Chủ Nhật, 17 tháng 5, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 67
Trần Sùng Dĩnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Sùng Dĩnh (chữ Hán: 陳崇穎, 1465–?) là một Trạng nguyên của Việt Nam. Ông là người làng Đồng Khê, huyện Thanh Lâm, phủ Thượng Hồng (nay là thôn Đồng Khê, xã An Lâm, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487)[1], đời Lê Thánh Tông. Làm quan Đô ngự sử Thập nhị Kinh diên, rồi được thăng lên Hộ bộ hữu thị lang và Hộ bộ Thượng thư vào tháng 12 năm 1514 dưới thời vua Lê Tương Dực. Sau khi mất, ông được phong làm Phúc thần và được thờ phụng ở quê nhà.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 11:00 ngày 14 tháng 10 năm 2014.
Vũ Duệ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Vũ Duệ (chữ Hán: 武睿, 1468-1522), vốn tên là Vũ Nghĩa Chi, sau vua Lê Thánh Tông cho đổi tên là Vũ Duệ; là danh thần nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Ông là người làng Trình Xá (Kẻ Chịnh), huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây (nay thuộc làng Trình Xá, xã Vĩnh Lại, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ).Khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 (1490) dưới thời vua Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Trạng nguyên lúc 22 tuổi, cùng khoa với Ngô Hoán (đỗ Bảng nhãn) và Lưu Thư Ngạn (đỗ Thám hoa)
Đời vua Lê Hiến Tông, ông giữ chức Tản trị thừa tuyên sứ ty, tham chính xứ Hải Dương .
Năm 1520 đời vua Lê Chiêu Tông, ông giữ chức Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ nhập thị Kinh diên, hàm Thiếu bảo, tước Trình Khê hầụ, và được ban phong là Trinh ý công thần.
Tháng 4 năm 1521, ông nhận lệnh soạn bi ký khoa thi năm Giáp Tuất, Hồng Thuận thứ 6 (1514) .
Tháng 8 năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Mạc Đăng Dung lập hoàng đệ Lê Xuân lên làm vua, tức là Lê Cung Hoàng. Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, khảo cứu thêm trong Trung Hưng tiết nghĩa lục và Đăng khoa lục, thì tháng 10 năm đó, Vũ Duệ cùng với Lại bộ thượng thư Ngô Hoán và môn đồ là Nguyễn Mẫn Đốc thống suất hương binh đi theo vua Lê Chiêu Tông, nhưng đến Thanh Hóa thì đứt liên lạc, không biết vua ở đâu. Sau đó, họ hướng về lăng tẩm nhà Hậu Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa) bái vọng, rồi tự vẫn cả .
Sách Văn học thế kỷ XV-XVII ghi Vũ Duệ uống thuốc độc tự tử . Song theo thông tin trên báo điện tử Phú Thọ thì ông và ông Nguyễn Mẫn Đốc đều lao đầu vào đá tự vẫn.
Tưởng nhớ
Sau khi dẹp xong nhà Mạc, năm Bính Ngọ (1666) đời vua Lê Huyền Tông, triều đình bàn luận công lao, xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người công thần tử tiết. Sau đó, di cốt ông được đem từ Thanh Hóa về quê mai táng.Đền thờ Trạng nguyên Vũ Duệ đầu tiên làm ngay trên mộ của ông phía trong đê bên dòng sông Hồng nằm ở giữa làng Trình Xá. Ở cổng đền có ghi 3 chữ "Tiết nghĩa từ", và ở trong đền có tấm biển gỗ khắc 4 chữ "Vương thất huân lao", đều do vua ban. Đồng thời, ông cũng được sắc phong là "Thượng đẳng phúc thần". Lễ tế chính được tổ chức vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch) hàng năm.
Tác phẩm
Tác phẩm của Vũ Duệ hiện còn 7 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục. Dưới đây là bài thơ "tiêu biểu nhất cho tâm sự của tác giả mang đậm dấu ấn thời đại" [11].
|
|
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:02 ngày 13 tháng 3 năm 2015.
Thành trạng nguyên nhờ "học lỏm"
(Kiến Thức) - Gương hiếu
học và tài năng xuất chúng của Trạng nguyên Vũ Duệ đã góp phần vun trồng
nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Cậu học trò học lỏm
Vũ Duệ
người làng Trinh Xá, huyện Sơn Vi, nay là thôn Trịnh Xá, xã Lê Tinh
(cũ), huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Ông vốn tên là Vũ Nghĩa Chi, sau
đổi tên thành Vũ Duệ.
Vũ Duệ
là con nhà nghèo, bố mẹ không đủ tiền cho con ăn học, hằng ngày cậu bé
Vũ Duệ phải trông em, nấu nướng để bố mẹ đi làm đồng. Nhưng nhờ trời cậu
rất sáng dạ, lại rất hiếu học. Gần nhà cậu có một lớp học của một ông
thầy đồ. Như đã thành lệ, mỗi buổi sáng khi thầy ngồi vào bục giảng, ông
lẩm nhẩm điểm mặt chừng 20 cậu học trò hiện diện, ông cũng không quên
đưa mắt nhìn ra hè để ý "cậu học trò" không chính thức cõng em đứng
ngoài hiên, đôi mắt hau háu nhìn về phía ông.
Phải
đến quá nửa học trò trong lớp ghen ghét không muốn cho đứa trẻ cõng em
đến nghe lỏm bài học của mình. Mặc dù trong bụng thì tức tối, nhưng cũng
không dám hé răng nửa lời, vì chúng hiểu ý thầy là để mặc cho cậu ta
nghe bài giảng, chẳng thiệt hại gì.
Quả là
ông nghĩ như vậy thật, nhưng với một thời gian khá lâu, kể từ khi ông đồ
bước đến lớp học này thì cũng đã quá nửa năm, ấy thế mà cậu học trò học
lỏm kia vẫn kiên trì, chuyên cần tới lớp không chịu vắng buổi nào. Rồi
một hôm, thầy đồ nảy ra ý nghĩ muốn đuổi khéo cậu học trò học lỏm kia
bằng cách: Thầy nêu ra một câu hỏi khá hóc búa rồi bất chợt kiểm tra cậu
ta. Nếu cậu ta không trả lời được thì sẽ thẹn mà tự thoái, chứ ông
không phải đuổi. Nhưng nếu quả thật là cậu bé có tài năng mà đáp nổi câu
hỏi thì ông sẽ tìm cách cưu mang.
Trước
khi kiểm tra "cậu học trò học lỏm", thầy đồ lần lượt gọi các cậu học trò
chính thức trong lớp trước. Thầy hỏi đến quá nửa lớp nhưng chẳng cậu
nào đáp được. Bấy giờ thầy đồ mới dừng lại và hướng đôi mục kỉnh ra
ngoài hiên, nơi có cậu học trò đang cõng em, đôi mắt còn đang chăm chắm
nhìn về phía ông đồ, ý chừng cậu ta muốn trả lời thay cho các bạn ở
trong lớp. Thấy vậy, thầy đồ ôn tồn hỏi: Liệu con có đáp được câu hỏi
của ta không? Dạ, thưa thầy được ạ, cậu ta thản nhiên trả lời như vậy.
Thầy đồ
gật đầu: "Con thử nói xem sao". Cậu trả lời rất trôi chảy và mạch lạc.
Thầy đồ gật gật đầu tán thưởng. Cả lớp học đều trố mắt kinh ngạc và thán
phục. Bấy giờ thầy đồ mới biết tên em là Nghĩa Chi. Thầy hỏi cậu: "Cái
tên Nghĩa Chi tuy là hay nhưng chưa xứng với tài năng của con. Nay thầy
đổi cho con cái tên là Duệ, liệu có vừa ý con không?". Nghĩa Chi vái tạ
thầy rồi ra về.
Chết vì vua
Ngay
sau buổi học hôm ấy, thầy đồ đến tận nhà vận động, khuyên nhủ cha mẹ cho
Duệ đi học. Chỉ vài tháng sau khi Duệ đến lớp chính thức, cậu vươn lên
hàng đầu. Cậu được thầy yêu bạn mến vì học giỏi và hay thơ.
Khi thi
Hương, Duệ đỗ Giải nguyên. Thi Hội và thi Đình, Vũ Duệ đỗ trạng nguyên.
Năm 23 tuổi, đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên)
khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490) đời vua Lê Thánh Tông.
Ông làm
quan trải qua các chức Trinh ý bỉnh văn công thần, Lại bộ Thượng thư
kiêm Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diện, Thiếu bảo, tước Trình khê
hầu. Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, ông theo vua Lê Chiêu Tông chạy
vào Thanh Hóa. Ông đội mũ mặc áo chỉnh tề, đến lạy lăng các vua Lê ở
Lam Sơn rồi tự sát. Đến đời Lê Trung Hưng, ông được phong là phúc thần.
Ông còn 9 bài thơ chữ Hán chép trong Toàn Việt thi lục.
Gương hiếu học và tài năng xuất chúng của Trạng nguyên Vũ Duệ đã góp phần vun trồng nền văn hiến lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Trần Hồng Đức
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét