Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 43
Một số tướng lĩnh xuất sắc của Hai Bà Trưng
VietnamDefence -
“Trưng Trắc, Trưng Nhị là đàn
bà, hô một tiếng mà các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành
ở Lĩnh Ngoại đều nhất tề hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như
trở bàn tay. Xem thế cũng đủ biết hình thế đất Việt ta đủ để có thể dựng
được nghiệp bá vương..." - Lời bàn của Bảng nhãn Lê Văn Hưu. (Đại Việt
sử ký toàn thư; Ngoại kỷ, quyển 3, tờ 3-a).
TIỂU DẪN:
Ai đó đã nói rất đúng rằng, người tài nhất chính là người có khả năng khơi dậy và sử dụng được tất cả tài năng của những người khác. Nếu lấy câu này làm tiêu chí để xét thì quả thật trong những năm đầu Công nguyên, Hai Bà Trưng chính là những người tài giỏi nhất. Hai Bà Trưng và các vị tướng lĩnh từng sát cánh chiến đấu đầy hiệu quả bên cạnh Hai Bà. Dưới đây, xin trân trọng giới thiệu một số tướng lĩnh xuất sắc của Hai Bà Trưng sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Việt hiện đại.
DANH SÁCH CÁC BẬC NỮ TƯỚNG CỦA HAI BÀ TRƯNG |
Dưới đây là danh
sách hơn 70 nữ tướng mà theo lời kể của truyền thuyết dân gian và ghi
chép của một số thần tích thì đều là những người đã từng sát cánh chiến
đấu dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng. Để có danh sách mang ý nghĩa tổng hợp
bước đầu này, ngoài kết quả nghiên cứu riêng của mình, chúng tôi cũng
đã trân trọng đối chiếu với kết quả khảo sát của rất nhiều cá nhân, cơ
quan và đơn vị khác. Như đã trình bày ở trên, họ tên và tước hiệu của
một số nữ tướng chỉ có giá trị để tham khảo thêm chứ không phải mọi
thông tin đều đã thực sự chuẩn xác. Tên của tất cả các vị nữ tướng trong
danh sách do chúng tôi tổng hợp được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái
của tiếng Việt hiện đại.
1. Ả Huyền 2. Ả Chàng (Lê Ngọc Trinh) 3. Ả Lan 4. A Lã Nàng Dê 5. Ả Lự Đề Nương 6. Ả Long Nương 7. Ả Nang 8. Ả Nương 9. Bà Bỉ 10. Bà Bạo 11. Bà Dưỡng 12. Bà Liệt 13. Bát Nàn Công chúa 14. Bình Phu nhân Nguyễn Thị 15. Cao Liên Nương 16. Cung Cai Đại Vương Hoàng hậu 17. Diệu Tiên Phu nhân 18. Đại Liệu 19. Đạm Nương 20. Đàm Ngọc Nga 21. Đào Phương Dung Công chúa 22. Đinh Bạch Nương 23. Đinh Tiết Nương 24. Đỗ Thị Dung 25. Đức Bà Y 26. Hồ Hác 27. Hồ Đề ( Đào Nương Công chúa ) 28. Hồng Nương 29. Hồng Thiên Bảo 30. Hoàng Ả Các 31. Hoàng Phu nhân Đào Thị 32. Hoàng Tư Cực Nương Công chúa 33. Lê Chân Công chúa 34. Lê Thị Hoa 35. Loan Hoàng 36. Nàng A 37. Nàng Nội 38. Nàng Nước 39. Nàng Quế 40. Nàng Quỳnh 41. Nàng Tía 42. Ngọc Loan Công chúa 43. Ngọc Quang Công chúa 44. Ngọc Trân Đào Hoa 45. Nguyễn Đào Nương 46. Nguyên Nga Phương Dung Công chúa 47. Nguyệt Hoa Công chúa 48. Nguyệt Đê 49. Nguyệt Nga Công chúa (Trần Thị Nga) 50. Nguyệt Thai 51. Nha Tam Nương Công chúa 52. Phật Nguyệt Công chúa 53. Phạm Nguyệt Nga Công chúa 54. Phương Anh Phu nhân 55. Phùng Ả Tú 56. Quách A 57. Quốc Nương 58. Quý Loan 59. Sa Lăng 60. Tạ Thị Tần 61. Tạ Vĩnh Gia 62. Thanh Nương 63. Thánh Thiên Công chúa 64. Thiều Hoa Công chúa 65. Thương Cát 66. Thu Liên 67. Thục Tôn Công chúa 68. Tứ Hồng Nương 69. Trần Nang 70. Trần Thị Nguyệt 71. Trương Phương Dung Công chúa 72. Vĩnh Hoa 73. Vĩnh Huy Công chúa 74. Xà Nương Công chúa 75. Xuân Nương |
Ngọc Trinh cũng tức là Lê Ngọc Trinh hay Ả Chàng. Hai
tên gọi đầu có lẽ là do người đời sau kính cẩn đặt cho, chứ tên gọi phổ
biến nhất vẫn là Ả Chàng. Theo thần tích ở đền Lũng Ngoại
(tức đền Lũng Ngòi, nay thuộc xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh
Phúc) thì Ả Chàng là em ruột của Ả Chạ (còn có tên khác là Ngọc Thanh).
Hai chị em cùng nổi tiếng xinh đẹp và khoẻ mạnh.
Cha mẹ chẳng may nối nhau qua đời sớm, Ả Chạ vì có
nhan sắc hơn người nên bị quan đô hộ ở địa phương bắt về làm thiếp và
sau đó chưa được bao lâu thì mất, Ả Chàng tức giận, tập hợp lực lượng để
chống quan lại nhà Hậu Hán. Binh sĩ Tô Định hễ đi qua khu vực Lũng
Ngoại thì thế nào cũng sẽ bị Ả Chàng bất ngờ tấn công. Giặc phải bao
phen thất trận, lòng rất oán ức nhưng chưa biết đối phó bằng cách nào.
Khi được tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa ở Hát
Môn, Ả Chàng liền đem quân theo về. Nhờ lập được nhiều công lao nên sau
khi dẹp yên Tô Định, Ả Chàng được Trưng Nữ Vương phong làm Công chúa,
chức Đại tướng. Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Ả Chàng đã chỉ huy
cuộc chiến đấu rất dũng cảm tại Gò May (nay cũng thuộc xã Lũng Hoà,
huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc).
Tương truyền, có lần đang hăng hái xông trận thì
thanh gươm bị rơi, Ả Chàng liền cởi ngay dải thắt lưng, cột đá vào một
đầu để làm vũ khí, vung lên đánh cho cả đám giặc đông phải hoảng sợ mà
bỏ chạy tán loạn. Nhưng rồi sức tàn lực kiệt, Ả Chàng đành phải nhảy
xuống đầm sen lớn ở Gò May mà tuẫn tiết. Năm đó Ả Chàng 20 tuổi. Nhân
dân địa phương đã cùng nhau tôn tập đền thờ Ả Chàng tại Lũng Ngoại như
đã nói ở trên.
2. Ả Nang Công Chúa và chồng là Hùng Bảo Hộ Quốc Công
Ả Nang cũng tức là Trần Nang. Đầu Công nguyên, do
quan đô hộ của nhà Hậu Hán là Tô Định quá tham lam và tàn ác nên ai ai
cũng đều oán hận. Nhiều cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, trong đó, lớn mạnh
nhất là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng. Theo thần tích ở đền Tuyền Liệt (nay
thuộc huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc) thì lúc bấy giờ, Ả Nang đã cùng
chồng là Hùng Bảo tập hợp được trên 200 người và chia làm 2 đội quân,
tình nguyện chiến đấu dưới ngọn cờ của Hai Bà Trưng.
Sau khi đánh đuổi được Tô Định, Trưng Nữ Vương phong cho Hùng Bảo làm Hộ Quốc công còn Ả Nang được phong làm Công chúa. Hai người cùng nhau về lại đất Tuyền Liệt và tổ chức khai hoang mở mang điền sản. Lúc Mã Viện đem quân sang đàn áp, cả hai vợ chồng Hùng Bảo và Ả Nang đã nhận lệnh Trưng Nữ Vương, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn, gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề. Nhưng sau khi Trưng Nữ Vương thua trận ở Lãng Bạc, Hùng Bảo và Ả Nang cũng phải chịu thất bại. Hai vợ chồng đã anh dũng hy sinh ở khu vực cách Tuyền Liệt không xa lắm.
Sau khi đánh đuổi được Tô Định, Trưng Nữ Vương phong cho Hùng Bảo làm Hộ Quốc công còn Ả Nang được phong làm Công chúa. Hai người cùng nhau về lại đất Tuyền Liệt và tổ chức khai hoang mở mang điền sản. Lúc Mã Viện đem quân sang đàn áp, cả hai vợ chồng Hùng Bảo và Ả Nang đã nhận lệnh Trưng Nữ Vương, trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh lớn, gây cho giặc nhiều tổn thất nặng nề. Nhưng sau khi Trưng Nữ Vương thua trận ở Lãng Bạc, Hùng Bảo và Ả Nang cũng phải chịu thất bại. Hai vợ chồng đã anh dũng hy sinh ở khu vực cách Tuyền Liệt không xa lắm.
3. Bát Nàn Công chúa
Theo truyền thuyết dân gian vùng Phú Thọ thì Bát Nàn
còn có tên khác là Thục Nương (Truyền thuyết nói Bát Nàn có họ và tên
đầy đủ là Vũ Thị Thục, nhưng điều này chắc là do người đời sau tự ý
thêm vào chứ ở đầu Công nguyên, người Việt chưa có họ), người trang
Phượng Lâu, nay là xã Phượng Lâu, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Theo thần tích xã Phượng Lâu thì
Bát Nàn là người nổi tiếng nết na và xinh đẹp. Lớn lên, Bà được gia
đình hứa gả cho một chàng trai người cùng trang Phượng Lâu.
Thái Thú Tô Định nghe tiếng Bà, bèn sai người tới hỏi
Bà làm thiếp. Bị từ chối, Tô Đinh liền bí mật giết chết cha Bà và sai
quân đến tận trang Phượng Lâu để bắt Bà về cho mình. Vì quá uất ức, Bát
Nàn đã chém chết khá nhiều quân sĩ của Tô Định rồi chạy về trang Tiên La
(nay cũng thuộc huyện Phong Châu). Ở đấy, nhờ được sự ủng hộ của nhân
dân nên Bát Nàn đã tổ chức lực lượng vùng dậy chống ách đô hộ của nhà
Hậu Hán.
Năm 40, khi vừa phát động khởi nghĩa, nghe tin Bát
Nàn cũng là người cùng chí hướng với mình lại đang có sẵn lực lượng
trong tay. Hai Bà Trưng liền cho người tới mời hợp sức. Bát Nàn đã đồng ý
và kể từ đó, Bà đã từng trải bao phen trực tiếp cầm quân tả xung hữu
đột, đánh cho quân đô hộ Hậu Hán thất điên bát đảo. Nhờ có công lớn, Bà
được Trưng Nữ Vương phong Công chúa, chức Đại tướng và được trao quyền
chỉ huy quân tiên phong đóng tại trang Tiên La. Khi Mã Viện đem quân
sang đàn áp, Bát Nàn đã chiến đấu rất anh dũng. gây cho địch những tổn
thất rất lớn, nhưng rồi vì thua kém cả về thế lẫn lực. Bát Nàn đã buộc
phải thua trận và tuẫn tiết ngay tại trang Tiên La.
4. Đào Nương Công Chúa
Đào Nương Công chúa, tức Đề Nương Công chúa hay Hồ
Đề, người trang Đông Cao (nay thuộc xã Đông Cao, huyện Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc), sau di cư đến động Lão Mai (nay cũng thuộc huyện Mê Linh).
Theo thần tích ở trang Đông Cao thì Đào Nương
là người nổi tiếng xinh đẹp và võ nghệ cao cường, chưa đầy 20 tuổi đã có
thể thuần phục được lũ ngựa bất kham và bắt sống được cả voi trắng chéo
ngà rất hung dữ ở động Lão Mai.
Nhân lòng oán giận của nhân dân đối với chính quyền
đô hộ nhà Hậu Hán, lại thù Tô Định đã giết hại cha mình, Đào Nương đã
rời trang Đông Cao đến cư ngụ ở động Lão Mai. Tại đây, được nhân dân
động Lão Mai và các vùng lân cận hết lòng ủng hộ, Đào Nương đã tập hợp
lực lượng để cùng nhau đánh đuổi quân đô hộ. Nghĩa quân Đào Nương từng
đánh cho Tô Định nhiều trận hiểm hóc, khiến cho Tô Định rất căm tức.
Đến năm 40, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng. Đào Nương đã đem quân theo về. Nhờ giàu tài năng và lòng dũng cảm hiếm thấy, Đào Nương được Trưng Nữ Vương phong làm Đào Nương Công chúa và trao chức Phó Nguyên soái. Sau khi Trưng Nữ Vương qua đời, Đào Nương Công chúa vẫn còn tiếp tục cầm quân chiến đấu thêm một thời gian nữa. Một hôm. Đào Nương Công chúa bí mật về thăm mộ Trưng Nữ Vương, chẳng ngờ bị Mã Viện phát hiện và truy đuổi ráo riết. Đào Nương Công chúa phóng ngựa chạy mãi đến sông Nguyệt Đức (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) rồi tuẫn tiết ở đó.
Đến năm 40, hưởng ứng lời kêu gọi của Hai Bà Trưng. Đào Nương đã đem quân theo về. Nhờ giàu tài năng và lòng dũng cảm hiếm thấy, Đào Nương được Trưng Nữ Vương phong làm Đào Nương Công chúa và trao chức Phó Nguyên soái. Sau khi Trưng Nữ Vương qua đời, Đào Nương Công chúa vẫn còn tiếp tục cầm quân chiến đấu thêm một thời gian nữa. Một hôm. Đào Nương Công chúa bí mật về thăm mộ Trưng Nữ Vương, chẳng ngờ bị Mã Viện phát hiện và truy đuổi ráo riết. Đào Nương Công chúa phóng ngựa chạy mãi đến sông Nguyệt Đức (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) rồi tuẫn tiết ở đó.
5. Lê Chân Công chúa
Theo ghi chép của thần tích đền Nghè ở An Biên (nay
thuộc quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng) thì Lê Chân vốn quê ở vùng nay
thuộc huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Cha mẹ bị Tô Định hãm hại nên
Lê Chân đã phái uất hận bỏ xứ mà đến đất An Biên. Chính Lê Chân là người
đã đứng ra tổ chức khai hoang và lập ra làng này vào năm Bà mới 19
tuổi.
Nữ tướng Lê Chân |
Cũng tại An Biên, Lê Chân đã lập ra đội dân binh gồm
đủ cả nam lẫn nữ. Ngoài nhiệm vụ bảo vệ cho dân làng, đội dân binh An
Biên còn chủ động tổ chức những trận tấn công rất bất ngờ vào lực lượng
quân đô hộ. Tô Định rất tức tối nhưng cũng tỏ ra rất lúng túng trong kế
sách đối phó. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lê Chân đã đem toàn bộ quân
sĩ của mình theo về. Năm ấy, Bà mới 22 tuổi. Quân giặc rất sợ tài thao
lược của Bà, chúng gọi Bà là Đông Hải Kình Ngư (con cá kình của biển
Đông). Lê Chân là một trong những nữ tướng xuất sắc của Hai Bà Trưng,
được Trưng Nữ Vương phong làm Lê Chân Công chúa. Và cũng như hầu hết các
tướng lĩnh khác của Hai Bà Trưng, Lê Chân Công chúa đã anh dũng hy sinh
trong khi đang chiến đấu chống cuộc đàn áp tàn khốc của Mã Viện.
6. Lê Thị Hoa
6. Lê Thị Hoa
Một lần nữa, họ và tên đầy đủ của vị nữ tướng này có
lẽ là do hậu thế (những người soạn thảo thần tích) đã tự ý thêm vào.
Theo ghi chép của thần tích đền Thượng Linh (huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định) thì Lê Thị Hoa sinh trưởng tại đây. Năm 19 tuổi,
Bà kết hôn với một chàng thanh niên cùng quê, nổi tiếng có tài, tên là
Mai Tiến. Sau 11 năm chung sống với Mai Tiến, Bà đã sinh hạ được tất cả 4
người con trai, dẫu vậy, nhan sắc của Bà vẫn rất mặn mòi. Tô Định biết
được liền gọi chồng Bà ra tận Gia Lâm trao cho chức quan để dễ bề chiếm
đoạt Bà. Không thể từ chối được, Mai Tiến buộc phải đi nhận chức, nhưng
ra đến nơi thì bị Tô Định lập mưu đẩy vào chỗ phải phạm tội rồi bị giết.
Lê Thị Hoa liền dẫn cả 4 người con vào trú ngụ ở khu vực nay là thôn
Ngũ Kiện, xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tại đây, Bà đã ra
sức tổ chức khẩn hoang lập làng và không ngừng chiêu mộ lực lượng để
chờ cơ hội trả thù cho chồng.
Khi Bà đang tổ chức khẩn hoang tại khu vực nay thuộc
Nga Sơn thì ở Hát Môn, Hai Bà Trưng cũng chính thức phát động khởi
nghĩa. Cơ hội trả thù cho chồng đã đến, Bà liễn đem toàn bộ lực lượng
của mình gồm trên 2000 người ra Bắc hăng hái tham gia. Sau khi đánh đuổi
được Tô Định, Bà từ chối mọi hình thức khen thưởng của Trưng Nữ Vương,
chỉ xin trở lại với vùng Nga Sơn để tiếp tục tổ chức khẩn hoang.
Năm 43, Mã Viện đem đại binh sang đàn áp. Một lần nữa, Bà lại đem lực lượng của mình ra chống trả rất quyết liệt. Nhưng, bức thành nhỏ chẳng thể nào ngăn nổi cơn bão lớn, nghĩa binh của Bà đã phải chịu thất bại và Bà đã anh dũng hy sinh tại Nga Sơn - quê hương thứ hai của mình. Hiện nay, ở xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn còn có đền thờ Bà với đôi câu đối phản ánh rất rõ lý tưởng của Bà:
Năm 43, Mã Viện đem đại binh sang đàn áp. Một lần nữa, Bà lại đem lực lượng của mình ra chống trả rất quyết liệt. Nhưng, bức thành nhỏ chẳng thể nào ngăn nổi cơn bão lớn, nghĩa binh của Bà đã phải chịu thất bại và Bà đã anh dũng hy sinh tại Nga Sơn - quê hương thứ hai của mình. Hiện nay, ở xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn còn có đền thờ Bà với đôi câu đối phản ánh rất rõ lý tưởng của Bà:
Thệ báo Tô cừu, thanh Bắc khấu.
Nghĩa phù Trưng chủ, phục Nam bang.
Nghĩa phù Trưng chủ, phục Nam bang.
Nghĩa là:
Thề trả mối thù với Tô Định, trừ khử giặc Bắc,
Giữ nghĩa phò Trưng Vương, khôi phục nước Nam.
Giữ nghĩa phò Trưng Vương, khôi phục nước Nam.
7. Nái Sơn (hay An Bình Công chúa)
Theo thần tích đền Liễn Sơn (nay
thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) thì Nái Sơn còn có tên khác là
nàng Quý Loan. Nàng vốn quê ở khu vực nay thuộc huyện Chí Linh (tỉnh Hải
Dương), sau mới di cư đến trang Tinh Luyện (nay thuộc huyện Lập Thạch,
tỉnh Vĩnh Phúc). Nái Sơn nổi tiếng xinh đẹp, nết na, hiểu biết nhiều và
rất khoẻ mạnh, lại giỏi võ nghệ.
Nghe tin Hai Bà Trưng đang chiêu mộ lực lượng để
chuẩn bị khởi nghĩa đánh đuổi quân đô hộ nhà Hậu Hán, Nái Sơn đã hồ hởi
vượt đường xa dặm dài tìm đến Mê Linh. Tại đây, Nái Sơn dược Hai Bà
Trưng tiếp đãi rất ân cần và sau đó là kết nghĩa làm chị em. Hai Bà đã
giao cho Nái Sơn chiêu dụ các bậc hào kiệt và tuyển mộ quân sĩ. Tương
truyền Nái Sơn đã mời gọi dược 4 bậc hào kiệt và đã tuyển mộ được 500
nghĩa dũng. Trước khi khởi nghĩa, Hai Bà Trưng đã tin cậy trao cho Nái
Sơn chức Nội thị Tướng quân, ngày đêm hầu cận Hai Bà. Sau khi Tô Định bị
nghĩa quân ta đánh cho tan tác, chính Trưng Nữ Vương đã đứng ra tác hợp
cho Nái Sơn với Đinh Tướng quân nên vợ nên chồng, tình chị em kết nghĩa
nữa Nái Sơn với Trưng Nữ Vương vì thế mà càng trở nên sâu sắc. Bấy giờ,
Nái Sơn được Trưng Nữ Vương phong làm An Bình Công chúa.
Lúc Mã Viện đem quân tới đàn áp, Nái Sơn đã sát cánh
chiến đấu bên cạnh Trưng Nữ Vương ở Lãng Bạc rồi ở Cấm Khê và tương
truyền, Nái Sơn là người đã chôn cất Trưng Nữ Vương trước khi đến lượt
mình tuẫn tiết vì nước. Đến thờ Nái Sơn được dựng lên ở hầu khắp các địa
phương Nái Sơn từng sống và chiến đấu.
8. Nàng A (hay Khâu Ni Công chúa)
Trong số các tướng lĩnh của Hai Bà Trưng, có một nữ
tướng rất đặc biệt, đó là Nàng A - vị nữ tướng vốn xuất thân là một nhà
tu hành theo Phật giáo. Theo thần tích ở đền Nhật Chiêu (nay
thuộc huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc) thì Nàng A vốn là một cô gái xinh đẹp
và rất chịu thương chịu khó (theo tờ thần tích này, Nàng A cũng có khi
được chép là Quách A).
Bấy giờ, bọn tay sai nhà Hậu Hán định bắt Nàng A dâng
nạp cho quan đô hộ để lấy thưởng, Nàng A đành bỏ làng vào núi để tu,
cũng là để tạm lánh bọn ác quỷ. Từ đó, Nàng A có đạo hiệu là Ni cô Khâu
Ni. Nơi Ni cô Khâu Ni tu hành nay chính là chùa Huyền Cổ. Vào thời ấy,
quân đô hộ thi nhau ức hiếp dân lành, chúng tàn ác chưa từng thấy, người
người đều oán giận, đến cả bậc tu hành từ bi như Khâu Ni cũng không thể
nào chịu đựng nổi. Khâu Ni liền bí mật tập hợp những người giàu lòng
yêu nước và quyết tâm giết giặc để sẵn sàng chờ cơ hội vùng lên.
Được tin Hai Bà Trưng cũng đang ráo riết chuẩn bị lực
lượng cho một cuộc khởi nghĩa lớn, Khâu Ni lập tức đem toàn bộ lực
lượng của mình về ra mắt Hai Bà. Hai Bà Trưng rất vui mừng, liền phong
cho Khâu Ni làm Tả tướng. Và chính Tả tướng Khâu Ni là một trong những
vị tướng có công rất lớn trong trận đánh quyết định vào thành Luy Lâu
(Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), khiến cho tướng giặc là Tô Định bị đại
bại, phải vất bỏ ấn tín, cạo râu, cạo tóc mà tháo chạy về Trung Quốc.
Nhờ công lao này, Nàng được Trưng Nữ Vương phong làm Khâu Ni Công chúa
và cho được cai quản vùng đất nay tương ứng với Yên Lạc (Vĩnh Phúc).
Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạng và ân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.
Nhưng sau ngày đại thắng chưa được bao lâu thì Khâu Ni Công chúa đã lâm bệnh rồi qua đời. Để khắc ghi công trạng và ân đức của Khâu Ni Công chúa, nhân dân ở nhiều địa phương nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc đã lập đền thờ Bà.
9. Nàng Nội (hay Bạch Hạc Thuỷ Công chúa)
Theo thần tích đền Minh Nông (còn
gọi là đền Kẻ Lú), xã Minh Phương, huyện Hạc Trì (nay thuộc thành phố
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) thì Nàng Nội là cháu gọi Thi Sách (chồng của
Trưng Trắc) bàng chú ruột. Vì căm giận ách thống trị tàn bạo của quân đô
hộ nhà Hậu Hán, thân sinh của Nàng Nội và Thi Sách dự tính sẽ tổ chức
nhân dân nổi dậy đấu tranh, nhưng vì kế hoạch bị bại lộ nên cả hai anh
em đều bị Tô Định giết hại. Để tránh sự trả thù, hai mẹ con Nàng Nội
buộc phải tạm lánh sang phía hữu ngạn sông Hồng. Nhưng, đến đó chưa được
bao lâu thì thân mẫu của Nàng Nội cũng vì lo lắng và buồn rầu nên đã
qua đời.
Khi nghe tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa, Nàng
Nội đã hăm hở xin theo. Nhờ dũng cảm, mưu trí và có tài tổ chức. Nàng
Nội nhanh chóng được Hai Bà Trưng tin cậy, giao cho chỉ huy một lực
lượng khá lớn. Binh lính dưới quyền chỉ huy của Nàng Nội đã đánh thắng
giặc nhiều trận lớn ngay tại quê hương của mình, khiến chúng phải kính
nể gọi Nàng Nội là "Nữ thần Bạch Hạc”. Dưới thời Trưng Nữ
Vương, Nàng Nội được phong làm Nhập Nội Bạch Hạc Thuỷ Công chúa và được
Trưng Nữ Vương tin cậy giao phó nhiều trọng trách khác nhau trong triều
đình. Truyền thuyết vùng Bạch Hạc kể rằng chính Nàng Nội đã có vinh dự
được cùng với Trưng Nhị chỉ huy việc xây dựng khá nhiều thành luỹ tại
khu vực Bạch Hạc.
Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Nàng Nội là tướng
chỉ huy quân đội của Trưng Nữ Vương ở khu vực Bạch Hạc. Bà đã chiến đấu
rất ngoan cường và gây cho giặc rất nhiều tổn thất nặng nề nhưng cuối
cùng cũng đành phải chịu thất bại. Bà đã anh dũng hy sinh tại Bạch Hạc
lúc tuổi đời mới vừa đôi mươi. Để mãi mãi tôn vinh và ghi nhớ công đức
to lớn của Bà, nhân dân địa phương đã cùng nhau lập đền thờ Bà tại Minh
Nông.
10. Nàng Nước (hay Trung Dũng Đại tướng quân)
Theo thần tích đền Hoàng Xá
(nay thuộc xã Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội) thì Nàng Nước là con của
một ni cô, thế danh là Đào Nương. Đào Nương vốn quê ở làng Kiệt Đặc (nay
thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Vì Đào Nương chẳng may mất ngay
khi Nàng Nước vừa mới chào đời, cho nên, Nàng Nước được một người phụ nữ
tốt bụng ở làng Hoàng Xá đem về nuôi dưỡng. Bà chính là người phụ nữ đã
tìm thày truyền dạy cho Nàng Nước tinh thần thượng võ và ý chí đánh
đuổi quân xâm lăng, giành lại độc lập cho đất nước. Khi Nàng Nước vừa
đến tuổi trưởng thành thì mẹ nuôi cũng qua đời. Bấy giờ, đất nước điêu
linh, dân tình khốn khổ, quân đô hộ nhà Hậu Hán thì tác oai tác quái
khắp nơi.
Nhân lòng người oán hận sục sôi, Nàng Nước đã kêu gọi
nhân dân cầm vũ khí đánh đuổi quân thù. Khi Hai Bà Trưng phát động khởi
nghĩa, Nàng Nước liền đem toàn bộ lực lượng của mình về hợp sức với Hai
Bà để cùng chống kẻ thù chung. Nhờ can đảm và mưu lược, Nàng Nước đã
liên tiếp lập được nhiễu công lao, do đó, được chính quyền Trưng Nữ
Vương phong làm Trung Dũng Đại tướng quân.
Khi Mã Viện đem đại binh tới đàn áp, Nàng Nước đã sát
cánh chiến dấu liên tục bên cạnh Hai Bà Trưng, từng có mặt trong trận
ác chiến ở Lãng Bạc, rồi sau đó lại có mặt trong trận ác chiến thứ hai ở
Cấm Khê. Cuối cùng, vì quân tan thế yếu. Nàng Nước đã tuẫn tiết cùng
với Hai Bà Trưng tại Cấm Khê.
11. Nàng Quỳnh (hay Quỳnh Nương Công chúa) và Nàng Quế (hay Quế Nương Công chúa)
Theo thần tích Miếu Cây Quân và Miếu Cây Sấu (nay
thuộc huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang) thì Nàng Quỳnh và Nàng Quế là
hai chị em sinh đôi, cả hai đều rất khoẻ mạnh và xinh đẹp. Lúc mới hơn
10 tuổi, hai chị em đã rất giỏi cung kiếm.
Bấy giờ, nhân dân khắp cõi đều rất thống khổ bởi ách
thống trị tham lam và tàn bạo của nhà Hậu Hán, ai ai cũng chỉ chờ có cơ
hội thuận tiện để cùng nhau vùng dậy đánh đuổi quân thù. Lúc bấy giờ,
ngay trên quê nhà của Nàng Quỳnh và Nàng Quế cũng có một cuộc khởi nghĩa
nhỏ do một người con gái tên là Nàng Xuân phát động và lãnh đạo. Cả hai
nàng đã cùng hăng hái tham gia cuộc khởi nghĩa này.
Khi Hai Bà Trưng kêu gọi nhân dân đứng lên đánh đổ
chính quyền Tô Định, Nàng Xuân đã cùng với Nàng Quỳnh và Nàng Quế hồ hởi
dẫn quân theo về. Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã chiến đấu rất gan dạ, lập
được nhiều công lao, được Trưng Nữ Vương phong làm Công chúa, Tiên phong
Phó tướng (Chánh tướng lúc ấy là Công chúa Thiều Hoa).
Lúc triều đình nhà Hậu Hán sai Phục Ba Tướng quân Mã
Viện đem đại binh sang đàn áp, cùng với Công chúa Thiều Hoa, Nàng Quỳnh
và Nàng Quế đã được Trưng Nữ Vương giao trách nhiệm chỉ huy một lực
lượng quân sĩ đánh giặc ở khu vực Luy Lâu (nay thuộc huyện Thuận Thành,
tỉnh Bắc Ninh).
Tại đây, cánh quân của Nàng Quỳnh và Nàng Quế đã
chiến dấu rất ngoan cường và đã liên tiếp gây cho Mã Viện những tổn thất
rất to lớn. Theo lời kể của truyền thuyết dân gian thì sau đó, Nàng
Quỳnh và Nàng Quế đã anh dũng hy sinh nhưng chưa rõ là ở vị trí cụ thể
nào.
12. Nàng Trăng (hay Nguyệt Điện Công chúa)
Theo ghi chép của thần tích đền Tây Cốc
(nay thuộc huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ) thì Nàng Trăng là một cô gái
đẹp người và đẹp nết, khoẻ mạnh và linh lợi, võ nghệ cao cường và lắm cơ
mưu, thiên hạ khó ai bì kịp. Với người nghèo khổ và bị ức hiếp, Nàng
Trăng luôn sẵn lòng che chở, với kẻ bất nhân và bạc ác, Nàng Trăng quyết
không dung tha. Tuổi tuy còn rất trẻ nhưng Nàng Trăng đã thực sự là chỗ
dựa tin cậy của dân cả một vùng rộng lớn. (Trong tờ thần tích nói trên,
cũng có chỗ chép Nàng Trăng là Đàm Ngọc Nga. Nhưng họ và tên đầy đủ này
ắt hẳn là do hậu thế vì yêu kính mà tự ý đặt cho).
Bấy giờ, quan đô hộ của nhà Hậu Hán là Tô Định khét
tiếng tham lam và tàn bạo, dân khắp cõi phải chịu cảnh lầm than, Nàng
Trăng ngày đêm lo nghĩ cách cứu giúp dân lành. Nàng tự mình chiêu tập
được trên hai trăm tráng sĩ, hễ nơi đâu có tiếng kêu oan là lập tức nàng
có mặt để trừng trị kẻ ác.
Được tin Hai Bà Trưng dựng cờ xướng nghĩa ở Hát Môn.
Nàng Trăng liền đem tất cả tráng sĩ của mình về với Hai Bà. Nàng được
Hai Bà tin cậy, phong làm Tiền Đạo Tả Tướng Quân, lại ban cho hiệu là
Nguyệt Điện. Nàng Trăng và đội quân do Nàng chỉ huy đã chiến đấu rất
dũng cảm. góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cuộc khởi nghĩa. Nhưng
rất tiếc là sau ngày đại thắng, Nàng Trăng đã lâm bệnh và qua đời. Để
bày tỏ lòng đặc biệt kính trọng và thương tiếc không nguôi, nhân dân các
địa phương nay thuộc hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ đã xây dựng khá
nhiều đền thờ Nàng Trăng.
13. Nàng Xuân (hay Đông Cung Công chúa)
Theo thần tích đền Kẻ Xoan (nay
thuộc tỉnh Phú Thọ) thì Nàng Xuân vốn là con gái của Châu mục châu Đại
Man. Đất quê hương Bà nay là huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang. Bà là
người có khi chất mạnh mẽ, giỏi võ nghệ và cương trực hơn người.
Dưới ách đô hộ tàn bạo của Thái Thú Tô Định, Bà là
một trong những người đầu tiên đã thành lập dân binh và kêu gọi nhân dân
vùng dậy đấu tranh. Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Nàng Xuân đã đem toàn
bộ lực lượng của mình (trong đó có 2 nữ tướng xuất sắc là Nàng Quỳnh và
Nàng Quế) theo về. Nàng Xuân được Hai Bà Trưng tin cậy, giao quyền chỉ
huy các lực lượng nghĩa binh đóng ở khu vực tỉnh Phú Thọ ngày nay.
(Nhiều người cho rằng, do kiêng kỵ chữ Xuân - tên của Nàng Xuân hay Xuân
Nương, mà dân Phú Thọ thường nói trại chữ xuân thành chữ xoan).
Nhờ có rất nhiều công lao, Nàng Xuân được Trưng Nữ
Vương phong làm Đông Cung Công chúa, chức Nhập Nội Trưởng quản Quân cơ.
Trong trận ác chiến chống cuộc đàn áp tàn khốc của quân Mã Viện, Nàng
Xuân đã anh dũng hy sinh tại khu vực nay thuộc tỉnh Phú Thọ.
14. Ông Cai
Theo thần tích Miếu Mèn (ở
làng Nam Nguyễn, huyện Ba Vì, Hà Nội - tức quê ngoại của Hai Bà Trưng)
thì ông Cai là một người đàn ông rất mạnh khoẻ, có khí khái, giàu lòng
yêu nước và rất giỏi võ nghệ. Cũng như hầu hết người đương thời, ông rất
căm giận quân đô hộ nhà Đông Hán.
Năm 40, khi nghe tin Hai Bà Trưng truyền hịch kêu gọi
cả nước cầm vũ khí đứng dậy đánh đuổi Tô Định, ông Cai đã hăng hái tham
gia. Chính ông đã tập hợp được 300 trai tráng, lập thành một đơn vị có
đội ngũ rất chỉnh tề. Nhưng khi tự mình tìm đến đại bản doanh của Hai Bà
để liên hệ trước, thấy từ lãnh tụ đến tướng lĩnh cao cấp và đông đảo
quân sĩ đều là đàn bà con gái, vì thế ông hạ lệnh cho tất cả nghĩa dũng
của mình đều phải hóa trang thành... con gái!
Đội quân của ông Cai đã chiến đấu rất dũng cảm và lập
được nhiều công lao, nhưng phải mãi đến khi toàn thắng, ông Cai mới
khai rõ sự thật và đến lúc bấy giờ, Hai Bà Trưng mới biết đó là đội
quân... giả gái. Mặc dầu vậy, Trưng Nữ Vương vẫn rất khen ngợi và phong
cho ông Cai đến chức Đại tướng. Sau, ông Cai đã hy sinh trong cuộc chiến
đấu chống lực lượng đàn áp của Mã Viện.
15. Thánh Thiên Công chúa
Thần tích đình Ngọc Lâm
(nay đình này thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang) cho hay: Thánh Thiên
Công chúa còn có biệt danh là Nàng Chủ. Nàng Chủ có cá tính rất mạnh mẽ
và cũng là người rất có uy, tuy chỉ mới 16 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ,
nhưng dân làng ai cũng đều nể phục, đã đồng lòng tôn Nàng làm Nữ Chủ và
tặng cho Nàng biệt danh là Nàng Chủ.
Bấy giờ, bọn đô hộ Hậu Hán rất tham tàn, ai ai cũng
căm tức và chỉ trông chờ có cơ hội là vùng lên diệt thù. Hiểu được ý
nguyện của dân, Nàng Chủ đã thành lập một đội quân khá lớn và truyền
hịch khởi nghĩa. Quân đô hộ nhiều phen đến đàn áp (trong đó có lần do
đích thân Tô Định chỉ huy) nhưng không thể nào tiêu diệt được nghĩa quân
của Nàng, ngược lại, còn bị quân sĩ của Nàng đánh cho thất điên bát
đảo. Bấy giờ, một vùng đất rộng lớn, trên đại thể là tương ứng với tỉnh
Bắc Giang và một phần tỉnh Bắc Ninh ngày nay do Nàng Chủ nắm quyền chi
phối.
Khi Hai Bà Trưng kêu gọi nhân dân cả nước vùng lên
đánh đuổi Tô Định, Nàng Chủ đã đem lực lượng của mình theo về, thanh thế
của Hai Bà Trưng vì thế mà nhanh chóng trở nên mạnh mẽ. Nàng Chủ được
Trưng Nữ Vương phong làm Thánh Thiên Công chúa và trao cho nhiều trọng
trách.
Truyền thuyết kể rằng, khi Mã Viện đem đại binh nhà
Hậu Hán sang đàn áp, chính Thánh Thiên Công chúa đã chủ động đem lực
lượng của mình tiến đến tận Hợp Phố để đánh chặn. Mã Viện vì thế chịu
rất nhiều tổn thất. Sau Thánh Thiên Công chúa anh dũng hy sinh trong
cuộc chiến đấu bảo vệ chính quyền Trưng Nữ Vương. Hiện nay, Thánh Thiên
Công chúa được thờ chính ở đình Ngọc Lâm (Yên Dũng, Bắc Giang).
16. Thiều Hoa Công chúa
Theo thần tích đền Hiền Quan (xã
Hiền Quan, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ) thì Thiều Hoa là người sinh
trưởng ở sách Lăng Xương, trấn Hưng Hoá, sau mới chuyển đến định cư ở xã
Hiền Quan (Lăng Xương nay thuộc xã Trung Nghĩa, huyện Tam Thanh, tỉnh
Phú Thọ). Năm 16 tuổi, Thiều Hoa mồ côi cả cha lẫn mẹ và phải chịu cực
khổ trăm bề, cơm chẳng bao giờ được no, áo chẳng bạo giờ được lành (Bởi
lẽ này, trong đền thờ Thiều Hoa thường có một cái rổ đựng vải vụn, ý
muốn nhắc nhở về thời con gái khốn khổ của Thiều Hoa). Ngay từ lúc còn
trẻ, Thiếu Hoa đã nổi tiếng gan dạ và rất có tài đi săn. Nhờ được một
nhà sư tận tâm chỉ dạy nên chẳng bao lâu, Thiều Hoa đã rất giỏi võ nghệ,
chẳng những đủ sức để có thể tự vệ mà còn có khả năng cứu giúp người
khác. Dân làng ai ai cũng đều yêu quý Thiều Hoa.
Khi Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước vùng lên. Thiều Hoa
đã nhanh chóng tập hợp lực lượng và sau đó đã hăng hái đem hơn 500 nghĩa
sĩ của mình theo về. Hai Bà Trưng liền phong cho Thiều Hoa làm Tiên
phong Hữu tướng và giao trách nhiệm chỉ huy trận đánh quyết định với
giặc ở Luy Lâu. Thiều Hoa lập công lớn, góp phần quan trọng vào thắng
lợi chung, vì lẽ đó, được Trưng Nữ Vương phong làm Đông Cung Công chúa.
Sau Thiều Hoa Công chúa anh dũng hy sinh trong trận ác chiến chống cuộc
đàn áp của Mã Viện.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Triệu Thị Trinh - nữ danh tướng kiệt xuất của sự nghiệp đánh đuổi quân Ngô
VietnamDefence -
"Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
cởi ách nô lệ cho nhân dân chứ quyết không chịu khom lưng làm tì thiếp
người ta" - Truyền thuyết về Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá và Đại Nam nhất
thống chí (Thanh Hoá tỉnh - tập hạ)
1. NHỮNG TRANG BI THƯƠNG MỚI CỦA LỊCH SỬ
Sau thất bại của Trưng Nữ Vương, một cuộc trả thù đẫm
máu chưa từng thấy đã diễn ra trên khắp cõi, đặc biệt là ở khu vực quận
Giao Chỉ. Hàng vạn người bị giết hoặc bị bỏ đi đày viễn xứ. Chính sử
của Trung Quốc cũng đã công khai thừa nhận tội ác này:
- Chỉ tính riêng ở quận Cửu Chân, nơi cách khá xa trung tâm của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Mã Viện đã giết đến hơn 5.000 người.- Hơn 300 tuỳ tướng của Hai Bà Trưng bị Mã Viện bắt đi đày sang tận Linh Lăng (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán).
Việc trả thù tàn bạo còn kéo dài trong nhiều năm sau
đó. Không khí nghi kỵ và chết chóc bao trùm lên khắp mọi miền đất nước.
Bấy giờ, nhà Hậu Hán quyết tâm xoá sạch dư âm quyền lực của đội ngũ quý
tộc bộ lạc cũ bằng cách đưa người Trung Quốc sang nắm giữ chính quyền
đến tận cấp huyện và bãi bỏ hoàn toàn những quy định cũ về việc dùng Lạc
tướng trông coi các huyện. Chế độ trực trị hà khắc của quan lại nhà Hậu
Hán đã nhanh chóng được thiết lập. Trong điều kiện khó khăn chồng chất
như vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân các địa phương thuộc quận
Giao Chỉ cũ buộc phải tạm thời lắng xuống, nhưng, thay vào đó là sự trỗi
dậy rất mạnh mẽ của những phong trào ở khu vực phía Nam mà đặc biệt là
tại quận Nhật Nam. Theo ghi chép của chính sử Trung Quốc (Phạm Việp
(Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn
Thư Quán) thì chỉ tính riêng trong thế kỷ II, vùng Nhật Nam đã liên tiếp
bị chấn động dữ dội bởi những cuộc vùng dậy có quy mô rất lớn sau đây:
- Năm 100: trên 2.000 dân Tượng Lâm (cực Nam của quận Nhật Nam) đã đồng lòng khởi nghĩa. Chính quyền đô hộ nhà Hậu Hán phải huy động đông đảo quân sĩ ở các quận huyện khác tới đàn áp khá lâu mới dập tắt được.- Năm 136: dân Tượng Lâm mà đông đảo nhất là người Chăm đã lại nhất tề nổi dậy, đánh cho bọn quan lại đô hộ của nhà Hậu Hán một phen thất điên bát đảo.- Năm 137: Một cuộc bạo động rất lớn của nhân dân quận Nhật Nam đã nổ ra. Nhiều quan lại đô hộ của nhà Hậu Hán bị giết chết, Thứ Sử Phàn Diễn phải huy động đến hơn 10.000 quân đi đàn áp liên tiếp trong hơn một năm trời. Cuộc bạo động này đã khiến cho cả triều đình Hán Thuận đế phải hốt hoảng (Hán Thuận đế (125-144) là hoàng đế thứ 7 của nhà Hậu Hán. Theo ghi chép của Phạm Việp (Trung Quốc) trong Hậu Hán Thư thì bấy giờ, Hán Thuận đế đã phải triệu tất cả công, khanh cùng trăm quan về họp để bàn kế sách ứng phó. Nhiều người đề nghị phải huy động ít nhất là 40.000 quân tinh nhuệ đi đàn áp mới mong bình định được, nhưng đại tướng Lý Cố đã đưa ra 7 lý do không nên đem đại quân đi, bởi vì theo Lý Cố thì "Nay ở Nhật Nam quân ít, lương cạn, giữ chẳng được mà đánh cũng chẳng xong", cho nên, tốt nhất là phải dùng kể kết hợp giữa dụ dỗ, mua chuộc với ly gián. “Phải chiêu mộ dân Man đi làm lính để chúng tự đánh lẫn nhau. Ta nên chở vàng lụa tới cấp cho chúng. Kẻ nào làm được kế phản gián, lấy được đầu giặc thì nên phong cho hắn tước hầu rồi cắt đất mà thưởng cho". Rốt cuộc, Hán Thuận đế đã nghe theo kế hoạch hiểm độc của Lý Cố).- Năm 144: được sự ủng hộ của nhân dân quận Cửu Chân, nhân dân quận Nhật Nam lại nổi lên, tấn công vào tất cả trị sở của bọn đô hộ. Một lần nữa, nhà Hậu Hán phải dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt khác nhau mới đè bẹp được.- Năm 190: Dưới sự lãnh đạo của Khu Liên (Trong các thư tịch cổ, Khu Liên có khi còn được chép là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Có lẽ cũng tương tự như Hùng Vương trong lịch sử người Việt. Khu Liên không phải là tên người mà rất có thể là phiên âm Hán-Việt của từ kurung (trong một số ngôn ngữ có ở vùng Đông Nam Á, kurung có nghĩa là tộc trưởng hay người đứng đầu). Về tên gọi của vương quốc do Khu Liên lập nên, thư tịch cổ của Trung Quốc chép là Lâm Ấp. Lịch Đạo Nguyên (Trung Quốc) trong Thủy Kinh Chú giải thích rằng, Lâm Ấp chính là Tượng Lâm, sau bỏ chữ Tượng đi mà gọi là Lâm Ấp. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, hai chữ Lâm Ấp có thể là do phiên âm của tên tộc người, đó là tộc Krom hay Prum - tộc người chủ yếu của bộ lạc Dừa), dân vùng Tượng Lâm của quận Nhật Nam (mà chủ yếu là người Chăm) đã tổ chức một cuộc khởi nghĩa rất lớn. Họ đã giết được Thứ sử của nhà Hậu Hán là Chu Phù và bọn quan lại của nhà Hậu Hán ở các huyện. Năm 192, Khu Liên lên làm vua, vương quốc của người Chăm (Trong cộng đồng 54 các dân lộc anh em của Việt Nam, có dân tộc Chăm với 4 nhóm chính là Chăm Bà-la-môn, Chăm Ba-ni, Chăm Islam và Chăm Hơ-roi, mà địa bàn cư trú chủ yếu hiện nay là vùng Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, TP. Hồ Chí Minh, Tây Ninh và An Giang) được dựng lên kể từ đó.
Như trên đã nói, từ giữa thế kỷ II, tức là kể từ thời
trị vì của Hán Hoàn đế (146-167) trở đi, chính sự của nhà Hậu Hán ngày
càng rối ren. Sang thời Hán Linh đế (168-189), nguy cơ sụp đổ hoàn toàn
của nhà Hậu Hán đã thể hiện ngày một rõ. Bọn hoạn quan rồi kế đến là bọn
quyền thần (mà đứng đầu là Đống Trác) mặc sức hoành hành. Tháng 10 năm
220, Hán Hiến đế bị giết, nhà Hậu Hán đến đó là cáo chung và Trung Quốc
lâm vào một thời kỳ hỗn chiến loạn lạc rất nghiêm trọng, sử gọi đó là
thời Tam Quốc. Đây là thời tranh hùng quyết liệt giữa 3 tập đoàn lớn:
-
Ngô tức Đông Ngô (222-280): do Tôn Quyền (tức Ngô Đại đế) dựng lên. Nước Ngô của họ Tôn tồn tại trước sau tổng cộng 58 năm, truyền nối được 4 đời. Lãnh thổ của nước Ngô ở phía Đông Nam của Trung Quốc. Kinh đô ban đầu của nước Ngô ở Vĩnh Xương, sau chuyển về Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh của Trung Quốc).
-
Thục (221-263): do Lưu Bị (tức Thục Chiêu Liệt đế) dựng lên với lãnh thổ chủ yếu là vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc ngày nay. Kinh đô của nước Thục là Thành Đô (ở phía Bắc của Tứ Xuyên). Nước Thục của họ Lưu tồn tại trước sau tổng cộng 42 năm, truyền nối được 2 đời.
-
Ngụy (220-265): do Tào Phi (tức Ngụy Văn đế) dựng lên. Lãnh thổ của nước Ngụy là toàn bộ khu vực rộng lớn ở phía Bắc Trung Quốc. Kinh đô của nước Ngụy là Lạc Dương. Nước Ngụy của họ Tào tồn tại trước sau tổng cộng 45 năm, truyền nối được 5 đời.
Trong số 3 nước tranh hùng của thời Tam Quốc, nhà Ngô
đã thay thế nhà Hậu Hán đô hộ nước ta. Để có đủ sức người và sức của
cung đốn cho cuộc hỗn chiến tàn khốc này, nhà Ngô đã tiến hành bóc lột
nhân dân ta thậm tệ chưa từng thấy.Trong hơn 1000 năm mất nước, không
triều đại phong kiến Trung Quốc nào để lại dấu ấn đô hộ tàn bạo đến mức
khủng khiếp như nhà Ngô nên trong tâm khảm bất diệt của tất cả các thế
hệ nhân dân ta, hễ nói đến giặc phương Bắc thì hầu như bất cứ ai cũng
đều căm giận mà gọi đó là giặc Ngô, dẫu khi hung hãn tràn sang xâm lược
nước ta, quốc hiệu của chúng là gì.
Đối với đất Giao Châu, đánh giá chung của chính quyền
nhà Ngô là "đất rộng, người đông, hình thế hiểm trở và độc hại, dân xứ
ấy thường hay làm loạn, rất khó cai trị", cho nên, chính sách bao trùm
của nhà Ngô là phải “dùng binh uy để ức hiếp". Bởi chính sách bao trùm
này, nhà Ngô đã bắt hàng ngàn đinh tráng của nước ta, đem xích lại rồi
dẫn sang đất Ngô để bắt làm lính chiến. Chính sử của Trung Quốc cũng
phải thừa nhận rằng: "Giặc Ngô chính hình bạo ngược, các thứ phủ liễm
thu không biết thế nào cho cùng" (Trần Thọ (Trung Quốc). Tam Quốc Chí. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán)
Thời bị nhà Ngô thống trị là thời bi thương của cả
dân tộc ta, thời nhân dân ta bị thống trị khắc nghiệt và bị vơ vét tham
tàn, thời kẻ thù thắng tay đàn áp một cách đẫm máu, thời nặng nề không
khí chết chóc và điêu linh. Nhưng nhìn ở một góc độ khác hơn, thời thuộc
Ngô cũng chính là thời các tầng lớp nhân dân ta anh dũng vùng lên, thời
ngân vang của những khúc tráng ca đánh giặc cứu nước.
Trong lịch sử đấu tranh chống ách đô hộ và giành độc
lập cho nước nhà, nếu đỉnh cao của thế kỷ I là khu vực Giao Chỉ và đỉnh
cao của thế kỷ II là vùng Nhật Nam, thì đỉnh cao của thế kỷ III lại là
quận Cửu Chân. Thực ra, ngay từ cuối thế kỷ II, nhân dân Cửu Chân cũng
đã từng phối hợp chặt chẽ với nhân dân Nhật Nam trong cuộc đấu tranh
chống ách thống tri của nhà Hậu Hán. Chính họ đã góp phần không nhỏ vào
quá trình tạo lập nên vương quốc của người Chăm (năm 192). Tuy nhiên,
chói lọi nhất thế kỷ III vẫn là cuộc khởi nghĩa ở trung tâm quận Cửu
Chân do Triệu Thị Trinh phát động và lãnh đạo.
Triệu Trinh Nương |
2. HUYỀN THOẠI VỀ TUỔI TRẺ CỦA TRIỆU THỊ TRINH
Khác với Hai Bà Trưng, Triệu Thị Trinh thuộc thế hệ
những người đã có họ - họ Triệu. Triệu Thị Trinh (còn có những tên gọi
khác như Triệu Trinh Nương, Nàng Trinh hoặc là Bà Triệu) sinh trưởng tại
làng Cẩm Trướng, huyện Quân Yên (cũng tức là huyện Quan Yên), quận Cửu
Chân. Vào thời nhà Nguyễn, làng Cẩm Trướng thuộc xã Cẩm Trướng (còn có
tên khác là xã Cẩm Cầu) huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngày nay, làng
này thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Theo truyền
thuyết, Bà sinh ngày 2 tháng 10 năm 226. Quê hương của Bà Triệu cũng
chính là quê hương của hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục ,
những người đã có công khai mạch đại khoa nho học cho Thanh Hoá nói
riêng và cả nước nói chung (Khương Công Phụ và Khương Công Phục đều đỗ
Tiến sĩ dưới thời Đường Đức Tông (779-805). Hai anh em đã cùng nhau sang
Trung Quốc, dốc chí học tập rồi thi đỗ Tiến sĩ. Đây là hai người Việt
đỗ Tiến sĩ đầu tiên, đỗ ngay khi nền giáo dục và thi cử nho học ở nước
ta chưa khai sinh). Bà Triệu mất năm 248, khi mới 22 tuổi. Triệu Thị
Trinh là em gái của Huyện lệnh Triệu Quốc Đạt, vì cha mẹ chẳng may qua
đời sớm nên Triệu Thị Trinh ở với anh trai. Trước khi dựng cờ khởi
nghĩa. Bà Triệu có đến 3 sự nổi tiếng.
-
Một là, nổi tiếng xinh đẹp, một vẻ đẹp rất kiêu sa nhưng cũng rất thánh thiện. Đương thời vì ai ai cũng đều thấy Triệu Trinh Nương quá xinh đẹp, bèn nói rằng: "Đẹp như thế thì có thể làm vợ các quan để trở thành bà này bà nọ, ấm thân một đời được chứ". Nhưng Triệu Trinh Nương chẳng những không thèm làm vợ các quan mà còn khảng khái để lại cho đời câu nói đầy khẩu khí anh hùng: "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chứ quyết không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta" (Truyền thuyết về Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá. Đại Nam nhất thống chí (Thanh Hoá tỉnh - tập hạ) cũng chép tương tự). Tuy nhiên, trong thư tịch cổ của Trung Quốc (và một số thư tịch cổ của ta đã sao chép lại mà không cân nhắc) dung nhan Bà Triệu được mô tả có phần khác hơn. Điều này chúng tôi xin được bàn đến ở phần sau.
-
Hai là, nổi tiếng can đảm và mưu trí hơn người. Truyền thuyết dân gian kể rằng, vùng Cẩm Trướng hồi đó có con voi trắng một ngà và rất hung dữ, thỉnh thoảng lại về phá hoại mùa màng, ai ai cũng phải sợ. Để trừ mối hại cho dân, Bà Triệu đã rủ chúng bạn đi vây bắt con voi trắng một ngà ấy. Bà lùa voi xuống vùng đầm lầy rồi dũng cảm nhảy lên đầu voi, sau đó kiên nhẫn tìm cách khuất phục. Con voi trắng một ngà khét tiếng hung dữ rốt cuộc cũng đã phải ngoan ngoãn vâng theo lời Bà và về sau đã trở thành người bạn chiến đấu rất thân cận và trung thành của Bà.
-
Ba là, nổi tiếng thẳng thắn và không bao giờ dung tha kẻ xấu. Truyền thuyết dân gian về Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá kể rằng, chị dâu của Bà Triệu (vợ Triệu Quốc Đạt) là một người phụ nữ rất lăng loàn (Cũng có truyền thuyết nói rằng, chính chị dâu của Bà Triệu là kẻ phản bội đầu tiên mật báo cho quân Ngô biết kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa của hai anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh. Triệu Quốc Đạt bị giết, nhưng Triệu Thị Trinh thì thoát được. Trước khi đến Phú Điền, Triệu Thị Trinh đã giết chết chị dâu để cảnh cáo tất cả những kẻ nào nuôi lòng phản trắc), bởi vậy, Bà Triệu mới tức giận, giết chết chị dâu rồi ra ở riêng tại rừng Bồ Điền, khu rừng này về sau đổi là rừng Phú Điền (nay thuộc làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá) (Bởi lẽ này nhiều người lầm tưởng đây là sinh quán của Bà Triệu. Đó là chưa nói rằng, ở huyện Ninh Hoá (cũng tức là Yên Hoá) nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình do cũng có đền thờ Bà Triệu nên thư tịch cổ cũng có lúc nhầm tưởng đây là quê hương của Bà Triệu). Đây cũng chính là nơi Bà Triệu đã tụ họp nghĩa quân và phát động cuộc chiến đấu một mất một còn với chính quyền đô hộ nhà Ngô.
Khi Bà Triệu bước vào tuổi thanh xuân thì cuộc hỗn
chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy) cũng đang hồi quyết liệt nhất. Để
giữ vững tương quan về thế và lực với 2 nước còn lại, đặc biệt là để
có thể tạo ra cơ may làm thay đổi cục diện theo hướng ngày càng có lợi
cho mình, nhà Ngô đã tìm đủ mọi cách để vơ vét sức người và sức của trên
mọi vùng đất mà chúng đang nắm quyền cai trị. Mâu thuẫn xã hội giữa một
bên là toàn thể nhân dân Âu Lạc bị mất nước và bị thống trị tàn bạo với
một bên là chính quyền đô hộ của nhà Ngô ngày càng trở nên gay gắt.
Nhân lòng căm phẫn của nhân dân và cũng nhân cơ hội trung tâm của phong
trào đấu tranh chống nhà Hán đang chuyển dịch dần ra Cửu Chân, từ đất
quê hương của mình, Bà Triệu đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi
nghĩa rất lớn.
Bà Triệu (Tranh dân gian)
|
3. VUNG GƯƠM RA TRẬN
Truyền thuyết dân gian vùng huyện Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hoá) có chuyện Núi đá biết nói khá độc đáo, theo đó thì vào một đêm thanh vắng nọ, trên triền đá của núi Tùng ở Phú Điền bỗng có tiếng dõng dạc cất lên rằng:
Có Bà Triệu tướng,
Vâng mệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Vâng mệnh trời ta.
Trị voi một ngà,
Dựng cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước,
Theo gót Bà Vương.
Người người nghe lời ấy, ai cũng tin chắc rằng đá
trên núi Tùng biết nói. Lời của đá núi được coi là lời sấm ngôn, lời
thiêng liêng chuyển tải mệnh trời rằng, Bà Triệu là Thiên tướng giáng
trần, là người sẽ ra tay chỉ huy trăm họ vùng dậy cứu nước và cứu dân.
Bởi niềm tin sâu sắc ấy, nhân dân khắp nơi đã nườm nượp kéo nhau theo về
với Bà Triệu. Núi Tùng từ đó trở thành nơi tụ nghĩa và mãi đến sau này
thiên hạ mới vỡ lẽ ra rằng, trước khi chính thức phát động khởi nghĩa,
Bà Triệu đã bí mật sai người thân tín leo lên núi Tùng, khoét đá thành
hang rồi nhân đêm tối, nấp kín trong hang đá mà đọc thật to mấy câu sấm
ngôn nói trên (Truyền thuyết này có lẽ là do người đời sau hư cấu nên,
cốt để cắt nghĩa vì sao nhân dân khắp nơi lại nô nức tụ họp với với Bà
Triệu nhanh và đông như vậy. Thực tế là Bà Vương hay Lệ Hải Bà Vương là
tước hiệu mà nhà Ngô đã dùng để mua chuộc Bà Triệu sau nhiều lên đàn áp
bất thành chứ không phải là đã có ngay trong thời kỳ khi Bà Triệu còn
chuẩn bị khởi nghĩa). Đặt trong bối cảnh chung của thời cổ và trung đại,
việc lợi dụng mê tín của xã hội để rồi khôn khéo tạo ra những sự kiện
đầy vẻ huyền bí nhằm tập hợp và cố kết lực lượng cũng là điều thường
thấy. Cách làm của Bà Triệu cũng chỉ là một trong những thông lệ thường
thấy ấy thôi. Tất nhiên, cơ mưu tạo ra các sự kiện đầy vẻ huyền bí, dù
hoàn hảo và đầy sức thuyết phục đến đâu cũng không thể thay thế cho quá
trình xây dựng uy tín tự thân và hoàn toàn có thật của Bà Triệu. Nhân
dân khắp cõi đương thời đến với Bà Triệu trước hết và chủ yếu cũng bởi
uy tín tự thân và hoàn toàn có thật này của Bà.
Phần lớn thư tịch cổ đều nói rằng, toàn bộ công lao
chuẩn bị cũng như phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ
của nhà Ngô vào năm 248 là của Bà Triệu, nhưng, cũng có vài truyền
thuyết dân gian và một số ít thư tịch cổ lại nói rằng Bà Triệu thực ra
chỉ là người kế tục sự nghiệp còn dở dang của anh trai Bà - Huyện lệnh
Triệu Quốc Đạt. Tài liệu thư tịch, ghi chép điều này rõ hơn cả có lẽ là
của Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Theo đó thì: "Khi ta nội thuộc nhà
Ngô, các quan Thú mục phần nhiều chỉ lo bóc lột, dân không sao chịu nổi,
cho nên (Triệu) Quốc Đạt liền nổi binh chống lại. Được ít lâu, ông mất,
dân chúng thấy Bà là người có tướng tài, bèn tôn Bà làm Chúa để cầm cự
với quân Ngô" (Đại Nam nhất thống chí, Thanh Hoá tỉnh, tập
hạ. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần xin chú thích thêm rằng, quan thú mục tức
là quan lại đứng đầu các địa phương ở dưới cấp quận). Song cứ như lời
kể của hầu hết truyền thuyết dân gian thì rất có thể Triệu Quốc Đạt
không phải là người khởi xướng, nhưng ít nhất ông cũng là người ủng hộ
một cách đắc lực và đầy hiệu quả cả về tinh thần lẫn vật chất cho em gái
mình trong cuộc chiến đấu chống quân Ngô. Và ông đã qua đời trước khi
cuộc khởi nghĩa phát triển đến đỉnh cao.
Năm 248, từ chân núi Tùng ở khu vực Phú Điền (nay
thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá), Bà Triệu đã hạ lệnh
xuất quân, nhất loạt tấn công quyết liệt vào các lỵ sở của quân Ngô tại
quận Cửu Chân. Đời truyền rằng: "Bà Triệu ra trận, chân đi guốc ngà,
đầu đội nón ngà, lưng thắt dải lụa, ngực che yếm vàng, mình cưỡi bành
voi, dáng mạo thật oai phong lẫm liệt" (Truyền thuyết dân gian về
Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá). Bà Triệu được nghĩa sĩ của mình đồng lòng
tôn làm Nhụy Kiều Tướng quân (Cũng có tài liệu nói rằng tên gọi Nhuỵ
Kiều Tướng quân (vị nữ tướng quân có vẻ đẹp rất yêu kiều) là do quân Ngô
đặt cho Bà Triệu, nhưng, số tài liệu này chỉ chiếm một tỷ lệ rất ít).
Và thề sẽ cùng Bà chiến đấu đến cùng với quân Ngô.
Nghe tin Bà Triệu dựng cờ xướng nghĩa. đông đảo nhân
dân ở khắp các địa phương mà trước hết là quận Cửu Chân đã nô nức xin
theo. Đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ... sức lực và tài nghệ tuy
có cao thấp khác nhau nhưng tất cả đều quyết một lòng đánh giặc cứu
nước. Lực lượng nghĩa quân của Bà Triệu vì thế mà phát triển rất nhanh.
Ca dao Thanh Hoá có câu rằng:
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muôn coi lên núi mà coi,
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muôn coi lên núi mà coi,
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
Khu vực núi Tùng nhanh chóng trở thành đại bản doanh
của nghĩa quân Bà Triệu. Dưới chân núi Tùng là một thung lũng nhỏ, được
bao bọc bởi dải núi đá vôi thấp. Đây là cửa ngõ phía Bắc của đồng bằng
Thanh Hoá, lại nằm gần biển nên có vị trí rất thuận tiện cho cả khi
phòng thủ lẫn lúc tổ chức phản công. Hiện trong thung lũng nhỏ ớ dưới
chân núi Tùng vẫn còn có những địa danh như:
- Đồng Vườn Hoa (đại bản doanh của Bà Triệu).
- Đồng Xoắn Ốc (một trong những bức thành kiên cố của bộ chỉ huy nghĩa quân).
- Đồng Lăng Chúa (nơi có mộ của Bà Triệu).
Sát bên núi Tùng là núi Chung Chinh, tuy hiện nay dấu
tích còn lại nơi đây chỉ rất mờ nhạt nhưng người ta vẫn còn có thể sơ
bộ hình dung được vị trí của 7 đồn luỹ cổ mà nhân dân địa phương cho là
do lực lượng nghĩa quân Bà Triệu xây dựng nên. Tại 7 đồn luỹ cổ này, đời
truyền rằng, Bà Triệu đã từng trực tiếp chỉ huy hơn 30 trận ác chiến
với giặc Ngô. Đây cũng chính là một trong những địa phương còn truyền
tụng rất nhiều truyền thuyết về Bà Triệu. Trước khi Bà Triệu phát lệnh
khởi nghĩa, kẻ đứng đầu chính quyền đô hộ của nhà Ngô ở nước ta là Thứ
sử Lữ Đại - viên quan được chính triều đình Ngô Đại đế coi là "cẩn thận,
chu đáo và giàu phương lược, mưu kế vỗ về", được tin cậy và đánh giá
rất cao, nên mới phong cho Lữ Đại làm Trấn Nam Tướng quân, tước Phiên
Ngung hầu (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 3-b).
Nhưng, guồng máy thống trị do Lữ Đại cầm dầu cũng chẳng làm dược gì
ngoài sự tàn ác. Lữ Đại trở thành kẻ thù không đội trời chung của các
tầng lớp nhân dân ta, thành đối tượng tiêu diệt đầu tiên của Bà Triệu.
Thực sự lo sợ, giặc đã tung toàn bộ lực lượng ồ ạt
đánh mạnh vào quận Cửu Chân với hy vọng có thể nhanh chóng đè bẹp được
nghĩa quân của Bà Triệu, nhưng dù đã cố hết sức mình, chúng cũng không
thể nào thực hiện dược điều này. Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo
quyệt phong cho Bà Triệu đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của
vùng ven biển), song Bà không một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu,
giặc bí mật sai tay chân thân tín tới gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà
thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ hào. Sau hơn nửa năm
trời trực tiếp đối địch và cũng là hơn nửa năm trời liên tiếp chịu nhiều
thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp Bà Triệu là binh lính
giặc lại lo lắng đến bạt vía kinh hồn. Bởi vậy, đương thời mới có thơ
rằng:
Hoành qua đương hổ dị,
Đối diện Bà Vương nan.
Đối diện Bà Vương nan.
Nghĩa là:
Vung gươm đánh cọp xem còn dễ,
Đối mặt Bà Vương mới khó sao.
Đối mặt Bà Vương mới khó sao.
Bùng lên trước hết và chủ yếu là ở khu vực quận
Cửu Chân nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ và rất to lớn của cuộc khởi nghĩa Bà
Triệu lại nhanh chóng lan rộng khắp cả Giao Châu, đúng như chính sử của
Trung Quốc đã thừa nhận là: "Cả Giao Châu đều chấn động" (Trần Thọ
(Trung Quốc). Tam Quốc Chí (Ngô chí).). Bấy giờ, cả triều đình
Ngô Đại đế lấy việc mất Giao Châu làm mối lo hàng đầu. Một kế hoạch đàn
áp có quy mô lớn, một quyết tâm bình định Giao Châu đã gấp rút được xây
dựng. Thử thách của nghĩa quân Bà Triệu vì thế mà trở nên cực kỳ cam go.
Bà Triệu (Tranh dân gian)
|
4. NGÀN NĂM, THANH KIẾM DÀI CÙNG MẶT TRỜI SÁNG MÃI
Xin được mượn lời dịch của câu thơ chữ Hán Thiên thu trường kiếm dữ nhật quang (Nguyễn Khắc Thuần. Vịnh sử.
Nguyên tác Hán văn) làm tiêu đề cho đoạn kết của phần viết về Bà Triệu -
người phụ nữ đã lập nên huân nghiệp đối với lịch sử nước nhà. Mặt Trời
và Mặt Trăng mãi còn, giang sơn và dân tộc này mãi còn thì tên tuổi bất
khuất và thanh gươm đúc bằng chí đại định của Bà Triệu cũng sẽ mãi còn
toả sáng.
Nhưng trước khi bàn về đoạn kết của cuộc đời Bà
Triệu, có lẽ chúng ta cần trở lại với thực trạng của nhà Ngô và của cuộc
chiến đấu ở khu vực núi Tùng giữa thế kỷ III. Bấy giờ, nguy cơ sụp đổ
hoàn toàn của chính quyền đô hộ đã xuất hiện ngày một rõ và nếu điều này
xảy ra, nhà Ngô thật khó có thể tồn tại trước những cuộc tấn công của
hai kẻ thù là Thục và Ngụy. Xuất phát từ nhận thức đó Ngô Đại đế buộc
phải điều viên tướng thuộc hàng lừng danh nhất của mình là Lục Dận đi
đàn áp Bà Triệu:
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dân sang thay phiên thần(*)
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca)
Mới sai Lục Dân sang thay phiên thần(*)
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam Quốc sử diễn ca)
(*) Thay phiên thần: thay quan đô hộ, chỉ việc Ngô Đại đế cách chức Thứ sử Giao Châu của Lữ Đại mà trao chức này cho Lục Dận - NKT)
Lục Dận là cháu của tướng Lục Tốn - viên lão tướng
rất được Ngô Đại đế tin cậy. Trước khi lên đường, Lục Dận dược Ngô Đại
đế phong làm Thứ sử Giao Châu, hàm An Nam Hiệu úy. Nhà Ngô giao cho Lục
Dận 8000 quân và nhiều tuỳ tướng từng trải thử thách trong nhiều lần
xuất trận khác nhau. Đó là cố gắng cuối cùng, cũng là cố gắng cao nhất
của chúng. Đến Giao Châu, Lục Dận còn được quyền thống lãnh tất cả lực
lượng quân Ngô đã có mặt từ trước và đang tham gia những cuộc đàn áp
nghĩa quân của Bà Triệu. Đến Giao Châu, Lục Dận đã có 2 quyết định hệ
trọng.
-
Một là tiếp tục thực hiện mưu đồ mua chuộc, nhưng đối tượng chính không phải là Bà Triệu mà là đội ngũ tỳ tướng, những người chỉ huy các đơn vị nhỏ trong lực lượng của Bà Triệu. Lục Dận đã lập luận rất đúng rằng, làm sao chúng có thể mua chuộc được một con người tài cao đức trọng như Bà Triệu. Nhưng Bà Triệu sở dĩ trở nên hùng mạnh vì chung quanh Bà và dưới quyền của Bà còn có biết bao nhiêu con người khác mà nhìn chung là khả năng nhận thức chưa thể sánh với Bà. Mua chuộc được những con người này cũng chính là đã chặt đứt dần vây cánh của Bà Triệu và đẩy Bà Triệu vào thế cô, đến đó, Bà Triệu sẽ không còn là đối thủ đáng sợ nữa. Đời truyền rằng, bởi thủ đoạn rất xảo quyệt này, Lục Dận đã khuất phục được hàng trăm tỳ tướng của Bà Triệu và ngót 5 vạn dân.
-
Hai là bình tĩnh và bí mật cho quân đi do thám để điều tra cho bằng được mặt mạnh và mặt yếu của Bà Triệu, tức là theo đúng tinh thần lời dạy của binh pháp Trung Quốc cổ: "Tri bỉ, tri kỉ, bách chiến bách thắng" (biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng) (Tôn Tử (Trung Quốc). Tôn Tử binh pháp). Và trên cơ sở những tin tức mà chúng đã cất công thu lượm được, kết luận cuối cùng của Lục Dận về Bà Triệu là "ái khiết, uý ô" (thích sự sạch sẽ, lịch lãm và nhã nhặn, ghét sự bẩn thỉu, vô lễ và khiếm nhã). Từ kết luận cuối cùng này, Lục Dận đã tổ chức đàn áp theo kiểu nham nhở chưa từng thấy. Sử cũ chép: "Lục Dận dò biết đặc tính Bà Triệu rất ưa sự sạch sẽ và rất ghét sự bẩn thỉu, bèn nghĩ ra một kế rồi mới cho hạ lệnh xuất quân. Khi Bà Triệu cưỡi voi vung gươm ra trận thì thấy tất cả quân Ngô đều trần truồng mà cầm giáo xông thẳng về phía Bà, chẳng khác gì một lũ điên cuồng rồ dại. Bà Triệu thẹn chín cả người, dẫu rất căm tức nhưng Bà cũng đành phải lui quân về một ngọn núi khác ở khu vực Bồ Điền. Sau, Bà hoá ở đây. Năm ấy Bà 23 tuổi" (Đại Nam nhất thống chí, Thanh Hoá tỉnh, tập hạ).
Nói khác hơn, theo lời ghi chép trên thì Bà Triệu tuy
là thua trận nhưng vẫn giữ được cái duyên đằm thắm, hiền thục và nết na
của một người con gái, giặc Ngô tuy thắng nhưng tiếng xấu về sự nham
nhở thì còn mãi với muôn đời. Tiếng xấu ấy càng trở nên nặng nề hơn bởi
sau đó, để thoả lòng căm giận, giặc đã không ngừng tìm cách bôi nhọ Bà
Triệu. Chúng gọi Bà Triệu là Triệu Ẩu. Trong tiếng Việt cổ, nếu Dạ là từ dùng để chỉ người phụ nữ lớn tuổi mà được kính trọng, thì ngược lại, Ẩu là từ dùng để chỉ người con gái trẻ tuổi mà bị coi thường.
Trong nhiều thư tịch cổ của Trung Quốc (và sau đó đã
được một vài thư tịch cổ của ta sao chép lại), thì Bà Triệu có một chân
dung rất khác thường: "Tiếng nói nghe như tiếng chuông lớn, thân cao 9 thước, vú dài 3 thước, lưng rộng 10 ôm, mỗi ngày đi nhanh có thể được 500 dặm" (Đại Nam nhất thống chí,
Thanh Hoá tỉnh, tập hạ). Thực ra, tổng số huyền thoại về những người
phụ nữ có năng lực và hành trạng khác thường trong kho tàng văn học dân
gian không phải là ít, nhưng truy cho đến tận cùng căn nguyên thì tất cả
những huyền thoại đó đều góp phần chứng tỏ sự bất lực hoàn toàn của
giai cấp thống trị tàn bạo trước sức mạnh phản kháng quyết liệt của xã
hội do chính những người phụ nữ cầm đầu. Huyền thoại ly kỳ về Bà Triệu
có lẽ cũng nằm trong xu hướng phản ánh tận cùng căn nguyên rất rõ ràng
này.
Trái với ghi chép của thư tịch cổ, chân dung Bà Triệu
trong tình cảm nồng hậu của các thế hệ nhân dân ta thể hiện qua truyền
thuyết dân gian, có một vẻ đẹp rất thánh thiện mà cũng thật đoan trang,
rất thuỳ mị với mọi người nhưng cũng rất dũng mãnh với kẻ thù. thật xứng
đáng với vinh hiệu Nhụy Kiều Tướng quân. Lúc bấy giờ, dù xuất phát điểm
của quân Ngô có chứa chất sự lừa mị và xảo quyệt đến mức độ như thế nào
đi chăng nữa thì chúng cũng đã hoàn toàn đúng khi định sử dụng mỹ hiệu
Lệ Hải đặt trước tước vị Bà Vương để phong cho Bà.
Lăng Bà Triệu
|
Ở khu vực núi Tùng, mộ của Bà Triệu vẫn được đời nối
đời trân trọng gìn giữ, đền thờ Bà Triệu đã gần 20 thế kỷ qua vẫn nghi
ngút khói hương. Tên tuổi và sự nghiệp của Bà Triệu đã trở nên bất diệt
với vạn cổ thử giang sơn (muôn đời sông núi này) (Chữ của Trần
Quang Khải trong bài cảm khái ông viết sau trận đại thắng quân Mông
Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (1285) và mãi mãi toả sáng trong sử
sách cũng như trong ký ức của các thế hệ nhân dân yêu nước:
Tùng sơn nắng quyện mây trời,
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét