Thứ Ba, 21 tháng 4, 2015

CÂU CHUYỆN TÍNH BÁO 42

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Các nữ gián điệp

VietnamDefence - Vào năm 1996, châu Âu giỏng tai lên khi nghe tin có đúng ba vị tuỳ viên quân sự phải bay khỏi Rumani. Cả ba người đều bị cáo giác vì có quan hệ với nữ phóng viên ở Bucarest tên là Floriana Yukon, tóc hung, 23 tuổi, chẳng thể gọi là đẹp nhưng rất bốc lửa, ngay trên ảnh cũng thấy rõ điều đó.
Nữ điệp viên SVR Anna Chapman

Nhân đây cũng phải nói là bức ảnh ấy được chụp ở Thuỵ Sĩ. Hoá ra ông đại sứ Thuỵ Sĩ, mặc dù đã có vợ, nhưng vẫn kịp lôi cô gái này đi với mình về nước và cùng cô ta có mặt tại một buổi chiêu đãi nào đó. Cô ta đã láu cá moi từ ông ta mọi thông tin, chuyển cho cơ quan tình báo Rumani và trong suốt thời gian đó cô vẫn sống tại căn hộ ở trung tâm Bucarest mà quý ông Thuỵ Sĩ kia thuê để hò hẹn với cô ta. Nhưng điều thú vị nhất là các điệp viên như thế thường không sống lâu vì có nhiều người biết họ, nhưng cô gái tóc hung này đã đề phòng trường hợp đó. Cô ta đã hiến mình cho xếp tình báo Rumani, nhưng trước đó đã thoả thuận với các đồng nghiệp của ông ta chụp ảnh toàn bộ cảnh ân ái tán tỉnh. Vì thế bây giờ rất khó có thể loại bỏ cô ta được, cô ta có bằng chứng tố cáo tất cả.

Hơn nữa, đây cũng không phải là trường hợp duy nhất. Lịch sử đã biết đến hàng mấy chục phụ nữ được đàn ông tiết lộ các bí mật quân sự, gây chiến tranh vì họ, cho họ biết những điều thiêng liêng nhất của bộ máy nhà nước....

Ví dụ kinh hoàng đầu tiên, chúng ta đã gặp trong Kinh Thánh: để cứu dân tộc mình khỏi cuộc xâm lược của kẻ chinh phục Holophernes, cô gái đẹp Judith đã hiến mình cho Holophernes trong lều của hắn, đợi cho hắn ngủ say sau khi đã thoả mãn thì cô đã cắt lấy đầu hắn. Hình ảnh cô gái này với cái thủ cấp đẫm máu đã được vẽ trong bức tranh của danh hoạ Italia Giorgione (1477/8-1510).

Nhưng một không gian hoạt động mênh mông đã thực sự mở ra trước phụ nữ một khi họ được đưa vào các cuộc săn tìm bí mật. Cả Pushkin, người vốn rất dễ xiêu lòng trước phụ nữ đẹp - một điều ta đã thấy rất rõ ở trên, cũng không thoát khỏi những sợi tơ mà một nữ gián điệp giăng ra. Nữ gián điệp được cử đến bám Pushkin là người đẹp Ba Lan Carolina Sobanskaya, người phụ nữ có những phẩm chất siêu phàm và giàu kinh nghiệm tình trường đến nỗi nhà thơ vĩ đại Nga của chúng ta đã bó giáo quy hàng nhanh chóng. Thừa biết cách làm xiêu lòng thiên tài Nga này, trước tiên cô ta xin Pushkin viết vào album của cô ta (“Chỉ viết tên thôi!”) - và thay vì viết chữ, ông đã viết vào đó một trong những bài thơ xuất sắc nhất của mình: “Với nàng, tên ta có nghĩa gì”. Sau này, đã xuất hiện ở Nga một người khả nghi về ý thức dân tộc tên là Mitskevich, và Sobanskaya lại được cử đi theo anh ta. Pushkin tất nhiên là không biết toàn bộ những điều uẩn khúc này và đã rất ghen tuông. Ông và Mitskevich đã cãi nhau dữ dội và dư âm của cuộc cãi lộn này đã được phản ánh trong thái độ của Pushkin đối với cuộc khởi nghĩa năm 1831 ở Ba Lan.

Sử dụng đàn bà làm gián điệp đã thực sự đạt đến mức thảm hoạ vào cuối thế kỷ XIX. Cần phải tôn Fräulein Doktor von Hinrichsen lừng danh là nữ gián điệp nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất thế giới, mà cho đến nay người ta vẫn còn bịa ra các truyền thuyết về cô ta.

Trên thực tế, cô ta tên là Anna Maria Lesser, con gái một nhà buôn tranh và đồ cổ. Thật là thú vị khi mà sự nghiệp của nữ gián điệp nổi danh nhất này lại bắt đầu không ở đâu khác mà lại ở chính St. Petersburg. Ông bố đến đây cùng với cô con gái để nghiên cứu nền nghệ thuật ở đây khi đó đang ở thời kỳ hoàng kim. Cô con gái, khi đó đã 17 tuổi, lại si mê điên dại một tuỳ viên quân sự Đức, một sĩ quan kỵ binh Phổ, một quý tộc quân sự điển hình. Lập tức anh ta thuê ở Petrograd một căn hộ nhỏ để cùng cô gái đắm mình vào hoan lạc cuồng say.

Ông bố đã về nước, còn Anna Maria ở lại, nhưng anh chàng kỵ binh của chúng ta bỗng phát hiện ra người Nga - những kẻ thù tiềm tàng truyền kiếp của Phổ, mới có một loại vũ khí mới nào đó được cải tiến từ loại súng trường bộ binh đã được đưa vào trang bị từ cuối thế kỷ. Viên tuỳ viên không nghĩ ngợi lâu mà dùng ngay tình nhân của mình để câu một trong những tướng lĩnh cao cấp của Nga mà anh ta quen sơ sơ. Đến sáng thì ông tướng kia đã vẽ cho cô bản vẽ mặt cắt khẩu súng trường cùng những giải thích chi tiết. Anna Maria mang bản vẽ chạy ngay tới người tình tuỳ viên quân sự và anh ta hiểu cô gái này không phải giành cho anh ta, cô ta là người mà tổ quốc anh ta đang cần có. Anh ta đích thân đưa người tình vào trường gián điệp trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Đức, ở đó cô ta đã học tất cả các thứ tiếng châu Âu và bắt tay vào hoạt động.

Fräulein Doktor không thương tiếc một ai và điều đó được thể hiện rõ nét trong một câu chuyện như sau. Ngoại trừ cô ta ra thì chỉ duy nhất người tình, đồng thời là cấp dưới của cô ta là được biết về một người cung cấp tin người Pháp. Người cung cấp tin đó bị bắt. Lesser đã không chút do dự bắn vỡ sọ người tình. Cô ta là một trong những người đầu tiên đã báo tin người Anh và người Pháp đang chuẩn bị chế tạo xe tăng. Một quan chức nào đó trong Bộ Tổng tham mưu Đức đã gọi đó là truyện viễn tưởng tầm phào. Đến khi xe tăng xuất hiện trên chiến trường, Fräulein Doktor đã đến gặp và đích thân bắn chết ông ta. Rất có thể tất cả đều chỉ là truyền thuyết, tuy nhiên sự thật vẫn là sự thật và chính Fräulein Doktor đã trở thành nguyên nhân khiến người Nga bị thất bại ở vùng hồ Mazur.

Khi xâm nhập được vào phía Nga (để làm thế chỉ cần vượt qua mặt trận!) và nói dối mình là dân địa phương, một bà goá, cô ta đã dụ dỗ một số sĩ quan để moi tin về sự bố phòng của quân Nga và gửi tin về bằng chim bồ câu qua trận tuyến. Fräulein Doktor đã sống yên ổn đến hết chiến tranh mặc dù liên tục có tin cô ta bị bắn chết. Cô ta cũng chính là xếp của nữ gián điệp nổi tiếng nhất của mọi thời đại và mọi quốc gia Mata Hari.

Cần phải nói rằng, thời chiến, người ta chẳng hề nương tay với các nữ gián điệp: vào năm 1916, quân Đức đã xử bắn Gabriela lừng danh, người đã giúp các sĩ quan đồng minh tù binh chạy thoát về vượt qua biên giới Thuỵ Sĩ. Gabriela ve vãn các lính Đức nên chúng đã kiểm tra sơ sài các giấy tờ giả. Một lần chị đã bình tĩnh giúp những mình bảo trợ giấu xác một tên mật thám chuyên theo dõi họ đã bị họ giết chết. Theo lời kể của những người được chị cứu thoát, Gabriela cực kỳ xinh đẹp. Tuổi cô còn chưa đến 20 tuổi.

Còn Marusia Destrels cũng là một nữ nghệ sĩ kiêm điệp viên nổi tiếng đã bị bọn phản gián Đức đầu độc. Chị đã biểu diễn trên sân khấu và được nhất trí coi là nữ gián điệp có vẻ đẹp yếu đuối và ngây thơ nhất trong tất cả các nữ gián điệp mà loài người từng biết đến. Số nhân tình của Marusia Destrels phải lên tới mấy chục. Bọn Đức tìm thấy cô ở Thuỵ Sĩ trong thời gian chiến tranh. Chúng tự xưng là những người ái mộ tài năng của cô để mời cô đến nhà uống cà phê đã bị hạ độc.
Trong thời gian Thế chiến I, người Anh đã tóm được nữ gián điệp Elizabeth Wertheim, một trong những phụ nữ tinh quái và can trường nhất trong lịch sử tình báo. Liên lạc viên của cô ta là người đóng vai nhân tình (mà có thể thực tế đúng là vậy) có tên Brekof nào đó hoạt động dưới cái tên Reginald Roland. Wertheim chuyên săn lùng các sĩ quan hải quân mà họ thì không thể đứng vững trước đôi mắt xanh đẹp như tiên của cô ta.

Vì đôi mắt xanh tuyệt đẹp ấy, các sĩ quan đã nói cho cô biết mọi thông tin về tình hình bố trí của các con tàu đồng minh, còn Reginald Roland thì ghi lại toàn bộ thông tin ấy bằng mực mật. Thứ bột làm mực mật được giấu trong lọ đựng bột tan. Roland dễ dàng bị tóm và hắn đã khai ra Elizabeth, nhưng cô đã cương quyết không khai nhận bất cứ điều gì. Người ta đã giảm án tử hình cho cô thành án khổ sai chung thân.

Một nữ gián điệp khác, Louisa de Betini đã chết khi chịu án tù chung thân. Sau khi chết, cô đã được trở về tổ quốc, người Đức đã trả xác cô cho người Pháp và cô đã được chôn cất ở Pháp với nghi thức danh dự nhà binh.

Mặt khác, cả sự can trường, cũng như quỷ quyệt của phụ nữ đều không phải là tuyệt đối. Đôi khi các nữ gián điệp cũng gục ngã vì tình. Vũ nữ Blanch Poten kiếm sống khi thì ở Madrid, khi thì ở Paris, sau đó đồng minh tống cô về Brussels... Cũng chính ở đó, cô đã đem lòng yêu một nhân viên phản gián Đức Anh ta đã bị bại lộ và bây giờ người ta hy vọng Blanch Poten sẽ moi được những gì còn lại. Nhưng nhân viên phản gián kia lại tỏ ra là một bậc thầy về tình dục và một hiệp sĩ thực sự, thế là nữ gián điệp lại quay ra chết mê chết mệt anh ta và sau một tháng hò hẹn mê ly, cô ta đã tố giác với cho nhân viên phản gián Đức này tất cả những điệp viên Pháp mà cô ta biết. Người ta đã nói ầm ĩ về thất bại nhục nhã này. Sau này, họ đã lấy nhau và rời khỏi cơ quan phản gián. Blanch Poten sống hết đời với vai trò người mẹ hiền.

Một trong những trang chói sáng nhất trong lịch sử các trò tình ái chính trị đã được viết lên bởi chính một cô gái Nga - Nadezhda Plevitskaya. Plevitskaya nổi tiếng là một ca sĩ trứ danh của những bài dân ca Nga, chính sa hoàng Nikolai II cũng đã hai lần nghe cô hát, các nhà phê bình khó tính đều khâm phục tài năng nghệ thuật của cô, còn vẻ ngoài hơi tầm thường, đầy chất Nga (chiếc mũi hếch, gương mặt to, khả ái, dáng người thấp, ngực đầy và chắc, đôi mắt đen sâu) lại có một ma lực không thể cưỡng lại được. Plevitskaya đã được ai tuyển và tuyển khi nào thì ngày nay không ai có thể nói được, nhưng dù sao thì trong thời nội chiến, người ta đã trông thấy cô ở bên phe Đỏ. Khi sống lưu vong ở Paris, cô đã tuyển được cựu sĩ quan bạch vệ Skoblin.

Skoblin trẻ hơn và là thành viên của Liên hiệp cựu binh Nga lưu vong ROVS. Thực ra thì anh ta vào năm 1928 mới gia nhập tổ chức này, còn trước đó thì làm chủ nhân ông của người vợ mà anh vô cùng yêu thương. Ngay trước khi chết, Plevitskaya đã thú thực với chồng là chính chị đã đưa Skoblin vào ROVS theo lệnh của những người Bolshevik để phân hoá tổ chức này từ bên trong.

Khi trở thành chỉ huy tình báo và phản gián của ROVS vào đầu những năm 30, Skoblin đã tập trung trong tay mình toàn bộ thông tin về các tướng lĩnh bạch vệ điên cuồng nhất và nói chung là về tất cả các tổ chức quân sự bạch vệ lưu vong. Có đầy đủ cơ sở để cho rằng, vào năm 1930, Skoblin đã tham gia vào vụ bắt cóc Kutepov, còn sau vụ bắt cóc tướng Miller vào năm 1938, anh ta đã biến mất.

Miller biết mình có thể bị bắt cóc. Ông ta không tin tưởng Skblin và đã để lại mảnh giấy phòng khi bị bắt cóc mà vì thế mà mọi chuyện đã bại lộ. Plevitskaya đã bị bắt, nhưng chị đã kiên quyết phủ nhận là mình đã biết về hoạt động của chồng. Cần nói thêm là, Skoblin đã nảy ra ý định thành lập trong nội bộ ROVS cả “một đường dây nội tuyến” cộng tác với NKVD. Plevitskaya buộc phải trả giá vì tất cả bọn phản bội này, chị đã bị kết án 20 năm tù khổ sai, sau ba năm chị qua đời tại bệnh viện nhà tù ở Alsace Lotaringia, nhưng trước khi chết đã thú nhận một số điều. Chị đã khai mình làm việc cho NKVD từ những năm 20 và đích thân chỉ huy “đường dây nội tuyến”. Nhưng có phải đây là cố gắng muộn màng nhằm đề cao mình trong mắt của người đời sau và để sự trừng phạt không còn vẻ quá oan uổng hay không?

Một logic độc đáo, nhưng về mặt nào đó lại đậm chất phụ nữ...

Tóm lại, trong một thế kỷ rưỡi gần đây, người ta đã biết đến một số cái tên mà bên chúng thì Floriana Yukon dường như chỉ còn là cái bóng mờ. Nhưng tất cả những người đồng cảnh ngộ ấy với tất cả sự nhơ nhuốc, đê tiện hiển nhiên của mình vẫn cứ gợi lên sự kính phục khó tả ở các nhà quan sát ngày nay. Đúng là trên giường, đàn ông trở nên ba hoa và yếu đuối, đúng là mọi thủ đoạn dùng tình yêu (hoặc trò chơi tình ái) nhân danh chiến tranh đều là sự cực kỳ đê tiện và đa số các nữ gián điệp đã bị trừng phạt vì họ không bao giờ được biết đến tình yêu đích thực. Chẳng lẽ người ta có thể yêu những người đàn ông đầu tiên mà đa phần là các sĩ quan.

Nhưng dù sao thì sau một đêm kề vai ấp má với Plevitskaya, Mata Hari, Blanch Poten hay bất kỳ ai khác trong số họ (tất cả họ đều là những mỹ nhân, một điều không thể khác được trong công việc của họ) cũng đáng thể nói ra đôi ba bí mật quân sự. Bởi vậy thôi cứ kệ cho họ tiếp tục làm thế. Với họ còn thú vị hơn là với Stirlitz.

Điệp viên thế kỷ XX: Điệp viên “Con gấu” bị bại lộ

VietnamDefence - Vào tháng 3 năm 1994, trên báo chí Nga thoáng có tin: các cơ quan phản gián đã bắt một công dân bị buộc tội làm việc cho cơ quan tình báo Đức BND.
Chẳng hề có tên tuổi của tên gián điệp ấy, cũng chẳng có những “thông tin nhận dạng” nào. Tuy nhiên, cơ quan tình báo Đức không có gì phải nghi ngờ về nhân thân của kẻ bị bắt.  Ở Bonn, người ta biết khá rõ điệp viên Bear (con gấu) của mình, thiếu tá Cục An ninh Liên bang FSB Vladimir Lavrentev.

Việc kẻ bị tạm giữ và Bear cũng chính là một người cuối cùng đã trở nên hoàn toàn sáng tỏ vào tháng 8 năm 1995 khi Viện tổng công tố quân sự chính thức tuyên bố hồ sơ cáo trạng buộc tội công dân Liên bang Nga Vladimir Aleksandrovich Lavrentev theo điều 64, khoản a của Bộ luật hình sự Liên bang Nga (tội phản bội tổ quốc) đã được chuyển cho Toà quân sự-Toà án tối cao.

Vladimir Lavrentev bắt đầu phục vụ trong các cơ quan của KGB vào những năm 70. Sau khi tốt nghiệp xuất sắc Trường Cao đẳng KGB (nay là Học viện FSB), hắn đã lọt được vào cơ quan tình báo quân sự. Số phận đã đưa Lavrentev đến với Cụm quân Xôviết đóng tại Đức và công tác tại một trong vô số các phòng đặc vụ.

Hiển nhiên là chẳng cần giải thích cho những độc giả đã trải qua quân ngũ ai là các nhân viên đặc vụ nữa. Những nhân viên đặc vụ ở nước ngoài khác với những đồng nghiệp Nga có chăng là ở chỗ họ có ý thức cảnh giác cao hơn và tiền lương trả bằng ngoại tệ cao hơn.

Khi trở về nước, Lavrentev đã tiếp tục làm việc theo chuyên môn ở Cục 3 của KGB Liên Xô (nay là Cục Phản gián quân sự của FSB Liên bang Nga), còn năm 1988 lại được cử đến địa bàn đã quen thuộc, thị trấn Eberswald ở Cộng hoà Dân chủ Đức.

Theo giả thiết chính thức của KGB, lần tiếp cận đầu tiên nhằm tuyển mộ Lavrentev đã được thực hiện vào đầu năm 1991 khi nước Đức đã thống nhất và cơ quan tình báo sở tại BND đã cảm thấy mình khá thoải mái trên vùng lãnh thổ phía Đông của nước Đức mới. Sau khi phân tích qua tình hình, người Đức biết điểm yếu của nhân viên phản gián Nga kia - đó là tiền, tiền lương sĩ quan không đủ cho mọi chi tiêu.

Người đã “đưa đường chỉ lối” đến Lavrentev là một người quen cũ của hắn, một nhân viên Stasi (Bộ An ninh quốc gia Cộng hoà Dân chủ Đức). Anh nhân viên Cheka này dĩ nhiên là không viết “người đồng nghiệp” đã từ lâu cộng tác với BND bởi vậy “cuộc gặp gỡ tình cờ” đã không gây ra cho anh ta chút nghi ngờ nào. Chúng mê mải chuyện trò. Qua nói chuyện mới biết rằng cả hai đều hoảng sợ trước những gì đang diễn ra ở Liên Xô, sợ sự tan rã của các cơ quan, bộ máy.

Nhanh chóng người Đức đã mời người bạn cũ đến nhậu. Là một dân trong nghề dày dạn kinh nghiệm, Lavrentev đáng ra đã phải lập tức thận trọng: vì đâu mà lại có sự quan tâm đến thế đối với một cá nhân bé nhỏ như anh ta. Nhưng anh ta vẫn nhận lời mời.

Tiếp đó trò chơi diễn ra rất chóng vánh. Lavrentev lập tức được đề nghị bán tài liệu mật an ninh quốc gia cho BND để lấy ngoại tệ mạnh.

Trong ba năm, Bear đã cung cấp cho các sĩ quan chỉ đạo của mình hàng đống giấy tờ mật và những tin tức về nhiều cán bộ an ninh quốc gia ở Đức, đã thực hiện mười cuộc gặp bí mật với các nhân viên tình báo Đức.

Sau khi trở về Moskva, hắn vẫn không mất liên lạc với những ông chủ mới. Hắn đã gửi tin tức sang Cộng hoà Liên bang Đức bằng những đường khác nhau, kể cả bằng đường bưu điện thông thường. Theo khẳng định của một trong những sĩ quan của Viện tổng công tố quân sự, sự việc còn đi đến mức Leavrentev còn thực hiện chuyến đi riêng đến Pribaltik để gặp các sĩ quan tình báo chỉ đạo mình.

Điều gì đã giúp các nhân viên phản gián Nga lần ra dấu vết của Bear? Chính họ đã đề nghị chúng ta tin vào giả thiết “tính toán sai về logic”. Nghe nói hình như BND đã mắc một sai lầm nào đó mà lập tức Moskva túm được. Tuy nhiên, bất kỳ học trò nào của Lubyanka cũng thừa hiểu để chộp được một tính toán sai của cơ quan tình báo đối phương thì cần phải có nguồn cung cấp tin trong nội bộ cơ quan đó.

Còn có một giả thiết khác: Lavrentev đã bắt đầu lao vào uống rượu và khi đã đã say tít cung thang, hắn đã mang khỏi cơ quan các tài liệu tuyệt mật. Các tài liệu bị giữ, hắn đã thanh minh nhưng vẫn dính theo dõi.

Các nhân viên Cheka cũng là con người. Nhiều người trong số họ còn nghiện thuốc. Có lẽ cũng phải có dăm ba anh bị đồng tính. Có cả những người mê thích chai rượu. Nhưng chỉ một việc đó chưa chắc đã buộc FSB tiến hành điều tra Lavrentev.

Dù sao thì vào tháng 3 năm 1994, viên thiếu tá của Cục Phản gián quân sự thuộc FSB đã bị các đồng nghiệp của mình bắt giữ. Cuộc khám xét tại căn hộ của anh ta đã xác nhận mọi nghi ngờ. Tại nhà Lavrentev, đã tìm thấy các bức ảnh chụp các bản sao tài liệu mật, tài liệu hướng dẫn phương tiện kỹ thuật điệp báo, cả các phương tiện kỹ thuật như các cuốn sổ viết mật, các đĩa ghi chương trình mã, các khoá mã, máy ảnh vi hình. Và tiền. Rất nhiều tiền.

“Tên gián điệp hai mang” này không ngoan cố lắm - hắn đã ngoan ngoãn hợp tác với cán bộ điều tra, thành khẩn kể lại tất cả và khai ra những cái tên.

Thái độ thành khẩn, giúp đỡ đối với cơ quan tư pháp đã được tính đến - ngày 16 tháng 8 năm 1995, Toà quân sự-Toà án tối cao đã kết án công dân V.A. Lavrentev 10 năm tù, tịch thu một nửa gia sản, tước quân tịch và các phần thưởng nhà nước. Những người chứng kiến đã nhận xét là Bear cư xử tại toà khá bình tĩnh. Người ta có cảm giác hắn đã biết trước phán quyết của toà.

Mười năm là quá nhẹ đối với một tên phản bội đeo quân hàm. Và cả cái nguyên nhân được nại ra cho sự giảm khinh đó cũng là quá vớ vẩn - do có con trai chưa đến tuổi vị thành niên. Những người như hắn thì lúc nào mà chả sẵn lòng giúp đỡ điều tra, nhất là khi chúng chả còn con đường nào khác.

Dưới đây là đoạn trích cuộc nói chuyện với thượng tướng Aleksandr Molyakov, Cục trưởng Cục Phản gián quân sự (UVKR) của FSB:

- Trong năm 1992, cơ quan phản gián quân sự đã phát giác 11 điệp viên của các cơ quan tình báo nước ngoài trong các quân nhân Nga. Khả năng tuyển mộ của các cơ quan tình báo đã gia tăng mạnh. Cùng với sự hoàn thiện các phương tiện kỹ thuật, các cơ quan tình báo nước ngoài đang đẩy mạnh sử dụng các kênh thu tin truyền thống. Số lượng các chuyến đi với mục đích tình báo của các nhà ngoại giao nước ngoài đến những khu vực có mục tiêu quân sự quan trọng cũng tăng lên nhiều lần.

Trích báo cáo nghiệp vụ:

Trong năm 1994, hiệu quả hoạt động của cơ quan an ninh nhằm đối phó với các hoạt động tình báo-lật đổ của các cơ quan tình báo nước ngoài đã tăng đột biến. Đã khám phá 22 điệp viên trong các công dân Nga, trong đó có cựu chủ nhiệm tổng cục của Bộ Công nghiệp quốc phòng Sintsov và cán bộ Viện Nghiên cứu khoa học Hải quân Finkel. Đã ngăn chặn được mưu toan của 18 công dân Liên bang Nga chủ động giao các tài liệu mật cho các nhân viên tình báo nước ngoài.

Trong năm 1993, các cơ quan của FSB đã bắt giữ 20 công dân Nga vì tội làm gián điệp


Điệp viên thế kỷ XX: Trại giành cho “các tân lang”

VietnamDefence - Chuẩn bị cho cuộc tấn công Trân Châu Cảng

Đại tá hải quân Tamon Yamaguchi lơ đễnh dùng hai ngón tay nhấc từ bàn viết lên một cuốn sách nhỏ bìa màu:

- Một việc làm tuyệt vời, xuất sắc, ngài Myazaki! Cần phải gửi điện mật cảm ơn về Tokyo...

- Xin ngài cho xem một chút, ngài Yamaguchi? - Myazaki nhổm dậy và nhận tận tay một bức thư vừa nhận được qua bưu điện ngoại giao.

Bên ngoài cửa sổ của phòng làm việc của tuỳ viên hải quân Nhật đã là đêm. Quầng sáng của các biển quảng cáo lười biếng và vô vọng chiếu lờ mờ trên mặt tiền của những ngôi nhà bên cạnh, từ sau tấm rèm dày vẳng đến tiếng còi văng vẳng của những chiếc ôtô muộn màng. Washington đang ngủ say giấc. Nhưng ở đây, trên tầng năm của toà nhà nhiều phòng sang trọng Alban Towers trên góc đại lộ Massachussetts và Wisconsin, cuộc sống vẫn chưa ngừng lại. Yamaguchi thuê hai phòng sát nhau. Ông ta sống không gia đình, biết và thích nấu các món ăn dân tộc, không lảng tránh các nhà ăn Nhật bé nhỏ. Ông ta thường bị bắt gặp ở quán “Long thuỷ đình” hoặc là ở quán “Kim Phật” nơi Yamaguchi tìm sự thư thái trong tĩnh lặng, thả mình vào những suy nghĩ triết học. Hôm nay, ông ở nhà cùng ăn tối với thiếu tá hải quân Toshio Myazaki và họ chỉ mới vừa chuyển sang phòng làm việc của chủ nhân.

- Đúng, ý tưởng ấy đáng được tán thưởng, - Myazaki ủng hộ ý kiến của xếp. - Nhưng nếu ngài cho phép, tôi muốn nói là trình độ nghệ thuật của cuốn sách nhỏ này có thể còn cao hơn nữa. Thị trường Mỹ không phải là của chúng ta, nơi mà người ta nuốt cả quả thối, kể cả hột...

Yamaguchi biết rằng, tay sĩ quan dưới quyền ông ta khá am hiểu nghệ thuật, có tiếng là một kẻ ham chuộng cái đẹp.

- Chúng ta phụng sự Thiên Hoàng, ngài Myazaki, - viên đại tá nói ngắn gọn. - Và mỗi người có bổn phận mang cống hiến của mình dâng lên ngài. Đó là cống hiến dưới mọi hình thức. Tôi tin hoạ sĩ đã làm cuốn sách này cũng đã cố đạt đến sự hoàn thiện, nhưng... Chẳng lẽ trong công việc của tôi và ngài, mọi thứ đều đúng với những tư tưởng cao siêu của Tokyo ư? Nhưng chúng ta đang đấu tranh không ngừng nghỉ và không khoan nhượng với đối phương và bằng cách đó làm chiến thắng đến gần. Phải thế không?

Myazaki đứng dậy và nghiêng đầu tuân phục. Sau đó, ông ta lại lật lại cuốn sách. Trong đó có nhiều tranh và ít chữ - mà lại đúng là cái mà các bạn nhỏ bé còn bám váy mẹ cần. Cái bưu phẩm giản đơn này chính là tính toán của các tác giả của nó: cuốn sách nhỏ trước hết phải đến được tay người lớn. Sau này được biết rằng, tác phẩm này đã là vật được chính tổng thống Mỹ Roosevelt cực kỳ chú ý. Mà chính xác hơn là một tranh vẽ trong cả đám những tranh vẽ khác.

Trên một trang đôi, hoạ sĩ vẽ một bản đồ địa lý màu cho học sinh và hai cậu bé. Một cậu bé được vẽ mặc quần áo thuỷ binh, còn cậu bé thứ hai thì đội chiếc mũ sắt bộ binh. Xoạc rộng đôi chân, tay đưa về phía mặt trời và ngoác rộng miệng, những cậu bé lính này đang đứng trên cả không gian Thái Bình Dương, từ Philippines đến San Francisco. Dòng chữ in gồm một số từ: “Bản đồ mới của đế quốc. Banzai!”

- Tôi cho là bọn Mỹ đã không lạ gì cái biểu tượng nhiều hứa hẹn này, - vừa rít thuốc, Yamaguchi nói. - Cần phải tán phát cuốn sách này.

- Tuân lệnh, thưa ngài đại tá! Họ đã hứa gửi đến số lượng in.

- Sau đó, tôi đề nghị ông, ông Myazaki, đi Los Angeles thuê ở đó một căn hộ và nắm tình hình ở bờ Tây... Tôi đã có thoả thuận sơ bộ với chính quyền Washington.

Toshio Myazaki nhướng mày ngạc nhiên và như một đấu sĩ bại trận trên đấu trường Colloseum của La Mã cổ đại đang hướng đôi mắt thảm hại với lời cầu khẩn tha thứ về phía ghế lô của hoàng đế, ông ta nhìn chằm chằm vị chỉ huy quan gián điệp. Ông ta rất không muốn thò ra khỏi cái ổ đã quen thuộc này để đến một một thành phố đầy khói và bốc mùi xú uế. Nhưng lập tức ánh mắt của ông ta tình cờ đập vào chiếc hộp thuốc lá bằng vàng của Yamaguchi mà ông này vừa lấy ra một điếu thuốc và châm hút. Phía trên góc bên trái trên bề mặt mặt nhẵn bóng có vẽ rõ nét biểu tượng hoàng gia của đất nước ông ta - mười bốn cánh hoa cúc đại đoá rực rỡ vây quanh mặt trời nhô lên (chỉ có chính Thiên Hoàng mới có biểu tượng với mười sáu cánh hoa).

Nhưng thế đã là đủ. Ông ta bỗng cảm thấy mình như một hạt cát bé nhỏ trong chiếc đồng hồ cát khổng lồ mà nó chỉ chạy đến lúc nào vị chúa tể còn chạm vào nó. Không có người ấy thì đồng hồ và thời gian đều chết lặng. Myazaki tràn đầy sự tôn kính, ngoan ngoãn đặt đôi tay được chămn chút cẩn thận ra phía trước người, trong tâm trí nghĩ là đang rạp mình trước Thiên Hoàng Hirohito, sau đó, hơi nhỏm dậy, cúi đầu trước chiếc hộp thuốc lá có vẽ biểu tượng của tổ quốc và vị chúa tể. Đối với Yamaguchi, kẻ đang chăm chú theo dõi vở kịch câm này, thậm chí còn có cảm tưởng là trong mắt của viên thuộc cấp loé lên ánh sáng phản chiếu của những cánh hoa của bông hoa mùa thu thiêng liêng của Nhật Bản. “Bây giờ thì có thể phái anh ta cả vào địa ngục, - Yamaguchi nghĩ.- Thôi, mọi sự đối với anh ta vẫn còn ở phía trước, cứ để anh ta cống hiến bằng đức tin và thực tế!”

Các hoạt động gián điệp của Myazaki còn kéo dài bao lâu nữa thì thật khó nói. Nhưng cái gì có bắt đầu thì cũng có kết thúc. Lúc thì vinh quang, lúc thì nhục nhã. Cơ quan phản gián của Hoa Kỳ không phải ngẫu nhiên khi cho theo dõi viên thiếu tá hải quân Nhật tò mò này. Khách quan mà nói thì đó là nhờ ngẫu nhiên.

Một lần, bác đánh cá kém may mắn W. Turrentine sống trong một căn nhà gỗ trên bờ biển, đã đến gặp các thuỷ binh trong cảng và yêu cầu được gặp chỉ huy. Terntain giải thích lộn xộn là gần chỗ anh ta ở có một cựu thuỷ thủ làm việc có kỳ hạn tên là Thomson. Khi hắn bị loại lên bờ, hắn bắt đầu lao vào rượu chè. Tiền thì không có. Nhưng hắn ta vẫn kiếm được mấy xu ở đâu đó để xoay được một vài suất rượu rum hay gin. Sau đó là lăn ra ngủ. Nhưng vào một ngày đẹp trời, Thomson mày râu nhẵn nhụi, thay sang đồ hải quân và biến mất. Buổi chiều, hắn trở về tỉnh táo và nói là chuẩn bị đi làm trở lại. Điều đó lặp lại mấy lần. Anh đánh cá nhận thấy Thomson trở về với những giấy tờ gì đó, giấu dưới tấm thảm chùi chân, còn buổi sáng thì mặc áo khoác dân sự mang chúng vào thành phố. Terntain bắt đầu từ từ theo dõi và... bắt gặp tay hàng xóm gặp một tên Nhật lùn nào đó, tay thuỷ thủ kia chào hỏi làm quen rồi đưa cho người đó cả đống giấy tờ.

Đối với phản gián hải quân Mỹ thì việc còn lại chỉ là vấn đề kỹ thuật - Thomson bị tạm giữ, còn Myazaki, kẻ đã nhận được từ Thomson những tài liệu đánh cắp trên các chiến hạm, vẫn tiếp tục đi dạo vẩn vơ như chẳng có chuyện gì. Hoá ra, Washington lo ngại đánh động viên thiếu tá Nhật vì hắn có những liên hệ lên đến tận các quan chức ngoại giao cao cấp nhất, làm điều đó có thể gây nên một vụ xì căng đan quốc tế. Thomson thì sau những cuộc tranh cãi dài dằng dặc giữa các cơ quan tư pháp, vụ của hắn được xem là một trong những vụ án đầu tiên về gián điệp nước ngoài ở Mỹ, đã bị kết án 15 năm tù. Myazaki biết được điều đó khi ông ta đã yên vị ở nhà, tại Tokyo. Ông ta có quyền miễn trừ ngoại giao mà...

Một điệp viên hẩm hiu khác của tình báo Nhật là thiếu tá hải quân Omai. Tên gián điệp này bị sập bẫy bởi khao khát không thể kìm nén được chung chạ với những con đàn bà “ngực trắng” thượng vàng hạ cám vào bất kỳ lúc nào, dù ngày hay đêm.

- Ông đã tự vặn cổ ông rồi, ông Omai ạ, -  Yamaguchi quở mắng tay điệp viên của mình. - Hãy chấm dứt ngay những trò tình ái của ông đi hoặc tôi sẽ tống cổ ông khỏi đây trong vòng 24 giờ!

Omai đã sống khá lâu ở phương Tây (anh ta đã sinh ra và lớn lên ở đây) và khác với những người Nhật Bản nhẫn nhục, lặng lẽ ở tính cách ngang tàng, gàn bướng. Như Aristotel đã nói, “tính cách của chúng ta là kết quả lối sống của chúng ta”. Lúc này, hắn trở nên căm ghét nghề của mình.

- Mức lương của tôi, thưa ngài Yamaguchi, không cho phép tôi có ý kiến cá nhân về đạo đức của ngài.  Nhưng chỉ một tên đầy tớ ngoan ngoãn của ngài là nên động đậy tay chân khi mà những chuyện thật tồi tệ nảy ra từ các cuộc phiêu lưu bí mật của ngài...

- Câm ngay! - Yamaguchi nổi trận lôi đình. - Tôi nghĩ là anh sẽ phải chia tay với đồng lương ấy thôi. Những suy nghĩ của anh quá thấp hèn và đểu cáng.

- Không thấp hơn cái bụng của con vịt đâu, - Omai cười gằn xấc xược ngắt lời.
Câu trả lời cuối cùng đã vượt quá sức chịu đựng của Yamaguchi.

- Thằng đểu, mày đã bị bắt! - ông hét lên lạc giọng.

- Kính chào ngài, có phải ngài đang ở trại lính đâu, - viên thiếu tá xoay gót giày và biến mất sau khung cửa.

Nhưng cuộc cãi lộn này không loạt ra ngoài tầm mắt của phản gián Mỹ vì trong tròng làm việc của Yamaguchi có cài các máy nghe lén.

Ban đêm, trong phòng khách sạn Continental, nơi Omai ở, hắn bị tiếng chuông điện thoại đánh thức dậy. Một giọng phụ nữ ngọt ngào rầm rì với vẻ lo lắng:

- Ông không ngủ ư?

Không hắn vẫn còn chưa ngủ. Giá như mà ngủ được! Tất cả đều khó chịu và tồi tệ đối với hắn. Mà một khi đã muốn tung hê tất cả thì những thái cực đối chọi nhau nhất cũng gặp được nhau. Hắn ta nhận ra giọng nói quen thuộc của một nữ ca sĩ nhà hàng mà hắn đã chung chạ một lần ở khách sạn này.

- Em đang ở tầng dưới, phòng 602. Anh xuống chứ?

Với Omai thì chả cần phải mời đến lần thứ hai. Còn lúc bình minh khi hắn trở về phòng mình, hắn đã thấy thiếu một tài liệu “tuyệt mật” - danh sách những câu hỏi Tokyo đang quan tâm. Vậy điệp viên này dự tính thu thập những tin tức gì?  Chúng tôi xin dẫn ra một số câu hỏi. “Tình báo Mỹ có cơ cấu như thế nào? Làm gián điệp ở nước này bằng những phương tiện nào là tốt nhất? Ai trong số các sĩ quan hải quân Mỹ là có triển vọng nhất về khả năng giữ những chức vụ cao trong cuộc chiến tranh có thể xảy ra? Lý lịch của họ, những đặc tính thuần tuý con người của họ? Chiến thuật đánh đêm của các đơn vị hải quân Mỹ là như thế nào? Liệt kê các tín hiệu và các phương tiện nhận dạng tàu biển. Báo cáo tin tức về các chủ lực hạm và tuần dương hạm hiện có. Có chỗ để di chuyển vị trí các đội tàu không? Tinh thần và tư tưởng của binh lính hạm đội ra sao?” Sau đó, nhiệm vụ cụ thể được giao cho: “Tìm hiểu các tính năng của đạn pháo hạm 203 mm...”

Sau cú này, Omai đã nhận thức đầy đủ về điều đã xảy ra và những hậu quả đang đe doạ, hắn liền biến mất tăm. Yamaguchi không biết về vụ mất tài liệu “tuyệt mật” nên vẫn tiếp tục lệnh các điệp viên thực hiện nhiệm vụ. Mấy tuần trôi đi. Từ Tokyo bỗng có yêu cầu gửi đến: “Tại sao đến giờ vẫn chưa có tin về đạn pháo 203 mm”. Tên gián điệp từng trải và lạnh lùng như nghẹn thở. Trong đầu hắn đã mường tượng thấy cảnh ngày tận thế. Hắn không hiểu về mệnh lệnh này của Trung tâm. Tuy vậy, hắn cũng không hỏi lại cấp trên để khỏi để lộ sự thiếu hiểu biết của mình. Hắn quyết định: “Chúng ta sẽ vượt qua thôi, chúng ta sẽ qua khỏi khó khăn bằng sức mình”. Trước đó, người của hắn đã tiếp cận được pháo hạm 203 mm, bởi vậy bản chất vấn đề không đòi hỏi phải giải thích riêng gì nữa. Nhưng giao nhiệm vụ tìm hiểu tính năng đạn pháo cho ai bây giờ? Và lập tức Yamaguchi thoáng nảy ra ý nghĩ - Omai! Mà mắng mỏ tên háu gái đáng khinh chuyên tìm váy đàn bà này cũng chả có ý nghĩa gì. Cần phải hành động mà là phải ngay lập tức.

Người của Yamaguchi đã tuyển được anh công nhân Brown ở một nhà máy sản xuất đạn cho pháo tháp. Người đàn ông đông con với đồng lương eo hẹp và điều kiện sống nghèo túng này đã nhận lời làm mọi việc, kể cả việc nguy hiểm nhất. “Cái đói là người đầu bếp tốt nhất, nó khiến người ta cảm ơn kể từ hớp canh ôi thiu nhất, - Brown mệt mỏi thốt lên và nói thêm: - Đối với tôi thì cũng như nhau cả thôi, đều chỉ là cái tròng cả”.

Người Nhật rất vội vã và thậm chí không tranh thủ kiểm tra, điều tra nghiệp vụ đối với Brown và chính anh ta là một điệp viên lão luyện mà người Mỹ đã gài cho “những ông bạn” của họ... Câu chuyện kết thúc với việc Yamaguchi hài lòng với thành công nên đã trả ngay cho điệp viên người Mỹ 600 đô la tiền mặt để lấy cái “tài liệu” không đáng giá một xu.
Thế đấy, trong trò chơi thông minh này, nơi mà những người Nhật thận trọng và đa nghi còn bị dắt mũi một thời gian nữa và phản gián Mỹ đã đưa ra sân khấu một điệp viên hai mang. Thời đó thì điệp vụ này bị coi là khác thường, mặc dù những thủ đoạn tương tự thường chỉ các tình báo viên kinh nghiệm hơn mới dùng.

Hết ngày này qua tháng khác, Yamaguchi tiếp tục mở rộng lưới gián điệp của mình từ New York cho đến tận các bang cực Tây nước Mỹ. Ông ta cài người vào cả các văn phòng du lịch Nhật Bản, cả vào công ty buôn bán tơ tằm và nhiều hãng nhỏ của Nhật khác. Ông ta vẫn sống độc thân như trước, còn trong những giờ ban đêm yên tĩnh ông ta nghỉ ngơi bằng cách đọc những cuốn sách Nhật ngợi ca “quá khứ hào hùng” của Nhật Bản. Yamaguchi đặc biệt say mê nghiên cứu Yoga, các giáo phái Phật giáo, các “thuyết” huyền bí. Ông ta mang sang Mỹ một thư viện nhỏ những sách vở yêu thích mà ông có thể đọc đi đọc lại hàng chục lần; ông cũng mua một số sách tiếng Anh ở Washington.

Trong các cuộc trò chuyện với trợ lý Kato của mình, viên đại tá hải quân thường hút thuốc nhiều và chìm vào những suy tư triết học. Thực ra những cuộc gặp này làm người ta liên tưởng đến một nhà hát của một diễn viên ba hoa là Yamaguchi.

- Truyền đạt những hiểu biết cá nhân, những quan sát, và cuối cùng là kinh nghiệm cho người khác bằng ngôn ngữ và nghệ thuật hội hoạ (lúc này, ông ta dùng ngón trỏ chỉ ngọn núi Phú Sĩ phủ đầy tuyết) có nghĩa là gì, - ông ta đặt câu hỏi, nhìn ngang qua Kato lên bức tranh quả  núi thiêng Phú Sĩ treo dưới trần, - có nghĩa là gì? Một mặt, điều đó có nghĩa là làm giàu về đạo đức, tinh thần, khoa học cho đối tác của mình, mặt khác là nhận thức sự vĩ đại của bản thân, cái “tôi” của mình.

- Hôm nay, tôi sẵn lòng chia xẻ với ông, ông Kato ạ, những hiểu biết khiêm tốn của tôi trong lĩnh vực ít được nghiên cứu nhất, bí ẩn và trước đây chưa tồn tại ở Nhật Bản sekta Phật giáo Yamabushi. Ông hãy chú ý: sự khao khát không thể chế ngự vươn tới cái phi thường, sự cảm thấy trước điều thần kỳ nằm trong bản chất con người. - Và Yamaguchi, sau khi lên lưng con ngựa của mình, đã bắt đầu kể chuyện.

Yamabushi là những chiến binh sơn cước, đó đã không phải là giáo phái  mà là một hội đoàn của các nhà sư. Nó xuất hiện nghe đâu vào khoảng thế kỷ IX. Các thành viên của nó tập Yoga, võ nghệ, tụng kinh và truyền đạt những kiến thức của mình cho những gián điệp của thời xa xưa ấy - các ninja. Yamabushi sống trong núi và chỉ vào những ngày thiêng liêng nào đó chỉ họ biết thì họ lại đến Kyoto để kính ngưỡng các thánh tích của đền Daigoji.Các Ninja là những người giỏi nhất về võ nghệ Yamabushi, kể cả nghệ thuật nguỵ trang ảo thuật. Chính vì thế, họ có thể trong những tình huống cần thiết cho các gián điệp đóng vai “nhà sư”, “nghệ sĩ ảo thuật lang thang”, “người nông dân quê kệch”, ...

- Tài thần thông biến hoá của ninja - Yamaguchi nhấn mạnh, - được coi là một trong những nền tảng của tính nhà nghề cao cần có cho việc thu thập lâu dài thông tin ở các thành phố, làng mạc và gọi là “công việc của tổ trưởng tình báo”.

Kato gật đầu tỏ ra hiểu. Khi nghe từ “tổ trưởng tình báo”, hắn cảm thấy mình không quá đơn độc trong biển kiến thức mà xếp vừa trút xuống đầu lên hắn. Nó lập tức đưa hắn từ thời trung cổ trở lại thế giới ngày nay, gần gũi và quen thuộc với tên gián điệp Nhật này.

- Ông, ông Kato ạ, - Yamaguchi tiếp tục lên giọng dạy dỗ hắn, - nếu nghe người ta nói về các gián điệp ninja đàn ông thì tôi có thể cam đoan là anh không cái gì về các nữ ninja. Trời, những “cô gái Amazon” (Amazon - trong thần thoại Hy Lạp, là một bộ tộc nữ chiến binh ở vùng Tiểu á hoặc trước núi Kavkaz gần biển Đen. Họ chỉ thân cận với đàn ông để sinh đẻ. Những đứa bé trai sinh ra được trả về cho cha chúng hoặc bị giết , còn các bé gái được giữ lại, bị đốt mất vú phải để có thể học bắn cung. Chính vì thế, từ amazon theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là “không có vú” - ND). này mới nham hiểm làm sao...

Kato nhẫn nhục cố làm vẻ mặt đầy quan tâm, chú ý lắng nghe khi Yamaguchi cao hứng kể về những vụ đâm chém do những con quỷ cái này gây ra đối với những vương công không còn cần thiết sau khi đã thoả mãn tình dục và moi được thông tin cần thiết.

- Đáng tiếc là vào thời chúng ta thì các Mata Hari Nhật Bản ấy đã đổi nghề! Một người trong số họ đã được tôi đặc cách phái đến với thiếu tá Omai... Chú ý: họ đã sát hại những anh hùng đã kiệt sức của mình ngay trên giường bằng những chiếc cặp tóc lấy từ trên mái tóc! Tất nhiên vật tư trang phụ nữ này đã được làm theo đơn đặt hàng và có dạng một con dao găm tí hon. Vỏ dao chính là kiểu tóc vấn cao truyền thống....

Trong giới ngoại giao ở Washington, Yamaguchi cố không để lộ hết sự uyên thâm và kiến thức của mình. Nhưng nếu như ông ta đột nhiên có ý định cần gây ấn tượng cho người nào đó thì ông ta hào hứng sôi sùng sục cho đến khi xì hết hơi.

Thời gian vẫn cứ trôi và các “sơ hở” trong hoạt động gián điệp của Yamaguchi ngày càng nhiều lên, “hãng” của ông ta ở Tokyo đã bắt đầu nghĩ phải nhanh chóng “thay đổi mặt tiền”. Mũi kim phong vũ biểu chính trị không báo trước điều gì vui vẻ cả. Washington đã tiễn ông ta bằng nụ cười mỉa mai, nhưng Tokyo thì đón ông như một anh hùng dân tộc! Yamaguchi được thăng hàm chuẩn đô đốc và trở thành tham mưu trưởng hạm đội 5. Một năm sau, vào tháng 1 năm 1940, ông ta được điều đến bộ tham mưu của Đô đốc Isoroku Yamamoto với tư cách một chuyên gia về hải quân Mỹ và gián điệp để tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch tấn công Mỹ.

Yamamoto biết Yamaguchi từ thời ông ta còn hoạt động ở Mỹ. Khi đó ông ta suốt ngày mê mẩn chơi poker với các sĩ quan Mỹ, nổi tiếng vô dịch chơi cờ “go” của Nhật trong hạm đội ở Yokosuka. Đã có những chuyện tiếu lâm về sự máu me cờ bạc quá đáng của ông ta. Khi những chuyện tiếu lâm châm chích chua cay đó lọt đến đôi tai thính của ông ta, ông ta ngạo mạn bác bỏ: “Không được kết tội vội vàng như thế, các quân bài và nghề nghiệp của tôi là không thể tách rời nhau!” Tất nhiên, trước hết ông ta muốn nói đến nghề gián điệp của mình, còn nơi chiếu bạc, ông ta thể hiện một tài năng đa dạng của một nghệ sĩ nhiều mánh khoé như xiếc. Ông ta không thích thất bại và chịu đựng chúng cực kỳ nặng nề: chúng cản trở ông ta tập trung cho những vấn đề mà ông đã dự trù sẵn để thăm dò các đối tác Mỹ. Vào thời mình, Yamamoto đã phục vụ trên kỳ hạm Mikasa dưới quyền Đô đốc Tojo (Hideki Tojo (1884-1948), trùm quân phiệt Nhật trong Thế chiến II, Tổng tham mưu trưởng quân đội Nhật năm 1937, đã chỉ huy đạo quân Quan Đông đánh chiếm Mãn Châu Lý, bộ trưởng chiến tranh Nhật năm 1940 và năm 1941, 2 tháng trước trận Trân Châu Cảng đã được cử giữ chức Thủ tướng Nhật. Tojo đã lãnh đạo chính phủ và chỉ huy các chiến dịch quân sự của Nhật trong Thế chiến II cho đến khi phải từ chức năm 1944 sau một loạt thất bại quân sự. Bị toà án xử tội phạm chiến tranh kết án tử hình năm 1945 và hành quyết ngày 12 tháng 12 năm 1948 - ND). Vụ nổ trong trận đánh Tsusima đã làm ông ta mất ba ngón tay phải. Nhưng bây giờ, ngay trước khi nổ ra các sự kiện ở Trân Châu Cảng thì điều đó hiển nhiên chẳng cản trở vị đô đốc dẫn đầu hạm đội liên hợp.

Ở đây, cũng cần nói rằng, bất chấp tất cả những thất bại và sai lầm ở Mỹ, tên gián điệp Yamaguchi đã láu cá thu được một số bí mật của người Mỹ do sự sơ ý của họ. Vậy là không lâu trước trận đánh Trân Châu Cảng, một trong các tờ báo ở Trung Tây nước Mỹ đã tìm cách đăng được phương án chót của kế hoạch động viên của Mỹ. Và điều đó đã đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong sự thăng tiến của một sĩ quan hải quân Mỹ.

Tất cả những điều đó đã làm cho giới quân sự Nhật tin vào sự cần thiết đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh. Trong khi tiến hành cụ thể hoá những kế hoạch đã có từ lâu nhằm giáng đòn đầu tiên vào Trân Châu Cảng, một trong những bạn thân nhất của Đô đốc Isoroku Yamamoto, trung tá hải quân Minobi bắt tay vào bí mật huấn luyện các phi công không quân hải quân. Theo lệnh của ông ta toàn bộ dân cư của đảo Sioku, hòn đảo có những nét giống với đảo Oahu ở Hawaii, đã bị đưa khỏi đảo. Sau đó, một tiểu đoàn công binh đã xây dựng một mô hình Trân Châu Cảng làm bằng gỗ tấm và sắt gỉ với đầy đủ nhà cửa, kho tàng, cửa hàng, trạm tiếp liệu kế bên trên hòn đảo này. Trong 720 ngày, biết bao nhiêu bom và ngư lôi hàng không đã trút xuống Sioku, hòn đảo mà khi trò chuyện với bạn bè thân tình, Yamamoto đã gọi là Trân Châu Cảng. Trong những năm ấy, do huấn luyện kém và nhiều khi do cả thời tiết khắc nghiệt mà Minobi đã mất tại vùng đảo Sioku 300 máy bay chiến đấu.

Đô đốc Isoroku Yamamoto, kiến trúc sư cuộc tấn công Trân Châu Cảng

Không lâu trước ngày X, ngày tấn công Trân Châu Cảng ở Hawaii, Yamamoto đã trao cho Minobi quân hàm đô đốc. Còn một ngày trước khi tấn công, trước hàng phi công, Minobi đã thông báo cho các sĩ quan vẫn còn chưa hiểu mô tê gì ấy rằng, cái hòn đảo bia mà họ đã ném bom là bản sao chính xác của Trân Châu Cảng, nơi mà vào “giờ cao điểm” họ sẽ phải thể hiện chủ nghĩa anh hùng của mình trong “cuộc chiến vì Đại Đông Á”.

Sáng sớm ngày 20 tháng 11 năm 1941, dưới trần mây mù dày đặc, binh đoàn tàu chiến của Nhật theo lệnh của Bộ tổng tư lệnh tối cao Quân đội Thiên Hoàng đã rời các cảng Yokosuka, Sasebo và Kure. Binh đoàn này nằm dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Nagumo. Người chỉ huy chung đòn tiến công chiến lược này vào căn cứ hải quân Mỹ Trân Châu Cảng là Tư lệnh Hải quân Nhật, Đô đốc Isoroku Yamamoto. Phụ trách tình báo là người bạn ông ta - Phó đô đốc Yamaguchi. Chiến dịch có mật danh Z.

Cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng chỉ kéo dài vẻn vẹn hai giờ đồng hồ. Theo kế hoạch tác chiến, các máy bay cất cánh từ các tàu sân bay sẽ tiêu diệt các tàu Mỹ. Sau khi hoàn thành chiến dịch Z, toàn bộ binh đoàn tàu Nhật phải rút nhanh về hải phận Nhật Bản.

Kết quả của cuộc tập kích là 4 chủ lực hạm, 2 khu trục hạm và 2 tàu hỗ trợ bị đánh đắm, 188 máy bay bị tiêu diệt. Tổn thất nhân mạng là trên 3.000 người. Tổn thất của phía Nhật là 28 máy bay đã không trở lại tàu sân bay và 74 máy bay bị thương, 1 tàu ngầm cỡ lớn và 5 tàu ngầm nhỏ bị đánh đắm.

Theo ý kiến của một trong những người nghiên cứu nguyên nhân căn cứ Trân Châu Cảng bị huỷ diệt thì nhiều kết luận rút ra từ cả núi tài liệu, báo cáo, biên bản, tờ trình có thể còn đáng tranh cãi. Tuy vậy, có 2 yếu tố là hoàn toàn đúng. Người Nhật đã đạt được tính bất ngờ tuyệt đối cho cuộc tiến công và ngoài ra, hệ thống thông tin của Mỹ là cực kỳ yếu kém.

Về bản chất, cả hai yếu tố này liên hệ chặt chẽ với nhau: nếu không có những trục trặc trong toàn bộ hệ thống tình báo Mỹ thì người Nhật khó lòng mà tận dụng được yếu tố bất ngờ.

Vào tháng 12 năm 1941, ít ai ở Washington lại tin là thực sự Nhật đã có khả năng tấn công Trân Châu Cảng. Mà người Nhật thì đã có khả năng ấy rồi! Còn ít người hơn tin là người Nhật lại manh nha có ý đồ tấn công. Những người khác thì cho rằng, quần đảo Hawaii nằm quá xa Nhật, còn hạm đội Nhật thì về mặt kỹ thuật không đủ sức thực hiện nhiệm vụ như thế, kể cả là tấn công vào Trân Châu Cảng, cũng như vì không quân Nhật, theo Washington, không có đủ phi công lành nghề.

Do những tiền đề đó nên cũng dễ hiểu phản ứng của Bộ trưởng Hải quân Mỹ Frank Knox khi ông này nghe tin Trân Châu Cảng đang bị các phi công Nhật oanh tạc. “Lạy Chúa! - vị bộ trưởng thốt lên. - Không thể thế được!” Đối với ông ta và cả với những quan chức quân đội và hải quân Mỹ thì hành động chớp nhoáng của Nhật Bản là không thể có, khó tin. Họ đã chờ đợi cuộc tiến công ở bất cứ đâu, ngoại trừ ở quần đảo Hawaii. Đã có những dấu hiệu người Nhật đang chuẩn bị tấn công. Nhưng các bộ óc cao siêu nhất nước Mỹ đã không giành chú ý xứng đáng cho chúng. Mà còn có thể nghĩ tới điều gì được nếu như chúng ta đã nói ở trên là trước Thế chiến II rất lâu, Nhật đã chuẩn bị và cẩn thận cài cắm lưới gián điệp của mình ở nhiều nước, kể cả Hoa Kỳ.

Trong những ngày trước khi nổ ra cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng, các cơ quan đặc vụ Nhật đã đóng một vở kịch vui thật sự. Một ngày chủ nhật, trên đường phố Tokyo và các thị trấn ngoại ô bỗng xuất hiện các thuỷ thủ Nhật đi chơi thành tốp hay đơn lẻ. Đáp lại bức điện từ Washington yêu cầu “chính xác hoá vị trí của hạm đội Nhật”, tuỳ viên hải quân Mỹ thuộc sứ quán Mỹ ở Tokyo đã trả lời là chắc chắn các chiến hạm Nhật đang đậu tại căn cứ của mình tại Yokosuka bởi vì “có rất nhiều thuỷ thủ được đi phép ở các khu vực quanh thủ đô Nhật và ngay ở Tokyo”. Trên thực tế, đó không phải là thuỷ thủ mà là các nhân viên tình báo Nhật cải trang mặc đồ thuỷ binh.

Cần phải nói rằng, người Nhật còn tích cực tiến hành một trò chơi khác - trò chơi “chiến tranh mật mã”. Khi đó, có lẽ nó đang ở tâm điểm chú ý của toàn bộ hoạt động gián điệp của các đơn vị tình báo. Các trạm nghe lén ở vịnh California đã cho phép các bộ tham mưu Nhật thu được các tin tức về hoạt động của hạm đội Mỹ suốt dọc bờ biển Thái Bình Dương. Mật mã của Hải quân Mỹ đã bị phá giải trước khi nổ ra cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Các trung tâm chặn thu vô tuyến điện ở Quảng Châu, Thượng Hải, Mêhicô đã hào phóng cung cấp cho Bộ tổng tham mưu Nhật các bản điện mật mã thu được của các cơ quan Mỹ các cấp.

Người Nhật khi đó cao tay hơn đối thủ trong lĩnh vực ứng dụng liên lạc vô tuyến. Theo ý kiến của các nhà quan sát, họ chỉ có thể tiến hành thành công những động tác nghi binh của các đơn vị hạm đội khi trong tay họ có những nhân viên kỹ thuật tay nghề cao và hệ thống thông tin chắc chắn. Họ rất thường xuyên thay đổi mã liên lạc và để tăng hiệu lực đánh lừa địch, làm nó mất phương hướng, họ đã áp dụng chiến thuật “im lặng” khi tàu tiến vào khu vực hành động. Họ cũng đã khéo léo sử dụng các bức điện vô tuyến giả gửi từ các khu trục hạm Nhật vào khu vực này, còn các bức điện mật mã khác thì lại chỉ ra một khu vực địa lý có khả năng đổ bộ hoàn toàn khác, cách xa địa diểm hành động dự định hàng trăm dặm...

Không còn nghi ngờ gì nữa là cả yếu tố dân cư trên quần đảo Hawaii cũng có vai trò nhất định trong việc chuẩn bị tấn công Trân Châu Cảng. Trên quần đảo đầy núi lửa này, một trong những điểm tựa quan trọng nhất của Hải quân Mỹ ở khu vực Thái Bình Dương, người Nhật chiếm 30% dân cư. Nếu như ở nước Mỹ chính quốc, người Nhật không được phép làm việc ở các mục tiêu quân sự thì ở Hawaii, nguyên tắc này đã không được áp dụng. Trong bối cảnh đó, các cơ quan đặc vụ Nhật đã có những cơ hội cực kỳ thuận lợi cho việc tuyển mộ điệp viên.

Kết quả là gì? Các phi công Nhật biết được tuyệt đối chính xác các tàu mà họ cần phải nhấn chìm xuống đáy biển đang nằm ở đâu tại Hawaii. Họ còn biết người ta nghỉ ngày chủ nhật hay kỳ nghỉ cuối tuần ra sao, các thuỷ binh Mỹ sống ở đâu khi họ rời tàu lên bờ, ai trong số các sĩ quan đến nhà ai chơi, ai uống bao nhiêu và ghé các quán rượu của khu phố Tàu...

Cuộc tiến công vào Trân Châu Cảng đã mở màn vào sáng sớm ngày 7 tháng 12 năm 1941. Chiếc tàu quét lôi Condor của Mỹ vào lúc 3 giờ 50 phút sáng đã phát hiện một chiếc tàu ngầm Nhật ở tư thế nửa chìm nửa nổi trong vùng cấm cách không xa lối vào vịnh Trân Châu Cảng. Vào lúc 6 giờ 45 phút buổi sáng hôm đó, chiếc tàu ngầm này đã đánh đắm khu trục hạm World. Nhưng báo cáo của hạm trưởng khu trục hạm này đã không được gửi theo cấp. Các sĩ quan của căn cứ hải quân ở Trân Châu Cảng vẫn còn mải tiếp tục bàn luận sự kiện này khi mà những quả bom Nhật đã bắt đầu rơi xuống đảo.
Người ta còn kể câu chuyện như thế này: các đài radar của một đơn vị Mỹ trên quần đảo Hawaii (một đài radar huấn luyện) đã bắt được các máy bay Nhật thuộc tốp đầu tiên vào lúc 7 giờ hai phút sáng. Các máy bay chiến đấu tiến gần đảo từ hướng Bắc. Nhưng tín hiệu báo động chiến đấu sau đó vẫn chẳng làm người ta tin. Một viên trung uý Mỹ thiếu kinh nghiệm, đã nhận lầm tốp máy bay này là của máy bay mình nên đã giật giọng ngắt lời viên trung sĩu đang báo cáo và hạ lệnh “quên ngay cái chuyện ngớ ngẩn này”.

Người ta buộc phải thấy rằng, luận điểm chính mà các đại diện của bộ chỉ huy Mỹ ở Trân Châu Cảng sử dụng để biện hộ cho thất bại thảm hại vừa qua trong quá trình điều tra của quốc hội chính là những lý lẽ nại ra là họ đã “không nhận được thông tin mà Washington đã có trong tay”. Người ra cũng biết rằng, những vấn đề cơ bản trong việc phân phối tinh tình báo có liên quan tới sự quan tâm của thủ đô đối với yêu cầu “bảo vệ thông tin mật”. Như lời khai trong quá trình điều tra của  chuẩn tướng Sherman Miles, chỉ huy tình báo khi đó, thì đúng là “đã không một báo cáo ngoại giao nào của Nhật đã được giải mã được gửi ra ngoài phạm vi Washington”. Người ta làm thế nhằm bảo vệ hệ thống giải mã Magic. Nói một cách khác, chính quyền và bộ chỉ huy quân đội đã cố ngăn ngừa để lộ việc các chuyên gia Mỹ đã giải mã được các mật mã ngoại giao của Nhật. Mong muốn bảo vệ tránh rò rỉ thông tin về hệ thống Magic, theo ý kiến của một nhà quan sát, còn thúc đẩy tướng J. Marshall đến quyết định thông báo cho Trân Châu Cảng về mối nguy cơ đang đến gần không phải bằng điện báo mà và qua đường điện thoại thương mại. Vậy điều gì đã xảy ra vậy?

Nhân viên đưa thư của công ty RCA, người gốc Nhật mang điện của tướng Marshall cho chỉ huy căn cứ ở Trân Châu Cảng vẫn còn đang trên đường bằng chiếc xe máy hai xylanh thì cuộc oanh tạc kinh khủng của các máy bay Nhật xuống hòn đảo đã bắt đầu. Anh ta buộc phải chui xuống hầm trú ẩn. Và công văn hoả tốc trong túi anh ta vốn đã có thể cảnh báo cho ban chỉ huy căn cứ về cuộc tiến công có thể của địch chỉ được đưa đến địa chỉ vào sau buổi trưa ngày 7 tháng 12. Bao phủ trên Trân Châu Cảng là mùi cháy khét lẹt. Các đội mai táng đã lôi thi thể những người thiệt mạng từ dưới những đống đổ nát của những kho tàng, những ngôi nhà sập, từ các boong tàu! Còn từ các loa phóng thanh vẫn còn vang lên ra rả tiếng nói của phát thanh viên đài phát thanh địa phương Honolulu Advertiser vốn được ghi sẵn lên đĩa nhựa để phòng bất trắc: “Chúng ta vừa bị tấn công. Tất cả phải giữ bình tĩnh và ở nguyên trong nhà. Không ra phố để khỏi cản trở binh lính cơ động nhanh tới vị trí. Không có gì phải lo lắng. Không có gì phải lo lắng cả...”

Đơn giản là người ta đã quên tắt cái đĩa ghi âm ấy. Bây giờ thì người ta hơi sức đâu mà để ý đến điều đó.

Mấy chục năm đã trôi qua kể từ khi nước Nhật quân phiệt tấn công nước Mỹ và đồng minh của Mỹ ở Thái Bình Dương. Đâu đó dưới đáy đại dương mênh mông này là nơi di hài của Đô đốc Yamamoto, một trong những kẻ thủ phạm gây ra chiến tranh, đang yên nghỉ - máy bay của hắn đã bị các máy bay tiêm kích Mỹ bắn hạ vào ngày 18 tháng 4 năm 1943. Cả tên gián điệp Yamaguchi cũng về bên kia thế giới từ lâu. Và cũng đã có nhiều điều thay đổi trên vũ đài thế giới. Nhưng dù sao thì hiện nay, các sử gia phương Tây khác vẫn đang cố tô vẽ cho nước Nhật hình ảnh “một nạn nhân vô tội”. Trên thực tế, chính người Mỹ đã giúp nước Nhật chuẩn bị chiến tranh với âm mưu lái toàn bộ sức mạnh xâm lược chống lại Liên Xô. Tuy đã tấn công nước Mỹ, nhưng Nhật vẫn không từ bỏ các hoạt động quân sự chống Liên Xô. Tokyo chỉ trì hoãn một thời gian việc khai chiến mà thôi. Trì hoãn trong đúng khoảng thời gian mà theo toan tính của các chiến lược gia Nhật là cần để cho các đạo quân Hitler chiến thắng Quân đội Xôviết...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét