theo giúp nhà Lê làm Đông các Đại học sĩ.

Trạng nguyên Giáp Hải với bài họa ‘Vịnh bèo’ khiến sứ nhà Minh khâm phục

A- A A+ ‹Đọc›
Trạng nguyên Giáp Hải là 1 nhà ngoại giao xuất chúng. Ông nổi tiếng với bài hoạ đối đáp lại bài "Vịnh bèo" của sứ nhà Minh tự cao tự đại khinh thường nước Việt bé nhỏ.

Nghè Cả, xã Dĩnh Kế, nơi thờ Trạng nguyên Giáp Hải
Nghè Cả, xã Dĩnh Kế, nơi thờ Trạng nguyên Giáp Hải
Vị trạng nguyên có tài ngoại giao
Theo gia phả và sách đá phát hiện ở Cốc Lâm – Dĩnh Trì – Lạng Phu, hiệu Tiết Trai, sau đổi tên là Giáp Trừng, sinh vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Quang Thiệu thứ 2 (1517) đời nhà Lê, mất năm Binh Tuất, niên hiệu Đoàn Thái nguyên niên (1586) đời Mạc Mậu Hợp, người xã Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhân (nay thuộc thành phố Bắc Giang). Thuở nhỏ, Giáp Hải được cha cho đi học hành, chu tất. Ông thông minh từ nhỏ, học một biết hai, ứng đối như thần. Tuy vậy, không ỷ lại vào sự thông tuệ của mình, Giáp Hải rất chăm chỉ dùi mài kinh sử. Tương truyền, Giáp Kế ngồi dưới lùm cây, đặtc chân lên 2 phiến đá đọc sách. Hòn đá chỗ Giáp Hải ngồi học còn in dấu hình bàn chân. Nhiều ngày mải mê học, khát nước thì múc nước giếng bên cạnh để uống, quên cả ăn. Buổi tối ông thường rang một túi hạt hồ tiêu, khi nào buồn ngủ thì lấy ra nhấm nháp cho miệng cay cay mà tỉnh ngủ. Tính tình mát dịu, nói năng nhẹ nhàng, khúc chiết, giỏi căn từ, học chừng “hết chữ” các ông đồ trong vùng, ông được cha cho lên kinh đô học. Đến khoa thi Mậu Tuất (1538) niên hiệu Đại Chính thứ 9, Thái Tông Mạc Đăng Doanh, Giáp Hải thi đỗ đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, đệ nhất danh, tức Trạng nguyên. Năm ấy ông 22 tuổi.
Năm 1540, tức là sau khi đỗ trạng được 2 năm. Thái Tông Mạc Đăng Doanh đột ngột qua đời, con là Mạc Phúc Hải Trừng, còn dân gian vẫn quen gọi là Trạng Kế.
Trong bối cảnh lịch lúc ấy, nhà Mạc bị nhà Minh o ép lấy cớ Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê, nên nạn ngoại xâm rình rập trước ngõ. Để bảo vệ vương triều còn non trẻ, bảo vệ Lê dân thoát cảnh chiến trận và hoạ xâm lăng, nhà Mạc buộc phải có những nhượng bộ nhất định về biên giới. Lúc ấy nhà Minh sai sứ sang hạch sách nhà Mạc, nào đòi cắt đất, cống người vàng, nào sinh Mao Bá Ôn và Cừu Loan đem quân đóng ở cửa Nam Quan hỏi tội.
Do có tài văn chương, lại giỏi đối đáp nên Giáp Hải được Vua cử đi lãnh trách nhiệm ngoại giao tiếp các sứ giả nhà Minh và đã khéo léo dàn xếp ổn thoả vấn đề biên giới nên kẻ địch phải nể phục. Tương truyền, khi triều đình phải sai Giáp Hải lên cửa Nam Quan tiếp sứ, Mao Bá Ôn lại láo xược gửi sang cho triều đình nhà Mạc bài thơ “Vịnh bèo”, có ý khinh nhân dân Việt như bèo bọt. Giáp Hải lập tức đáp lại một bài hoạ vô cùng đanh thép. Dưới đây là hai bài xướng, hoạ.
