Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 49

(ĐC sưu tầm trên NET)

Lý Triện (? - 1427)

VietnamDefence - “Lý Triện là bậc giàu tài năng và dũng lược hơn người. Ông theo vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) khởi nghĩa ở Lam Sơn ngay từ những ngày đầu tiên, từng trải không biết bao nhiêu gian nan, nguy hiểm” - Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).
Lý Triện (Lý Triện được ban quốc tính (tức là lấy theo họ của Lê Lợi), nên sử cũ cũng thường chép là Lê Triện) người làng Bái Đô, huyện Lôi Dương, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Hiện vẫn chưa rõ ông sinh vào năm nào. Khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cùng với thân phụ là Lý Ba Lao, ông đã nhiệt liệt hưởng ứng và có mặt bên cạnh Lê Lợi ngay trong những ngày chuẩn bị gian khổ đầu tiên.

Đến với Lam Sơn, Lý Triện được Lê Lợi hết lòng yêu quý và tin cậy. Ông được giao trách nhiệm chỉ huy một đơn vị nghĩa binh.  Đáp lại Lý Triện cũng đã tuyệt đối trung thành và anh dũng chiến đấu vì đại nghĩa cứu nước cứu dân. Càng về sau, tài năng quân sự của Lý Triện càng bộc lộ một cách rõ nét hơn. Trên đại thể, chúng ta có thể phác họa những công hiến của ông đối với cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại đầu thế kỷ XV qua mấy sự kiện chính yếu sau đây:
  •  Sự kiện thứ nhất xảy ra vào năm Canh Tý (1420)
Bấy giờ tướng giặc là Lý Bân và Phương Chính, cho quân băng qua đất Quỳ Châu (nay thuộc tỉnh Nghệ An) để rồi từ đó, vòng lên đánh vào lực lượng của Lam Sơn lúc đó đang đóng tại Mường Thôi.
Lý Triện được lệnh cùng với các tướng Nguyễn Lý và Phạm Vấn, đem quân ra đánh cản bước tiến của quân Minh, tạo điều kiện cho Lê Lợi có đủ thời gian để có thể bố trí một trận đồ mai phục tại khu vực Bồ Mộng. Lý Triện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Bình Định Vương Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn hết lời khen ngợi. 
  • Sự kiện thứ hai xảy ra vào năm Nhâm Dần (1422)
Năm ấy nghĩa quân Lam Sơn đã đập tan cuộc tấn công vừa rất bất ngờ lại vừa rất hiểm hóc của Ai Lao và sau đó, rút về đóng tại Quan Gia.  Một lần nữa, giặc Minh và Ai Lao lại phối hợp với nhau đề đánh vào Quan Gia.
Trước cuộc tấn công quyết liệt này, Lê Lợi quyết định cho quân rút lui về Khôi Huyện. Giặc tức tối cho quân truy đuổi và nhanh chóng bao vây địa điểm đóng quân của Lê Lợi ở Khôi Huyện. Một cuộc ác chiến đã diễn ra. Trong trận ác chiến này, Lý Triện và các tướng Lê Lĩnh, Phạm Vấn đã lập công lớn. Ông đã có công chém được tên Tham tướng của giặc là Phùng Quý cùng hơn 1000 tên giặc, bắt được hơn 100 con ngựa. Quân Minh và quân Ai Lao buộc phải tháo lui.
  • Sự kiện thứ ba xảy ra vào đầu nam Ất Tỵ (1425)
Khi ấy Đinh Lễ được lệnh ra đánh Diễn Chậu. Ngay sau khi Đinh Lễ xuất quân, Lê Lợi lại sai Lý Triện cấp tốc lên đường đi tiếp ứng. Lý Triện đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hơn thế nữa, ông còn chủ động đem quân ra vây hãm thành Tây Đô. Nhờ công lao này, Lý Triện được Lê Lợi phong tới hàm Thiếu úy.
  • Sự kiện thứ tư xảy ra vào mùa thu năm Bính Ngọ (1426)
Bấy giờ, trên cơ sở phân tích những biến đổi ngày càng sâu sắc của tình hình chung, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn sai một loạt các tướng đem một vạn quân, chia làm ba đạo khác nhau, cùng luồn sâu vào khu vực còn tạm bị quân Minh chiếm đóng để hoạt động và dọn đường cho cuộc tấn công của Lam Sơn sau này.
Lý Triện vinh dự được cùng với các tướng lừng danh khác như Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả và Đỗ Bí chi huy đạo quân thứ nhất. Đạo này gồm hơn 3000 quân sĩ và một thớt voi, có nhiệm vụ bí mật băng qua khu vực thuộc các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Hà, Hòa Bình, Vĩnh Phúc và Phú Thọ ngày nay rồi tiến xuống, trực tiếp uy hiếp mặt Nam của thành Đông Quan, đồng thời, sẵn sàng chặn đánh viện binh của giặc rất có thể sẽ đến từ hướng Vân Nam (Trung Quốc). Đây là đạo quân đã lập được nhiều chiến công vang dội nhất. Vừa tiến ra Bắc, họ đã đánh thắng ba trận lớn. Trận thứ nhất ở Ninh Kiều (nay thuộc Hà Tây). Trận thứ hai ở Nhân Mục (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Và trận thứ ba ở Xa Lộc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Sau ba trận thắng lớn đó, đạo quân thứ nhất đã nhanh chóng biến Ninh Kiều thành một khu căn cứ rất lợi hại cho mình.

Trước tình thế nguy hiểm này, triều đình nhà Minh đã quyết định sai viên tướng, tước Thành Sơn hầu là Vương Thông đem 5 vạn quân sang cứu viện. Vì háo hức muốn lập công, Vương Thông đã lập tức chia quân làm ba mũi, dự tính sẽ nhất tề đánh vào Ninh Kiều. Mũi thứ nhất xuất phát từ Thanh Oai (nay thuộc Hà Tây). Mũi thứ hai xuất phát từ Sa Đôi (nay cũng thuộc Hà Tây). Và mũi thứ ba xuất phát từ Cổ Sở (nay thuộc ngoại thành Hà Nội). Với 10 vạn quân trong tay (Kể cả 5 vạn quân có sẵn trong thành và ở các nơi khác kéo về), Vương Thông hy vọng sẽ bóp nát đạo quân thứ nhất của Lam Sơn ở Ninh Kiều bằng một trận tấn công thật ồ ạt và bất ngờ.
Nhưng, khi Vương Thông chưa kịp ra tay thì từ Ninh Kiều, các tướng Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Lý Triện và Đỗ Bí đã chủ động đem quân tấn công vào lực lượng quân Minh ở Thanh Oai. Giặc ở Thanh Oai hốt hoảng  tháo chạy tán loạn. Nhân đà thắng lợi đó, quân Lam Sơn truy đuổi rất quyết liệt và chính cuộc truy đuổi này đã khiến cho cánh quân thứ hai của giặc ở Sa Đôi cũng khiếp đảm mà rút thẳng về Thăng Long, bỏ mặc cánh quân do Vương Thông trực tiếp cầm đầu chơ vơ ở đất Cổ Sở.
Vương Thông tức tối hạ lệnh tập trung hết lực lượng về Cổ Sở để đích thân Vương Thông trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công vào Ninh Kiều. Nhưng khi quân của Vương Thông rầm rộ tiến vào thì Ninh Kiều chỉ còn là một vùng hoang vắng, bởi lẽ, Lý Triện cùng các tướng của Lam Sơn đã nhanh chóng cho lực lượng của mình rút khỏi Ninh Kiều từ trước đó rồi. Giận dữ bởi trận vồ hụt ở Ninh Kiều, Vương Thông lập tức tung quân do thám đi khắp nơi, quyết tìm cho bằng được nơi đóng quân của Lam Sơn. Và chẳng bao lâu sau đó, chúng đã biết được nơi đóng quân mới của Lam Sơn là Cao Bộ (nay thuộc Hà Tây).
Vương Thông chia quân làm hai đạo. Đạo thứ nhất gọi là chính binh, đánh trực diện vào Cao Bộ, cốt thu hút sự chú ý của lực lượng Lam Sơn.  Đạo thứ hai gọi là kỳ binh, có nhiệm vụ vòng ra phía sau Cao Bộ, bất ngờ đánh úp và cùng với chính binh, tiêu diệt toàn bộ quân Lam Sơn tại đây. Hai đạo chính binh và kỳ binh hẹn nhau rằng, hễ đạo nào vào Cao Bộ trước thì nổi lửa và nổi pháo hiệu để thông báo cho đạo kia tiến thật gấp. Kế hoạch của Vương Thông quả là rất nguy hiểm, chứng tỏ Vương Thông thực sự là viên tướng có tài cầm quân. Rất tiếc là tướng Lý Triện đã bắt được khá nhiều lính do thám của Vương Thông, rồi nhờ khéo khai thác nên đã nắm trước được mưu toan này. Theo đề nghị của Lý Triện, các tướng chỉ huy đạo quân thứ nhất của Lam sơn đã quyết định “tương kế tựu kế”, bí mật rút khỏi Cao Bộ và bố trí một trận mai phục có quy mô lớn tại Tốt Động-Chúc Động.
Ngày 7 tháng 11 năm 1426, Vương Thông hí hửng hạ lệnh cho cả chính binh lẫn kỳ binh theo đúng kế hoạch đã định mà đánh vào Cao Bộ.  Nhưng khi chính binh của giặc vừa lọt vào ổ mai phục ở Tốt Động-Chúc Động, thì từ Cao Bộ mật hiệu của giặc đã được quân Lam Sơn nổi lên.
Chính binh cứ tưởng là kỳ binh tiến quá nhanh, ngược lại kỳ binh cứ tướng là chính binh tiến quá nhanh. Chúng vội cột vũ khí lại gấp rút vượt đồng lầy Tốt Động-Chúc Động để kịp vào Cao Bộ. Đúng lúc đó, quân mai phục của Lam Sơn liền nổi lên. Hàng ngũ của giặc bị rối loạn. Lam Sơn nhanh chóng chia cắt đội hình chúng để tiêu diệt. Với khí thế áp đảo, Lam Sơn đã dồn Vương Thông vào cảnh ngộ bất lực hoàn toàn. Hàng vạn quân giặc phải bỏ xác trên cánh đồng Tốt Động-Chúc Động. Bản thân Vương Thông cũng bị thương, phải hốt hoảng tháo chạy về Đông Quan.
Sử cũ chép:
“Ta cả phá giặc, chém dược Trần Hiệp và Lý Lượng cùng hơn 5 vạn sĩ tốt. Giặc bị chết đuối rất nhiều, bị bắt sống hơn 1 vạn tên. Ta bắt được khí giới, ngựa chiến và các thứ vàng bạc, của cải, quân trang, xe cộ không biết bao nhiêu mà kể. Bọn tướng giặc là Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ và Mã Kỳ chỉ chạy thoát thân vào thành Đông Quan” (Lam Sơn thực lục, Quyển 2).
Như vậy, cha đẻ của kế hoạch nhanh chóng rút lui khỏi Cao Bộ và đặt mai phục tại Tốt Động-Chúc Động là tướng Lý Triện.  Ông là linh hồn của trận quyết chiến chiến lược quan trọng này.
  • Sự kiện thứ năm diễn ra vào ngày 20 tháng chạp năm Bính Ngọ (1426)
Ngày hôm đó, Lý Triện cùng các tướng như Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Nguyên Lý và Lê Lãnh (còn đọc là Lê Lĩnh) đem quân đi đánh thành Tam Giang. Thành này là một trong những thành lớn của giặc, nằm ở huyện Phong Châu của tỉnh Vĩnh Phú ngày nay. Sau cuộc tấn công ấy, Lý Triện được điều về để cùng với tướng Lê Văn An, chỉ huy 14 vệ quân án ngữ phía cửa Bắc thành Đông Quan, tham gia vào việc bao vây Vương Thông đang cố thủ trong thành này. 
Ngày 7 tháng 2 năm Đinh Mùi (1427), Vương Thông sai tướng Phương Chính bất ngờ tấn công vào lực lượng của Lý Triện ở Cảo Động (nay là vùng Nhật Tảo, nằm ở mé tây của Hồ Tây-Hà Nội).  Bởi cuộc tấn công thình lình này, Lý Triện đã anh dũng hy sinh.Tướng Đỗ Bí thì bị giặc bắt.
Lý Triện ngã xuống khi cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại sắp đến ngày toàn thắng. Cái chết của ông là một tổn thất lớn của Lam Sơn Sử cũ chép:
“Vua (Lê) Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) cho rằng, tướng Lý Triện là người có công lớn, nhiều lần đánh tan giặc mạnh, lại chết vì việc nước, cho nên thương xót vô cùng. Vua trao cho thân phụ của ông là Lý Ba Lao chức Quan sát sứ, hàm Thượng phẩm lại cấp cho 400 mẫu ruộng; cho con của Lý Triện là Lý Lăng chức Phòng ngự sứ, tước Phục hầu, hàm Thượng Trí Tự và hai con ngựa. Năm Thuận Thiên thứ nhất (tức năm 1428 - NKT), truy tặng (Lý Triện) hàm Nhập nội Tư mã” (Đại Việt thông sử, Chư thần truyện).

Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 1 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 1996.

Lê Thạch (? - 1421)

VietnamDefence - “Ông là cháu của vua Lê Thái Tổ. Lúc nhỏ có sức khỏe lạ thường, tính ưa đọc sách. Lớn lên, ông theo vua Lê Thái Tổ đi đánh dẹp (giặc Minh), đến đâu cũng khó có ai địch nổi, công lao to lớn nhất ba quân” - Đại Nam Nhất thống chí (Tỉnh Thanh Hóa - Tập hạ - mục Nhân vật).
Ông Lê Khoáng, người Lam Sơn (Thanh Hóa), kết hôn với bà Trịnh Thị Ngọc Thương, sinh hạ được ba người con trai, con trưởng là Lê Học, con thứ là Lê Trừ và con út là Lê Lợi (tức vua Lê Thái Tổ). Lê Học có mấy người con thì không rõ, chỉ biết rằng Lê Thạch là một trong những người con của ông. Như vậy, Lê Thạch là cháu gọi Lê Lợi bằng chú ruột.
Thuở thiếu thời, Lê Lợi luôn được anh là Lê Học chăm sóc rất chu đáo, cho nên, ngoài tình nghĩa anh em ruột thịt, lê Lợi còn dành cho Lê Học những tình cảm yêu quý rất nồng nàn bởi sự hàm ơn.  Con của Lê Học là Lê Thạch cũng được Lê Lợi đặc biệt ưu ái.  Khi Lê Lợi chuẩn bị khởi nghĩa, Lê Thạch là một trong những người đầu tiên đã nhiệt liệt hưởng ứng. Bấy giờ, Lê Thạch đã là một thanh niên cường tráng và nổi danh có chí khí hơn người, ông có công đóng góp cho Lam Sơn trong những ngày gian khổ đầu tiên không phải là nhỏ.
Năm 1418, khi Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lê Thạch là một trong những tướng tâm phúc của nghĩa quân do Bình Định Vương Lê Lợi cầm đầu. Tuổi trẻ mà tài cao lại giàu lòng nhân ái, vì thế, Lê Thạch được binh sĩ dưới quyền kính phục mà vâng theo. Sách Đại Việt thông sử có đoạn chép về ông như sau: “Ông tính người nhân ái, ham đọc sách, đã dũng lược hơn người lại khéo vỗ về quân sĩ dưới quyền” (Đại Việt Thông sử, Chư thần truyện).
Sinh thời, Lê Thạch được Bình Định Vương Lê Lợi phong tới chức Thiết kỵ Vệ Thứ thủ (nghĩa là phó chỉ huy vệ quân Thiết Kỵ), tước Lương Nghĩa hầu. Thiết kỵ là vệ quân thường làm nhiệm vụ đột phá và mở đường cho Lam Sơn trong các trận đánh quan trọng. Lương Nghĩa hầu là tước thuộc hàng cao nhất của các tướng lúc bấy giờ.
 
Từ năm 1418-1421, Lê Thạch đã tham gia nhiều trận đánh khác nhau, trong đó có bốn trận lớn và cả bốn trận ấy, ông đều được coi là người lập công đầu.
  • Trận thứ nhất diễn ra vào đầu năm 1418, nghĩa là ngay sau khi khởi nghĩa Lam Sơn vừa mới bùng nổ được 7 ngày. Về diễn biến của trận này, sách Lam Sơn thực lục chép vắn tắt như sau:
“Năm Mậu Tuất (tức là năm 1418 - NKT), Vua (chỉ Lê Lợi- NKT) vừa 33 tuổi, dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn. Ngày mồng 9 (tháng giêng năm 1418 - NKT), bị giặc đến đánh, bèn lui về Lạc Thủy (Tên một địa điểm ở thượng lưu sông Chu, phía trên Lam Sơn - NKT) và đặt phục binh ở đó để chờ. Đến ngày 13, quả nhiên giặc kéo đến. Vua liền tung phục binh ra đánh. Vua sai con của người anh tên là Lê Thạch, cùng với các tướng như Đinh Bồ, Lê Ngân và Lê Lý đem quân xông trước vào trận giặc, chém được đến vài ba ngàn tên, quân trang khí giới bắt được kể có đến hàng ngàn” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1). 
  • Trận thứ hai diễn ra gần như ngay sau trận Lạc Thủy. Bấy giờ, Lê Lợi đã cho lui quân về đóng giữ ở đất Mường Nanh (tên một địa điểm ở phía Tây của Thanh Hóa, gần Lam Sơn).
Tại đây, để chủ động phá thế bao vây càn quét của giặc, Lê Lợi cho quân đánh vào Mỹ Canh (tức là Nghĩa Canh, tên một địa điểm cách Mường Nanh không xa). Ở trận này, nghĩa quân Lam Sơn đã chém được hơn 300 tên giặc và bắt được tướng giặc là Nguyễn Sao. Sử cũ chép rằng, công đầu trong trận này cũng chính là tướng Lê Thạch.
  • Trận thứ ba là trận Úng Ải, nổ ra vào giữa mùa Đông năm Tân Sửu (1421). Sách Lam Sơn thực lục chép về trận đánh này như sau:
“Năm Tân Sửu, tháng 11, ngày 20, tướng giặc là bọn Trần Trí đem quân và ngụy đảng (tức ngụy quan và ngụy quân - NKT) gồm hơn 10 vạn đến đánh sách Ba Lẫm (thuộc Kình Lộng) rất gấp. Vua họp các tướng và nói rằng:
- Quân giặc đông nhưng mỏi mệt. Quân ta ít nhưng đang lúc nhàn rỗi. Binh pháp dạy rằng, được thua là can hệ ở tướng chứ không phải ở chỗ quân ít hay nhiều. Nay quân giặc tuy đông nhưng nếu ta lấy thế quân đang nhàn mà chờ đánh giặc mệt, thì thế nào cũng phá được.
(Nói rồi), Nhà vua liền nhân đêm tối, chia quân đánh úp dinh trại giặc. Quân ta đánh trống reo hò, bức bách dinh trại chúng, chém được hơn ngàn đầu, quân trang khí giới bắt được không biết bao nhiêu mà kể” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1).
Trong trận thứ ba này, một lần nữa, Lê Thạch lại lập công đầu.  Theo Đại Việt thông sử thì: “Ông thường đi tiên phong, có công lao to lớn nhất” (Đại Việt Thông sử, Chư thần truyện).
  • Trận thứ tư diễn ra ngay sau trận Úng Ải. Bấy giờ, quân Minh do Trần Chí cầm đầu đã bị đánh lui, nhưng tình thế lại đột ngột thay đổi theo chiều hướng rất bất lợi cho Lam Sơn.
Sách  Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Đúng vào lúc ấy (lúc Trần Trí rút lui - NKT), Ai Lao cho 3 vạn quân và 100 thớt voi thình lình kéo đến dinh trại của Vua và nói phao là sẽ cùng hợp sức với Nhà vua đánh giặc. Vua (tức Lê Lợi - NKT) tin lời chúng cho nên không phòng bị gì. Không ngờ, đến nửa đêm thì chúng tung quân đánh úp. Vua phải đích thân đốc chiến, đánh nhau liên tục từ giờ Tý (tức từ 23 đến 1 giờ - NKT) tới giờ Mão (tức từ 5 đến 7 giờ - NKT) mới đập tan được quân Ai Lao, chém hơn 1 vạn tên, bắt được 14 con voi và thừa thắng, truy kích liền 4 ngày đêm. Vua cho quân đánh đuổi đến tận sào huyệt của chúng rồi mới về.
Tháng 12 (năm Tân Sửu, 1421 - NKT) Vua đem quân về đóng tại Sách Thủy. Khi ấy, tù trưởng của Ai Lao là Mãn Sát đã lâm vào thế cùng quẫn nên muốn tìm kế hòa hoãn để đợi viện binh. Vua biết đó chỉ là mưu xảo quyệt nên có ý không cho. Các tướng ai cũng xin tạm hòa vì cho là quân sĩ khó nhọc đã lâu, cần phải được ngơi nghỉ.  Lúc đó, chỉ có tướng mang hàm Bình Chương là Lê Thạch nói rằng, không thể cho giặc được giải hòa, liền tự mình hăng hái cầm quân xông lên trước. Chẳng may, (Lê Thạch) trúng phải mũi tên do giặc ngầm bắn ra mà chết (Đại Việt sử ký toàn thư , Bản kỷ, quyển 10, tờ 8-a và 8-b)”.
Như vậy, Lê Thạch là người có công tham gia rất tích cực vào quá trình chuẩn bị lâu dài, gian khổ và công phu cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đồng thời là một trong số các vị tướng lập công to lớn và liên tục trong giai đoạn đầu tiên của cuộc khởi nghĩa này. Công lao của Lê Thạch nổi bật trong bốn trận đánh nói trên.
Ông ngã xuống bởi sự chủ quan của ông, nhưng suy cho cùng thì sự chủ quan ấy cũng có phần nảy nở từ bản thân sự chủ quan của chính Lê Lợi.  Cái chết của Lê Thạch đã khiến cho Lê Lợi và các tướng trong Bộ chỉ huy Lam Sơn cùng tất cả nghĩa sĩ rất thương xót.
Năm 1428, ngay khi vừa lên ngôi Hoàng đế, Lê Lợi đã truy phong Lê Thạch là Nhập nội Kiểm hiệu Thái úy Bình Chương Quân quốc Trọng sự, tước Trung Vũ Đại Vương, cho được thờ tại nhà Tẩm Miếu. Thân phụ của Lê Thạch là Lê Học được phong là Chiêu Hiếu Đại Vương.

Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 1 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 1996.

Lê Ngân (? - 1137)

VietnamDefence - "Là khí thiêng của sông núi đúc nên; Là tài lớn của triều đình gộp lại... / Đức trung trinh mài chẳng thể mòn; Danh tiết sáng, bôi không thể bẩn” - Lời chế văn của vua Lê Thái Tông dẫn lại trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện)
"Xét như Lê Ngân:
Là khí thiêng của sông núi đúc nên;
Là tài lớn của triều đình gộp lại.
Thuở trời đất tối tăm thì sớm biết thánh nhân xuất hiện;
Thời ngang dọc can qua thì lo trước nỗi lo muôn nhà.
Không đội trời chung cùng giặc nước;
Thương dân chìm đắm quyết xông pha.
Đẹp thay:
Đức trung trinh mài chẳng thể mòn;
Danh tiết sáng, bôi không thể bẩn”.
Lời chế văn của vua Lê Thái Tông dẫn lại trong Đại Việt thông sử (Chư thần truyện).

Lê Ngân người xã Đàm Di (Theo Đại Việt thông sử (Chư thần truyện). Đại Nam nhất thông chí (tỉnh Thanh Hoá, mục Nhân vật) nói ông là người huyện Thụy Nguyên. Chúng tôi chưa có dịp khảo sát tại quê nhà Lê Ngân nên tạm chép theo ghi chép của sách xưa), thuộc Lam Sơn, Thanh Hóa, sinh năm nào chưa rõ. Ông cũng là một trong những người đầu tiên đến tụ nghĩa ở Lam Sơn, hăng hái sát cánh với Lê Lợi, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu một mất một còn, nhằm lật nhào ách đô hộ của quân Minh, giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Đi với Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn, Lê Ngân đã nhanh chóng bộc lộ và không ngừng nâng cao tài năng quân sự của mình. Ông dần dần trở thành võ tướng cao cấp của Lam Sơn và lập công xuất sắc trong nhiều trận đánh lớn. Cống hiến của Lê Ngân có thể tóm tắt qua mấy sự kiện lớn sau đây:
  • Trận Lạc Thủy (13 tháng 4 năm Mậu Tuất)
Nếu tính theo dương lịch, trận này diễn ra vào ngày 18/5/1418. Bấy giờ, khởi nghĩa Lam Sơn vừa mới bùng nổ được hơn 4 tháng và đang chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn.
Với quân số áp đảo, quân Minh liên tiếp tổ chức hàng loạt những cuộc tàn công đàn áp khác nhau.  Chỉ tính riêng từ ngày mồng 9-13/4 năm Mậu Tuất (tức là từ ngày 14/18/5/1418), Lam Sơn đã phải chống trả quyết liệt với hai cuộc càn quét lớn. 
Ngày 9 tháng 4 năm Mậu Tuất (14/ 5/1418), ngay sau khi Lê Lợi và nghĩa quân vừa trở về Lam Sơn thì đại quân của giặc kéo đến. Bởi tương quan lực lượng quá chênh lệch, thành lũy kiên cố cũng không còn, nghĩa quân Lam Sơn chỉ có thể tổ chức vài trận đánh cản rồi rút lui lên Lạc Thủy (một địa điểm nằm ở vùng thượng lưu sông Chu, phía trên của Lam Sơn).
Ngày 13 tháng 4 năm Mậu Tuất (18/5/1418), tướng giặc là Mã Kỳ lại đem quân đánh gấp vào Lạc Thủy. Bấy giờ, nhờ dự đoán đúng diễn biến của tình hình, Lê Lợi liền lập tức cho quân mai phục sẵn ở một vị trí hiểm yếu, nằm trên đường dẫn vào Lạc Thủy, quyết đánh một trận phủ đầu thật bất ngờ với quân Minh. Mã Kỳ không hề hay biết gì.
Lực lượng Lam Sơn trong tràn mai phục này có các tướng Lê Ngân, Lê Thạch, Đinh Bồ và Nguyễn Lý chỉ huy. Do khéo tận dụng địa thế lại dành một cách rất bất ngờ và hiểm hóc, nghĩa quân Lam Sơn đã tháng lớn. Ta đã “chém được vài ba ngàn tên, quân trang khí giới bắt được kể có đến hàng ngàn” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1).
Trong trận đánh quan trọng này, tên tuổi của các tướng nói trên, đặc biệt là tên tuổi của Lê Ngân và Lê Thạch, trở nên nổi bật.  Từ đây, Lê Ngân luôn được Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn tin cậy, giao phó những nhiệm vụ ngày càng lớn. Đáp lại, Lê Ngân cũng không ngừng cố gắng lập công, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của Lam Sơn.
  • Tướng tiên phong trong trận Khả Lưu - Bồ Ải (1424) (Về trận đánh này, tham khảo thêm phần viết về Lê Sát)
Cuối năm 1424, Lam Sơn bất ngờ tấn công vào Nghệ An. Kế hoạch chiến lược do Nguyễn Chích đề xướng đã nhanh chóng thu được những kết quả rất tốt đẹp. Lam Sơn chiếm được Trà Lân và khống chế đồng bằng Nghệ An.
Quân Minh do Trần Trí và Phương Chính cầm đầu, dự tính sẽ đánh úp Trà Lân, quyết bóp nát lực lượng của Lam Sơn trong trận càn quét lớn này. Không may cho Trần Trí và Phương Chính, Bộ chỉ huy Lam Sơn đã nhanh chóng cho quân đến chiếm Khả Lưu là cửa ải quan trọng nằm trên đường tiến vào Trà Lân. Mưu toan lợi dụng sự bất ngờ của giặc không thể thực hiện được nữa. Trần Trí và Phương Chính cho quân đóng ở bãi Phá Lữ. Bốn ngày sau, quân Lam Sơn giả vờ rút khỏi Khả Lưu rồi vòng lại bố trí lai phục ở ngay khu đất hiểm này. Trần Trí và Phương Chính ngỡ là Lam Sơn sợ mà rút, liền xua quân đuổi theo. Chẳng dè vừa tiến đến ải Khả Lưu, chúng bị phục binh của Lam Sơn từ ba phía đổ ra đánh. Giặc bị giết có đến hàng vạn tên (Lam Sơn thực lục, Quyển l).
Trong trận đánh này, Lê Ngân và Lê Sát là hai tướng tiên phong, được coi là những người lập công lớn nhất.
Sau trận này, Trần Trí và Phương Chính lại lui quân về bãi Phá Lữ, còn Lam Sơn thì tu bổ chiến lũy để đóng lại ở Khả Lưu. Bấy giờ vì thiếu lương thực, việc đóng lại ở Khả Lưu lâu dài là điều rất khó khăn, còn như rút lui, bỏ đất hiểm ấy cho giặc cũng là điều không thể được. Theo ý kiến của tướng Nguyễn Vĩnh Lộc, Lam Sơn giả vờ đốt doanh trại ở Khả Lưu để rút lên miền thượng lưu, nhưng sau đó thì cho quân vòng lại để mai phục. Trần Trí và Phương Chính lại một lần nữa bị mắc mưu, bị dồn vào thế trận bày sẵn để rồi bị tiêu hao rất nặng nề. Tại đây, “Ta chém được nhiều không kể xiết. Chiến thuyền của chúng ngổn ngang, xác chết nghẽn cả nước, khí giới vất như núi, như gò. Trong trận này, ta bắt sống được tướng giặc là Chu Kiệt và giết được tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được hơn một vạn quân Minh” (Lam Sơn thực lục, Quyển l).
Sử cũ trân trọng chép tên 11 vị tướng Lam Sơn có công lớn ở trận mai phục này, đó là: Lê Sát, Bùi Bị, Phạm Vấn, Đinh Lễ, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Trương Chiến, Lê Tôn Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi và Lê Văn An.
  • Trận Tân Bình - Thuận Hóa (Đầu năm 1425)
Sau khi đã giải phóng được toàn bộ khu vực đồng bằng xứ Nghệ, Lê Lợi cho quân ráo riết vây hãm thành Nghệ An. Để đề phòng khả năng giặc có thể kết hợp đánh từ Bắc đánh vào, đánh từ Nam đánh ra, lại cũng để không ngừng mở rộng vùng giải phóng, Lê Lợi cho một bộ phận lực lượng bất ngờ đánh vào vùng Tân Bình-Thuận Hóa (đại thể là vùng tương ứng với đất đai các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Tri và Thừa Thiên-Huế ngày nay).
Lực lượng này gồm hơn 1000 quân và một thớt voi, do Thượng tướng Lê Nỗ, Chấp lệnh Lê Đa Bồ và tướng Trần Nguyên Hãn chỉ huy. Ngay sau đó, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn lại phái các tướng Lê Văn An, Lý Triện, Lê Bôi và Lê Ngân, đem 70 chiến thuyền, gấp rút vượt biển tiến vào để tiếp ứng.
Sự có mặt của đạo quân tăng cường này khiến cho giặc đã sợ lại càng thêm sợ. Chúng không dám chống cự mà buộc phải rút vào cố thủ trong thành. Vậy là cũng tương tự như ở Nghệ An, Lam Sơn đã giải phóng tất cả vùng đồng bằng dân cư đông đúc, thành giặc chỉ như các ốc đảo chư vơ, có thể bị tiêu diệt bất cứ lúc nào.
Trận Tân Bình-Thuận Hóa có ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ sự phát triển sau đó của phong trào Lam Sơn. Sử cũ đã đánh giá trận này như sau:
“Thế là các xứ Tân Bình và Thuận Hóa đều về ta tất cả. Đó là đất lòng dạ của ta. Đã thu được đất ấy rồi thì mối lo ở phía Nam cũng không còn nữa” (Lam Sơn thực lục, Quyển 1).
  • Vây hãm thành Nghệ An, dụ hàng được Thái Phúc (1427)
Tháng 9 năm 1426, sau khi giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam, Lam Sơn liền cho hơn 1 vạn quân, chia làm ba đạo khác nhau, cùng tiến ra hoạt động ở vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng và tìm cách uy hiếp thành Đông Quan.
Tháng 11 năm 1426, quân Lam Sơn đã thắng lừng lẫy ở trận quyết chiến chiến lược Tốt Động-Chúc Động, đập tan hoàn toàn mưu đồ phản công của Vương Thông.
Tin đại thắng báo về, Lê Lợi rất lấy làm phấn khởi. Ông lập tức đưa toàn bộ Bộ chỉ huy Lam Sơn ra đóng ở ngay vùng ngoại thành Đông Quan. Trước khi đi, Lê Lợi trao quyền tổ chức vây hãm thành Nghệ An cho Lê Ngân. Và Lê Ngân đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Ông vừa ráo riết xiết chặt vòng vây, vừa khỏng ngừng lên tiếng dụ hàng. Tháng 2 năm 1427, tướng giặc đang giữ thành Nghệ An là Thái Phúc phải mở cửa xin hàng, Lê Ngân hiên ngang vào tiếp quản thành Nghệ An. Sự kiện này khiến cho quân Minh thực sự lo sợ. Đội ngũ của chúng mỗi ngày một rêu rã hơn.
Nhờ những công lao như trên, năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Ngân được tấn phong là Suy Trung Tán Trị, Hiệp mưu Công thần, hàm Nhập nội Tư mã, quyền tham dự triều chính. Tháng 5 năm 1429, triều Lê dựng biển khắc tên 93 Khai quốc Công thần, tên ông được xếp ở hàng thứ tư, ông được phong tước Á hầu. 
Năm 1434, Lê Ngân được phong hàm Tư khấu, chức Đô Tổng quản Hành quân Bắc Đạo và được cùng với Đại Tư đồ Lê Sát nắm quyền Phụ chính.
Năm 1437, khi Lê Sát bị bãi chức (Tham khảo thêm chi tiết của sự kiện này trong phần viết về Lê Sát), ông được trao quyền Tể tướng, được phong là Nhập nội Đại Đô đốc, Phiêu kỵ Thượng tướng quân, Đặc Tiến Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty, Thượng trụ quốc, tước Thượng hầu. Nhưng, chỉ đến cuối năm 1437, ông cũng bị buộc phải tự tử, gia sản bị tịch thu và con gái ông là Huệ phi Lê Nhật Lệ bị giáng xuống hàng Tu Dung (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 17, tờ 15).
Sinh thời, Lê Ngân là bậc tài cao, dũng mãnh và mưu lược, nhưng, khi làm quan trong thời thái bình, ông lại là người thiếu bản lĩnh chính trị và có phần hẹp hòi. Sử cũ nhận định về ông như sau:
“Tính ông cứng rắn mà hẹp hòi. Có tên Phạm Mấn là người cùng làng, vì có việc tranh ruộng với nô tì của ông nên có lỡ nói càn quấy mấy câu. Tên nô tì giận, nói rằng khi Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) khởi binh, (Phạm) Mấn theo quân Lam Sơn đi đánh Sách Cối nhưng rồi lại đầu hàng giặc, chỉ cho chúng biết cách bố phòng và trang bị của quân ta, làm cho quân ta không thể đánh được, phải quay về. Nhà vua biết chuyện đó, liền giao cho hình quan xét xử, khép (Phạm Mấn) vào án chém. Lê Sát nói:
- Nay chúng ta có quyền thế mà lại đi thù người làng thì muốn gì mà chẳng được. Nhưng sau này lỡ ra ta bị thất thế thì làm sao mà tránh được nợ ân oán cho con cháu mình.
Lê Ngân to tiếng ngay:
- Nếu con cháu chúng nó mà gây thù oán thì lẽ nào con cháu ta lại không thể trả thù ?
Sau, (Phạm) Mấn được tha tội chết, nhưng phải chịu án đi đày viễn xứ” (Đại Việt thông sử , Chư thần truyện))
Về vụ án Lê Ngân, sử cũ chép rằng:
“Mùa đông, tháng 12 (năm Định Tỵ, 1437 - NKT) có người tố giác rằng nhà Lê Ngân thường thờ Phật Quan âm cốt để cầu cho con gái được Vua yêu hơn. Nhà vua ra cửa Đông kinh thành, sai Thái giám là Đỗ Đại đem 50 võ sĩ đến nhà ông lục soát, bắt được tượng Phật và nhiều thứ vàng bạc, vải lụa. Hôm sau, Lê Ngân vào chầu, bỏ mũ để tạ tội. Vua sai bắt nô tì nhà ông ra tra hỏi.
Lê Ngân liền tâu rằng:
- Trước đây thần từng theo vua (Lê Thái Tổ) khởi nghĩa ở Lam Sơn. Nay tuổi già lắm bệnh, nghe thầy bói nói ngôi nhà thần ở, trước là nơi thờ Phật, vì làm cho ô uế nên mới sinh ra lắm yêu quái.  Muốn hết tai họa thì phải sửa lễ để cầu. Thần có người thiếp họ Nguyễn, đã bị thần đuổi đi, lại thêm người thiếp họ Trần vốn của Lê Sát được (triều đình) ban cho, cả hai người ấy đều thù ghét thần, thường cùng với bọn gia nô ương ngạnh, thêu dệt cho nên chuyện đó thôi. Xưa Tiên Đế (chỉ Lê Lợi - NKT) từng biết rõ lòng thần, thường ưu đãi và bao dung. Nay thần đã mỏi mệt, xin được về với ruộng vườn ở chốn quê nhà để sống nốt chút đời tàn. Nếu cứ nghe lời tả hữu mà tra tấn người nhà của thần, thì kẻ bị đòn đau tất nhiên sẽ khai lời sai sự thật, thì tấm thân của thần đây chắc cũng khó mà giữ được xin bệ hạ nghĩ lại cho.
Nhà vua không nghe. Hình quan chiều theo ý Vua, lại thêu dệt thêm cho thành án. Tờ xét tội trạng dâng lên, Vua bắt ông phải tự tử và sai tịch thu hết gia sản của ông” (Đại Việt thông sử, Chư thần truyện)).
Sử thần xưa cho là ông không đáng tội chết mà lại phải chịu chết, rất đáng thương. Mãi đến năm 1453, nhân kỳ đại xá, vua Lê Nhân Tông mới sai cấp cho con ông 100 mẫu ruộng để lo hương hỏa cho ông. Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), vua Lê Thánh Tông truy tặng ông hàm Thái bảo, tước Hoằng Quốc công.

Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 1 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 1996.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét