M ẶT TRÁI NHÂN TÍNH 9
(ĐC sưu tầm trên NET)
Khi được hỏi ông có cảm thấy khó khăn gì khi tham gia vào việc tước
đi sinh mạng của rất nhiều người như vậy không, Eichmann trả lời, “Thành
thật mà nói, cũng dễ lắm. Ngôn ngữ của chúng tôi khiến việc đó trở nên
rất dễ dàng.”
Reinhard Heydrich
"Độc ác" tiếp tục với những vụ án giết người vì khoái cảm và cha mẹ giết con.
rùng mình người cha thú tính ,khiến con gái phải điên dại
Nhậu say xỉn, nổi thú tính làm chuyện đồi bại với chị dâu
Độc ác - Hiện thân của độc ác (Phần 1)
Toàn cảnh về diện mạo của Độc ác
“Độc
ác được hiểu là sự thiếu hụt khả năng nhận thức về những điều tốt đẹp
của thế giới và về nhân tính của tất cả sinh vật trên thế giới.” -
Andrew Delbanco
Để
biết về độc ác, bạn chỉ cần đứng trên con đường ở Jasper, Texas, vào
ngày 7 tháng 6 năm 1998, nơi ba người đàn ông da trắng ngỏ lời cho quá
giang một người đàn ông da đen 49 tuổi, James Byrd Jr., đang trên đường
về nhà từ một bữa tiệc kỷ niệm. Thay vì chở anh ta đến nơi cần đến, họ
đánh, đá, và tra tấn anh chỉ vì màu da, và rồi xịt sơn đen lên mặt anh
trước khi trói cổ chân anh vào đuôi xe tải của họ. Họ phóng ga chạy trên
một con đường hoang vắng, kéo lê anh gần ba dặm, anh cố gắng ngẩng đầu
lên, nhưng da thì bị tróc, xương thì bị gãy, và cùi chỏ thì nát cả. Khi
đụng phải một ống cống, đầu và cánh tay phải của anh bị đứt lìa. Những
gì còn lại là tấm thân bị vứt trước cửa một nhà thờ cho đến khi được hội
người da đen tìm thấy. Trong bộ phim tài liệu của TNT, The Faces of Fear
(Những diện mạo của nỗi sợ hãi), Tiến sĩ Molefi Kete Asante của Đại học
Temple cho thấy trên con đường vẫn còn hiện diện một số vòng tròn được
vẽ ra để đánh dấu 75 chỗ tìm thấy bộ phận cơ thể của Byrd. “Trên con
đường này,” Asante nói khẽ, “tôi đang chứng kiến một sự tàn nhẫn vô biên
có thể hiện diện trong trái tim con người.”
Để
biết về độc ác, bạn chỉ cần nhìn những bộ hài cốt còn sót lại ở tòa
tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới ở Manhattan, nơi hai máy bay Mỹ
bị không tặc khống chế đã cướp đi mạng sống của hàng nghìn người, và nhớ
lại những lời của Osama bin Laden: “Chúng tôi không phân biệt giữa
người mặc quân phục và thường dân. Trong fatwa (sắc lệnh Hồi giáo) này
họ đều là mục tiêu.” Rất nhiều công nhân mới chỉ vừa pha tách cà phê
sáng đã phải nhảy ra khỏi cửa sổ để chết, hoặc chỉ chờ đợi cả tòa nhà kì
vĩ này sụp đổ lên người họ.
Cuộc tấn công tòa tháp đôi Trung tâm Thương mại Thế giới
Khái
niệm độc ác là một thứ đã rất cổ xưa. Nó có khi lại là một nguyên mẫu
trong mỗi chúng ta mà ta không thể diệt trừ tận gốc được. Andrew
Delbanco đã nói trong quyển sách của mình, The Death of Satan (Cái
chết của Satan), rằng người Mỹ đã mất đi khái niệm về độc ác, và ông
bàn về cách ta trở nên dung túng cho rất nhiều hình thức độc ác. Nó càng
ngày càng rõ ràng, nhưng ta lại mất đi vốn từ để miêu tả nó, và những
lời giải thích chưa bao giờ tồi tệ hơn. Những vụ án về thù ghét, bạo
lực, và nhẫn tâm diễn ra không ngừng càng làm sáng tỏ rằng có những
người dự định làm điều ác, và chúng ta phải cảnh giác. Các nhà pháp
chứng đang cố gắng tìm ra một cách lý giải cụ thể hơn trước tòa, để hệ
quả pháp lý được quyết định chính xác.
Một
số người rất dễ dàng gọi một hành động là độc ác. Một số khác lại không
sử dụng từ ngữ ấy, mà họ lý giải “độc ác” là một triệu chứng của sự mất
cân bằng hay rối loạn. Các nhà triết học, nhà thần học, nhà tâm lý học,
và cả nhà sinh vật học đều vật lộn với khái niệm một con người không
thể cứu vãn, và ngay cả những người dẫn chương trình thảo luận cũng
không biết ai là người đáng trách hơn: sát nhân liên hoàn hay kẻ giết
những sát nhân liên hoàn. Chúng ta thật sự có thể xác định được tính
cách độc ác hình thành thế nào không? Rất nhiều nhà lý luận đã thử,
nhưng “câu trả lời” của họ không giải quyết triệt để những hành vi bất
lương trong chúng ta. Có thể ta không muốn mất nó, có thể nó phục vụ một
nhu cầu nào đó mà ta không nhận ra. Cũng có thể là do việc ta tập trung
vào những kẻ rối loạn nhân cách chống đối xã hội trong phim Pulp Fiction (Chuyện
tào lao) và những người mẹ dìm chết con mình đã làm chệch hướng sự chú ý
của ta, khiến những câu chuyện về người thực hiện hành vi tàn ác gây ra
một loại kích thích mà ta không có trong nền văn hóa ý thức an toàn
hiện nay.
Với
sự phân hóa đa dạng của hành vi độc ác và những cố gắng đơn giản hóa
chúng thành một lý luận cụ thể về bạo lực, chúng ta sẽ nhìn nhận vấn đề
này từ ba góc độ:
- Sự độc ác hiển nhiên nhất: hành động thù ghét, giết người vì khoái cảm, và sát hại trẻ em
- Tái thiết lập: kẻ làm điều ác nhìn nhận nó như thế nào
- Tâm lý học về sự độc ác
Tuy
độc ác có rất nhiều hình hài, từ những sát nhân loạn thần kinh nhân
cách lặp đi lặp lại tội ác của mình với mức độ tàn nhẫn gia tăng, đến
những kẻ giết người vì khoái cảm muốn biết cảm giác cướp đi sinh mạng
người khác là như thế nào, nhưng có lẽ không có sự độc ác nào đáng sợ
như những hành vi thù ghét bởi một hệ tư tưởng. Một ngày nọ, những quan
liêu quyền lực nhất Đảng Quốc xã Nazi gặp mặt để lạnh lùng thực hiện
những kế hoạch tàn bạo nhất trong lịch sử loài người.
Lý giải về chế độ Hitler
Bối
cảnh là căn nhà Wannsee xa hoa trong một khu phố bên ngoài Berlin.
Những món đồ sứ trang hoàng trên chiếc bàn phủ tấm vải linen và những
người hầu mặc đồng phục chờ đợi tiếp những ly rượu thượng hạng nhất cho
những vị khách sắp đến. Trong bếp, đầu bếp đang chuẩn bị một bữa trưa
buffet thịnh soạn. Mọi thứ phải thật hoàn hảo.
Lần
lượt từng chiếc xe hơi và limousine chở những vị khách VIP đỗ lại. Lần
lượt từng người một tiến vào đại sảnh trao áo khoác của mình cho quản
gia, háo hức mong chờ những gì sẽ diễn ra.
Nhà Wannsee
Đó
là một buổi sáng mùa đông lạnh, 20 tháng 1 năm 1942. Thủ lĩnh an ninh
của Đế chế Thứ ba, Reinhard Heydrich, cho bắt đầu hội nghị. 15 nhà kỹ
trị cao cấp nhất sẽ thảo luận về “Giải pháp Cuối cùng”, gồm có Adolph
Eichmann, Friedrich Krizinger, và Tiến sĩ Wilhelm Stuckart. Dù kế hoạch
tước quyền công dân của người Do Thái trên khắp châu Âu đang được thực
hiện, ở một số nơi còn tiến hành diệt chủng, họ vẫn nghĩ đã đến lúc cần
một hiệu năng lớn hơn. Vẫn còn rất nhiều người cần phải trừ khử (khoảng
11 triệu) và điều này cần được tiến hành nhanh hơn.
Cuộc
họp diễn ra quanh một chiếc bàn hội nghị bên cạnh căn phòng phục vụ bữa
trưa thịnh soạn. Cuộc họp rất ngắn, chỉ hơn một giờ đồng hồ. Họ vốn
không lưu trữ những gì được bàn bạc nhưng trên thực tế có một người đã
ghi chú lại, và từ những ghi chú này mà thế giới đã biết được về những
tranh luận máu lạnh, cùng với sự nhiệt tình diễn ra quanh bàn hội nghị,
đã dẫn đến một cuộc thảm sát hàng triệu người.
Heydrich
cố tình lược bỏ bản chất của cuộc họp bằng cách viết lại những ghi chú
đó với giọng điệu trung lập, nhưng khi đã giải mã ra, đại ý rất rõ ràng:
Những con người này xuất hiện ở đó để tán thành việc sử dụng trại hành
quyết, buồng hơi ngạt, và lò hỏa thiêu. Tại thời điểm ấy, súng đạn và xe
chở khí gây ngạt của đội giết người cơ động không đạt hiệu quả và trọng
trách đè nặng lên các lãnh đạo. Giải pháp là sử dụng nhiều “trại lao
động” hơn, nơi mà người ta chết vì “nguyên do tự nhiên”.
Bàn
luận trong một cuộc họp chính thức mang ý nghĩa ép buộc người khác làm
những việc họ phải làm. Thường ngày người ta đi làm nhưng không cảm thấy
mình là một phần của một cỗ máy lớn mà cho rằng sự có mặt của mình chỉ
để đảm bảo công việc được thực hiện. Không ai cảm thấy có trách nhiệm
với những khởi đầu của công việc, mà chỉ để duy trì và tăng tiến độ. Họ
có công việc để làm và họ sẽ làm công việc ấy mà không hỏi han gì cả.
Giải pháp cuối cùng phải được quản lý dựa trên sự chính xác và chi tiêu
hợp lý. Đó là chính sách của công ty. Là mệnh lệnh. Là luật.
Sau
này trong phiên tòa ở Israel, Adolph Eichmann, người đã soạn bài diễn
thuyết của Heydrich ngày hôm ấy, được hỏi về hội nghị Wannsee. Ông nói
rằng lý do là vì Heydrich muốn tăng sức ảnh hưởng của mình bằng cách
khắc sâu suy nghĩ của của mình vào người khác. Để giúp ông thực hiện mục
tiêu ấy, Eichmann làm một cuộc khảo sát về “chiến dịch” cho vấn đề “di
cư” của người Do thái, đặc biệt nhấn mạnh những khó khăn. Để đưa chiến
dịch lên một bước tiến mới, những khó khăn này phải được giải quyết.
Có
một đề xuất rằng ngừng việc cho phép người Do thái di cư, điều này chỉ
càng tăng thêm lực lượng quân thù, mà thay vào đó là đưa người Do thái
“đến miền đông”, nghĩa là đến các trại tập trung. Những người thể chất
khỏe mạnh sẽ bị ép buộc tuân theo một chương trình tên là “Vernichtung
durch Arbeit”, hay “làm việc cho đến chết”. Họ sẽ chết vì kiệt sức nhưng
trước đó phải lao lực để làm việc. Những người không có khả năng lao
động thì bị giết. Heydrich đề xuất một cách thức “thủ tiêu” cụ thể và
chuẩn bị báo cáo chi tiết bao nhiêu người sẽ bị “xóa sổ” trong một
khoảng thời gian nhất định. Lúc này họ đã có một lịch trình rõ ràng và
mỗi người đều có vai trò riêng của mình.
Adolph Eichmann
Eichmann
mô tả mọi người lúc ấy đều đồng tình và hào hứng. Các bên có mặt đều
muốn tham dự, ngay cả những người thường ngày rất do dự và dè dặt. Khi
được hỏi ông có cảm thấy khó khăn gì khi tham gia vào việc tước đi sinh
mạng của rất nhiều người như vậy không, Eichmann trả lời, “Thành thật mà
nói, cũng dễ lắm. Ngôn ngữ của chúng tôi khiến việc đó trở nên rất dễ
dàng.”
Chiến
dịch của Hitler được hỗ trợ bởi những niềm tin mê tín đã tiến hóa thành
một nỗi ám ảnh. Hội Ahnenerbe, một phần của lực lượng SS
(Schutzstaffel) những năm giữa 1930 được ủy nhiệm nghiên cứu những di
sản tổ tiên của chủng tộc Aryan, đi khắp nơi tìm bằng chứng chứng minh
chỉ có một giống loài được định sẽ thống trị thế giới và chiến lược
thanh lọc, độc chiếm thế giới của Nazi được các thế lực thần thoại ủng
hộ. Họ muốn đưa ra những văn bản khoa học có thể liên kết giữa quá khứ
tổ tiên với vận mệnh của họ. Heinrich Himmler xem quân đội của mình như
các vị vua và hiệp sĩ Teuton được đầu thai, cụ thể là các hiệp sĩ bàn
tròn của vua Arthur. Ông thiết kế cung điện Wewelsburg như cung điện
Camelot, nhưng Peter Levendra gọi nó là Satanic Vatican (Vatican Ác quỷ)
trong quyển The Unholy Alliance (Liên minh Tội lỗi).
Trong
công cuộc thiết lập trật tự thế giới mới, Himmler phái người đi tìm
Chén Thánh và mang trở về lâu đài, nơi được coi là trung tâm thế giới
lúc bấy giờ. Chén Thánh là chén mà Christ đã dùng để uống rượu vang
trong Bữa tiệc cuối cùng. Đáng lẽ ra Joseph xứ Arimathea phải tịch thu
Chén Thánh và dùng nó để thu lại máu từ vết thương của Christ khi ngài
bị đóng vào thánh giá. Joseph lại mang cái chén đến Anh Quốc để giấu ở
một nơi bí mật gọi là Avalon, và nó đã trở thành tham vọng của các hiệp
sĩ vua Arthur, họ muốn tìm được nó và khiến nó trở thành trung tâm vạn
vật.
Cung điện Wewelsburg
Trên
một tầng của cung điện Wewelsburg có một ngôi sao khảm tối màu đánh dấu
vị trí trung tâm và tại nơi này những nghi thức bí mật được 12 chỉ huy
Nazi thực hiện để triệu hồi linh hồn của những vị vua quá cố. Khi một
trong số các chỉ huy này chết đi, tro cốt của họ được chôn dưới sàn như
một thánh tích.
Với
ý nghĩ được Christ ban phước lành, Nazi tự cho mình cái quyền thực hiện
những cuộc thảm sát chống lại những ai “làm ô uế” chúng. Chúng mang
nhiệm vụ thiêng liêng và tất cả những gì chúng làm vì mục đích ấy đều
không sai. Thế giới xem đó là một trong những điều độc ác nhất được thực
hiện bởi loài người, còn những kẻ trong cuộc thì xem đây là một con
đường thiêng liêng không thể phủ nhận. Giết đi những người mà chúng cho
là thấp kém là điều cần thiết để đạt được vinh quang tối thượng là thanh
lọc cả thế giới.
Đáng
chú ý còn có Thiên thần Chết chóc của Auschwitz, Josef Mengele. Là thủ
lĩnh chiến lược y sinh học của Nazi, hắn nổi lên nhờ những thí nghiệm về
biến dị di truyền. Khi đến Auschwitz vào ngày 30 tháng 5 năm 1943, hắn
lên nắm quyền kiểm soát khâu “chọn lọc”. Hắn đến nơi vận chuyển tù nhân,
ăn mặc rất thanh lịch, và quyết định vận mệnh của mỗi tù nhân chỉ với
một ánh nhìn. Hắn đày những ai có khiếm khuyết vào buồng hơi ngạt và
chọn lựa những người còn lại để lao động khổ sai hoặc làm nạn nhân cho
những thí nghiệm bất chính của mình.
Mengele
rất hưởng thụ cương vị đầy quyền uy ấy. Duy trì lý tưởng thanh lọc
chủng tộc của Nazi chính là động lực của hắn. Thế nhưng không ai thực sự
biết nên trông chờ từ hắn những gì. Ngay cả khi hắn chia cắt gia đình
người khác và thoải mái giết người không bị ai trừng phạt, đôi lúc hắn
lại biến thành một vị bác sĩ có tâm hoặc tha chết cho một số người một
cách khó hiểu.
Josef Mengele
Với
tham vọng nâng cao hiệu quả cỗ máy giết người của trại tập trung, hắn
đào tạo những bác sĩ khác tiêm phenol cho tù nhân xếp hàng dài, nhanh
chóng kết thúc sinh mạng của họ. Hắn cũng bắn người, và có một số nguồn
ghi rằng hắn còn ném em bé đang sống vào lò hỏa thiêu. Dù vậy, hắn vẫn
giữ thái độ tách biệt,làm việc có hiệu quả và tự coi bản thân là một
“nhà khoa học”.
Đam
mê lớn của Mengele là nghiên cứu về sinh đôi. Họ được cân, đo chiều
cao, và so sánh theo mọi cách. Một số người hắn giết để kiểm tra bệnh
lý, mổ xẻ và bảo quản các bộ phận cơ thể. Một số khác hắn phẫu thuật mà
không gây mê, cắt bỏ chân tay và bộ phận sinh dục. Nếu một trong hai
người sinh đôi chết trong những thí nghiệm ấy, người còn lại cũng chẳng
còn giá trị, lúc này họ cũng bị đẩy vào buồng hơi ngạt.
Mặc
dù hắn nhắm đến họ với mục đích tàn sát, hắn vẫn chơi đùa với họ và tỏ
ra quan tâm. Hắn còn chở họ đến buồng hơi ngạt bằng xe riêng. Sau đó, có
thể hắn sẽ cầm cái đầu của họ đi loanh quanh hay dán con mắt của họ lên
bảng tin.
Dù
những tội ác thực hiện bởi thuộc hạ của chế độ Hitler có thể được “biện
hộ” bằng một hệ tư tưởng, nhưng cái quyền được chặt chém và giết hại
người khác là một cơ hội quý giá đối với những người như Mengele. Ta
cùng xem làm thế nào mà ý tưởng làm hại người khác là kích thích họ đến
vậy trong kỳ tới.
Người dịch: Thợ Săn Tiền Thưởng
Độc ác: Hiện thân của độc ác (Phần 2)
Giết người vì khoái cảm
Năm
1934, tại Chicago, có một đôi bạn thân Nathan Leopold và Richard Loeb,
cả hai đều 19 tuổi, xuất sắc ngoài sức tưởng tượng, có giáo dục và rất
giàu có. Loeb tôn thờ quyền lực và Leopold tôn thờ Loeb. Họ có quan hệ
tình dục, dù đối với Loeb đó chỉ là cách để điều khiển Leopold và khiến
hắn tham gia tội ác của mình.
Theo
giáo sư Douglas Linder của Đại học Missouri, Leopold say mê ý kiến của
triết học gia người Đức Friedrich Nietzsche cho rằng những người đàn ông
địa vị cao không có ranh giới đạo đức. Nietzsche đưa ra giải thiết về
Ubermensch sống bằng những luật lệ do chính hắn đề ra (Ubermensch trong
tiếng Đức nghĩa là siêu nhân, Nietzsche cho rằng trên đời không có Chúa
trời hay thần thánh, mà không có Chúa và thần thì không có điều gì đặt
ra đạo đức và chuẩn mực, từ đó ông đề ra khái niệm Ubermensch, một người
tự coi mình là thần, tự đưa ra đạo đức và chuẩn mực phù hợp với chỉ bản
thân hắn.). Leopold dễ dàng thuyết phục Loeb rằng họ là những cá thể
phi thường và cần phải họ minh điều đó bằng cách thực hiện những vụ án
hoàn hảo. (Đây không phải những người đầu tiên nảy ra ý tưởng này. Nhà
văn người Nga Fyodor Dostoevski trước đó đã đề cập trong quyển Crime and Punishment (Tội
ác và Sự trừng phạt), thông qua nhân vật Raskolnikov, kẻ máu lạnh giết
chết hai phụ nữ chỉ để họ minh hắn có thể làm được điều ấy mà không nhận
lấy hậu quả đạo đức nào.) Theo lời kể của Hal Higdon, tác giả cuốn The Crime of the Century: The Leopold and Loeb Case (Tội
ác của Thế kỷ: Vụ án Leopold và Loeb), họ bắt đầu từ gian lận với bạn
bè khi chơi bài, trộm đồ trong cửa tiệm, ăn cắp. Hành vi ấy đem lại cho
họ khoái cảm, nhưng khi những trò vặt này không được truyền thông chú ý,
họ dành ra sáu tháng tỉ mỉ lên kế hoạch cho một phi vụ động trời hơn:
bắt cóc và sát hạt một cậu bé.
Vào ngày 21 tháng 5, họ đi lựa chọn nạn nhân. Trong chương trình Born Killers (Sinh
ra làm kẻ giết người) của The History Channel, ban đầu họ định ra tay
với em trai của Loeb, nhưng lại nghĩ nếu nạn nhân có quan hệ với mình,
họ sẽ nhanh chóng bị tình nghi. Vì thế họ quyết định khoanh vùng vào
ngôi trường nam sinh mà Leopold từng học, rất nhiều học sinh ở đó biết
họ và sẽ không ngần ngại theo họ lên xe. Kế hoạch là bắt lấy một đứa,
giết nó, và moi tiền từ ba mẹ đứa bé.
Họ
tin rằng mình đã lên kế hoạch một tội ác hoàn hảo và đinh ninh nó sẽ
giúp họ tỏ bản thân đến mức họ tập dợt kỹ càng từng chi tiết. Họ liên
tục đến địa điểm để quan sát các cậu bé, tìm hiểu từng thói quen và lộ
trình. Đối với họ bắt ai không quan trọng. Chỉ cần đó là một người họ có
thể dễ dàng điều khiển và công chúng sẽ nháo nhào chú tâm khi họ mất
tích. Họ không hề biết rằng tội ác này - vụ giết người vì khoái cảm đầu
tiên được biết đến tại Mỹ - sẽ khơi gợi truyền thông quốc tế và thu hút
các nhà tâm lý học tội phạm cho đến hàng thập kỷ sau.
Trong
khi họ đang quan sát, cậu bé 14 tuổi Bobby Franks tiến lại gần. Họ mời
cậu bé lên xe và vì có quen biết, cậu bé liền tuân theo. Chỉ một lúc
sau, một người dùng một cái đục đánh cậu, rồi nhét giẻ vào miệng khiến
cậu bé ngạt thở. Sau đó họ lái xe đi thật xa để lột quần áo của cậu và
tạt acid lên mặt và bộ phận sinh dục để khiến người khác không thể nhận
diện được cậu bé. Rồi họ ăn tối trong xe và chờ đến khi mặt trời lặn
hẳn. Cuối cùng họ quẳng thi thể trần trụi đã bị chặt từng khúc vào một
ống cống nơi Leopold thường đến ngắm chim, rồi trở về nhà gọi điện thoại
và viết thư tống tiền đòi 10,000 đô la gửi đến bố mẹ nạn nhân.
Leopold và Loeb
Họ
cho rằng người khác không thể nào liên hệ vụ án này với mình được. Họ
nghĩ sẽ không ai phát hiện thi thể. Với sự ngạo mạn ái kỷ mù quáng ấy,
họ tiếp tục kế hoạch của mình.
Tuy
nhiên, vụ án hoàn hảo thường không bao giờ hoàn hảo như tưởng tượng.
Thi thể được tìm thấy vào ngày hôm sau và được nhận dạng là cậu bé Bobby
Franks bị mất tích. Ở bãi cỏ gần đó, điều tra viên tìm thấy một cặp
kính. Chúng không phải kính bình thường. Chúng có bộ khớp bản lề đặc
biệt rất dễ dò ra nguồn gốc.
Sau
khi cặp kính siêu khác thường tìm thấy gần thi thể Bobby Franks được
truy ngược về Leopold, hắn bị bắt về thẩm tra hàng giờ liền. Lời giải
thích rất đơn giản: hắn khăng khăng rằng mình ở đó ngắm chim. Khi hắn bị
thẩm tra, Loeb cũng bị tình nghi và được đưa về đồn. Nhưng cả hai đều
không thừa nhận và phía cảnh sát không có đủ họ cứ để kết tội họ. Họ
được trả tự do.
Tuy nhiên, đó chưa phải là toàn bộ cuộc điều tra. Cũng như trong Crime and Punishment,
một thám tử kiên trì cuối cùng cũng ép Raskolnikov nhận tội, tổ đội
giết người này cũng có kết cục tương tự. Leopold vẫn giữ im lặng nhưng
Loeb bắt đầu đi nói với bạn bè và phóng viên, đưa ra giả thiết về vụ án
và còn bảo nếu hắn là thủ phạm, Bobby Franks là nạn nhân hoàn hảo - vì
nó đáng bị như vậy.
Cảnh
sát tiếp tục điều tra lai lịch hai người, biết rằng người viết thư tống
tiền là một người có học thức, và cuối cùng họ cũng tìm được bản nháp
của Leopold trùng khớp với lá thư tống tiền. Họ không tìm thấy máy đánh
chữ tại nơi ở của hắn, nhưng khi lời nói dối bị lật tẩy, hai kẻ giết
người bắt đầu lần lượt khai nhận, nhanh chóng gán tội cho người kia.
Theo
lời khai chi tiết đầy máu lạnh, họ tiết lộ vụ giết người nhằm mục đích
mua vui cho hai vị học giả đang chán chường. “Đó chỉ là một cuộc thí
nghiệm thôi,” Leopold nói. “Cũng đơn giản như khi nhà côn trùng học dùng
kim đâm vào con bọ cánh cứng ấy.” Họ chỉ đơn giản là muốn thử khả năng
lên kế hoạch và thực thi một vụ án mạng mà không để bị bắt. Không ai tỏ
ra hối hận hay nghĩ rằng những gì mình làm là đáng lên án.
Giới
truyền thông đưa tin vụ án bắt cóc/giết người này là độc nhất vô nhị
trong biên niên sử án mạng của Mỹ. Động cơ không gì khác ngoài thử xem
mình có trốn tội được không. Trước đó chưa từng xảy ra điều tương tự.
Tại
phiên tòa, một vài bác sĩ tâm lý được triệu tập để “giải thích” hành vi
suy đồi này, và ngay cả Sigmund Freud cũng được đề xuất một số tiền
không được tiết lộ để phân tích về vụ án (ông đã từ chối), nhưng thẩm
phán không lấy làm lay động. Thế nhưng ông cũng không muốn phán hai
người đàn ông kia phải chết, nên đã áp đặt mức án tù chung thân. Loeb
chết trong tù sau khi bị đâm một nhát chí mạng, còn Leopold được thả tự
do sau 33 năm và sống hết quãng đời còn lại ở Puerto Rico.
***
Năm
1924 loại vụ án này rất dị thường, nhưng ngày nay thì không còn như
vậy, và những kẻ giết người vì khoái cảm ngày càng trẻ hơn. Ví dụ năm
1993, Robert Thompson và Jon Venables, cả hai đều 10 tuổi, thường đưa
cậu bé James Bulger 2 tuổi ra khỏi trung tâm thương mại ở Liverpool,
Anh. Chúng chỉ muốn kiếm gì đó để làm, và quyết định thử xem mình có
trốn được tội bắt cóc hay không.
Chúng
bắt đầu hành động bằng việc tạt sơn xanh lên người James, chọi gạch vào
người cậu, và dùng thanh sắt đánh đập. Hai đứa trẻ sau đó khai nhận
rằng đã thả đứa bé xuống đường ray, nhưng không chịu thừa nhận những gì
vật chứng pháp chứng chỉ ra - chúng đá vào đầu và háng cậu bé, rồi cởi
hết quần và đồ lót của cậu để họ vuốt ve mơn trớn. Có suy đoán cho rằng
chúng còn nhét cục pin vào hậu môn của cậu bé. Khủng khiếp hơn, cả hai
đều nói rằng chúng tiếp tục tấn công vì “cậu bé vẫn còn đứng dậy được”.
Các
bác sĩ tâm thần phân tích lời khai cho rằng hai đứa trẻ này không bị
tâm thần, chúng hiểu bản chất tội ác và biết rằng điều mình làm là sai.
Vì thế, trạng thái tinh thần khi gây án hoàn toàn bình thường. Về bản
chất, chúng hành sự với ý thức của người trưởng thành. Nhà bệnh lý học
xác nhận các vết thương cho thấy người tấn công có ý đồ bạo lực.
***
Vào
ngày 19 tháng 4 năm 1997, Thomas Koskovich, 18 tuổi, và Jayson
Vreeland, 17 tuổi, gọi pizza từ một cửa hàng Dunkin’ Donuts ở Franklin,
New Jersey. Họ gọi vài chỗ cho đến khi tìm thấy một chỗ giao hàng tận
nơi. Họ yêu cầu hai pizza phô mai giao đến địa chỉ của một ngôi nhà bỏ
hoang. Rồi họ đến nơi đó chờ đợi con mồi.
Jeremy
Giordano, 22 tuổi, và Giorgio Gallara, 24 tuổi, đến giao hàng. Khi họ
đến gần căn nhà, Koskovich và Vreeland bước đến chiếc xe. Gallara, người
đang ngồi cầm hộp pizza trên ghế phụ, hạ cửa số xuống và yêu cầu trả
tiền. Koskovich lôi ra một khẩu súng lục .45 và bắn bảy phát. Giordano
chết do một viên đạn đâm vào tủy sống, còn Gallara bị bắn vào mặt, cánh
tay, và vai. Viên đạn chí mạng vào sau đầu được bắn từ súng của
Vreeland.
Hai
kẻ giết người lục soát người nạn nhân tìm kiếm tiền và cực kỳ khoan
khoái với những gì mình đã làm. “Yêu mày quá cơ,” Vreeland nói. Không
thể trộm xe giao hàng, họ trở lại xe của mình, thay quần áo, và đến nhà
thờ vì Vreeland cảm thấy hối hận - hắn chối bỏ điều này khi khai với
cánh sát.
Một
người bạn gái cũ đã tố giác họ khi cô biết tin về vụ giết người, cô nhớ
ra rằng Koskovich từng nói hắn có kế hoạch làm chuyện tương tự. Hắn
muốn gia nhập Mafia hoặc trở thành thành viên của Navy SEAL, và hắn tin
rằng giết người có thể giúp hắn đạt được mục tiêu ấy. Còn một nguyên
nhân nữa, theo như tổ truy tố, hắn chỉ muốn thử xem có cảm giác thế nào.
Trong lời khai nhận, hắn bảo đã phấn khích nói với Vreeland, “Tao không
thể tin được mình đã làm điều đó!”
Nhiều
người nghĩ rằng giết người vì khoái cảm là bản chất của độc ác, nhưng
một số vụ án giữa cha mẹ và con cái cũng không hề kém cạnh.
Cha mẹ nguy hiểm
Mối
nguy hại chí tử nhất đối với trẻ em chính là người bố hoặc người mẹ hủy
hoại chúng vì mục đích cá nhân. Nguyên mẫu của sự việc này là thần
Saturn (hay trong thần thoại Hy Lạp là thần Cronus), người đã ăn thịt
tất cả con ruột của mình để đảm bảo họ sẽ không lật đổ mình như cái cách
hắn đã lật đổ cha hắn.
Andrea
Pia Yates, 36 tuổi, sống ở Houston, Texas, và có năm người con. Vào
ngày 20 tháng 6 năm 2001, bà đã giết hết con của mình. Bà dìm chết ba
người con trai, lần lượt 2, 3 và 5 tuổi, trong bồn tắm và đặt thi thể
lên giường, phủ chăn lên người. Tiếp đến là Mary 6 tháng tuổi, cô con
út. Trong khi bà đang thực hiện tội ác khủng khiếp này, người con trai
trưởng Noah, 7 tuổi, tình cờ đi vào để xem chuyện gì đang xảy ra. Cậu bé
chạy khỏi phòng tắm nhưng Yates rượt theo cậu, lôi cậu trở về bồn tắm,
chìm cậu ngay bên cạnh Mary. Bà để mặc cho cậu nổi lềnh bềnh trong bồn,
cảnh sát cũng tìm thấy thi thể cậu tại đó.
Đây
không phải là hành động nhất thời, Yates thừa nhận đã suy nghĩ về nó
khoảng vài tháng. Bà cho là những đứa trẻ không phát triển một cách bình
thường và bà là một người mẹ tồi. Khám nghiệm tử thi tìm thấy nhiều vết
bầm còn mới cho thấy bốn cậu bé đã bị hành hạ. Yates bị buộc tội mưu
sát trẻ em bằng vũ khí chí mạng có ý thức và có chủ đích.
Trong
lời bào chữa, bác sĩ tâm lý của bà, Tiến sĩ Gerald Harris, nói rằng bà
muốn bị xử tử để bà và Satan đều bị tiêu diệt. Dù bà khai rằng mình vô
tội với lý do tâm thần, người ta cho rằng bà không có khả năng hầu tòa.
Bà nói rằng Satan đã đến tìm và trò chuyện với mình trong tù.
Andrea Pia Yates
Các
bà mẹ có liên quan đến đa số vụ án bạo hành trẻ em dẫn đến chết người ở
Mỹ. Tổ chức Điều tra Bạo hành và Bỏ mặc Trẻ em Quốc gia báo cáo con số
cao đến 78%. Họ thường bảo rằng mình là nạn nhân của một loạt các chứng
rối loạn từ trầm cảm sau sinh đến căng thẳng hậu chấn thương tâm lý đến
bệnh tâm thần, và họ được hỗ trợ bởi những trung tâm sức khỏe tâm thần
và tổ chức xã hội. Một số còn đổ lỗi cho xã hội. Yates có đề cập đến
những triệu chứng trầm cảm của mình, theo Cheryl Mayer, người đưa ra lý
giải về các vụ án tương tự. Không ai chú ý đến những nguy hiểm tiềm
tàng. Các bác sĩ phải theo dõi chứng trầm cảm của bệnh nhân. Nếu họ
không làm được, họ có lỗi, chứ không phải Yates. “Phụ nữ thường chịu
đựng những thay đổi nội tiết có thể dẫn đến tâm trạng bất ổn,” Tiến sĩ
Tina Tessina nói với tờ Time. “Thường có một sự mất kết nối nghiêm trọng
giữa những gì phụ nữ cảm nhận sau khi sinh con (trầm cảm, mệt mỏi, đau
đớn) và những gì phụ nữ cần phải cảm nhận khi đã trở thành mẹ (vui mừng,
hân hoan, hết lòng vì con).” Theo bà, điều này có thể tích tụ trong một
khoảng thời gian dài không lộ ra ngoài, còn nhà tâm lý học Ann
Dunnewold ở Dallas cho rằng những cơn trầm cảm như thế có thể tiến hóa
thành bệnh tâm thần ảo giác.
Điều
này có nghĩa năm đứa trẻ đã chết và trách nhiệm không thuộc về ai một
cách rõ ràng cả. Nhưng không phải tất cả bà mẹ giết con đều có thể đổ
lỗi cho các thay đổi nội tiết.
***
Vào
ngày 17 tháng 10 năm 1994, Tom Findlay viết một lá thư gửi đến Susan
Smith để nói rằng anh không thể tiếp tục mối quan hệ giữa hai người vì
anh không muốn chịu trách nhiệm đối với con của người đàn ông khác. Anh
cũng đề cập những vấn đề khác, nhưng Smith chỉ chăm chăm vào duy nhất
một điều: Nếu cô không có con, anh sẽ ở bên cạnh cô.
Một
tuần sau vào ngày 25 tháng 10, vẫn còn chưa hết bàng hoàng, cô đón hai
đứa con trai và lái chiếc xe Mazda Protégé của mình hơn một giờ đồng hồ.
Cô dừng lại ở hồ John D. Long ở ngoại ô Union, Nam Carolina, và đỗ xe ở
bên bờ. Michael, 3 tuổi, và Alex, 14 tháng tuổi, đang nằm ngủ ở ghế
sau. Smith ngắt hệ thống với động cơ và cảm nhận chiếc xe đang bắt đầu
lăn bánh xuống nước.
Theo
lời kể, cô không thể chịu đựng cuộc sống thêm nữa và muốn các con trai
của mình lên thiên đường, nhưng người ta tin rằng cô chỉ không thể chấp
nhận bị người đàn ông mình yêu bỏ rơi - một người đàn ông đã có gia
đình. Cô đã mất đi cha và chồng. Cô không còn cách nào khác ngoài kết
thúc mọi việc.
Susan Smith
Nhưng
rồi cô phanh lại và ra khỏi xe. Cô muốn chết nhưng phải giết chết hai
đứa con trai trước, để đảm bảo chúng đều chết. Cô do dự và rồi với tay
vào trong xe thể thả phanh khẩn cấp. Chiếc Mazda vẫn còn sáng đèn lăn
bánh xuống nước. Alex và Michael hoàn toàn bị kẹt bên trong. Mọi chuyện
sẽ sớm kết thúc.
Smith
đứng nhìn chiếc xe ngập đầy nước. Cuối cùng chiếc xe chìm hẳn và cô
chạy đến căn nhà gần đó, hét lên rằng có một người da đen tấn công cô ở
chỗ đèn giao thông và lấy chiếc xe chở hai đứa con đi mất. Cô ra vẻ là
một người mẹ bị kích động, đánh lừa người phụ nữ ở căn nhà đó và nhanh
chóng lừa cả đất nước khi cô lên TV khẩn thiết cầu xin tìm hai đứa con.
Người chồng vốn không còn chút tình cảm, David, cũng kinh ngạc và ủng hộ
cô.
Thế
nhưng điều tra viên không tin câu chuyện của cô và kết quả kiếm tra nói
dối cũng cho thấy điều đó. Có vẻ như cô biết các con mình đang ở đâu và
biết rằng chúng đã chết. Người ta lặn xuống hồ, không có kết quả, vì họ
tính toán sai vị trí chiếc xe. Không ai tưởng tượng được Smith chỉ đơn
giản là để cho chiếc xe lăn bánh từ từ.
Cuối
cùng cô cũng nhận tội, cô đã giết cả hai đứa con, và chín ngày sau đó,
hai đứa trẻ được tìm thấy trong một chiếc xe lật ngược, vẫn còn bị kẹt
trong ghế. Một thợ lặn đã nhìn thấy một bàn tay nhỏ trên cửa sổ.
***
Tuy
nhiên Smith không phải người mẹ đầu tiên làm chuyện tàn ác như vậy với
chính con đẻ của mình. Gần một thập kỷ trước đó, vào ngày 19 tháng 5 năm
1983, Diane Downs lái xe đến phòng cấp cứu tại Springfield, Oregon, nói
rằng một người lạ mặt tóc xù xì tiến đến xe và bắn ba đứa con của bà.
Cheryl 8 tuổi thiệt mạng, nhưng các bác sĩ đã cứu sống được Christie 7
tuổi và Danny 3 tuổi.
Downs
không chỉ chấp nhận việc các con của mình bị thương nghiêm trọng, mà
khi biết Danny sống sót, bà còn thốt lên, “Ý các người là viên đạn không
trúng tim nó à? Chết tiệt!” Rồi khi Downs đến thăm Christie, các y tá
nhận thấy cô bé cực kỳ sợ sự hiện diện của người mẹ.
Điều
tra quá khứ của Downs cho thấy bà thường có các mối quan hệ không dài
lâu với nhiều người đàn ông và người yêu gần đây đã bỏ bà. Vấn đề từ câu
chuyện của bà, bao gồm một vết thương trên cánh tay có vẻ là tự gây ra,
cuối cùng cũng làm sáng tỏ sự thật: Để khiến cuộc sống dễ dàng hơn, bà
quyết định trừ khử con của mình. Chính bà đã bắn ba đứa trẻ và Christie
run rẩy làm chứng cho điều này tại phiên tòa của Downs.
Diane Downs và ba đứa con
Nhà
tâm lý học pháp chứng Tiến sĩ Barbara Kirwin đã phân tích một số vụ án
mẹ giết con - thường là trẻ sơ sinh. Bà đã từng thấy các chuyên gia cố
gắng tạo dựng lời biện hộ về tâm thần, và thường đều thiếu thuyết phục.
Trong vụ án Stephanie Wernick, được bà ghi chép trong The Mad, the Bad, and the Innocent
(Kẻ điên, kẻ xấu, và người vô tội), bà tin rằng cô gái ấy là một kẻ
thao túng đã quen với việc muốn gì được nấy và không thể chấp nhận những
phiền phức. Đứa trẻ là một “phiền phức” và cô tìm cách trừ khử nó.
Nhưng cô gái cũng đúng là hình mẫu để bên bào chữa đưa ra lý do tâm thần
tạm thời. “Dù đôi lúc cô ta hay giở trò nước mắt cá sấu,” Kirwin nói,
“cô ta chưa bao giờ thể hiện sự hối hận đối với những gì mình đã làm hay
cảm thấy cắn rứt với đứa con của mình.” Đánh giá cuối cùng của Kirwin
nhận định cô gái này là kẻ cuồng loạn mới chớm, chỉ quan tâm đến cuộc
sống của mình. Cô ta nghĩ điều mình làm là “bình thường”, nhưng điều đó
không nói lên được cô ta mắc bệnh tâm thần. “Cô ta đã làm một điều thực
sự độc ác. Chúng ta làm gì với điều đó đây?” Các nhà tâm lý học còn khó
có thể gọi một hành động là độc ác, huống hồ là đưa ra công cụ để giải
quyết nó, đây là một phần lý do tại sao độc ác có thể được giảm nhẹ
xuống thành một hành động ít tàn ác hơn và không bị trừng phạt.
Và không chỉ có những bà mẹ mới làm những điều này.
***
Tại
St. Charles, Missouri, tháng 2 năm 1992, Brian Stewart, 31 tuổi, đã
thực hiện một hành vi khó tin. Để không phải trả 267 đô la mỗi tháng trợ
cấp cho con, hắn tiếp cận đứa con trai sơ sinh của mình và vì là một
nhân viên y dược, hắn đã tiêm máu nhiễm HIV vào người đứa bé. Sáu năm
sau đó cậu bé mắc bao nhiêu là bệnh, trở nên điếc, và cuối cùng được
chẩn đoán mắc AIDS. Người mẹ nhớ ra rằng Stewart đã từng nói với cô đứa
trẻ sẽ không sống lâu, vì thế nên cô đã báo cảnh sát.
Stewart
bị buộc tội và kết án tấn công người cấp độ một. Dù không có văn bản
pháp lý nào nói về độc ác, thẩm phán không ngần ngại dùng thần học trong
phiên tòa. “Tôi tin rằng khi Chúa cho gọi cậu,” ông nói, “cậu sẽ bị
thiêu sống dưới địa ngục từ giờ cho đến mãi mãi.” Năm 1999, Stewart bị
phán tù chung thân.
Còn
có một vụ khác với Kenneth và Adelle Dudley, cả hai đều là nhân viên lễ
hội. Họ bị bắt tại Lawrenceville, Kentucky năm 1961 vì tội giết chết
con gái 7 tuổi bằng việc bỏ đói, bỏ rơi, không chăm sóc. Khi lấy lời
khai, cặp đôi này từng có mười đứa con, và đã để sáu người chết đói theo
cách tương tự. Mỗi khi con chết, họ vứt xác xuống hồ hoặc mỏ bỏ hoang ở
khu vực phía Nam.
Nguyên do hay lý do?
Tiến
sĩ Jonathan Pincus, trưởng khoa thần kinh tại bệnh viện Đặc trách Cựu
chiến binh ở Washington, DC, nghiên cứu điều gì khiến con người bạo lực,
và ông đưa ra ba biến thể: tổn thương não, bạo hành, và bệnh tâm thần -
đáng chú ý là suy nghĩ hoang tưởng. Trong cuốn Base Instincts
(Bản năng nền móng), ông nói, “Tổ hợp yếu tố ấy cũng là nền tảng của
hành vi giết người.” Phân tích qua hơn 150 vụ án giết người từ Ted Bunny
đến sát nhân gái mại dâm Joel Rifkin, Pincus tin rằng những yếu tố này
có liên quan đến hầu hết hành vi bạo lực chí mạng.
Phiên
tòa của “sát nhân pizza” Thomas Koskovich tán đồng với ít nhất hai phần
trong công thức này. Một nhân viên xã hội cho lời khai rằng nhà
Koskovich xảy ra bạo lực gia đình, bạo hành thể chất, và hành vi tự tử.
Cô đưa ra ý kiến rằng Koskovich được nuôi dạy trong một gia đình không
có kết cấu, phải chịu đựng sự thờ ơ về mặt cảm xúc khi bố mẹ bỏ hắn cho
ông bà nuôi. Một chuyên gia khác làm chứng Koskovich bị bệnh tâm thần,
có nhận thức mờ nhạt về thực tế, và đang ủ bệnh tâm thần phân liệt thể
hoang tưởng. Không ai nhắc đến việc hắn có bị tổn thương não hay không.
Pincus đồng tình với Dorothy Otnow Lewis, tác giả cuốn Guilty by Reason of Insanity (Có
tội vì lý do tâm thần): cả hai đều tin rằng vai trò của tổn thương não
và bạo hành đều là những yếu tố chủ chốt. Tuy nhiên, Pincus cho rằng
hướng tiếp cần thì có đôi chút vấn đề. Ông bàn về vụ án của Louis
Culpepper, ngồi tù vì tội lạm dụng tình dục một bé gái 6 tuổi. Khi
Pincus tìm ra bằng chứng hắn bị tổn thương não từ một vụ tai nạn và
trong quá khứ từng bị người thân họ hàng bạo hành tình dục đã sinh ra
những ảo tưởng tình dục với trẻ em, ông đặt giả thiết rằng tổn thương
não đã loại bỏ những rào cản của Culpepper và cho phép hắn làm những
điều mà bình thường hắn sẽ không làm.
Pincus
sau đó suy nghĩ lại những vụ án khác và dùng ý kiến của mình để đánh
giá những vụ án tiếp theo mà ông được cho gọi. Nhưng vấn đề với hướng
tiếp cận này là nó dựa trên lối ngụy biện logic gọi là “begging the
question” (né tránh câu hỏi - có thể hiểu là nhận định một sự việc là
đúng bởi vì nó đúng, nhưng không thể đưa ra lý giải vì sao nó đúng). Từ
một mẫu nhỏ (một), ông xây dựng những giả thiết hình thành một hướng
tiếp cận khiến ông chỉ nhìn thấy những bằng chứng mà mình muốn nhìn
thấy. Nói cách khác, ông đặt ra một lý thuyết và tìm kiếm bằng chứng ủng
hộ lý thuyết ấy. Điều có thể xảy ra là ông sẽ bỏ sót những yếu tố quan
trọng cũng như nhấn mạnh thái quá lên những yếu tố thực chất lại rất nhỏ
nhặt. Trên thực tế, lý giải của ông đúng với những bị cáo gây án nhất
thời nhưng không đúng với loại người máu lạnh lên kế hoạch và thực hiện
một vụ giết người hoặc loại hình tàn ác nào khác.
Để
nhìn nhận những vấn đề này hợp bối cảnh, ta hãy xem qua vụ án mà
Dorothy Lewis phân tích. Bà là nhân chứng chuyên gia bào chữa trong vụ
án kẻ giết người liên hoàn Arthur Shawcross đến từ Rochester, New York.
Cuối những năm 1980, hắn giết ít nhất 11 phụ nữ, đa số là gái mại dâm,
và tìm lại thi thể để phanh thây. Một người hắn mổ xẻ từ trên xuống
dưới, người khác hắn cắt bỏ bộ phận sinh dục.
Lewis
giám định hắn và đưa ra kết luận sau buổi thôi miên cùng quá khứ thời
thơ ấu chấn thương tâm lý nặng nề và mắc chứng động kinh thùy thái dương
chặn mất ký ức. (Chị gái của hắn phủ nhận rất nhiều điều hắn cho là sự
thật.) Lewis cho rằng những cơn động kinh chỉ xảy ra khi hắn ở một mình
với gái mại dâm vào ban đêm (mặc dù sau đó bà đã thay đổi giả thiết và
cho rằng ý kiến này khá mâu thuẫn). Dù tên sát nhân đã hoàn toàn thừa
nhận giết người và đưa ra những chi tiết chỉ có kẻ giết người mới biết,
bao gồm việc chỉ điểm vị trí hai thi thể nạn nhân cho điều tra viên,
Tiến sĩ Lewis nói rằng ký ức của hắn bị tổn thương vào thời điểm gây án
và hắn không thể biết được mình đang làm gì. Bà cũng nói rằng việc hắn
cắt bỏ bộ phận sinh dục của một nạn nhân và ăn nó đã chứng minh hắn mắc
chứng rối loạn - phần lớn giả thiết đều dựa trên những gì Shawcross nói
với bà chứ không phải dựa trên chứng cứ pháp lý và tư liệu xác thực. (Và
cần nhớ rằng Shawcross mong mình sẽ có được lời bào chữa bệnh tâm
thần.)
Tuy
nhiên, Lewis không hề nhận ra khả năng kẻ giết người đang diễn kịch để
lợi dụng bà. Đa số nhà tâm lý học pháp chứng biết những kẻ cuồng loạn
hay lừa lọc và chơi khổ nhục kế. Dù Lewis khăng khăng ảnh chụp cộng
hưởng từ cho thấy có một túi nang nhỏ đầy chất dịch ở thùy thái dương
bên phải của hắn, nhưng bà không thể chứng minh điều này có ảnh hưởng gì
đến hành vi giết người. Sau 15 năm tù hắn được trả tự do vì trong suốt
thời gian bị giam hắn hoàn toàn không hề có hành vi bạo lực. Nhưng hắn
lại giết và phanh thây hai đứa trẻ. Làm sao mà tổn thương não và rối
loạn tâm lý có thể khiến hắn giết người trong một trạng thái tách biệt
chỉ khi hắn ở cùng với trẻ em hoặc gái mại dâm?
Một
vấn đề khác với hướng tiếp cận của Pincus và Lewis là họ chỉ nghiên cứu
những cá thể ngồi tù. Ví dụ, cả hai đều viết về một nghiên cứu trên 14
tù nhân tử hình thực hiện hành vi giết người trước tuổi 18. Họ tìm thấy
tổ hợp ba yếu tố trên tất cả trường hợp. Nhưng có thể đó là do những
người sở hữu tổ hợp ba yếu tố này thường bốc đồng hơn và vì thế dễ bị
bắt hơn. Vì hai nhà tâm lý học này chưa hề nghiên cứu những kẻ giết
người không bị bắt hay những người như Leopold và Loeb (không bị bạo
hành, tổn thương não hoặc bệnh tâm thần), nhiều khả năng có những yếu tố
khác góp phần vào bạo lực, và cũng nhiều khả năng là những yếu tố họ
đưa ra không phải lúc nào cũng hiện diện.
Họ
cũng bỏ qua ảnh hưởng của những yếu tố xã hội. Ví dụ, hãy nhớ rằng
không phải tất cả hành vi bạo lực đều được xem là độc ác, ta hãy xem qua
những giả thiết về nguyên do của bạo lực.
-
Xã hội học
Đa
số giả thiết được xếp loại xã hội học thường gắn nguyên do của tội ác
lên các động lực, hoàn cảnh xã hội hay văn hóa, mỗi cá nhân mỗi khác.
Quan niệm cho rằng cá nhân là một thành viên của một nhóm bị ảnh hưởng
bởi động lực hay hoàn cảnh nào đó sẽ có khả năng gây ra tội ác. Ví dụ,
nghèo đói, thiếu cơ hội nâng cao địa vị, hay cảm giác bất lực vì là
thành viên của một giai cao xã hội bị kỳ thị có thể là nguyên nhân dẫn
đến hành vi tội ác. Sự chú ý của dư luận đối với loại hình tội ác nhất
định, ví dụ như xả súng tại trường học, cũng là một nguyên nhân.
-
Sinh học
Những
giả thiết này nhấn mạnh đến những yếu tố nảy sinh bên trong cơ thể là
nguyên nhân gây ra tội ác. Có thể người đó có khuynh hướng di truyền và
sống trong một hoàn cảnh có thể kích hoạt hành vi tội ác. Có thể những
tội ác như cưỡng hiếp có yếu tố tổ tiên, có hiệu quả nâng cao dân số đối
với người nguyên thủy nhưng đến nay được coi là xâm hại. Cũng có một số
giả thiết chỉ ra các biến dị nhiễm sắc thể, yếu tố quyết định loại cơ
thể, và các yếu tố hóa sinh. Dù đúng là nếu những loại tính cách nhất
định, ví dụ như cuồng loạn, được định hình sẵn trong não bộ, và nếu
cuồng loạn có liên quan mật thiết đến tội ác và tái phạm tội ác, thì
sinh học cũng đóng một vai trò quan trọng.
-
Tâm lý học
Những
giả thiết này hướng đến các yếu tố nhân cách để xác định liệu những
kiểu tính cách hay đặc điểm nhất định sẽ có xu hướng gây ra tội ác hay
không. Chúng bao gồm các giả thiết phân tâm học, hành vi, và đặc tính.
Nhiều nhà tâm lý học đã viết sách về “nhân cách tội phạm”. Tuy nhiên,
vẫn không có bằng chứng cho thấy những đặc tính nhất định nào thực sự
khiến một người thực hiện hành vi tội ác.
-
Tâm lý xã hội
Những
giả thiết này nghiên cứu các cá thể trong một môi trường, ví dụ, một
thanh niên da đen sống trong một khu phố nơi các băng đảng hoành hành và
anh ta buộc phải tham gia. Một người học cách gây ra tội ác thông qua
những tương tác xã hội và tiếp xúc với những hình mẫu nhất định. Một số
người tin rằng bản chất con người thiên về trạng thái vô kỷ luật phải
được kiềm chế bởi các tổ chức xã hội và xã hội hóa trong gia đình. Số
khác tin rằng con người học cách bạo lực vì họ nhận thấy điều đó đem lại
một sự tưởng thưởng ngắn hạn hoặc là cách duy nhất để giải quyết tình
huống.
-
Giả thiết hỗn hợp
Đa
số chuyên gia sức khỏe thần kinh chấp nhận một điều rằng có lẽ có một
tổ hợp phức tạp các yếu tố dẫn đến tội ác. Rất khó bỏ qua nghiên cứu
thần kinh học, nhưng cũng rất khó để không chú ý đến những tình huống
nhất định khơi gợi bạo lực. Thêm vào đó, hiển nhiên là một số người mắc
chứng rối loạn nhân cách nhiều khả năng có hành vi bạo lực hơn. Vì thế,
một giả thiết hỗn hợp, dù không được chỉn chu tươm tất cho lắm, có khi
lại chính xác hơn.
Các
yếu tố liên quan đến hành vi độc ác rất đa dạng, và không có yếu tố đơn
lẻ nào là cần thiết và đầy đủ để tự nó có thể gây ra tội ác. Để hiểu rõ
hơn về bản chất của độc ác, họ ta sẽ nhìn nhận vấn đề ở một phạm vi
rộng hơn, đặc biệt là từ góc độ của những kẻ lên kế hoạch và thực hiện
những hành vi tội phạm, trong series tiếp theo, Độc ác: Trái tim của bóng tối - Định nghĩa lại độc ác.
Người dịch: Thợ Săn Tiền Thưởng
Nhận xét
Đăng nhận xét