Bài xướng của Mao Bá Ôn: “Bèo mọc trong ruộng nước nhỏ như cái kim, rễ bám vào đâu không ai biết, không ăn sâu. Bèo đã không gốc rễ, không có lá, không có cả cành. Tuy rằng họp đấy nhưng tan rã cũng rất mau, chỉ một trận là ra hồ, ra bể, không ai còn thấy vết tích nữa”. Ngụ ý khinh dân ta hèn kém, không có nguồn gốc, chỉ đánh một trận là tan như bèo.
Bài hoạ của Giáp Hải: “Bèo kết lại với nhau dày đặc như vây gấm, dù cái kim chui qua cũng không lọt, cành rễ liền nhau, mọc chằng chịt ăn rất sâu, thường cùng đám mây trắng xanh vẻ đẹp trên mặt nước. Và làm cho vầng hồng kia cũng không sao chiếu xuống được đáy nước. Ngọn sóng dù lớn đến đâu cũng không phá nổi, gió thổi mạnh thế nào cũng không làm chìm nổi bèo. Ở dưới có nhiều cá rồng ẩn nấp, dù tài câu của Lã Vọng cũng khó thả câu được”. Ngụ ý nói dân ta sống đông đúc như vảy gấm dệt, đoàn kết chặt chẽ, có thế độc lập của mình, không sợ ngoại xâm. Nhân tài nhiều như cá, dù kẻ địch có tướng giỏi cũng không làm gì nổi.
Xem bài hoạ, họ Mao và họ Cừu không dám tiến quân vào cõi nước ta.
Bài hoạ “Vịnh bèo” nổi tiếng của Giáp Hải xuất hiện trong bối cảnh này đã phần nào minh chứng cho tài ngoại giao xuất chúng của ông.

Trạng nguyên Giáp Hải với bài hoạ ’Vịnh bèo’ khiến sứ nhà Minh khâm phục
Vị quan chính trực, thanh liêm
Ngoài tài ngoại giao, Giáp Hải còn được triều đình cử làm Đề Điệu cho nhiều kỳ thi hương và giám sát việc thi cử hết sức nghiêm ngặt.
Năm 1558 đời Tuyên tông Mạc Phúc Nguyên, niên hiệu Quang Bảo thứ 5, Giáp Hải được cử làm Đề Điệu cho kỳ thi này có thí sinh khởi xướng chống trường thi, Giáp Hải đã kiên quyết xử lý để làm gương cho các kỳ thi khác.
Năm 1573, ông được cử giữ chức Tuyên phủ đồng tri, lên Nam Quan thuộc Lạng Sơn cùng quan lại nhà Minh thương nghị giám sát biên giới. Với những lý lẽ sắc bén, giải pháp thông minh khiến người Minh phải nể phục, kính trọng, thường chỉ gọi ông là Giáp Tuyên phủ chứ không gọi tên. Ông là người giỏi bang giao từ mệnh đã 5 lần được triều đình giao cho trọng trách đi sứ, 3 lần nắm ấn quan to. Ngoài việc bang giao, mỗi lần tiếp sứ hay mỗi lần đi sứ, ông thường có thói quen làm thơ ghi lại, sau tập hợp thành “Ứng đáp bang giao tập”, trong đó có những câu thơ cảm tác như: Hoàng thu thuỷ ác đương triều sủng/ Phi mã khinh cân thượng quốc tân. Nghĩa là: Cờ vàng kiệu tía được triều cưng/ Ngựa béo áo cầu khách thượng quốc.
Năm 1577, Thượng thư Bộ Hộ kiêm Đô ngự sử là Giáp Trừng vin cớ thấy sao chổi xuất hiện đã dâng sớ khuyên Vua Mạc Hợp 6 điều "Lễ vật dùng tế lễ phải thành kính, cẩn thận. Nếu Vua có lòng nhân, thì bề dưới không kẻ nào không nhân. Nứớc nào cả vua tôi trên dưới đều chạy theo mối lợi thì nước ấy sẽ nguy vong. Quốc gia lụn bại do quan tham. Nước nương tựa vào dân. Quân muốn thắng trận thì các tướng phải hoà hợp với nhau. Mạc Mậu Hợp nhận nhưng không làm theo ý tờ sớ này. Để xoa dịu, ngày 21/2/1578 Mạc Mậu Hợp “phong thêm hàm thiếu bảo cho Thượng thư Bộ Lại, Tuân quận công Giáp Trừng. Giáp Trừng cố từ không nhận nhưng Mạc Mậu Hợp không cho từ”. Niên hiệu Quang Hưng thứ2 (1579) tháng 3, Mạc Mậu Hợp thang Giáp Trừng lên chức Binh Bộ Thượng thư, Chưởng lục Bộ sự, nghĩa là nắm quyền hành công việc của tất cả 6 Bộ trong triều là: Lễ, Lại, Công, Hình, Bộ, Binh (ngoại giao, nội vụ, công thương, tư pháp, nông, lâm, an ninh quốc phòng).
Năm 1581, Giáp Trừng vào triều yết kiến xin về quê. Nhưng sau đó Mạc Mậu Hợp “lại ban chỉ dụ gọi Thiếu bảo Luân quận công Giáp Trừng ra nhận chức và tham bàn chính sự trong triều giúp quyết đoán cơ mưu quân sự, cần phải nghĩ yêu nước quên nhà”. Trong dịp này, nhân có mưa bão lớn, Thiếu bảo Giáp Trừng dâng sớ lên Mạc Mậu Hợp, hiến kế giữ nước, trong đó có những lời tâm huyết như: “Hiện nay những lính mới tuyển vào các doanh phần nhiều khí giới chưa tinh nhuệ, kỹ thuật chiến đấu chưa tinh, thuyền bè chưa chỉnh đốn, lại gặp thiên tai cảnh cáo chính là lúc đáng sợ nhất. Cho nên những chính sách trị an và tu chỉnh, không thể không rất cẩn thận. Nên nghiêm minh pháp luật, thu vén kỷ cương, giữ vững nơi bờ cõi, tu sửa các thành quách, luyện tập binh mã, chỉnh bị khí giới, đóng thuyền dựng trại, định phiên thường trực, đúng kỳ phải tới, ban hiệu lệnh, hàng ngày tập luyện, cốt cho thật giỏi, chờ thời cơ sẽ phát động. Lại cần bồi dưỡng gốc nước cố kết nhân tâm, hậu đãi dân mà không bắt dân khốn, giúp đỡ dân mà không bắt dân mệt, không nên dùng hết sức dân, nên giảm bớt sự phục dịch của nhân dân. Đó là kế sách trị bình vậy”. Mạc Mậu Hợp xem xong tờ sớ này liền ban lời uý dụ Giáp Trừng và triệu tới kinh sư để làm việc tại triều đường.
Trạng nguyên Giáp Hải, khi làm quan chính trực, thanh liêm, được Nhà Vua sủng ái tin dùng, các bạn đồng triều kính phục. Thời gian làm quan của ông trước sau 5 lần giữ chức Thượng thư, ba lần giữ chức Đài ấn, được phong tước Thái bảo Sách quốc công. Ông về nghỉ hưu không được bao lâu thì mất vào tháng 12/1586, tại quê hương làng Dĩnh Kế, dân quen gọi là núi Ông Trạng. Các dấu vết về giếng Ông Trạng, chân Ông Trạng, miếu Ông Trạng vẫn còn mãi đến sau này.
Một con người sáng danh trong lịch sử như vậy nhưng rất tiếc, do điều kiện lịch sử và chiến tranh, lăng mộ, đền thờ ông đã bị Pháp phá huỷ từ năm 1949 – 1950.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét