Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 44


(ĐC sưu tầm trên NET)


Những nhà khoa học nữ bị lãng quên

Vera Rubin, Cecilia Payne hay Chien Shiung Wu là những nhà khoa học nữ có nhiều đóng góp cho khoa học Mỹ nhưng đều không được nhắc đến vì phân biệt giới tính hoặc bị ăn cắp phát minh.
    1. Vera Rubin 
    Vera-Rubin-3956-1381897535.jpg
    Kể từ khi bắt đầu sự nghiệp khoa học, Vera Rubin luôn phải chịu những lời chỉ trích, chống đối và không khuyến khích của các đồng nghiệp nam cũng như nhiều người khác. Sau khi bị từ chối tham gia chương trình thiên văn học tại Đại học Princeton, Mỹ, vì là nữ giới, Vera vẫn tiếp tục nghiên cứu khoa học và nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Georgetown. Vera là người đầu tiên quan sát thấy các ngôi sao ở phần bên ngoài thiên hà có tốc độ quỹ đạo tương ứng với các ngôi sao ở trung tâm. Quan sát của Rubin đã xác nhận lại một học thuyết trước đó bởi nhà khoa học Fritz Zwicky trước đó khiến cô nhận được không ít lời chỉ trích.
    2. Cecilia Payne 
    Cecilia-Payne4-4351-1381897535.jpg
    Cecilia Payne bắt đầu nghiên cứu tại Đại học Cambridge, Anh, năm 1919 sau khi nhận được học bổng về thực vật học, vật lý học và hóa học. Tuy nhiên, chúng đều không có ý nghĩa bởi Cambridge từ chối cấp bằng cho phụ nữ. Trong thời gian ở Cambridge, Payne khám phá ra tình yêu dành của cô cho thiên văn học và trở thành người phụ nữ đầu tiên nhận được tiến sĩ thiên văn học tại Radcliffe. Payne từng đưa ra chứng minh các thành phần cấu tạo Mặt Trời khác biệt với Trái Đất nhưng không được công nhận. Đến năm 1938, Payne mới được công nhận là nhà thiên văn học. Năm 1956, bà được bổ nhiệm và trở thành nữ giáo sư đầu tiên của đại học Harvard. 
    3. Chien Shiung Wu
    Wu-7522-1381897535.jpg
    Chien Shiung Wu là một người Trung Quốc nhập cư sang Mỹ. Tại đây Wu bắt đầu tham gia dự án Manhattan và phát triển bom nguyên tử . Đóng góp lớn nhất của cô cho giới khoa học là khám phá ra sự vi phạm của Luật Bảo tồn Tính chẵn lẽ trong khi đây là định luật phổ biến rộng rãi. Phát hiện của Wu đã đảo ngược quan điểm khoa học tồn tại suốt 30 năm. Tuy nhiên, hai đồng nghiệp của Wu là Chen Ning Yang và Tsung Dao Lee, những người nhờ đến phát hiện và sự giúp đỡ của Wu để chứng minh cho lý thuyế này phát hiện đã giải thưởng Nobel mà không đề cập đến Wu.
    4. Nettie Stevens
    Nettie-Stevens-5600-1381897536.jpg
    Nghiên cứu giới tính được xác định bởi 23 cặp nhiễm sắc thể được ghi nhận là phát hiện của Thomas Morgan. Tuy nhiên trước đó, Nettie Stevens là người nghiên cứu xác định giới tính của sâu mealworm và nhận ra rằng nó phụ thuộc vào nhiễm sắc thể X và Y. Trong mắt mọi người, Stevens chỉ là người làm việc cho Thomas Morgan, trong khi hầu hết các phát hiện của cô đều được thực hiện độc lập. Morgan cũng chỉ coi Stevens là một kỹ thuật viên hơn chứ không phải là một nhà khoa học thực thụ.
    5. Ida Tacke
    Ida-Noddack-Tacke2-2575-1381897536.png
    Năm 1925, nhà hóa học trẻ Ida Tacke tuyên bố khám phá ra 2 nguyên tố còn thiếu trong bảng tuần hoàn của Mendeleev. Khám phá của Ida về Rhenium 75 chưa bao giờ gặp phải tranh luận, nhưng nguyên tố 43 mà Ida gọi là Masurium bị các nhà khoa học khác hoài nghi và từ chối. Ngày này, nguyên tố đó gọi là Technetium, được khám phá bởi Carlo Perrier và Emilio Segre. Nghiên cứu mô tả tiến trình cơ bản của phản ứng phân hạch hạt nhân của Ida cũng hoàn toàn bị bác bỏ và chỉ được công nhận 5 năm sau đó.

    Những nhà khoa học 'sinh nghề, tử nghiệp'

    Nhiều nhà khoa học có thể gặp các chấn thương không mong muốn trong quá trình làm thí nghiệm, thậm chí có những người phải bỏ mạng vì chính nghiên cứu của họ, và để lại những thành quả đáng giá cho thế hệ sau.
      Carl Scheel (1742-1786)  Ông là nhà hóa dược học thiên tài đã phát hiện ra rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi tiếng nhất là oxy (mặc dù nghiên cứu này sau đó được nhà khoa học Joseph Priestly xuất bản trước), molipden, vonfram, mangan và clo.  ào thời đại của ông, chưa có các biện pháp bảo đảm an toàn lao động cũng như người ta chưa biết hết về độc tính của các loại hóa chất. Carl còn có một thói quen xấu là sử dụng tất cả các giác quan để tiếp xúc với hóa chất, nhất là khứu giác và vị giác. Trong một lần thử hydro xyanua, mặc dù ông nghĩ mình sẽ an toàn nhưng do sự tích tụ cùng lúc các chất thủy ngân, chì, axit flohydric và một số chất khác đã khiến ông tử vong vì nhiễm độc kim loại nặng ở tuổi 44.
      Carl Scheel (1742-1786) là nhà hóa dược học thiên tài. Ông đã phát hiện ra rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi tiếng nhất là oxy (mặc dù nghiên cứu này sau đó được nhà khoa học Joseph Priestly xuất bản trước), molipden, vonfram, mangan và clo. Vào thời đại của ông, chưa có các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, và nhiều người cũng chưa biết hết về độc tính của các loại hóa chất. Carl còn có một thói quen xấu là sử dụng tất cả các giác quan để tiếp xúc với hóa chất, nhất là khứu giác và vị giác. Trong một lần thử hydro xyanua, dù nghĩ bản thân sẽ an toàn, nhưng sự tích tụ cùng lúc các chất thủy ngân, chì, axit flohydric và một số chất khác, đã khiến ông tử vong vì nhiễm độc kim loại nặng ở tuổi 44.
      Elizabeth Fleischman Ascheim (1859-1905)  Sau khi nhà khoa học Wilhelm Conrad Röntgen phát minh ra tia X, cô gái người California Elizabeth Fleischman Ascheim đã từ bỏ công việc của một người thủ thư để theo học trường điện. Với sự sáng dạ của mình, cô nhanh chóng tốt nghiệp và mở cho mình phòng khám sử dụng tia X đầu tiên trên toàn nước Mỹ. Cùng với anh chồng của mình - một nhà vật lý học, cô đã say mê nghiên cứu về tác dụng của phương pháp chụp X-quang. Cả hai người đã dành nhiều ngày để chụp X-quang cơ thể nhau nhằm mục đích nghiên cứu. Sau khi nhà khoa học Wilhelm Conrad Röntgen phát minh ra tia X, cô gái người California Elizabeth Fleischman Ascheim đã từ bỏ công việc của một người thủ thư để theo học trường điện. Với sự sáng dạ của mình, cô nhanh chóng tốt nghiệp và mở cho mình phòng khám sử dụng tia X đầu tiên trên toàn nước Mỹ. Cùng với anh chồng của mình - một nhà vật lý học, cô đã say mê nghiên cứu về tác dụng của phương pháp chụp X-quang. Cả hai người đã dành nhiều ngày để chụp X-quang cơ thể nhau nhằm mục đích nghiên cứu. Cô đã chữa trị cho rất nhiều binh sĩ trong chiến tranh Mỹ- Tây Ban Nha rồi sau đó theo học chuyên ngành nha khoa, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực phóng xạ. Tuy nhiên, cô đã không hề tiến hành bất cứ biện pháp bảo hộ nào trong khi nghiên cứu cũng như chữa trị cho các bệnh nhân vì theo cô nói, nếu cô dùng đồ bảo hộ thì bệnh nhân sẽ cảm thấy không thoải mái và an toàn. Cô đã bị nhiễm độc phóng xạ và mất năm 46 tuổi, và được xem như một người anh hùng trong lĩnh vực nghiên cứu phóng xạ.
      Sau khi nhà khoa học Wilhelm Conrad Röntgen phát minh ra tia X, Elizabeth Fleischman Ascheim (1859-1905) đã từ bỏ công việc của một người thủ thư để theo học trường điện. Bà nhanh chóng tốt nghiệp và mở phòng khám sử dụng tia X đầu tiên trên toàn nước Mỹ. Cùng với chồng (một nhà vật lý học), bà đã say mê nghiên cứu về tác dụng của phương pháp chụp X-quang. Cả hai người dành nhiều ngày để chụp X-quang cơ thể nhau nhằm mục đích nghiên cứu. Bà đã chữa trị cho rất nhiều binh sĩ trong chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha rồi sau đó theo học chuyên ngành nha khoa, đồng thời bà cũng là nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực phóng xạ. Tuy nhiên, bà lại không hề thực hiện bất cứ biện pháp bảo hộ nào trong khi nghiên cứu, cũng như chữa trị cho các bệnh nhân vì theo bà nói, nếu dùng đồ bảo hộ thì bệnh nhân sẽ cảm thấy không thoải mái và an toàn. Vì vậy, bà đã bị nhiễm độc phóng xạ và mất năm 46 tuổi. Ascheim được xem như một người anh hùng trong lĩnh vực nghiên cứu phóng xạ.
      Alexander Bogdanov (1873-1928)  Alexander Bogdanov là nhà khoa học nổi tiếng người Nga. Ông đồng thời cũng là một bác sĩ, nhà kinh tế, nhà triết học, nhà khoa học tự nhiên, nhà văn viễn tưởng, nhà thơ, giáo viên, chính trị gia, nhà cách mạng và là người tiên phong của môn điều khiển học và khoa học tổ chức.   Ông cũng là người sáng lập viện nghiên cứu về truyền máu đầu tiên trên thế giới - Viện truyền máu Liên Xô- vào năm 1926. Ông đã thực hiện 11 lần truyền máu vào chính cơ thể mình với tuyên bố truyền máu sẽ chữa khỏi bệnh hói đầu và cải thiện thị lực của ông. Thật không may, trong lần truyền cuối cùng, ông đã bị nhiễm sốt rét và lao rồi tử vong sau đó, để lại những nghiên cứu có giá trị về truyền máu cho con người.
      Alexander Bogdanov (1873-1928) là nhà khoa học nổi tiếng người Nga. Ông đồng thời là bác sĩ, nhà kinh tế, nhà triết học, nhà khoa học tự nhiên, nhà văn viễn tưởng, nhà thơ, giáo viên, chính trị gia, nhà cách mạng và là người tiên phong của môn điều khiển học và khoa học tổ chức. Ông cũng là người sáng lập viện nghiên cứu về truyền máu đầu tiên trên thế giới - Viện truyền máu Liên Xô- vào năm 1926. Ông thực hiện 11 lần truyền máu vào chính cơ thể mình với tuyên bố truyền máu sẽ chữa khỏi bệnh hói đầu và cải thiện thị lực của ông. Thật không may, trong lần truyền cuối cùng, Bogdanov bị nhiễm sốt rét và lao, rồi tử vong sau đó, để lại những nghiên cứu có giá trị về truyền máu cho con người.
      Marie Curie (1867-1934)  Việc Henri Becquerel phát hiện ra phóng xạ năm 1896 đã khơi nguồn cảm hứng cho các nghiên cứu của đôi vợ chồng nhà khoa học nổi tiếng, Marie và Pierre Curie. Những nghiên cứu và phân tích tuyệt vời của họ đã tách được hai chất phóng xạ là poloni và radi.  Marie đã dành cuộc sống của mình tiến hành nghiên cứu bức xạ và nghiên cứu bức xạ trị liệu, nhưng do bà phải tiếp xúc liên tục với chất phóng xạ, bà đã bị bệnh bạch cầu và qua đời năm 1934. Trong số rất nhiều giải thưởng, bà là người duy nhất nhận được hai giải thưởng Nobel ở hai lĩnh vực khác nhau: hóa học và vật lý.
      Việc Henri Becquerel phát hiện ra phóng xạ năm 1896 đã khơi nguồn cảm hứng cho các nghiên cứu của đôi vợ chồng nhà khoa học nổi tiếng, Marie Curie (1867-1934) và Pierre Curie. Những nghiên cứu và phân tích tuyệt vời của họ đã tách được hai chất phóng xạ là poloni và radi. Marie đã dành cuộc sống của bà thực hiện nghiên cứu bức xạ và nghiên cứu bức xạ trị liệu, nhưng do bà phải tiếp xúc liên tục với chất phóng xạ, nên bà đã bị bệnh bạch cầu và qua đời năm 1934. Marie là người duy nhất nhận được hai giải Nobel ở hai lĩnh vực khác nhau là hóa học và vật lý.
      Haroutune (Harry) K. Daghlian Jr. (1921-1945).
      Haroutune (Harry) K. Daghlian Jr. (1921-1945) là nhà vật lý học người Mỹ. Daghlian đã tham gia vào kế hoạch Manhattan nổi tiếng tại phòng thí nghiệm quốc gia ở Los Alamos, New Mexico. Ngày 21/8/1945, trong thí nghiệm về khối lượng, ông đã vô ý làm rơi một viên gạch vonfram cacbua vào lõi bom plutonium. Để tránh các phản ứng có hại xảy ra, ông phải dùng tay để nhấc gạch ra, điều này khiến ông bị nhiễm một lượng lớn phóng xạ và tử vong 25 ngày sau đó.
      Malcolm Casadaban (1949-2009). Giáo sư về di truyền học phân tử và sinh học tế bào và vi sinh học tại Đại học Chicago, Malcolm Casadaban đã thực hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về một loại vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm để rồi sau đó chính ông cũng bị nhiễm bệnh và tử vong. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh và báo cáo phòng chống về vụ việc, vi khuẩn đã giết chết Malcolm và đồng thời cũng làm những nhân viên trong phòng thí nghiệm tử vong. Ông được chẩn đoán là nhiễm cả bệnh hemochromatosis, tức rối loạn chuyển hóa chất sắt sau khi tử vong.
      Malcolm Casadaban (1949-2009) là giáo sư về di truyền học phân tử và sinh học tế bào và vi sinh học tại Đại học Chicago. Casadaban thực hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về một loại vi khuẩn gây bệnh truyền nhiễm, sau đó chính ông cũng bị nhiễm bệnh và tử vong. Theo Trung tâm kiểm soát dịch bệnh và báo cáo phòng chống về vụ việc, vi khuẩn đã giết chết Malcolm và đồng thời cũng làm những nhân viên trong phòng thí nghiệm tử vong. Ông được chẩn đoán là nhiễm cả bệnh hemochromatosis, tức rối loạn chuyển hóa chất sắt sau khi tử vong.
      Richard Din (1987-2012)  Richard Din là một nhà khoa học làm việc tại Viện Nghiên cứu và Giáo dục Bắc California với nhiệm vụ nghiên cứu về một loại vắc-xin có tác dụng ngăn chặn vi khuẩn Neisseria meningitides - loại vi khuẩn gây chứng viêm màng não và nhiễm trùng máu. Trong quá trình nghiên cứu, Richard cảm thấy nhức đầu và buồn nôn, và vào sáng hôm sau các triệu chứng đã xấu đi nhanh chóng khiến Richard phải nhập viện. Richard Din đã chết 17 giờ sau khi các triệu chứng xuất hiện lần đầu tiên. Nguyên nhân là do anh đã bị nhiễm vi khuẩn viêm màng não.
      Richard Din (1987-2012) làm việc tại Viện Nghiên cứu và Giáo dục Bắc California với nhiệm vụ nghiên cứu về một loại vắc-xin có tác dụng ngăn chặn vi khuẩn Neisseria meningitides - loại vi khuẩn gây chứng viêm màng não và nhiễm trùng máu. Trong quá trình nghiên cứu, Din (bên phải) cảm thấy nhức đầu và buồn nôn. Các triệu chứng xấu đi nhanh chóng vào sáng hôm sau, khiến Din phải nhập viện. Anh đã chết 17 giờ sau khi các triệu chứng xuất hiện lần đầu tiên. Nguyên nhân là do anh đã bị nhiễm vi khuẩn viêm màng não. Anh đã không tiêm phòng viêm màng não theo khuyến cáo của Trung tâm kiểm soát dịch bệnh CDC, đây có thể là nguyên nhân gây tử vong mặc dù dòng vi khuẩn Din đang nghiên cứu có thể kháng lại vắc-xin. May mắn là những người tiếp xúc với Din đã được điều trị kịp thời bằng kháng sinh và không ai trong số họ nhiễm bệnh.
      Theo An ninh thủ đô

      Những nhà khoa học tự thí nghiệm trên bản thân

      Từng có thời kỳ giới khoa học xem chuyện tự thí nghiệm trên chính mình là bình thường, họ cho rằng không người nào tốt hơn chính bản thân để mô tả tác dụng một loại thuốc, hay quá trình tiến triển của bệnh tật.
      > Bệnh tật của những nhà khoa học thiên tài
      p
      Sir Henry Head. Ảnh: Wikipedia.

      Sir Henry Head

      Sir Henry Head, nhà thần kinh học người Anh vào thế kỷ 19, nghiên cứu tiến trình hồi phục cảm giác của bệnh nhân sau khi bị tổn thương dây thần kinh ngoại biên. Nhưng vì người bệnh không có kiến thức chuyên môn, cũng như không được đào tạo bài bản nên không thể giải thích hợp lý hiện tượng này. Điều này khiến Head đi đến một quyết định khá táo bạo, tự cắt dây thần kinh của ông để thí nghiệm.
      Với sự hỗ trợ của một bác sĩ khác, Head đã cắt rời một số dây thần kinh ngoại biên trong cánh tay và bàn tay trái của ông. Ba tháng sau, Head dần hồi phục khả năng cảm thấy đau đớn trong cánh tay. Ông và người bạn cộng sự tiếp tục các cuộc thí nghiệm kiểm tra và quan sát trong bốn năm sau đó. Họ đã khám phá ra nhiều kiến thức mới mẻ về hoạt động nhận thức cảm giác của con người.
      Nhờ vào nghiên cứu sơ bộ của Head, chúng ta có thêm nhiều hiểu biết về cách não người sở hữu những cảm giác, xúc giác khác nhau.

      Friedrich Sertürner

      Một trong những nhà khoa học “điên rồ” tự thí nghiệm mình đáng chú ý là Friedrich Wilhelm Sertürner, người đã cô lập alkaloid đầu tiên từ opium, qua một tiến trình 52 bước. Sau một vài thí nghiệm với chó và chuột, Sertürner gọi alkaloid vừa được phân lập là “morphine ", dựa theo vị thần của những giấc mơ trong thần thoại Hy Lạp, Morpheus. Lý do của tên gọi này là morphine có thể dễ dàng đưa đối tượng đi vào giấc ngủ, thậm chí là vĩnh hằng.
      Tự tin với kết quả từ thí nghiệm động vật sống, ông quyết định thử nghiệm trên con người. Sertürner cùng với 3 người bạn khác, mỗi người ăn khoảng 30 mg morphine nguyên chất, sau 30 phút ăn thêm một liều nữa, và một liều khác sau 15 phút. Tổng cộng họ đã ăn 90 mg trong gần 1 giờ, nhiều hơn gấp 10 lần so với quy định liều lượng ngày nay.
      Kết quả cho thấy trong liều đầu tiên ông và các bạn đạt đến trạng thái “vui vẻ và đầu óc quay cuồng”, tuy nhiên sau liều thứ hai có dấu hiệu buồn ngủ và mệt mỏi, và liều thứ ba tệ hơn khi gây hoang mang và ngủ sâu, cuối cùng là buồn nôn và đau đầu khi mới tỉnh dậy. Và đương nhiên, các bạn của ông sẽ không bao giờ dám tham gia vào bất kỳ thí nghiệm nào của ông nữa.
      Nhờ vào thí nghiệm điên rồ trên, Sertürner đã tìm ra liều lượng phù hợp để dùng morphine như thuốc giảm đau, mà vẫn còn sử dụng đến tận ngày nay.

      Santorio Santorio

      Sống tại Renaissance Padua, Italya, nhà khoa học Santorio quan tâm đến nhiều lĩnh vực, bao gồm cả sinh lý học. Ông hoài nghi liệu những gì chúng ta ăn vào dưới dạng thức ăn và nước uống có bằng với số lượng chúng ta “tống” ra dưới dạng phân và nước tiểu hay không. Để kiểm chứng điều này, Santorio quyết dịnh dành 30 năm để cân đo trọng lượng của mình, cũng như mọi thứ ông ăn vào và “thải” ra, sau đó kiểm điểm và tính toán sự khác biệt.
      Ông tự chế ra một chiếc ghế ngồi đặc biệt tiện lợi cho việc cân đo trọng lượng cơ thể, thức ăn và chất thải. Ông dành phần lớn thời gian để làm việc, ăn uống, vệ sinh, ngủ và cân đo sự chênh lệch.
      Cuối cùng ông đưa ra kết luận rằng số lượng chúng ta ăn vào lớn hơn số lượng bài tiết ra ngoài, trung bình mỗi 3,5 kg ăn vào thì có 1,3 kg bài tiết. Để giải thích cho hiện tượng này, ông đề ra thuyết "mồ hôi vô cảm", cho rằng chúng ta luôn tiêu hao năng lượng liên tục qua làn da.
      Mặc dù có ít giá trị khoa học, nhưng nghiên cứu của Santorio đóng góp nền tảng trong nghiên cứu tiến trình trao đổi chất. Chiếc ghế đặc biệt do ông sang chế cũng trở nên nổi tiếng sau này.

      Albert Hofmann

      Vào năm 1943, Hofmann làm việc tại hãng dược Sandoz, công việc chính của ông là nghiên cứu chế tạo các loại thuốc. Trong khi tiến hành phân lập một loại nấm trong cây lúa, ông bắt đầu cảm thấy một cảm giác kỳ lạ. Ông cho rằng mình đã tiếp xúc một chất liên quan đến LSD-25. Ông ăn một lượng khoảng 250 microgram chất này. Sau đó ông cảm thấy kỳ quái và rời phòng thí nghiệm, lên xe đạp và đi về. Khi về đến nhà, Hofmann ghi lại tác dụng của loại thuốc mà ông đã tự thí nghiệm vào ngày đó, “Tôi nhìn thấy những hình ảnh tuyệt đẹp, cùng với các hình dạng phi thường, màu sắc vạn hoa biến ảo mãnh liệt”.
      Loại thuốc mà Hofmann đã dùng ngày đó chính là LSD, một trong những loại gây ảo giác mạnh nhất. Mặc dù ban đầu LSD được sử dụng trong tâm lý liệu pháp và bởi CIA để làm thuốc tẩy não, chất này bị cấm kể từ năm 1967.

      Jan Purkinje

      Jan Purkinje, một tu sĩ người Tiệp Khắc bước sang lĩnh vực dược sĩ vào năm 1819. Nhà khoa học này luôn có thái độ bất bình với cách cho liều lượng thuốc của các dược sĩ thời đó. Vì vậy, ông tiến hành tìm ra liều lượng thích hợp bằng cách tự mình ăn thuốc, đồng thời chú ý đến tác dụng của thuốc đến mặt tinh thần và thể chất.
      Purkinje thử nhiều loại cây thuốc, như các cây thuộc chi Mao Địa Hoàng (digitalis), một loại cây làm giảm nhịp tim và khiến tầm nhìn mờ. Để nghiên cứu tác dụng mờ tầm nhìn của loại cây này, ông chủ động dùng quá liều lượng và ghi chép lại các vấn đề ông phải chịu đựng và trải qua.
      Nhiều năm sau đó, Purkinje tự thí nghiệm với nhiều loại thuốc khác nhau. Các thí nghiệm này giúp con người có thêm nhiều kiến thức về liều lượng thích hợp và tương tác của nhiều loại thuốc.

      Hermann Ebbinghaus

      Từ năm 1879 đến 1880, nhà tâm lý học người Đức, Ebbinghaus tự thực hiện thí nghiệm với trí nhớ của bản thân, bằng cách phát minh ra 2.300 âm tiết vô nghĩa, mỗi âm tiết bao gồm ba chữ cái phụ âm - nguyên âm - phụ âm, và ông tự học thuộc ghi nhớ tất cả chúng.
      Ông kết luận rằng số lượng thông tin càng lớn, càng tốn nhiều thời gian để học; một khi thông tin đã được học và quên, nó tốn ít thời gian học lại hơn so với lần học ban đầu, và việc học sẽ hiệu quả hơn khi não có thời gian để hấp thu thông tin.
      Ebbinghaus đã cung cấp nhiều dữ liệu cũng như phương pháp luận trong ngành nghiên cứu tâm trí con người mà vẫn còn giá trị đến ngày nay.

      Karl Landsteiner

      Bác sĩ người Australia, Landsteiner sử dụng máu của chính mình để xác minh giả thuyết rằng những người khác nhau có các loại máu khác nhau.
      Landsteiner cho rằng con người có các loại kháng thể khác nhau trong máu. Một số kháng thể tấn công tế bào máu có chứa loại kháng thể khác. Khi kháng thể tấn công loại khác, gây tiến trình truyền máu bị gián đoạn, thường dẫn đến tử vong. Vào năm 1901, Landsteiner tìm ra 4 loại máu bằng những thí nghiệm trên máu của ông, đó là: A, B, O và AB.
      Thông qua tự thí nghiệm trên bản thân, Landsteiner đã tìm ra nguyên tắc tương thích của các nhóm máu, một phát hiện giúp ích cho việc truyền máu và hiến nội tạng và đã cứu nhiều mạng sống con người.

      Jack Goldstein

      Vào năm 1981, tiếp nối thí nghiệm của Karl Landsteiner, một bác sĩ tự thí nghiệm khác tên là Jack Goldstein đã mở rộng nghiên cứu cùng lĩnh vực về máu.
      Goldstein khám phá ra một enzyme trong cà phê có thể biến đổi nhóm máu B trở nên vô hại. Phản ứng hóa học này chuyển đổi nhóm máu B khiến nó có chức năng tương tự như nhóm máu O, vì vậy mở rộng khả năng thích ứng của máu B với các nhóm máu khác.
      Goldstein có nhóm máu O. Ông đã trải qua một tiến trình truyền máu sử dụng nhóm máu loại B đã được xử lý bằng enzyme, để chuyển thành loại máu O. Sau khi trải qua tiến trình truyền máu này và không gây ra các phản ứng có hại nào, Goldstein đã chứng minh rằng kỹ thuật này thật sự có hiệu quả.
      y
      George Stratton. Ảnh: Wikipedia.

      George Stratton

      Để kiểm tra lý thuyết về sự thích ứng của nhận thức con người, Stratton đã mang vào một cặp kính ngược, khiến cho cả thế giới trong mắt ông bị đảo ngược hoàn toàn. Ông đeo một kính đặc biệt bên mắt phải và bịt cả mắt bên trái, sau đó bắt đầu thí nghiệm trên chính mình trong vòng 8 ngày liên tục, với một tầm nhìn khác thường.
      Ngày đầu tiên ông di chuyển rất khó khăn và không gian đảo ngược khiến ông cảm thấy không thực. Nhưng ngày thứ hai, chỉ có vị trí cơ thể là khác lạ. Đến ngày thứ bảy, mọi thứ trở nên bình thường và ông có thể di chuyển thoải mái. Thí nghiệm của ông chứng tỏ rằng, con người có thể xây dựng mối liên kết giữa tầm nhìn, tiếp xúc da bằng cách học, và thích ứng trong một khoảng thời gian nhất định.

      Elsie Widdowson

      Vào thế chiến thứ II, chính phủ Anh lâm vào tình trạng thiếu thốn lương thực. Elsie Widdowson, một nhà nghiên cứu dinh dưỡng với 60 năm kinh nghiệm, quyết tâm tìm ra khẩu phần ăn phù hợp với tình hình bấy giờ.
      Widdowson và người cộng sự lâu năm, McCance thực hiện thí nghiệm trên chính họ, bằng cách dùng một chế độ ăn uống hết sức nghèo nàn bao gồm bánh mì, bắp cải, và khoai tây trong suốt vài tháng liền. Mục đích của họ là để tìm ra một chế độ ăn uống phù hợp trong thời chiến tranh với ít thịt, sữa và canxi. Họ chứng minh rằng với một chế độ ăn uống khắc nghiệt, con người vẫn có thể duy trì sức khỏe tốt nếu được bổ sung canxi đầy đủ.
      Công việc của họ bắt đầu năm 1940, khi canxi được thêm vào bánh mì. Họ cũng đảm nhận trách nhiệm về xử lý khẩu phần ăn thời chiến của nước Anh suốt thế chiến thứ hai.
      Ngày nay, tự thí nghiệm bị hạn chế trong lãnh vực khoa học bởi tính chất nguy hiểm và không rõ ràng của nó. Nhưng trong nhiều thế kỷ qua, các nhà khoa học đã mạo hiểm để mang lại cho con người một nguồn hiểu biết rộng lớn, quan trọng, và đây là nền tảng cho khoa học hiện đại ngày nay phát triển.
      Nguyên Trường (tổng hợp)

      Bệnh tật của các nhà khoa học thiên tài

      Dù mang trong mình những bệnh tật khác nhau, các nhà khoa học đã làm cuộc sống của họ trở nên có ý nghĩa và khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ với những phát minh làm thay đổi lịch sử nhân loại.
      Albert Einstein. Ảnh: AP.
      Albert Einstein (14/3/1879 - 18/4/1955) là nhà vật lý lý thuyết người Đức. Ông được coi là một trong những cha đẻ của vật lý hiện đại và là một trong những nhà khoa học có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.
      Nhưng ít ai biết, trước khi có thành tựu như vậy, Einstein đã trải qua quãng thời thơ ấu khó khăn. Khi 3 tuổi, Einstein chưa biết nói và không thể đọc được cho đến khi lên 8. Nhiều người nói ông không có khả năng học tập vì có thể ông đã mắc hội chứng thuộc một dạng của bệnh tự kỷ. Tuy nhiên, năm 1921, ông đã nhận giải Nobel Vật lý vì những cống hiến đối với vật lý lý thuyết, và đặc biệt cho sự khám phá ra định luật của hiệu ứng quang điện. Việc khám phá và giải thích định luật quang điện cùng với các đóng góp của những nhà vật khác đã khai sinh ra lý thuyết lượng tử, một trụ cột của ngành vật lý học. Ảnh: AP.
      e
      Thomas Alva Edison (11/2/1847 -18/10/1931). Ông là nhà phát minh vĩ đại, với hơn 1.000 bằng sách chế và nhiều phát minh trong số đó đã được sử dụng trong cuộc sống hằng ngày như máy ghi âm, bóng đèn điện, máy hát, tàu điện, máy quay phim...
      Edison không thể đọc được cho đến khi 12 tuổi và sau đó còn bị điếc. Khả năng viết của ông cũng rất kém. Hồi nhỏ, ông thường đi học muộn vì ốm yếu. Ảnh: Wikipedia.
      p
      Stephen Hawking sinh ngày 8/1/1942 tại Anh. Ông là một trong những nhà vật lý thiên văn lớn nhất thời hiện đại. Năm 21 tuổi, ông bị mắc một chứng bệnh về thần kinh tên là Lou Gehrig. Căn bệnh này khiến ông gần như mất hết khả năng cử động, luôn phải gắn chặt vào xe lăn. Ngoài ra, sau lần phẫu thuật cắt khí quản, ông chỉ có thể nói được nhờ một thiết bị phát âm gắn với một máy tính được ông gõ chữ vào đó.
      Nhưng căn bệnh trên không thể cản trở sự nghiệp nghiên cứu khoa học miệt mài của Hawking. Hiện ông có thể sử dụng má của mình để nhập dữ liệu vào một máy tính kết nối đến não, qua đó xây dựng các câu nói hoàn chỉnh, thậm chí là những bài diễn văn. Ảnh: Martin Pope.
      Isaac Newton
      Isaac Newton (1642 - 1727) là nhà vật lý, thiên văn học, triết học, toán học người Anh. Ông được đánh giá là nhà khoa học vĩ đại và có tầm ảnh hưởng lớn. Khi chưa đầy 25 tuổi, Newton đã có ba phát minh khiến ông trở thành thiên tài khoa học của mọi thời đại.
      Newton luôn chịu thiệt thòi vì mắc nhiều bệnh tật. Ông không chỉ bị mắc bệnh viêm khớp mà còn được cho là mắc đủ chứng bệnh về tâm thần. Ảnh: Wikipedia.
      y
      Charles Darwin (12/2/1809 - 19/4/1882) là một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực tự nhiên học người Anh. Ông là người đã phát hiện và chứng minh rằng mọi loài đều tiến hóa theo thời gian từ những tổ tiên chung qua quá trình chọn lọc tự nhiên.
      Tuy nhiên, cha đẻ của Thuyết tiến hóa thường gặp phải các triệu chứng như run rẩy, buồn nôn, khóc, ảo giác. Theo các chuyên gia có thể ông mắc chứng sợ khoảng rộng có tên Agoraphobia, vì vậy ông ít khi nói chuyện với người xung quanh, ngay cả với người thân. Ảnh: Wikipedia.
      Ảnh: Wikipedia.
      Kurt Godel (28/4/1906 - 14/1/1978) là một nhà toán học và logic học nổi tiếng người Áo. Ông từng được tờ tạp chí danh tiếng Times bình chọn là nhà toán học lớn nhất thế kỷ 20.
      Nhìn bên ngoài, Godel không có vẻ gì là bị mắc bệnh tâm thần, nhưng ông lại có ảo giác bị người khác đầu độc. Ảo giác này khiến ông chỉ có thể tin tưởng thức ăn do vợ nấu. Vì vậy, khi vợ nhập viện, Godel chỉ đơn giản là không ăn gì cả và đã chết vì suy nhược. Ảnh: Wikipedia.
      Hương Thu (tổng hợp)

      Không có nhận xét nào:

      Đăng nhận xét