Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

CÂU CHUYỆN TÍNH BÁO 47

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Stig Bergling - Gián điệp nổi danh nhất Thuỵ Điển

VietnamDefence - Stig Bergling bị toà án Thuỵ Điển kết án tù chung thân vì làm gián điệp cho Liên Xô, sau đó chạy thoát và tiếp đó được tình báo Liên Xô cử sang Li-băng huấn luyện các chiến binh Palestine.
Gần như trong phim hành động
“Ít có ai biết nhiều về an ninh Thuỵ Điển hơn ông ta” - với dòng chữ đó, hãng thông tấn TT của Thuỵ Điển đã bình luận tin Stig Bergling, công dân Thuỵ Điển đã bị kết án tù chung thân vì tội làm gián điệp cho Liên Xô, đã trở về tổ quốc và bị bắt giữ. Bị bắt vào năm 1979, 8 năm sau, ông đã chạy trốn trong một cuộc gặp với vợ do ban quản lý nhà tù cho phép chiểu theo pháp luật hiện hành.

Sự thăng tiến của điệp viên này (hiện nay, ông 57 tuổi) trên nấc thang công danh khá khó hiểu. Sau thời gian làm trong ngành cảnh sát và làm sĩ quan cho Liên Hiệp Quốc, mặc dù có những phản đối từ phía các đồng nghiệp, ông vẫn được nhận vào Cục An ninh Thuỵ Điển SEPO với cương vị sĩ quan liên lạc với Bộ Tổng tham mưu Quân đội Thuỵ Điển. Cả ở SEPO và Bộ Tổng tham mưu, ông đều có quyền tiếp cận được những tài liệu cực kỳ quan trọng, mà việc tiết lộ chúng sẽ gây thiệt hại cực kỳ nghiêm trọng cho quyền lợi quốc gia của Thuỵ Điển.

Được biết Bergling làm công việc “thứ hai” của mình từ khá lâu. Các tín hiệu về hành vi đáng ngờ của ông, ban đầu do một phụ nữ quen biết củu Bergling đưa ra, nhưng đã không được xem xét một cách nghiêm túc. Sau khi Bergling bị lộ, người ta mới đặt ra những câu hỏi: Tại sao các cơ quan có thẩm quyền lại chậm trễ như vậy trong việc bắt giữ ông ta? Với tư cách những “lý do”, người ta nêu lên một số yếu tố như: gián điệp này luôn luôn gặp gỡ với các liên lạc viên ở ngoài biên giới Thuỵ Điển, không bao giờ sử dụng điện đài để truyền tin tình báo.

S. Bergling bị cảnh sát Israel bắt giữ vào tháng 3 năm 1979 tại sân bay Tel Aviv. Khi bị thẩm vấn, ông lập tức thú nhận tất cả. Tháng 12 cùng năm, ông đã bị toà án Stockholm phiên sơ thẩm tuyên án tù chung thân vì tội làm gián điệp cho Liên Xô. Ông đã ngồi trong nhà giam Thuỵ Điển trong 8 năm trời ròng rã. Ban đầu, ông bị cách ly nghiêm ngặt với các tù nhân khác. Dần dần, người ta cho phép người ta đến thăm ông, ông cũng được phép ra ngoài nhà tù trong thời gian ngắn dưới sự bảo vệ nghiêm ngặt. Hai lần vào năm 1985 và 1987, ông đã gửi tới toà án các cấp đơn xin ân xá nhưng đều bị bác đơn.

Trong khi gặp gỡ với người vợ Elisabeth Sandberg ở ngôi nhà ngoại ô của bà tại thị trấn Rinkebiu ở ngoại ô Stockholm vào đêm 6 tháng 10 năm 1987, hai vợ chồng ông đã chạy trốn sau khi đánh lừa được lực lượng bảo vệ. Họ sang thành phố Turku ở Phần Lan bằng phà, sau đó một thời gian ngắn, chiếc ôtô mà họ thuê đã được tìm thấy ở ngoại ô Helsinki. Những dấu vết của bản thân Bergling, dưới cái tên Eugen và họ của người vợ, đã biến mất mặc dù các cuộc truy tìm gián điệp này vẫn tiếp tục.

Đôi vợ chồng Bergling ở lại Liên Xô trong một thời gian ngắn. Có thể là những biến động xã hội ở Liên Xô và sức ép của Thuỵ Điển đã buộc họ phải chuyển sang Li-băng. Họ dừng lại ở Beirut, thành phố đã quen thuộc với Bergling từ thời ông làm sĩ quan của Liên Hiệp Quốc phục vụ tại Cận Đông. Họ chọn địa điểm này không phải là ngẫu nhiên bởi vì một phần các nhiệm vụ gián điệp được Bergling thực hiện chính tại khu vực Cận Đông, nhân đây cũng nói thêm là năm 1979, chính tại sân bay Tel Aviv, Bergling đã bị cảnh sát Israel bắt giữ.
Như vậy, Bergling và vợ đã băng qua lãnh thổ Liên Xô để đến Li-băng khi đó nằm dưới dự kiểm soát của Syria. Sau đó, Bergling được thượng cấp báo tin “đã đến lúc trở về nhà”. Không còn có sự ủng hộ và giúp đỡ từ phía  Syria, sau những năm dài sống tại Li-băng, Bergling đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc trở về tổ quốc.

Dù sao chăng nữa, cuộc chạy trốn của Stig Bergling, cùng với vụ sát hại Thủ tướng Thuỵ Điển Olof Palme và cuộc săn tìm không kết quả các tàu ngầm,  đã trở thành một trong những sự kiện lớn lao và giật gân nhất trong lịch sử hiện đại của Thuỵ Điển. Cuộc chạy trốn của Bergling đã làm tiêu tan lòng tin đối với chính quyền tối cao.

Tổ chức cảnh sát quốc tế Interpol đã truy nã Elisabeth Sandberg, người tham gia thực hiện cuộc chạy trốn được vạch ra và chuẩn bị rất kỹ lưỡng này. Mấy ngày sau hành động táo bạo này, tại Thuỵ Điển đã bắt đầu cuộc điều tra sơ bộ đối với E. Sandberg về việc hỗ trợ cuộc chạy trốn - một tội mà khi đó có thể bị phạt 2 năm tù. Nhưng thời hạn hiệu lực của loại tội đó là 5 năm, bởi vậy, cuộc điều tra đã bị chấm dứt ngày 1 tháng 10 năm 1992.

Công hàm phản đối gửi đại sứ Nga
Chính phủ Thuỵ Điển đã gửi công hàm phản đối mạnh mẽ tới đại sứ Liên bang Nga tại Stockholm. Thủ tướng Thuỵ Điển Carl Bildt đã loan báo tin này tại một cuộc họp báo.

Nguyên nhân của hành động ngoại giao (démarche) này là do Stig Bergling bị toà án Thuỵ Điển kết án chung thân vì tội gián điệp cho Liên Xô, sau khi chạy thoát khỏi lực lượng bảo vệ và vượt biên sang Phần Lan, sau đó có mặt tại Liên Xô, đã hoạt động như một nhân viên GRU.

Sau khi vợ chồng Bergling đến được Mariehamn, trung tâm hành chính của quần đảo Alands, một vùng tự trị thuộc Phần Lan - nơi hiện nay có lãnh sự quán Nga, -  thì người Liên Xô đã đảm nhận trách nhiệm lo cho những kẻ chạy trốn.

Theo thông báo của Bildt, “Bergling là nhân viên cơ quan tình báo quân sự Xô-viết GRU với quân hàm đại tá và ông ta đã nhận tiền của họ”.

Andres Ericsson, vị chỉ huy cơ quan cảnh sát an ninh Thuỵ Điển SEPO tham gia cuộc họp báo, đã kể các chi tiết kỹ thuật của cuộc chạy trốn của Bergling từ căn hộ của vợ ông ta tại thị trấn ven đô Rinkebiu vào tháng 10/1987. Trên hai chiếc ôtô, họ đã đến cảng Grisslehamn và từ đó đi phà sang Mariehamn nơi họ liên lạc với các đại diện của toà tổng lãnh sự Liên Xô.

Sau đó, họ đã lọt vào sứ quán Liên Xô tại Helsinki, ở đó họ được xếp nhà ở. Họ sống tại căn hộ này từ ngày 7 tới ngày 10 tháng 10 năm 1987, trong khi các nhân viên GRU đang chuẩn bị  cho cuộc trốn chạy của họ. Biên giới chạy ngang qua khu vực Vyborg, còn chính Bergling thì phải nằm trốn trong khoang hành lý xe ôtô khi vượt biên giới. Sau đó, hai vợ chồng đi qua Leningrad về Moskva và ở đây cho đến năm 1988. Sau thời gian này, chính Bergling cho biết, ông được huấn luyện để đảm nhiệm những nhiệm vụ mới, được cử sang Budapest và năm 1989 đã trở về thủ đô Liên Xô.

Từ thời điểm này đã bắt đầu tích cực chuẩn bị cho chuyến du hành của cặp vợ chồng gián điệp sang Li-băng, cả hai đặt chân đến đó ngày 24 tháng 11 năm 1990. Trong thời gian sống ở đó, vợ chồng Bergling thực hiện các nhiệm vụ của GRU. Nhưng sau đó, người vợ của “siêu gián điệp” bắt đầu cảm thấy nhớ nhà, nên họ bắt đầu chuẩn bị cho chuyến về nước, họ đã sang đảo Sip và từ đó trở về Thuỵ Điển.

Chính phủ Thuỵ Điển, Thủ tướng Bildt tuyên bố với các phóng viên, ông tin chắc là tất cả những điều Bergling khai là sự thật. Trường hợp này cho thấy rằng, “Các cơ cấu của thời đại cũ và lối tư duy cũ vẫn tiếp tục sống ở nước Nga. Đáng lẽ họ nên thừa nhận về điều đã xảy ra với lối tư duy dân chủ. Khi đó, sẽ chẳng có nguy hiểm nào đối với mối quan hệ hữu nghị giữa Thuỵ Điển với nước Nga mới”.

Tổng thư ký Bộ Ngoại giao Thuỵ Điển Lars-Åke Nilsson, tại cuộc họp báo, đã xem sự kiện Bergling tiếp tục phục vụ cho người Nga, kể cả sau khi Liên Xô tan rã, là khá nghiêm trọng. Yếu tố này cùng với việc Bộ Ngoại giao Thuỵ Điển không nhận được lời giải thích cho rất nhiều yêu cầu của mình đã là nguyên nhân của của việc phản đối chính thức. L-Å. Nilsson đã thông báo là Bộ Ngoại giao Thuỵ Điển đã thay đổi quyết định đã được thông qua của mình về việc cấp visa vào Thuỵ Điển cho trợ lý Tuỳ viên quân sự Nga tại Đại sứ quán Liên bang Nga ở Thuỵ Điển. “Chúng tôi cũng yêu cầu ngài đại sứ để các hoạt động của Nga ở Thuỵ Điển mang tính chất văn minh hơn”.

Cuộc chạy trốn của Bergling đã làm gãy đổ đường công danh của nhiều quan chức tai to mặt lớn, còn Bộ trưởng Tư pháp Thuỵ Điển khi đó Sten Wickbom đã phải từ chức. Vậy mà bây giờ là sự trở về của tên gián điệp được cho là kẻ gây tổn thất lớn nhất cho nền an ninh Thuỵ Điển. Cái gì là nguyên nhân cho bước đi như vậy? Có lẽ, mong ước được gặp mặt bà mẹ già đang sống qua ngày tại nhà dưỡng lão ở thành phố Falun chăng? Tháng 12 năm 1994, bà đã xấp xỉ 90 tuổi. Bản thân bà mẹ, như lời khẳng định của các nhân viên nhà dưỡng lão, không bao giờ nhắc tới con trai và không nói chuyện về anh ta.

Những chuyện bịa đặt thêm thắt
Stig Bergling bị toà án Thuỵ Điển kết án tù chung thân vì tội làm gián điệp cho Liên Xô, sau đó chạy thoát khỏi lính gác và tiếp đó, như khẳng định của chính quyền Thuỵ Điển, được tình báo Liên Xô cử sang Li-băng để huấn luyện các chiến binh Palestine sử dụng kỹ thuật quân sự do Liên Xô sản xuất, tờ báo Thuỵ Điển Experessen viết.

Nhóm khủng bố này, như tờ báo viết, đã tách khỏi Tổ chức Giải phóng Palestine PLO và do Ahmed Jibril cầm đầu này, đang bị buộc tội dính líu vào vụ tai nạn của máy bay chở khách của hãng Pan America Mỹ trên bầu trời Lockerbie (Scotland) năm 1988. Trong số các học trò của Bergling, tờ Expressen viết tiếp, có cả các thành viên của một tổ chức khủng bố do Abu Nidal cầm đầu, cũng như các thành viên định cư ở Cận Đông của tổ chức Quân đội Cộng hoà Ireland IRA, của nhóm Action directe của Pháp và Baader-Meinhof của Đức. Trại mà Bergling huấn luyện nằm cách Beirut 50 km, trong thung lũng Bekaa, trên phần lãnh thổ Li-băng do Syria kiểm soát.

Tất cả những dữ liệu này được nhà báo Peter Kadhammar nhận được từ một người đồng nghiệp Li-băng muốn giấu tên, có mối quan hệ rộng rãi, kể cả trong giới chức an ninh Li-băng. Nhà báo Thuỵ Điển này đã được kể về mảnh giấy trong đó có đề cập đến một “nhân vật Thuỵ Điển” làm việc cho người Nga. Người Thuỵ Điển mà tên không được nêu rõ trong mẩu giấy này là một người trong “nhóm chuyên gia quân sự”, dưới sự kiểm soát của Syria, đã tham gia huấn luyện các nhóm khủng bố sử dụng kỹ thuật quân sự.

Vậy tại sao nhà báo này lại cả quyết người được đề cập trong mảnh giấy đó chính là Bergling? Trong mảnh giấy có nói rằng, “người Thuỵ Điển” thường gặp gỡ vị chỉ huy Nga của mình ở Beirut, tại nhà hàng Mandarin đối diện với trung tâm văn hoá Nga tại thủ đô Li-băng và chỉ cách sứ quán Liên Xô trước đây và nay là sứ quán Nga vẻn vẹn có 3 khu phố. Nhà báo Thuỵ Điển đã tới thăm nhà hàng này và đưa cho nhân viên nhà hàng xem ảnh của Bergling. Người đầu bếp nói chưa bao giờ trông thấy người này, còn anh hầu bàn Abdullah Djabil thì trái lại đã nói là anh ta biết rất rõ người đó. Cả chủ nhà hàng Khalaf Harib cũng nói: “Ông ta chỉ mới ở đây một tháng trước đây và cùng ăn với bạn mình”.

Việc huấn luyện các chiến binh tại trại ở ngoại ô Beirut đã bị chấm dứt năm  1993. Nhưng nếu vậy thì Bergling đã làm gì trong một năm trời cho đến khi trở về Thuỵ Điển, nếu quả thực ông ta làm giáo viên quân sự?

Tóm lại, vụ Bergling bắt đầu có thêm ngày càng nhiều chi tiết. Bản thân “siêu điệp viên” cũng thật sự lo lắng và sợ là mình sẽ bị buộc nhiều tội mà ông ta chẳng hề có liên quan

Điệp viên thế kỷ XX: Những nữ điệp viên khả ái

VietnamDefence - Janine Brookner là người đã khai mào cho một làn sóng các phiên toà. Sau 25 năm làm việc cho CIA, bà ta đã biết không ít về thế giới này: từ năm 1989 đến 1991, bà ta cầm đầu cơ quan đại diện CIA tại hòn đảo Jamaica ở Caribê. Những nhân viên thuộc cấp không coi bà ta là xếp.
Janine Brookner
Vị phó của bà ta, một tình báo viên lão làng không thể nào tìm được tiếng nói chung với phụ nữ. Bởi vậy chẳng có gì là ngạc nhiên khi bà ta báo cáo về Trung ương là người phó của bà ta nhiều lần đánh đập vợ mà thường là khi say xỉn.

Các nhân viên đã phẫn nộ nhưng không phải với kẻ hay gây gổ kia, mà là với vị nữ chỉ huy, người đã tố cáo vị phó của mình là một tên nát rượu và cuồng dâm. Kết quả là CIA đã huỷ bỏ việc thuyên chuyển đã dự kiến nữ nhân viên tình báo của mình sang Praha, đồng thời đã thăng cấp, cất nhắc vị phó của bà ta. Ông ta trở thành nhân vật số hai tại Panama, điểm trung chuyển đôla ma tuý và cocain.

Kết quả của phiên toà do Janine Brookner khởi xướng là việc CIA phải bồi thường cho bà ta 410.000 đô la để bù đắp cho tổn thất tinh thần. Khi đó, còn có 400 nữ nhân viên CIA cũng đưa yêu sách với lãnh đạo CIA, họ cũng cho mình là nạn nhân của tệ phân biệt đối xử. Cục Tình báo Trung ương Mỹ đã hứa thăng cấp cho chừng một tá trong số đó và trả cho những người khiếu nại tổng cộng 1 triệu đô la để bù đắp tổn thất tinh thần.

Hiện nay, trong cơ quan tình báo CHLB Đức BND thì các nữ nhân viên trẻ, trái lại, luôn được khuyến khích. Các chuyên gia về phương Đông, các nhà ngôn ngữ học và chuyên gia công nghệ máy tính có liên quan với BND thường giới thiệu sinh viên làm việc cho “Cục Tài sản liên bang”, cơ quan này trực tiếp làm việc cho BND.

Trong nhiều năm, một trong các nữ nhân viên của cơ quan này đã trở thành hình mẫu về công danh thành đạt: có bằng tiến sĩ về đề tài “Vai trò chính trị của phụ nữ ở CHDC Đức”, cộng tác với một tổ chức gần gũi với Liên minh Cơ đốc giáo CDU, gia nhập BND, giữ một chức vụ chỉ huy với mức lương thuộc nhóm A 15 với lương chính 7000 mác.

Nhiều lần, nữ nhân viên này đã được huy động tham gia công việc của phòng 6 thuộc văn phòng thủ tướng, phân tích các tài liệu mật của BND, của Cục Tình báo quân sự MAD và của Cơ quan Bảo vệ hiến pháp liên bang BfV (BND (Bundesnachrichtendienst) chịu trách nhiệm về tình báo đối ngoại. BfV (Bundesant fur Verfassungsschutz) và MAD (Amt fur den Militarischen Abschirmdienst) là hai trong số các cơ quan tình báo chịu trách nhiệm về an ninh nội địa của CHLB Đức - ND). Chuyên gia về phương Đông này được coi là người rất chăm chỉ và thận trọng trong công việc. Tuy nhiên, Gabriella Gast đã nhận huân chương của CHDC Đức, nước mà bà bí mật phục vụ. Điều đó dẫn đến việc bà bị kết án tù 6 năm 9 tháng.

Trong hàng ngàn trang sách John Le Carré, Ian Fleming và Graham Greene ((Henry) Graham Greene (1904-1991); John Le Carré, bút danh của David John Moore Cornwell (1931-); Ian Fleming (1908-1964) đều là những cựu nhân viên tình báo và các nhà văn Anh nổi tiếng về đề tài tình báo, trinh thám - ND) đã đặc tả những điều mà ai cũng biết: phụ nữ thoát y thì đàn ông khai khẩu. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, tại CHLB Đức, mọi chuyện lại hoàn toàn trái lại: các quý bà ngồi miệt mài trong các phòng khách để cung cấp các tài liệu phôtô cho các chàng Romeo giả dối để đổi lấy tình yêu.

Donald Maclean, nhà ngoại giao háo danh của Nữ hoàng Anh là một điệp viên siêu hạng. NKVD, cơ quan tiền thân của KGB, năm 1938 đã cử một nữ nhân viên đẹp nhất của mình là cô nàng tóc đen bí danh Norma tới bờ sông Xen để chỉ đạo Lyrist (bí danh của Maclean), người trẻ hơn cô ta 4 tuổi.

Aleksandr Orlov, một trong những đại gia trong làng tình báo Xôviết, đã kể trong cuốn sách “Bản hướng dẫn” của mình về việc các Thị Màu Xôviết quyến rũ  các chàng trai Anh như thế nào: “Những người đàn ông ban đầu được dạy dỗ bởi các cô gia sư, sau đó được gửi tới các trường chuyên tư thục giành cho nam sinh... đã bị điên đảo vì những cô gái amazonka trẻ bốc lửa và gan dạ và những quan hệ tinh thần của họ nhiều khi đã biến thành những thiên tiểu thuyết đầy lãng mạn”.

Đồng chí Orlov hiển nhiên là đúng. Norma và Lirist đã biến mình thành một đôi lý tưởng cho đến khi Maclean phải lòng một cô gái Mỹ trẻ trung, giàu có. Maclean đã kể với cô tình nhân mới về hoạt động tình báo của mình cho Ngai vàng Anh và cho Kremlin. Cô gái đang yêu đã trung thành với anh ta.

Cô nàng Norma bị hành hạ vì ghen tuông và thói hám danh đã báo cáo điều đó với chỉ huy của mình là một sĩ quan trong sứ quán Liên Xô. Moskva quyết định và ra lệnh: hãy lau nước mắt đi mà tiếp tục làm việc. Maclean cưới cô gái Mỹ, còn nữ tình báo viên Xôviết đã tiếp tục chỉ đạo người tình cũ của mình cho đến khi lính Đức Hitler đánh chiếm Paris. Khi đó, cô ta đã vội vã chạy sang Anh.

Trong thời gian bọn phát xít Đức chiếm đóng nước Pháp, từ trong vòng bí mật, Matilda Carret duy trì liên lạc với lãnh đạo phong trào kháng chiến ở London. Gestapo đã bắt giữ cô. Một tên lính canh ngục đã mời chào cô vòng tay của hắn và hơn nữa. Sau này, trong hồi ký, cô viết: “Đó đơn thuần là sự sợ hãi của động vật, phản ứng của cơ thể đang nếm trải đêm đầu tiên trong tù, bị lạnh cóng và cảm nhận thấy bàn tay lạnh giá của thần chết. Thì bỗng cảm thấy sự ấm áp trong vòng tay của một người đàn ông... kể cả đó là vòng tay của kẻ thù”. Cô đã thoát khỏi cả vòng tay ấy, cả Gestapo và phải đứng trước cơ quan phản gián ở Anh. Người Pháp từ chối không hiểu được loại hợp tác kiểu đó và vào năm 1949 đã kết án tử hình Matilda Carret vì tội phản bội 35 chiến sĩ kháng chiến Pháp. Năm 1962, cô ta đã được ân xá và được trả lại tự do.

Trong đa số các vụ gián điệp thời chiến tranh lạnh, phụ nữ đã đóng hoặc vai trò chủ yếu hoặc là vai trò có tầm quan trọng thứ hai.

Chính một phụ nữ di cư từ áo sang Anh, một nữ tình báo viên Liên Xô đã dẫn dắt Kim Philby, người đang say mê chủ nghĩa Mác đến với đồng chí người áo Arnold Datch, người đã cùng với vợ mình lập ra một lưới tình báo tại đảo quốc này.
Và cũng chính phụ nữ đã vạch mặt được nhà tình báo bậc thầy Kim Philby. Cơ quan mật vụ Anh đã đánh Olga Grey vào hàng ngũ Đảng Cộng sản Anh. Datch và Philby đã buộc phải trốn đến Moskva.

Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, theo ý kiến của nữ văn sĩ Mỹ Mary Lowell, đã phát hiện ra người đồng hương của bà Betty Pack (bí danh hoạt động tình báo là Synthia). “Cô ấy toát ra sức lôi cuốn, gần như ma quái”, một trong những đồng nghiệp trong cơ quan tình báo nhớ lại. “Cả con người cô ấy toả sáng, chứ không chỉ đôi mắt xanh và nụ cười hút hồn của cô ấy. Nhiều đàn ông đã tiếp nhận điều đó như một sự ấm áp, như một nỗi đam mê giành cho họ. Thủ đoạn của người phụ nữ này là làm cho người đàn ông tin rằng anh ta là số một trên thế giới này và mặc dù anh ta không còn trẻ nữa thì anh ta vẫn là hình mẫu hoàn mỹ lý tưởng đối với Synthia.

Mỹ nữ tóc vàng này đã trút bỏ quần áo trước những nhà hoạt động tiếng tăm của thế giới này. ở Varsava thì trước vị bộ trưởng ngoại giao khả kính Josef Beck, ở Washington là trước người nắm giữ những bí mật của hạm đội Italia, và sau đó khi ông này đã cung khai hết mọi bí mật, và cũng tại thành phố đó là trước tuỳ viên báo chí của sứ quán tên là Vici.
Synthia với tuổi đời mới ngoài 30 một chút đã tiếp cận được tới các loại mật mã bí mật, các mệnh lệnh chiến đấu và thư từ mật. Sau này, cô đã kể về những thành tích của mình: “Các chỉ huy của tôi đã nói với tôi rằng, bằng việc làm của mình, tôi đã cứu mạng hàng chục ngàn người Mỹ và người Anh”.

Ngày nay, các điệp viên không làm việc như thế nữa. Chẳng hạn như Mary En Baumgartner. Là người bảo thủ, thành viên của “Nhóm liên công đoàn” ở Paris, một câu lạc bộ dành riêng ở thị trấn Sain-Honore gần với sứ quán Mỹ và Anh và giáp với điện Elisée.

Cô gái Mỹ thể hiện với những người hàng xóm mình là một người môi giới đầu tư. Người đàn ông dễ thương mà cô ta cùng sống chung trong căn hộ sang trọng có vẻ là một hoạ sĩ Nam Mỹ. Anh ta “không hề biết một tý gì về công việc thực tế mà cô ta làm”. Cơ quan phản gián Pháp thì lại có ý kiến khác. Quý bà đó là nhân viên CIA, là “nguồn cung cấp thông tin”.

Cô ta đã hớp mất hồn một người Pháp trẻ trong nhóm cố vấn của thủ tưởng Pháp khi đó là Eduard Balladur. Quý bà này tự giới thiệu với anh ta mình là nhân viên của quỹ quan hệ Mỹ-Pháp. Cô ta quan tâm đến các cuộc đàm phán tại cơ quan Hiệp định Thuế quan và Mậu dịch GATT và giới thiệu cho anh bạn Pháp những người khả kính từ Minesota là các chuyên viên về cây ngũ cốc.

Đó là điều tối thiểu mà phản gián Pháp biết được từ tấm danh thiếp mà họ tìm thấy.

Chàng trai Pháp của nhóm dưới quyền Balladur đã mất việc. Người Pháp xác định được quý bà kia là chỉ huy phòng phân tích của CIA. Mary En Baumgartner cũng với 4 đồng nghiệp đã buộc phải rời khỏi Paris mùa Xuân năm 1995.
Gizeli, người đàn bà có tên thật là Gizela vẫn gọi món coctay yêu thích của mình tại quán Fuchet và chẳng có gì phải phiền não cả. Theo lời cô ta thì cô ta chỉ đang duy trì quan hệ chính thức với các đồng nghiệp ở các cơ quan tình báo Pháp để phục vụ cho cơ quan mình ở Pullah.

Thế còn việc gì đã xảy ra với nhà ngoại giao nước ngoài mà cô ta mới nói chuyện trong buổi tiếp ở chỗ ngài đại sứ? Một cuộc gặp bình thường sau bữa ăn chăng?


Điệp viên thế kỷ XX: Thêm đôi điều về Blake

VietnamDefence - Con người này đã phá hoại hầu như tất cả những gì mà các cơ quan tình báo Anh tạo dựng được từ sau Thế chiến II, vị quan toà Anh buộc tội George Blake.
Cụ George Blake ở tuổi 90 tại nhà nghỉ của mình ở Kratovo, tháng 10.2012

“Con người này đã phá hoại hầu như tất cả những gì mà các cơ quan tình báo Anh tạo dựng được từ sau Thế chiến II”. Vị quan toà Anh trong vụ án George Blake, người bị buộc tội làm gián điệp cho Liên Xô, đã kết luận như vậy. Riêng các biên bản của phiên toà chấn động này ở London cũng phải có đến mấy tập.

Theo dự đoán của một người am hiểu hoạt động của các cơ quan tình báo, nhà văn Philippe Nightley, tình báo viên Liên Xô George Blake đã lập được hai thành tích đặc biệt là kịp thời phát hiện đường hầm gián điệp ở Berlin và chiến dịch tung tin giả quy mô lớn với mật danh Boris.

Đến giờ thì người ta đã biết hầu như tất cả về việc khám phá ra đường hầm cho phép nghe lén lâu dài các đường liên lạc bí mật của Liên Xô và CHDC Đức. Nhưng về vụ Boris, G. Blake, trong cuốn sách “Không còn lựa chọn nào khác” đã có kể lại đôi chút, vụn vặt bởi vì lúc đó thì việc nêu tên thật của người mà ở khắp nơi người ta chỉ đề cập đến dưới bí danh được xem như là không thể được xét từ giác độ nghề nghiệp và đạo đức. Hơn nữa, theo P. Nightley, chỉ có bậc thầy về cờ của Nga mới có thể có thể nghĩ ra một kế hoạch phối hợp tuyệt hảo đến thế để Blake thực hiện với sự tham gia của Boris.

Bản chất của kế hoạch đó có vẻ là rất đơn giản: do việc liên lạc với tình báo biên được thực hiện theo phương thức truyền thống thông qua các cuộc gặp cực kỳ bí mật với các sĩ quan hoạt động của KGB, tại Moskva, ngay tại thượng đỉnh của kim tự tháp tình báo, nên người ta đã quyết định áp dụng chiến thuật mới và để cho G. Blake gặp gỡ một đối tác Xôviết mà ông có thể gặp công khai và tất nhiên đã được sự đồng ý của Secret Intelligence Service (SIS). Khó khăn lớn nhất của ý đồ khác thường này là ở chỗ làm sao để người thường xuyên liên lạc với Blake không phải là nhân viên tình báo chuyên nghiệp của KGB và có thể vượt qua được khâu kiểm tra để phát hiện mối liên hệ với cơ quan an ninh quốc gia Liên Xô. Ngoài ra, phải chọn người đó trong số các chuyên gia ngoại giao trẻ, mưu trí, quảng giao, cực kỳ giỏi ngoại ngữ. Nội dung làm việc với Boris được tách riêng trong nhiệm vụ tình báo của G. Blake, không được dính với công việc được thực hiện thông qua những liên lạc viên bình thường khác và được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương. Việc tiến dẫn Boris tới G. Blake trong điều kiện biên giới mở và tự do đi lại khi đó giữa cư dân hai thế giới tại thành phố Berlin bị chia cắt không gặp khó khăn gì, mặc dù cũng phải huy động những người trung gian không cần thiết là thương gia Đức Micki và vợ ông ta. Sau này, cặp vợ chồng này còn liên hệ không chỉ với KGB mà cả với tình báo quân sự Liên Xô GRU và giúp tình báo Anh tố giác G. Blake.

Vậy là việc cài cắm đã thành công và kênh liên lạc thông qua Boris của G. Blake đã hoạt động thành công và hiệu quả trong 5 năm sau đó. Anh ấy phải hoạt động hai mặt. Anh ta thường xuyên cung cấp cho London những thông tin khá tốt. “Đây là một thành công lớn - G. Blake viết. - Tôi đã là nhân viên SIS duy nhất có trong tay một người Nga thực sự, bằng xương bằng thịt”. Còn những tin tức quý giá đi theo hướng ngược lại, trong đó có tin tức về tình trạng, tâm trạng, lĩnh vực quan tâm của chính G. Blake, thì lại có tác dụng yểm trợ, giúp đỡ anh ấy bằng cách thể hiện phô trương là “bàn tay của Moskva” đang hiện diện ở khắp nơi.

***

G. Blake (từ đây về sau, thông tin được trích từ cuốn sách “Không còn lựa chọn nào khác” - TG). Người Nga ấy nói rất thạo tiếng Đức và anh ta nói với chúng tôi rằng, anh ta tên là Boris, là nhà kinh tế học và làm việc tại cơ quan kinh tế Liên Xô tại Đông Berlin. Tôi đã vô tình buột miệng nói là tôi nói được tiếng Nga chút ít và chúng tôi lập tức chuyển sang nói bằng ngôn ngữ này. Trong buổi chiều ấy, tôi tự giới thiệu tên là de Wris, nhà báo Hà Lan, làm phóng viên cho một trong những tờ báo Berlin.

Vs. Sovva. Mùa hè năm 1956, chỉ huy tình báo của ta (Liên Xô) tại Đức bất ngờ mời tôi đến gặp, khi đó tôi tuy mới bắt đầu làm phiên dịch cho đại diện kinh tế Liên Xô ở Berlin nhưng tôi đã đảm nhiệm khá tốt nhiệm vụ này (tôi đã làm việc với A.N. Kosygin, A.I. Mikoyan, V.A. Malyshev).

Người chỉ huy đó là trung tướng KGB Aleksandr Mikhailovich Korotkov, chính là “vị tuỳ viên Sasha”, người mà sau khi chiến tranh bùng nổ vào những ngày tháng 6 năm 1941, đã vượt qua vòng vây phong toả sứ quán Liên Xô ở Unter-den-Linden và thiết lập được kênh liên lạc điện đài vốn cực kỳ cần thiết với Moskva.

Cuộc tiếp xúc với người sĩ quan Cheka không biết cười ấy rất ngắn gọn và cực kỳ rõ ràng. “Chúng tôi mong muốn - Aleksandr Mikhailovich Korotkov nói - làm thế nào để đưa được nhà báo Hà Lan Maks de Wris lọt được vào giới bạn bè nước ngoài của anh. Địa điểm liên lạc thường xuyên - Tây Berlin. Các cuộc nói chuyện là theo các chủ đề tự do bằng tiếng Đức, cũng như tiếng Nga. Nói thật đôi chút về công việc, khi đó hãy tạm quên nội dung thông tin mật mà anh có quyền tiếp cận đi”.

Khi chia tay, Korotkov dường như vô tình bổ sung thêm là trong mọi hoàn cảnh không được vào vai một nhân viên tình báo, nhưng tai thì lúc nào cũng phải dỏng lên.

Thực tế là chính từ đây bắt đầu việc tiếp cận của tôi với G. Blake.

... Trong một lần đến một quận nghèo ở Tây Berlin, nơi các công dân Liên Xô thường đến mua bán, đã diễn ra phiên liên lạc đầu tiên của chúng tôi. Quang cảnh khá phù hợp: một quán bia bình thường ồn ào đầy những giọng nói lè nhè và đặc sệt khói thuốc lá.

G. B. Boris nói thoải mái hơn về công việc của mình, anh ta kể anh ta đến Đức với tư cách phiên dịch viên chính theo đường khối SEV (Hội đồng Tương trợ Kinh tế - ND) và có nhiệm vụ phục vụ các cuộc đàm phán ở cấp cao nhất giữa Liên Xô và CHDC Đức và tháp tùng các đoàn đại biểu Liên Xô.

V. S. George là con người tính tình cởi mở, hiền lành có giọng nói nhỏ nhẹ, thong thả, một chuyên gia tâm lý siêu hạng (một nét đặc điểm của tình báo viên đáng ngại đối với người đối thoại!). Câu chuyện của chúng tôi luôn thoải mái và tôi dần cảm thấy kính trọng và thiện cảm với anh ấy. Điểm cao trào trong quan hệ mới được thiết lập giữa chúng tôi là lúc chúng tôi đi trên chiếc Wolkswagen của anh ấy, chúng tôi đã vui vẻ cất tiếng gào hết cỡ bài “Chiều Moskva”, tuy không được đều cho lắm. Mà lại là giữa trung tâm Tây Berlin chứ! Nhưng dù sao thì vẫn trên phố thuộc khu kiểm soát của Anh. Tôi thiết tưởng chả ai ở Moskva lẫn London biết được giây phút vui vẻ bốc đồng này của chúng tôi.

Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc thì phải biết là Blake già hơn tôi cả chục tuổi, anh ấy khi đó đang ở đỉnh cao sung sức. Khi trò chuyện, anh ấy luôn thể hiện mối quan tâm mang tính “nhà báo” và tập trung chú ý vào những xu hướng chính và triển vọng tình hình quốc tế. Các ý kiến trao đổi thường xoay quanh vấn đề khối SEV, hợp tác kinh tế Liên Xô với CHDC Đức.

Bây giờ, khi phân tích lại tình hình và những sự kiện thời đó, tôi nghĩ là khi đó, phương Tây đang chịu một nạn đói thông tin thực sự. Phương Tây quan tâm chú ý tới bất kỳ chi tiết nào về tình hình của một xã hội xã hội chủ nghĩa khi đó còn đóng kín như bưng. Những cách triết giải của tôi, như bây giờ người ta thường nói, chính là một thứ tóm tin cho G. Blake và giúp cho anh ấy định hướng được trong bối cảnh khó khăn của vấn đề tìm hiểu Liên Xô thời đó. Tôi có thể cam đoan là nhiều cuộc nói chuyện của tôi với G. Blake đã bị ghi âm. Những tài liệu mà SIS thường xuyên nhận được không gợi lên ở họ mối nghi ngờ nào.

Còn ngày nay, trên báo chí phương Tây, tôi lại bắt gặp những lời khẳng định là Boris dường như đã chủ định đánh lừa London (nghĩa là lừa cả Washington) và điều đó đã làm cho giới lãnh đạo phương Tây đưa ra những nhận đấnh giá quá lạc quan, tức là những đánh giá sai, về tiềm lực kinh tế Liên Xô.

Tôi hoàn toàn chắc chắn khi nhấn mạnh: đã không có một nhiệm vụ như vậy, đơn thuần là không thể có vì bấy kỳ mưu toan nào như vậy đều khiến người ta nghi ngờ hiệu quả làm việc của G. Blake - người vốn là một trong những nhân viên chủ chốt của cơ quan tình báo Anh.

Tuy vậy, rõ ràng là có những dích dắc khó thể lường trước trong đường lối đối nội và đối ngoại của Liên Xô, nhất là dưới thời N.S. Khrushchev, và chính chúng cũng đã làm té ngửa nhiều nhà phân tích nước ngoài mà điều đó thì dĩ nhiên là cả G. Blake lẫn tôi đều không chịu trách nhiệm. Đây cũng chính là một ví dụ điển hình cho cái mà người ta nói - đó là hoàn cảnh mạnh hơn con người.

G. B. Tin tức tình báo do anh ấy thu được bằng cách đó chủ yếu mang tính kinh tế, mặc dù đôi khi cũng mang tính chính trị và đã được hồ hởi tiếp nhận ở London. Tổng cục rất hài lòng và cho là Boris hứa hẹn nhiều triển vọng, đáng để quan tâm đặc biệt. Mặc dù anh ấy vẫn còn chưa phải là “người của ta” trong Kremlin, nhưng mọi sự đã nói lên rằng anh ấy có thể trở thành như vậy. Không ai tỏ ra nghi ngờ về vai trò phiên dịch viên phục vụ các cuộc đàm phán thượng đỉnh của anh ta. Thi thoảng, London giao cho tôi những nhiệm vụ đặc biệt liên quan đến một số vấn đề thời sự thì hầu như lần nào Boris cũng trở về với tin tức cần có.

V. S. Các nguyên tắc làm việc mà Moskva đặt ra đã được tuân thủ một cách nghiêm túc: không thông tin mật nào bị rò rỉ ra nước ngoài. Điều đó không nói lên chất lượng tin tức được cung cấp vì G. Blake là một bậc thầy trong việc mông má đánh bóng bất kỳ một mẩu tin nào, dù là rất vụn vặt.

Nói chung thì tôi khá hài lòng với lời khen ngợi của đối phương vì dầu sao thì tôi đã cố gắng không phải vô ích. Chẳng hạn, cũng chính P. Nightley khẳng định rằng: chiến dịch “Boris” đã cho phép KGB “áp đặt cho tình báo phương Tây một lối tư duy mà nó (KGB) muốn và đã không bị khám phá trong một thời gian dài đến mức những thông tin mà SIS nhận được đã ăn sâu bám chắc vào hoạt động hàng ngày của cơ quan đặc vụ Anh, làm cho hoạt động ấy bị sai lệch và vô hiệu hoá.

Tại đại bản doanh của SIS ở London, người ta đã không nhầm khi đoán trước là tôi sẽ có quá trình công tác ổn định.

Trong những năm sau đó, tôi thăng tiến xuôn xẻ từ một phiên dịch viên tới đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên Xô, có thêm bằng đại học về ngoại giao và kinh tế. Sau đó, tôi giữ những cương vị cao tại nhiều cơ quan trung ương, trong đó có Trung ương ĐCS Liên Xô và Bộ Ngoại giao Liên Xô. Phải sau tháng 8 năm 1991, tôi mới có dịp làm quen với các hành lang đầy quyền lực ở Kremlin, ở chính toà nhà và tầng nhà mà bây giờ là chỗ ở của của tổng thống Nga.
G.B. Mùa hè năm 1985, tôi cùng gia đình nghỉ phép ở CHDC Đức và chúng tôi đã ở Berlin mấy ngày. ở đó, người ta hỏi tôi liệu có muốn gặp lại người quen cũ không. Tất nhiên là tôi đồng ý và nghĩ mãi xem người đó là ai. Ngày hôm sau, điều thật sửng sốt với tôi là Boris đã xuất hiện trong ngôi nhà chúng tôi đang ở. Thời gian đã làm cả hai chúng tôi thay đổi nhưng chúng tôi vẫn nhận ra nhau ngay. Ông ấy đã lên đến cương vị cao trong Bộ Ngoại giao Liên Xô và đang có chuyến thăm chính thức tới Berlin.

V.S. Đây là trường hợp hiếm hoi khi trí nhớ đã phản lại George. Mùa hè năm 1975 (chứ không phải là năm 1985), khi Blake có mặt tại Berlin để gặp người mẹ, V.I. Sovva là đại biện lâm thời của Liên Xô tại CHDC Đức (thay cho vị đại sứ Liên Xô đi nghỉ phép) đã gọi điện cho người bạn tốt Misha, Markus Wolf - thứ trưởng Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức để xin được ghé thăm biệt thự mật của Stasi.

Tiếp đó, mọi chuyện xảy ra cứ như trong phim về điệp viên 007 James Bond. Chiếc xe ZIL đen treo quốc kỳ Liên Xô đỏ chói lăn bánh tới ngôi biệt thự đơn độc, được canh giữ cẩn mật. Hai người không còn trẻ nữa, George và Volodya - anh ấy thường gọi tôi như thế - đã ôm chặt lấy nhau ngay bên cửa con của hàng rào.

Tôi tiếc là không có cơ hội chụp bức ảnh hy hữu này để tặng cho tình báo Anh làm kỷ niệm.

G.B. Bây giờ thì đã hoàn toàn rõ là chuyên gia phản gián Shergold vẫn tiếp tục công việc khi đã biết rõ Micky là điệp viên Xôviết, còn Boris - nhân viên người Nga ở khối SEV, cũng là “con vịt mồi thả thêm” nốt. Tôi biết giải thích thế nào nhỉ? Tôi đồng ý là xét một cách toàn diện thì Boris đã làm gián điệp ở sau lưng chúng tôi, chỉ có thể lý giải điều đó là người ta đã sử dụng Micky làm đối tượng thích hợp nhất.

V.S. Cho đến nay những bối cảnh dẫn đến sự bại lộ của George Blake vẫn chưa rõ ràng. Việc bắt giữ anh ấy không có cái vẻ kịch tính, mà giống như một sự thú nhận với một nhóm nhỏ các đồng sự. Người bạn tốt của anh ấy là Harry Shergold, chuyên viên chính của SIS về vấn đề Liên Xô, đã nói thẳng với G. Blake rằng, vụ bắt giữ thương gia Đức Micky (do bị người vợ ghen tuông tố giác) đã cho phép phán đoán Boris là người của Moskva.

George và tôi trong nhiều lần gặp nhau vào những năm sau này đã không bao giờ đi sâu vào chủ đề tế nhị này.

Nhưng dù cho không phải là người trong nghề, tôi vẫn hiểu rằng tình báo viên bị phát giác phải bằng mọi cách đánh lạc hướng chú ý của điều tra và toà khỏi hướng hoạt động bí mật chính của mình, thậm chí phải khai cho họ những người thứ yếu. Rõ ràng là chính điều đó đã xảy ra.

Tôi tuyệt đối không quan tâm là tôi đã đi vào những hồ sơ của vụ án xử Blake với vai trò gì. Mặc dù chính vì vậy mà chính tôi đã trở thành đối tượng điều tra của SIS.

Theo chuyên môn đào tạo chính, tôi là luật gia. Tôi không nghi ngờ cơ sở pháp lý của phán quyết quá nghiêm khắc của toà án Old Bailey (3 tội 14 năm, tổng hình phạt là 42 năm tù giam đối với G. Blake). Về mặt con người, tôi thực sự vui mừng khi biết rằng, Nữ thần Công lý Themis trong trường hợp khác thường này cuối cùng đã né sang một bên. Chính George đã tự xác định sẽ phải ngồi tù cho đến hết án (thực tế đã ngồi tù gần 6 năm), nên ngay khi có cơ hội đầu tiên, đã chạy trốn khỏi nước Anh cổ kính tốt bụng. Và là mãi mãi. Tôi coi kết cục đầy kịch tích của một sự kiện có một không hai này là thắng lợi của công lý tối cao (nhất là khi Blake là một con chiên vô cùng sùng tín).

Nhà tình báo lỗi lạc của thời đại đã đi vào cuộc đời tôi như một hình tượng mẫu mực cho sự kiên cường, bình tĩnh, tự tin và quang minh chính đại. Cũng chính ông chứ không phải ai khác trong số những người liên quan đến điệp vụ, đã nói với tôi là anh lo lắng, bất an vì biết rõ mức độ mạo hiểm cao khi dấn thân vào vụ Boris và nhẹ nhàng bổ sung là người ta có thể còn tranh cãi cả về tính hợp lý của việc tuyển mộ với toàn bộ những hậu quả không lường trước được.

Tôi cho rằng dù sao mình cũng may mắn khi trở thành người bạn tranh luận (tuy không như nhau, nhưng vững chắc trong suốt quãng thời gian dành cho chúng tôi) của G. Blake tại bước ngoặt đột biến trong cuộc đời anh ấy.
Tôi nói lên điều đó với lương tâm trong sạch vì Boris chẳng hề nhận được bất cứ sự ưu tiên, khen thưởng nào của nhà nước và cũng không muốn điều đó. Hơn nữa, các thủ trưởng khác nhau của tôi ở những bộ, ngành khác nhau sẽ chẳng vui vẻ gì nếu như khi đó họ biết là anh nhân viên nhanh nhẹn dưới quyền họ có dính dáng đến một trong những vụ án gián điệp ầm ĩ nhất.

Trong những lần công tác ở nước ngoài, tôi phải bỏ qua London. Mới đây SIS đã thể hiện khả năng nhớ và thù dai về những nhục nhã của mình bằng việc bắt giữ tuy ngắn, nhưng có tính miệt thị phẩm giá con người đối với tướng Oleg Kalugin.

Còn có một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên trong đường đời của tôi và G. Blake. Không lâu trước khi anh bị bắt, người ta chuyển tôi từ Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (GNTK) sang cơ quan khác của chính phủ. Số phận đã đoái thương tôi nên chính bằng cách đó tôi đã thoát được việc gặp riêng với viên đại tá của đồng thời ba cơ quan tình báo - Tổng cục Tình báo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Liên Xô GRU, cơ quan tình báo Anh, cơ quan tình báo Mỹ - là Oleg Penkovsky. Nếu như tôi còn ở GNTK, thì theo chức vụ, tôi sẽ trực tiếp thuộc quyền hắn ta.

Những hậu quả của việc cùng làm dù là không lâu với tên phản bội đối với những đồng nghiệp cũ của tôi thì thật là buồn, nhiều người đã vĩnh viễn phải chia tay với cơ quan nhà nước. Sau này, tôi rất hả dạ khi được biết Penkovsky bị phát giác chủ yếu là nhờ những tin tức do G. Blake, người bạn có tâm hồn cao thượng của tôi, cung cấp.

Cho đến nay, tôi vẫn nhớ việc vào vai Boris như một trong những đoạn đời rực rỡ nhất trong cuộc đời công tác của mình. Bây giờ, sau nhiều năm đã trôi qua, tôi mới hình dung được những nhà tình báo là những con người như anh, như tôi, nhưng chỉ với một điểm khác biệt: cho đến một lúc nào đó, họ buộc phải sống một cuộc đời hai mặt, cái cuộc đời mà lúc đã về già không phải ai cũng có thể một lần nữa nhập thành một chỉnh thể toàn vẹn.

***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét