Dân trí Điệp viên tình báo Anh Ewen Montagu là người đã
đứng sau chiến dịch nghi binh ngoạn mục nhất Thế chiến II, sử dụng một
xác chết để đánh lạc hướng quân phát xít Đức, tạo nên bước ngoặt thay
đổi cục diện trận chiến.
Điệp viên tình báo Anh Ewen Montagu. (Ảnh: Dailymail)
“Chiến dịch thịt băm” là một trong những kế nghi binh ngoạn mục nhất
trong Thế chiến II, vốn hoàn toàn đánh lừa phát xít Đức và đưa tạo nên
bước ngoặt quan trọng cho tình hình bấy giờ.
Kế hoạch bắt đầu khi một người đàn ông vô gia cư có tên Glyndwr
Michael, 34 tuổi vào thời điểm đó, được tìm thấy trong tình trạng bất
tỉnh trong một nhà kho bỏ hoang ở King's Cross, London (Anh). Sau khi
được đưa tới bệnh viện St Pancras, ông đã trút hơi thở cuối cùng.
Ông Micheal đã tự tử bằng bả chuột, khiến phổi ông đầy chất dịch,
triệu chứng tương đồng với một vụ chết đuối trên biển. Các điều tra viên
đã đồng ý giữ xác của ông trong kho lạnh, trong khi “bộ não” đằng sau
chiến dịch là điệp viên tình báo Anh Ewen Montagu đã chuẩn bị tiến hành
sứ mệnh tuyệt mật trong cơ quan tình báo Anh.
Theo kế hoạch ngoạn mục như kịch bản phim Hollywood, ông Michael sẽ
được thay tên đổi họ, biến thành một người hoàn toàn khác. Đó là Đại úy
William 'Bill' H.N. Martin của Hải quân Hoàng gia. Hai chiến lược gia
rất cẩn thận lựa chọn cái tên William Martin vì đây là tên khá phổ biến
trong danh sách quân nhân thuộc Hải quân Hoàng gia Anh năm 1942 nhằm
chuẩn bị cho kịch bản tình báo phát xít Đức có thể sẽ xác minh lại thông
tin.
Xác chết còn được trang bị thêm 1 cặp tài liệu trong đó toàn những
giấy tờ giả hé lộ rằng quân Đồng minh đang ở Bắc Phi để hướng tới Hy
Lạp. Ông Montagu thậm chí còn tạo cho cái xác một cuộc đời giả với một
hóa đơn nhẫn đính hôn, những giấy tờ nhàu nhĩ cho giống thật và những lá
thư tình mùi mẫn và bức hình của vị hôn thê tưởng tượng có tên là Pam.
Ông hy vọng những câu chuyện đời thường sẽ dễ lừa được quân đội Đức Quốc
Xã.
Thi thể Glyndwr Michael được thay tên đổi họ (Ảnh: Historic Mysteries)
Vào tháng 4/1943, tàu ngầm Hải quân Hoàng gia Anh đã thả cái xác
xuống biển. Kế hoạch được tính toán kĩ lưỡng đến từng chi tiết, ví dụ
như việc lựa chọn địa điểm thả xác ở thành phố Huelva (Tây Ban Nha), nơi
có gián điệp sừng sỏ của phát xít Đức đang trú ngụ và nghe ngóng tin
tức. Anh cũng dàn dựng hiện trường giống như một vụ tai nạn máy bay bằng
cách thả xuống một chiếc thuyền cứu hộ.
Nếu kế hoạch thành công, quân đội Đức quốc xã sẽ bị lừa và đến Hy Lạp
thay vì đổ bộ lên đảo Sicilia, Italy để hỗ trợ phát xít tại Italy chống
lại quân đồng minh. Trong thế trận lúc đó, Sicilia là địa điểm thuận
lợi nhất cho quân Đồng Minh đổ bộ lên Địa Trung Hải vì sau khi đánh bại
Đức ở Bắc Phi đội quân này chỉ còn cách Sicilia vài trăm km đường hàng
không và quân Đồng Minh muốn phát xít Đức tin rằng họ không làm như vậy.
Sau khi quan chức ngoại giao Anh ở Tây Ban Nha thông báo về việc
Madrid tìm thấy xác chết trôi dạt vào bờ biển nước này, Anh thậm chí còn
ra lệnh cho quan chức ngoại giao này phải tìm “tài liệu tối mật”. Khi
đó, sự mẫn cán của gián điệp phát xít Đức cài cắm đã phát huy tác dụng.
Và đội quân của trùm phát xít Adolf Hitler đã hoàn toàn mắc bẫy với
không chút mảy may nghi ngờ trước một nhân vật “giả mà như thật”. Đức đã
triển khai quân đội đến sai địa điểm, nhờ đó hàng ngàn binh sĩ lực
lượng Đồng Minh đến từ Anh, Mỹ, Canada không mất mạng. Quân Đồng Minh dễ
dàng tiêu diệt trùm phát xít Italy Benito Mussolini. Phát xít Đức đã
không thể ngờ rằng họ đã bị lừa ngoạn mục đến vậy.
Chiến dịch nghi binh thành công vang dội đến mức nó đã được chuyển thể thành phim với cái tên “The man who never was”.
Đức Hoàng
Tổng hợp
Chiến dịch Normandy - Kế hoạch nghi binh trước giờ G
Sự lựa chọn Normandy cũng là yêu tố bất ngờ đầu tiên mà Đồng Minh giành
cho quân Đức, bởi lẽ nó đã đi ngược lại hoàn toàn các logic quân sự
thuần túy mà Giới chỉ huy quân đội Đức luôn tôn trọng.
Sau khi kế hoạch lựa chọn bờ biển Normandy làm nơi đổ bộ được phê chuẩn,
quân Đồng Minh vừa tích cực chuẩn bị lực lượng vừa đẩy mạnh các công
tác trinh sat va tinh bao, trong đó bao gồm cả các hoạt động nghi binh
nhắm đánh lừa mạng lười tình báo quân sự của Đức.
Các hoạt động nghi binh ở Normandy có thể nói là một chiến dịch nghi
binh được chuẩn bị công phu và tỉ mỉ đến từng chi tiết để đảm bảo chắc
chắn rằng, Người đức sẽ giữ vững niềm tin và an tâm cho kế hoạch sẵn
sàng đón lõng quân đồng minh ở Pas de calais
Huy động gần 2 triệu người: Cuộc nghi binh lớn nhất lịch sử nhân loại
Đại tá Phan Văn Từ (Nguyên Trưởng phòng công nghệ cao, Viện tên lửa, BQP) |
21
Để ngụy trang việc xây dựng trường bắn tên lửa, người ta đã huy
động hơn 1.700.000 thanh niên tham gia vào việc nghi binh.
Cuối chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ đã dùng
máy bay B-29 ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố Nhật bản. Bằng
cách này, Mỹ không những đạt mục tiêu cụ thể là tàn sát dân thường và
phá hoại các thành phố của Nhật mà còn gián tiếp đe dọa các nước XHCN
khi đó do Liên Xô đứng đầu.
Khác với Mỹ,
Liên Xô bị tàn phá nặng nề trong chiến tranh nên đầu những năm năm mươi
phải khắc phục nhiều khó khăn vô cùng để xây dựng lại các thành phố,
làng mạc, nhà máy, nông trang, gấp rút phục hồi sản xuất nông nghiệp đối
phó với nạn thiếu lương thực.
Nhưng ngay sau khi Thế chiến
2 kết thúc thì Chiến tranh Lạnh bắt đầu, cuộc chạy đua vũ trang trở nên
quyết liệt. Mặc dù nền kinh tế còn eo hẹp, các cơ sở khoa học công nghệ
chưa kịp phục hồi nhưng Liên Xô không thể chần chừ khi Mỹ độc quyền bom
nguyên tử.
Bằng những nỗ lực phi thường cùng với những hy sinh
xương máu, năm 1949, Liên Xô chế tạo và thử nghiệm thành công bom nguyên
tử, phá thế độc quyền của Mỹ. Nhân dân các nước XHCN thở phào nhẹ nhõm
vì không còn nơm nớp lo sợ bom nguyên tử Mỹ.
Thế nhưng năm 1953,
Stalin mất, nền chính trị Liên Xô bước vào khủng hoảng. Nhân cơ hội đó,
Mỹ liên tục o ép Liên Xô. Mỹ xây dựng rất nhiều căn cứ quân sự ở các
nước thân Mỹ xung quanh Liên Xô và các nước XHCN khác.
Phe XHCN
nằm trong thế bao vây của Mỹ và máy bay ném bom chiến lược B-29 của Mỹ
có thể mang bom nguyên tử cất cánh từ các căn cứ quân sự để ném bom Liên
Xô và các nước đồng minh của họ.
Trong khi đó, Liên Xô không thể
có hành động đáp trả vì máy bay ném bom của Liên Xô không bay được
khoảng cách hàng chục nghìn km để ném bom lãnh thổ Mỹ rồi quay về được.
Thời kỳ này hết sức căng thẳng, Liên Xô như bị dồn vào chân tường.
Năm 1954, Đảng cộng sản Liên Xô ổn định lại bộ máy do Tổng bí thư kiêm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Khrushchyov đứng đầu.
Bộ
quốc phòng báo cáo tình hình căng thẳng và những thông tin tuyệt mật
trực tiếp lên Tổng bí thư, trong đó có thông tin như máy bay do thám của
Mỹ ngày đêm bay trên bầu trời Liên Xô, chụp ảnh ngay cả trên bầu trời
Moskva mà quân đội Liên Xô không làm gì được.
Tổng bí thư hỏi lý
do thì các nhà quân sự cho biết máy bay trinh sát U-2 của Mỹ bay ở trần
bay trên 20 km nên tiêm kích MiG-17 không thể bay và tác chiến ở tầm cao
đó. Còn tên lửa phòng không thì sao? Thời kỳ này Liên Xô cũng chưa có
tên lửa phòng không tác chiến ở tầm cao trên 20 km.
Mỹ ngày đêm
ngạo nghễ dạo chơi và săm soi trên bầu trời Liên Xô mà không lo bị trừng
trị. Liên Xô nên làm gì để đáp trả đòn tấn công hạt nhân nếu bị Mỹ tấn
công? Chiến dịch khai hoang lớn chưa từng có
Các nhà
quân sự đã báo cáo lên tổng bí thư một dự án tuyệt mật, mà sau này mới
biết là nhiều đồng chí trong bộ chính trị cũng không được thông báo.
Đó
là dự án sản xuất tên lửa đạn đạo xuyên lục địa có khả năng mang đầu
đạn hạt nhân bắn vào đất Mỹ, thay cho việc dùng máy bay ném bom và khiến
cho Mỹ bất ngờ, chưa có cách đối phó, buộc Washington phải xuống thang
trong quan hệ đối ngoại.
Nhưng một khó khăn mà các nhà quân sự
chưa thể giải quyết được, đó là làm sao xây dựng một trường bắn khổng lồ
để phóng tên lửa đạn đạo mà vẫn giữ được bí mật.
Các nhà khoa học
đã khảo sát nhiều địa điểm khác nhau trên lãnh thổ Liên Xô và đi đến
thống nhất chọn vùng hoang mạc ở Kazakhstan, nơi hầu như không ai cư
trú, không có đường sá hay bất kỳ công trình xây dựng nào.
Song,
lại một khó khăn xuất hiện, việc xây dựng trường bắn khổng lồ phải huy
động hàng chục nghìn người, hàng triệu tấn vật liệu phải có đường để
chuyển đến, và rồi phải lo ăn ở cho hàng chục nghìn người trong thời
tiết hoang mạc vô cùng khắc nghiệt, mùa hè nóng đến 50 độ C, mùa đông
-40 độ.
Tất cả hoạt động phải đảm bảo tuyệt mật trong điều kiện ngày đêm nằm dưới con mắt quan sát của máy bay Mỹ.
Điều
đó cũng được báo lên Tổng bí thư. Thời kỳ này, vào giữa năm 1954, trung
ương đang họp bàn về việc khôi phục sản xuất nông nghiệp đối phó với
nguy cơ thiếu lương thực. Tổng bí thư đang đau đầu về cả hai việc lớn,
một việc chung công khai – nông nghiệp, một việc tuyệt mật - an ninh
quốc phòng.
Cả 2 việc đó quay cuồng trong đầu ông, nhưng ông vẫn
phải ưu tiên an ninh quốc phòng vì đây là vấn đề sống còn của cả khối
XHCN mà Liên Xô chịu trách nhiệm đứng đầu. Một ý nghĩ lóe lên, hay ta
kết hợp cả hai việc, cho khai hoang để tăng diện tích canh tác và ngụy
trang cho việc xây dựng trường bắn tên lửa.
Thế là hôm sau họp
Trung ương, Khrushchyov tuyên bố rằng, để giải quyết vấn đề lương thực,
ta phải phát động chiến dịch khai hoang trên toàn liên bang, đặc biệt
trọng điểm là các vùng hoang mạc ở các nước cộng hòa trung Á.
Trung
ương nhất trí đa số nhưng một số đồng chí trong bộ chính trí không hiểu
thâm ý của tổng bí thư nên tỏ ra hoài nghi. Lý do cũng rất chính đáng
vì đất đai màu mỡ của Nga và Ukraine chẳng thiếu gì, sao phải đưa người
đến những vùng mà điều kiện sống tối thiểu không có, không có nước,
không có đường đi lại, chưa nói gì đến nhà, đến điện….
Nhưng với
cương vị đứng đầu cả Đảng và chính phủ nên Khrushchyov quyết định và
phát động chiến dịch khai hoang lớn chưa từng có, huy động hơn 1.700.000
thanh niên, chủ yếu từ Nga và Ukraine, đến vùng hoang mạc trung Á.
Gần 2 triệu thanh niên và hàng chục nghìn quân nhân Liên Xô đã tham gia chiến dịch khai hoang lớn chưa từng có.
Cùng
với những đoàn tàu chở thanh niên khai hoang đó là những đoàn tàu chở
hàng chục nghìn quân nhân xây dựng và những chiếc tàu hàng được ngụy
trang thành tàu khách để chở hàng triệu tấn vật liệu. Khi đến các ga gần
hoang mạc thì đội quân khổng lồ theo nhiều hướng khác nhau tiến vào
hoang mạc. Trường bắn giả - trường bắn thật
Đội
quân khai hoang đã vượt qua muôn vàn khó khăn và chết chóc do bệnh tật,
thời tiết khắc nghiệt và côn trùng cắn nhưng họ đã viết nên thiên anh
hùng ca vĩ đại còn truyền lại trong văn chương, điện ảnh, hội họa…
Ngay
năm đầu vụ mùa đã bội thu và năm thứ hai họ đã khai phá được một diện
tích khổng lồ 47 triệu hecta đất, thu được hơn 80 triệu tấn lúa mì từ
vùng đất đó. Họ đã từ chỗ ở lều bạt mà xây lên cả thành phố Tselinograd –
thành phố khai hoang, nền móng của thủ đô Astana xinh đẹp ngày nay ở
Kazakhstan.
Hình ảnh trong những ngày đầu chiến dịch khai hoang của Liên Xô.
Nhưng
niềm vui chẳng tày gang, nỗi buồn ập đến, lúa mỳ không dùng hết, kho
không đủ để cất giữ, không có đường để vận chuyển đi nơi khác nên bị
thối hỏng rất nhiều. Những năm tiếp sau năng suất giảm dần, bão bụi
hoành hành cả một vùng rộng lớn, thảm họa môi trường khủng khiếp.
Ấy
vậy mà, những người khai hoang còn lập nên một chiến tích vĩ đại thầm
lặng khác, họ đã che giấu cho hai đội quân, một đội mấy chục nghìn người
đến ngôi làng Toretam xây dựng trường bắn khổng lồ, còn một đội hàng
nghìn người đến ngôi làng cách Toretam 300 km về phía đông bắc để xây
dựng một trường bắn giả (nhưng họ không được biết) - trường
bắn Baykonur.
Sau 2 năm lao động quên mình, họ đã xây dựng xong
trường bắn và quân đội Liên Xô đã bắt đầu thử tên lửa đạn đạo bắn từ
Kazakhstan đến Kamchatka. Sau nhiều lần thất bại, đến năm 1957, Liên Xô
phóng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên trên Trái Đất.
Thành
công này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì Liên Xô đi tiên phong trong
nghiên cứu vũ trụ, nhưng về mặt quốc phòng, nó cho đối thủ thấy Liên Xô
có thể tấn công bất cứ điểm nào trên hành tinh này- phá hẳn thế bao vây
của Mỹ.
Cho đến lúc ấy, người Mỹ vẫn chưa thể biết Liên Xô xây
dựng trường bắn ở đâu. Đến năm 1961, khi Gagarin bay vào vũ trụ thì hãng
thông tấn TASS ra thông báo lần đầu tiên cho biết con tàu được phóng từ
sân bay vũ trụ Baykonur.
Từ đó về sau, mọi thông báo về các
chuyến thám hiểm vũ trụ đều nói là tàu vũ trụ được phóng từ sân bay
Baykonur – sân bay giả, nhưng thực chất là từ sân bay Toretam.
Những
người đi khai hoang không những lập nên chiến tích "đánh thức" vùng
hoang mạc rộng lớn xa xôi mà còn che chở cho một công trình quân sự
chiến lược có quy mô lớn nhất thế giới mà giờ đây nó đã trở thành trung
tâm vũ trụ của thế giới.
theo Trí Thức Trẻ
10 cú nghi binh ngoạn mục trong chiến tranh
Một số cú đánh lừa táo bạo nhất
thành công trên chiến trường và sự thán phục đối với những người cực kỳ
táo bạo và khôn khéo nghĩ ra chúng.
Ảnh minh họa
10. Lá thư giả buộc cả một lâu đài đầu hàng
Lâu đài (James Gordon)
Lịch sử cho thấy, các hiệp sĩ cứu tế của dòng tu Y viện Hiệp sĩ đoàn
(Knights Hospitallers) rõ ràng là không phải là những kẻ dễ bị bắt nạt
mà sẵn sàng chiến đấu đến người cuối cùng nếu cần. Kịch bản mà gầu như
đã xảy ra khi các chiến binh mamluk (binh sĩ nô lệ Hồi giáo) vây hãm lâu
đài kiên cố Krak des Chevaliers của Y viện Hiệp sĩ đoàn vào tháng
3/1271. Lực lượng Hồi giáo do quốc vương Baybars chỉ huy từng bước đánh chiếm lâu đài và đẩy các hiệp sĩ vào bên trong lâu đài vào cuối tháng đó.
Thừa biết khi bị dồn vào đường cùng, các hiệp sĩ sẽ chiến đấu đến giây
phút cuối cùng, vị quốc vương khéo léo giả mạo một lá thư đề tên của
Tổng thủ lĩnh của Y viện Hiệp sĩ đoàn và tìm cách đưa tới tay các hiệp
sĩ bị vây hãm. Lá thư có ghi các chỉ thị và cho phép cho các hiệp sĩ
được đầu hàng. Các hiệp sĩ đã bị mắc mưu và đầu hàng; sau đó, vị quốc
vương đã tha mạng cho họ và cho phép họ an toàn rời đi Tripoli với điều
kiện họ không được quay trở lại. Vào tháng 4/1271, quân mamluk đã chiếm
được toàn bộ lâu đài và biến nó thành đồn binh của mình.
9. Khẩu pháo giả khiến kẻ địch bỏ cuộc
Khẩu pháo giả
Pháo giả (quaker gun) là những đoạn thân cây hoặc các vật liệu tương tự
khác được sơn đen và làm cho giống như khẩu pháo thật. Được đặt theo tên
của Hiệp hội Bạn hữu (Society of Friends) hoặc Quakers, những khẩu pháo
giả đã được dùng trong nhiều cuộc chiến tranh để đe dọa hay đánh lừa kẻ
thù. Một ví dụ hiếm hoi khi một khẩu pháo giả thực sự buộc quân địch
đầu hàng diễn ra trong chiến dịch của Đại tá William Washington ở Nam
Carolina vào ngày 4/12/1780.
Viên đại tá mà tình cờ cũng là người em họ thứ hai của của George
Washington đã phát hiện được 115 lính thuộc phe thân Anh ẩn náu trong
một nhà kho kiên cố. Nhanh trí, Washington đã bí mật sơn một thân cây
thông cho giống như một khẩu pháo và đe dọa sẽ khai hỏa nếu những kẻ cố
thù không quy hàng. Nỗ lực của ông đã được đền đáp bằng sự đầu hàng vô
điều kiện của Đại tá Rowland Rugeley và toàn bộ quân lính dưới quyền của
ông. Thật đau lòng khi những người lính bị đánh bại sau đó phát hiện ra
là khẩu pháo đó là đồ giả.
8. “Hải quân” rởm của Benedict Arnold cản bước cuộc xâm lược của quân Anh
Trước khi Benedict Arnold được biết đến như một trong những kẻ phản bội
nổi tiếng nhất trong lịch sử, ông là một vị tướng Mỹ tháo vát và tỏ ra
là đối thủ đáng gờm của quân Anh vũ trang tốt. Ông đã bộc lộ sự khéo léo
đặc biệt của mình trong trận chiến quan trọng đảo Valcour vào tháng
10/1776. Tại hồ Champlain, lực lượng hải quân hỗn tạp với 15 tàu của
Arnold đã chạm trán một hạm đội hùng mạnh 25 tàu của Anh. Điều dễ dự
đoán là hạm đội Anh đã dễ dàng đánh tan các con tàu của Arnold và buộc
Arnold phải rút lui.
Mặc dù quân Anh đã giành được thắng lợi chiến thuật áp đảo, sau này nó
lại trở thành chiến thắng chiến lược của Arnold: Sự hiện diện đơn thuần
của các tàu Mỹ
đã thúc đẩy người Anh tốn khá nhiều thời gian để xây dựng hạm đội của
mình. Khi mà quân Anh hoàn thành các con tàu và giành chiến thắng, gần
như đã vào mùa đông, họ buộc phải rút trở về Canada và điều chỉnh thời
gian xâm chiếm New York sang năm sau. Điều này cho phép người Mỹ có đủ
thời gian chuẩn bị bố phòng và cuối cùng là đánh bại quân Anh ở Saratoga
vào năm 1777.
7. Viên sĩ quan SS một mình chiếm được Belgrade
Fritz Klingenberg (Bundesarchiv)
Tháng 4/1941, Fritz Klingenberg, một sĩ quan SS, tham gia cuộc thi đua với các đơn vị đột phá của quân đội
Đức nhằm chiếm giữ Belgrade. Trong cuộc đua của họ, Klingenberg tiến
đến sông Danube khi con sông dềnh nước lên bởi những cơn mưa liên miên.
Bất chấp nguy hiểm, Klingenberg và 10 lính dưới quyền vượt được qua con
sông bằng một chiếc xuồng máy cũ ọp ẹp. Sau đó, họ hành quân vào
Belgrade mà không gặp một chút kháng cự và trú quân tại đại sứ quán Đức.
Biết rằng các lực lượng Đức vẫn còn ở phía sau hàng dặm, Klingenberg đã
thử một kế đánh lừa: Anh ta nói với viên thị trưởng rằng, thành phố sẽ
bị máy bay
Đức oanh tạc ta nát nếu ông ta không chịu đầu hàng. Thật may là lời đe
dọa đã tỏ ra hiệu nghiệm, khiến viên thị trưởng vội vã giao nộp Belgrade
cho Klingenberg. Khi quân đội Đức cuối cùng đến được Belgrade, họ đã
tức giận khi biết Klingenberg không chỉ đánh bại họ khi đến thành phố
trước mà còn một tay chiếm giữ được thành phố. Chiến công xuất sắc của
Klingenberg được các đơn vị SS khác ca tụng hết lời và anh ta đã được
trao tặng huân chương Hiệp sĩ Chữ thập sắt vì thành tích này.
6. Chiến dịch Scherhorn
Trong chiến dịch kéo dài gần một năm thời Thế chiến II này, Liên Xô ép
buộc một số tù binh Đức, trong đó có cả Heinrich Scherhorn đóng giả một
bộ phận của 2.500 lính Đức bị mắc kẹt đằng sau các phòng tuyến của kẻ
thù ở Đông Âu. Giả mạo làm những người lính Đức, Hồng quân Liên Xô sau
đó đã liên lạc với đại bản doanh quân đội Đức ở Berlin và xin hàng tiếp
tế để giúp họ đột phá vòng vây trở về. Tất nhiên, đây chỉ là một trò
đánh lừa để đoạt lấy nguồn lực quý giá của Đức và nó đã có hiệu quả rất
cao: Từ tháng 8/1944 cho đến khi chiến tranh kết thúc, quân Đức liên tục
thả dù người và hàng tiếp tế hỗ trợ cho một đội quân không hề tồn tại.
Trong quá trình chiến dịch, Liên Xô đã thu được một lượng hàng tiếp tế
khá lớn cùng với khoảng 25 sĩ quan Đức mà sau đó cũng bị phía Liên Xô
buộc phải tiếp tục đánh lừa quân Đức. Quân Đức ở nhà không bao giờ phát
hiện ra trò đánh lừa; có lúc, lực lượng đặc nhiệm của Otto Skorzeny còn
được lệnh tiến hành một cuộc giải cứu cho đội quân Đức “trong vòng vây”.
Hitler cũng tin toàn bộ chuyện này nên thậm chí đã thăng cấp và khen
thưởng cho Scherhorn cùng các binh sĩ ma của ông ta.
5. Viên tướng miền nam hàng phục đội quân miền bắc
Viên tướng phe miền nam (trong nội chiến Mỹ) Nathan Bedford Forrest
không phải ngẫu nhiên được biết đến như là “Phù thủy trên yên ngựa”.
Không chỉ nổi tiếng vì vai trò trong vụ thảm sát đẫm máu quân đội Liên
bang miền bắc bại trận ở Fort Pillow, Forrest còn có tiếng là một kỵ sỹ
cực kỳ sáng tạo, liên tục qua mặt các đối thủ của mình. Một ví dụ hoàn
hảo về mưu trí quân sự của ông thể hiện trong cuộc tấn công tai hại vào
Alabama của quân liên bang miền bắc vào tháng 4/1863.
Với một lực lượng 1.700 người do Đại tá Streight Abel phe Liên bang miền
bắc chỉ huy, được gọi là Kỵ binh Jackass (đội quân này có tên như vậy
là vì các binh lính cưỡi la) hy vọng sẽ phá hủy được tuyến đường sắt địa
phương vốn dùng để tiếp tế cho các lực lượng Liên minh miền nam ở
Tennessee. Với một lực lượng chỉ có 500 người, Forrest theo dõi và quấy
rối những kẻ tấn công phe miền bắc khiến họ cuối cùng phải rút về thị trấn nhỏ Cedar Bluff.
Forrest gặp Streight bị dồn vào đường cùng và yêu cầu ông ta đầu hàng vô
điều kiện. Để thuyết phục viên sĩ quan phe miền bắc rằng, ông đang có
sẵn một lực lượng lớn lâm trận, Forrest ngầm ra lệnh cho quân lính của
mình và các khẩu pháo diễu qua diễu lại nhiều lần trên một sườn núi lân
cận. Nhìn thấy lính phe miền nam đông lúc nhúc, Streight cứng đầu cuối
cùng đành nhượng bộ và ra lệnh cho quân mình đầu hàng. Sau khi nhận ra
thủ đoạn gian trá của Forrest, Streight đòi Forrest thả binh lính của
ông để họ có thể có một trận chiến đàng hoàng nhưng bị viên tướng phe
miền nam bác bỏ.
4. Baden-Powell đánh lừa quân Boer
Bên cạnh tính cách lập dị của mình và vai trò trong việc thành lập Hướng
đạo sinh, Robert Baden-Powell còn nổi tiếng nhờ bảo vệ thành công thành
phố Mafeking ở Nam Phi trong cuộc chiến tranh Boer lần thứ hai. Với một
lực lượng chỉ 1.500 người, Baden-Powell thấy cần sử dụng chiến thuật
nghi binh để đối phó lực lượng Boer hùng mạnh với 8.000 quân vây hãm
thành phố. Vì vậy, ông đã nghi binh bằng cách cài những quả mìn giả và
chăng thứ dây thép gai giả trong toàn thành phố và cho quân của mình giả
đò vượt qua chúng như thể chúng là mìn và dây thép gai thật trước sự
quan sát chăm chú của kẻ thù.
Baden-Powell thậm chí còn giả mạo một lá thư nói rằng, quân tiếp viện
Anh đang tới (thực ra không có), mà sau đó ông đã cố tình “thua” quân
Boer, buộc họ phải rút bớt 1.000 quân để bảo vệ phía sau lưng của họ.
Những hành động tâm lý chiến hiệu quả này đã giúp Baden-Powell đứng vững
trong 7 tháng cho đến khi quân tiếp viện đến. Sau khi trở về nhà,
Baden-Powell đã trở thành một anh hùng dân tộc và nhận được vô số khen
thưởng.
3. Haile Selassie khuất phục đối thủ bằng tiệc và rượu
Ras Tafari Makonnen Woldemikael (được biết đến nhiều hơn với tên Haile
Selassie I, vua Ethiopia [1930-1974]) đã chứng minh rằng, ông có sự khôn
ngoan cần thiết để sống sót trong thế giới chính trị. Đối mặt với một
đối thủ mạnh là thái giám Balcha Safo, Selassie sử dụng một kế lừa cổ
điển ghi danh trong lịch sử. Năm 1928, ông đã mời thống đốc Balcha, hồi
đó là thống đốc một tỉnh, đến cung điện của mình để ông mở tiệc chiêu
đãi. Balcha vốn cũng là một chiến binh đáng gờm, từng chiến đấu chống
lại người Italia trong trận Adwa năm 1896, đã tới thủ đô và đóng 10.000
quân bên ngoài thành phố .
Không tin tưởng Selassie, Balcha cũng đem theo 600 lính thiện chiến nhất
đến dự tiệc. Selassie vào vai một chủ nhà hoàn hảo và không ngớt lời ca
tụng Balcha. Cuối cùng, các tùy tùng của Balcha bắt đầu lơ là cảnh giác
và uống rượu rất nhiều. Sau bữa tiệc, Balcha cùng tùy tùng trở về trại
của họ ở ngoài kinh đô, nhưng thấy không còn ai ở đó.
Trong khi họ còn tiệc tùng trong cung điện, một người của Selassie
đã đến trại của Balcha và mua chuộc quân lính của Balcha hạ vũ khí và
biến mất. Mặc dù sau đó Balcha trốn thoát vào một nhà thờ, ông đã nhanh
chóng thấy mình bị bao vây với quân lính của Selassie. Không còn lựa
chọn nào khác, Balcha đầu hàng và chấp nhận ở lại trong một tu viện cho
đến hết đời.
2. Không thành kế của Tokugawa
Không thành kế là một kế phòng thủ nghi binh nhằm lừa địch tin rằng,
đang có một bẫy phục kích chờ chúng tại một khu vực hiểm yếu khiến kẻ
địch sợ hãi mà rút lui. Mặc dù kế này đã được nói đến rất nhiều trong
các tiểu thuyết như Tam Quốc diễn nghĩa, một trường hợp khác vận dụng
của kế này được ghi chép rõ là trận Mikatagahara vào tháng 10/1572.
Trong trận đánh đặc biệt này, Takeda Shingen và quân đội đông hơn hẳn về
quân số đã dễ dàng đánh bại lực lượng nhỏ hơn nhiều của Tokugawa
Ieyasu.
Để tránh cho toàn quân bị tiêu diệt, Tokugawa đã ra lệnh rút lui trở lại
lâu đài của họ. Dọc đường rút, ông hạ lệnh thắp các ngọn đuốc dọc theo
các tuyến đường và mở tung các cổng. Để cú lừa hiệu quả hơn, một tướng
của ông cũng còn thúc một chiếc trống đại trên đỉnh một cái tháp ở gần
cổng. Thật khó tin là kế nghi binh của Tokugawa đã thành công: Takeda và
quân đội của mình, khi nhìn thấy toàn bộ cảnh tượng, đã quyết định
không tiến vào lâu đài mà thay vào đó là quyết định đóng trại để qua
đêm. Khi màn đêm buông xuống, một lực lượng nhỏ từ lâu đài đã đánh vào
trại và đốt phá, buộc Takeda và quân lính phải rút chạy.
1. Hai nguyên soái của Napoleon tình cờ chiếm được cây cầu chiến lược
Trong trận Schongrabern vào tháng 11/1805, khi quân Pháp chuyển sang tấn công quân Áo và Nga,
hai sĩ quan kiêu dũng nhất của Napoleon đã chiếm được một cây cầu trọng
yếu từ tay quân Áo mà không cần một phát súng. Các nguyên soái Pháp
Jean Lannes và Joachim Murat thấy là họ cần chiếm được cây cầu được canh
gác cẩn mật để vượt sông Danube. Biết rằng, cả cây cầu đã bị quân Áo
lắp đầy bom, họ quyết định dùng kế lừa để chiếm cầu thay vì bằng vũ lực.
Chỉ với một toán quân nhỏ, hai nguyên soái Pháp thờ ơ tản bộ trên cầu
trước cái nhìn đầy bối rối của quân Áo. Không lúng túng vì những phát
đạn thỉnh thoảng bắn về phía họ, mấy lính Pháp to tiếng la với quân địch
ở bên kia sông là giờ đã có lệnh đình chiến và cây cầu sẽ được giao lại
cho quân Pháp.
Khi một lính Áo toan phá nổ cầu, nguyên soái Lannes mắng mỏ anh ta
rằng làm thế sẽ là tội nặng. Lúc đó, viên tướng Áo được giao nhiệm vụ
bảo vệ cây cầu ra mặt gặp các nguyên soái Pháp. Bất chấp mọi lời can
gián của cấp dưới rằng đây là trò lừa đảo của quân Pháp, viên tướng vẫn
hạ lệnh cho quân lính của mình rút khỏi cây cầu. Kế trá ngụy đã chiến
thắng.
Theo VND
(ĐC sưu tầm trên NET) Oscar Là Ai? Câu Chuyện Về Cuộc Đời Bi Kịch Của “Thiên Tài Bị Xã Hội Vùi Dập” Ít ai biết rằng, giải thưởng danh giá của làng điện ảnh – Oscar - được lấy theo tên của nhà văn nổi tiếng Oscar Wilde. Năm 1854, khi rửa tội cho con trai thứ hai nhà Wilde, Đức cha Prideaux Fox không hề biết rằng cậu bé này rồi sẽ là “thiên tài bất thường” của Ireland. Về sau, Oscar Wilde đã trở thành một trong những nhân vật đặc biệt nổi bật của giới văn chương, người luôn ở giữa tôn vinh và hạ nhục, giữa cái đẹp và sự tăm tối, giữa sa hoa và khốn cùng. Không nhiều người có thể trả lời câu hỏi: " Oscar là ai?" Quang Thạch | 01/03/2016 10:07 7 Theo một video phỏng vấn ngay trước thềm Oscar 2016, các diễn viên tới dự giải Oscar cũng không thể trả lời câ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Thời sự quốc tế sáng 10/5/2018 TIN TỨC VIỆT NAM MỚI NHẤT TRONG NGÀY 10/5/2018 60 Giây Chiều - Ngày 09/05/2018 - Tin Tức Mới Nhất An ninh ngày mới ngày 09.05.2018 - Tin tức cập nhật TRỰC TIẾP THỜI SỰ BIỂN ĐÔNG 10/05 Cận cảnh Tàu Việt Nam trong diễn tập Komodo 2018 Hai Chị Em - Trung Hậu và Thuỵ Vân Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan" (TTXVN/Vietnam+) 09/05/2018 21:06 GMT+7 Bản in Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN) Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một ...
(ĐC sưu tầm trên NET) Giang hồ Sài Gòn trước 1975: Trùm du đãng Mã Thầu Dậu Mã Thầu Dậu nhận tất cả đơn đặt hàng giải quyết ân oán trong đời thường và trong làm ăn. "Tiền nào của ấy" nên mỗi dịch vụ đều có mức giá khác nhau. Trùm du đãng một vùng rộng lớn không hành xử như đám du đãng cắc ké. Chợ Lớn có trùm du đãng ba Tàu Mã Thầu Dậu (Con ngựa đầu gà) nổi tiếng với vai trò đâm thuê chém mướn. Trùm bảo kê Mã Thầu Dậu xuất thân từ một đứa bé con nhà người Hoa gốc Quảng Đông nghèo. Tuổi thơ Mã Thầu Dậu trải qua nhiều cơ cực, từ bửa củi thuê, bưng cà phê, bưng hủ tiếu đến cả rửa chén bát thuê. Mã Thầu Dậu khởi nghiệp trùm du đãng khét tiếng trên hè phố La Kai (đường Nguyễn Tri Phương, quận 5 ngày nay). Hắn nổi danh nhờ những vụ trừ khử đám du thủ du thực cho các chủ tiệm buôn giàu có người Hoa và dần đi theo con đường đâm thuê chém mướn chuyên nghiệp. Khu vực chợ Lớn xưa Băng du đãng Mã Thầu Dậu h...
Nhận xét
Đăng nhận xét