Thứ Tư, 19 tháng 11, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 27

(ĐC sưu tầm trên NET)


Phan Đình Phùng

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phan Đình Phùng
Sinh 1847
Đông Thái, Hà Tĩnh, Việt Nam
Mất 28 tháng 12 năm 1895
(48 tuổi)
Nghệ An, Việt Nam
Tên khác Phan Đình Phùng
Tổ chức triều Nguyễn
Phong trào chính trị Cần Vương
Tín ngưỡng đạo Khổng
Giải thưởng 1st place, Metropolitan imperial examinations, 1877

Phan Đình Phùng (chữ Hán: 潘廷逢, 1847 - 1895) hiệu: Châu Phong (珠峰), là nhà thơ và là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở cuối thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam.

Thân thế

Phan Đình Phùng sinh ra và lớn lên tại làng Đông Thái, huyện La Sơn (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình nho học. Cha ông là Phó bảng Phan Đình Tuyến, các bác ông là chí sĩ Phan Đình Thông và Cử nhân Phan Đình Thuật; chú ông là Phó bảng Phan Đình Vận.

Nơi quan trường

Năm 1876, Phan Đình Phùng đỗ cử nhân. Năm sau (1877), ông thi đậu Đình nguyên, được bổ làm tri huyện Yên Khánh (tỉnh Ninh Bình). Do ông đánh đòn cố đạo Trần Lục (tục gọi là cụ Sáu), vì ông này hay ỷ thế để ức hiếp dân, nên ông bị triều đình bắt tội, triệu hồi về kinh đô Huế, sung chức Ngự sử đô sát viện.
Tại triều, ông tố cáo nhiều vụ khuất tất, nên có lần được vua Tự Đức khen là "thử sự cửu bất phát, phùng Phùng nải phát" (việc này đã lâu không ai phát giác ra, nay gặp Phùng mới phát hiện được), nên càng nổi tiếng về tính cương trực.
Năm 1882, ông dâng sớ đàn hặc Thiếu bảo Nguyễn Chánh về việc "ứng binh bất viện" (cầm quân mà ngồi yên, không đi tiếp viện) khi quân Pháp tấn công thành Nam Định và về việc "chẳng quan tâm đến dân tình ở Bắc Kỳ".
Năm 1883, do bất đồng quan điểm với Phụ chánh Tôn Thất Thuyết về việc phế vua Dục Đức, lập vua Hiệp Hòa, ông bị vị đại thần này cách chức đuổi về quê nhà.
Năm 1884, Phan Đình Phùng được phục chức, rồi được bổ làm tham biện Sơn phòng Hà Tĩnh.

Hưởng ứng dụ Cần vương


Tượng đài Phan Đình Phùng tại vòng xoay trước Bưu điện Chợ Lớn, quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh
Năm 1885, vua Hàm Nghi mưu việc kháng Pháp không thành phải chạy ra Tân Sở (Quảng Trị) lẩn tránh. Phan Đình Phùng đã quên nỗi hiềm khích riêng, để cùng với Tôn Thất Thuyết chống Pháp. Hưởng ứng dụ Cần Vương[3] của vua, dù đang cư tang mẹ, Phan Đình Phùng vẫn đứng ra chiêu tập lực lượng từ khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, để chống ngoại xâm.
Phan Đình Phùng được nhà vua phong chức tán lý quân vụ, lãnh đạo nghĩa quân xây dựng căn cứ tại hai huyện Hương Sơn (đồn Hà Tân), Hương Khê (đồn Quy Hợp (Phú Gia)), thuộc Hà Tĩnh. Theo giúp sức ông có các trí thức như Tiến sĩ Phan Trọng Mưu, Cử nhân Phan Quảng...và nhiều võ tướng xuất thân từ nông dân và nhiều thành phần khác như Cao Thắng, Cao Nữu, Lê Ninh, Nguyễn Chanh, Nguyễn Trạch, Lê Văn Tạc, Phan Đình Phong, Phan Đình Can...
Suốt mười năm (1885-1896), bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo đã giao chiến với Pháp nhiều trận, và đã gây cho đối phương nhiều tổn thất nặng nề, tiêu biểu nhất là trận Vụ Quang vào năm 1894.
Thấy không thể dùng sức mạnh quân sự để tiêu diệt được cuộc khởi nghĩa, người Pháp dùng mọi cách dụ dỗ, mua chuộc Phan Đình Phùng. Người Pháp còn lợi dụng các cộng sự như Lê Kinh Hạp, Phan Trọng Mưu, Võ Khoa, Hoàng Cao Khải viết thư lấy "tình xưa nghĩa cũ" để khuyên hàng, nhưng trước sau ông vẫn một lòng cự tuyệt. Người Pháp lại dùng Nguyễn Thân và những cộng sự khác ra sức đàn áp, bắt thân nhân và khai quật mồ mả tồ tiên ông, vẫn không làm ông sờn lòng.
Năm 1893, Cao Thắng tử trận khiến Phan Đình Phùng bị mất đi một cộng sự đắc lực. Năm 1895, Pháp điều Nguyễn Thân đến phối hợp với công sứ Nghệ An là Duvillier đem 3.000 lính đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Quân chủ lực của Phan Đình Phùng bị đối phương bít đường tiếp vận, nên vũ khí, lương thực, quân số thảy đều thiếu thốn, khó bù đấp. Mỗi lần đối phương tấn công, nghĩa quân chỉ có thể chạy quanh từ núi Quạt rồi trở về núi Vụ Quang, và không thể ở đâu lâu quá 3 ngày.
Ngày 17 tháng 10 năm 1894, Phan Đình Phùng đã tập hợp lực lượng, đánh thắng một trận lớn, đối phương mất nhiều vũ khí và bị giết chết rất nhiều. Ban đầu, ông cho quân lên tận nguồn sông chặt cây đóng kè chặn nước lại, đồng thời chuẩn bị sẵn nhiều khúc gỗ lớn. Khi quân Pháp và quân triều thân Pháp đến giữa dòng sông, thì ông cho phá kè trên nguồn, và tuôn cây xuống. Đối phương phần bị nước cuốn, phần bị cây lao vào người, lại bị nghĩa quân ở hai bên bờ xông ra đánh nên bị thương vong rất nhiều. Theo Phạm Văn Sơn thì sau trận này, phía Pháp ngoài số quân trang và đạn dược bị mất mát, còn có ba sĩ quan và trên trăm lính bị tiêu diệt.
Đây là trận thắng cuối cùng, vì gần 3.000 quân do Nguyễn Thân cầm đầu ngày càng xiết chặt vòng vây. Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895.
Mười hai ngày sau khi thủ lĩnh Phan Đình Phùng mất, Nguyễn Thân mới tới được núi Vụ Quang và núi Quạt. Sau đó, Nguyễn Thân cho quật mồ Phan Đình Phùng ở chân núi Quạt, đổ dầu đốt cho xương thịt ông cháy thành tro, rồi trộn vào thuốc súng bắn xuống sông La.
Sang đầu năm 1896, một số chỉ huy lần lượt mất vì ở lâu nơi rừng sâu nước độc, một số bị tử trận hoặc bị bắt, một số khác thì rút qua Xiêm La hoặc ra hàng...Cuộc khởi nghĩa Hương Khê mà Phan Đình Phùng cùng các cộng sự đã dày công xây dựng đến đây là kết thúc.

Tác phẩm


Bút tích Phan Đình Phùng lưu giữ tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam
Hiện nay thơ văn của Phan Đình Phùng chỉ mới sưu tầm được một số bài.
  • Câu đối: Điếu Lê Ninh, Khóc Cao Thắng
  • Thơ: Đáp hữu nhân ký thi, Thắng trận hậu cảm tác, Kiến nguy binh thi cảm tác, Phúc đáp Hoàng Cao Khải, Lâm chung thời tác...
  • Thư: kính ký Hoàng Cao Khải thư
  • Sử địa: Việt sử địa dư (越史地輿): Sách viết bằng Hán văn, hoàn thành năm Kiến Phúc thứ nhất (Tây lịch năm 1883), hiện chỉ còn một bản viết tay. Sách được dịch sang tiếng Việt và xuất bản lần đầu tiên năm 2008. Nguyễn Hữu Mùi dịch và chú giải, Chương Thâu viết lời dẫn.

Giai thoại

Năm 1886, anh của Phan Đình Phùng là Phan Đình Thông đang giữ cánh quân ở huyện Thanh Chương (Nghệ An), bị thủ hạ làm phản nên bị Pháp bắt. Lê Kinh Hạp vốn là bạn thân Phan Đình Phùng, nên viết thư khuyên bạn về hàng để cứu lấy anh, để mồ mả cha ông khỏi bị khai quật.
Phan Đình Phùng cười lạt, nói với người đưa thư:
Tôi có một ngôi mộ rất to nên giữ là đất nước Việt Nam, có một ngôi mộ rất to là mấy mươi triệu đồng bào. Nếu về hàng, để sửa sang phần mộ của cha ông mình, thì ngôi mả cả nước kia ai giữ? Về để cứu vớt ông anh mình, thì anh em trong nước ai cứu?
Sau khi cho khai quật mồ mả tổ tiên của Phan Đình Phùng ở làng Đông Thái vào năm 1894, Pháp cho bắt giam luôn những người thân tộc của ông.
Hoàng Cao Khải lúc đó đang là kinh lược sứ Bắc Kỳ, vốn là người đồng hương và là thông gia với Phan Đình Phùng, liền gửi cho ông một bức thư chiêu hàng bằng những lời lẽ hết sức thân mật, để khuyên bạn đừng chống đối tân triểu (sau vua Hàm Nghi là Đồng Khánh) và Pháp nữa. Sau khi xem xong, Phan Đình Phùng thở dài nói:
Tôi đã quyết làm cái công việc của vua (Hàm Nghi) ủy thác, dân trông mong tới cùng, thì dầu cho sấm sét búa rìu, quyết cũng không lay chuyển và thay đổi chí hướng được.
Phan Đình Phùng viết thư phúc đáp, rồi ân cần dặn Phan Văn Mân, người anh nhà bác và là người mang thư, đừng trở lên núi Vụ Quang nữa.

Bài thơ tuyệt mạng

臨終時作
戎場奉命十更冬,
武略依然未奏功。
窮戶嗷天難宅雁,
匪徒遍地尚屯蜂。
九重車駕關山外,
四海人民水火中。
責望愈隆憂愈重,
將門深自愧英雄。
Lâm chung thời tác
Nhung trường phụng mệnh thập canh đông,
Võ lược y nhiên vị tấu công.
Cùng hộ ngao thiên nan trạch nhạn,
Phỉ đồ biến địa thượng đồn phong.
Cửu trùng xa giá quan sơn ngoại,
Tứ hải nhân dân thủy hỏa trung.
Trách vọng dũ long ưu dũ đại,
Tướng môn thâm tự quý anh hùng.
Dịch nghĩa:
Làm trong khi sắp mất
Vâng mệnh ở chốn binh nhung đã mười năm,
Mưu lược đánh giặc vẫn chưa nên được việc gì.
Dân chúng cùng đường đói khổ kêu trời như đàn nhạn không có chỗ ở,
Bọn xâm lược còn đóng đồn như ong khắp mọi nơi.
Xa giá của vua (Hàm Nghi) đang ở ngoài quan san,
Nhân dân bốn bể như sống trong nước sôi lửa bỏng.
Trách nhiệm càng cao thì mối lo càng lớn,
Nghĩ mình cũng trong cửa tướng, mà riêng thẹn với tiếng anh hùng.
Dịch thơ:
Làm lúc sắp mất
Việc quân vâng mệnh trải mười đông,
Chiến sự nay còn tính chửa xong.
Dân đói kêu trời tan ổ nhạn,
Quân thù chật đất dậy đàn ong.
Chín trùng thánh chúa nơi quê lạ,
Bốn bể nhân dân chốn lửa nồng.
Trách vọng càng cao, lo lại lặng,
Tướng môn những thẹn với anh hùng.

Đánh giá

Về võ công

Khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo là cuộc khởi nghĩa có quy mô lớn nhất và kéo dài nhất trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ 19. Cuộc khởi nghĩa đã phát huy được tinh thần đoàn kết, sự ủng hộ của người dân ở miền xuôi lẫn miền ngược, cả về sức lực lẫn của cải vật chất.
Về quân sự, nghĩa quân được tổ chức theo lối chính qui, có kỷ luật nghiêm minh và cùng kiểu trang phục; biết sử dụng các phương thức tác chiến linh hoạt, phong phú, biết phát huy tính chủ động, sáng tạo khi giáp trận với đối phương. Trong đội ngũ đã có sự tổ chức, sự huấn luyện đầy đủ và được trang bị khá đàng hoàng, khiến đối phương cũng phải hết sức khâm phục.
Phan Đình Phùng mất, cuộc khởi nghĩa Hương Khê cũng tan rã. Song, công cuộc vì đại nghĩa này rất xứng đáng là đỉnh cao của phong trào Cần Vương. Đây cũng là thời điểm kết thúc sứ mạng lãnh đạo của tầng lớp sĩ phu phong kiến Việt Nam chống Pháp .

Về văn nghiệp

Qua số tác phẩm, tuy ít ỏi của ông, người ta dễ nhận thấy con người của Phan Đình Phùng luôn vì dân, biết dựa vào dân, luôn kiên quyết chiến đấu chống Pháp đến cùng, không hề mắc phải bả cám dỗ của đối phương.
Và cũng qua Lâm chung thời tác, mà lời lẽ hết sức bi thiết, Phan Đình Phùng đã bộc lộ mình là một nhà nho trung nghĩa sáng suốt, bởi ông hiểu rõ sự thất bại không thể tránh khỏi của cuộc diện đất nước lúc bấy giờ…

Tưởng nhớ

Khốc Phan Đình Nguyên
(Khóc Phan Đình Nguyên)
Dịch nghĩa:
Thế mạnh như chẻ tre, thật có thể khôi phục kinh đô,
Đau xót vì công mười năm, sắp thành thì thất bại.
Chỉ buồn triều đình dùng vàng lụa củng cố việc hòa,
Đau xót thấy dân chúng đốt lò hương đầy tiếng khóc.
Tay kéo lại núi sông, lòng chưa chết
Thân cưỡi sao Cơ, sao Vỉ như khi còn sống
Ai qua nơi thắng trận ngày xưa,
Ngàn năm còn khiến cho người ta đầy lệ.
Đào Tấn
Hiện nay, tên Phan Đình Phùng được dùng để đặt tên cho trường học, đường phố tại nhiều tỉnh thành trên khắp nước Việt Nam.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 15:19, ngày 26 tháng 10 năm 2014.

Người Chị Của Lãnh Tụ Cần Vương Phan Đình Phùng
Phan Duy Kha
12-Nov-2014
"Bà chị nhà” là ai?
Trong bức thư của Hoàng Cao Khải (HCK) gửi Phan Đình Phùng (PĐP) đề tháng 4 năm Giáp Ngọ (1894), ở đoạn kết HCK có viết: “Nay tôi đã thương thuyết với các quí quan: trước hãy tha bà chị nhà để đến báo tin cho túc hạ và kèm cả bức thư này đường đột gửi đến túc hạ. Kính xin bậc cao minh xét cho” (Thư của HCK gửi PĐP theo Bãi ngoại liệt truyện được dẫn lại trong Tổng tập Văn học Việt Nam – TTVHVN – Tập 19).
Vì sao trong bức thư của HCK gửi PĐP lại nhắc đến “bà chị nhà”; bà là ai, phạm tội gì và vì sao lại được tha? Theo gia phả họ Phan làng Đông Thái (nay là xã Châu Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh), cụ Phan Đình Tuyển, thân sinh của PĐP, sinh được 8 người con – 7 trai, 1 gái. Bà vợ cả sinh được 6 người con – 5 trai, 1 gái. Một gái đầu là bà Phan Thị Đại, 5 người con trai tiếp theo là: Phan Đình Thông (tu tài), Phan Đình Thuật (cử nhân), Phan Đình Tuân (mất sớm), PĐP (đình nguyên tiến sĩ), Phan Đình Vận (phó bảng). Bà vợ hai của Phan Đình Tuyển sinh được hai con trai (không thành đạt gì).

tượng Phan Đình Phùng ở Bưu Điện Chính
ở Chợ Lớn, HCM City
Bà Đại lấy chồng là ông cử nhân Lê Văn Thống, người làng Trung Lê, xã Cổ Ngu, tổng Văn Lâm (nay là xã Đức Trung, Đức Thọ, Hà Tĩnh, cách Đông Thái 7 km). Khi giặc tấn công vào đại đồn Đông Thái, PĐP vượt vòng vây, kéo quân lên vùng núi rừng Hương Sơn – Hương Khê lập căn cứ kháng chiến. Ở quê nhà, bà Đại bị giặc bắt và bị khép vào tội “ám thông với giặc, chống lại triều đình”, bị kết án tử hình. Sau một thời gian bị giam ở nhà lao Hà Tĩnh, bà bị giải vào Huế để chịu tội. Khi đi đến địa phận tỉnh Quảng Bình thì nhận được lệnh từ Huế gửi ra, cho giảm mức án, vì: “em làm giặc, không liên quan đến chị gái đã xuất giá. Muốn bắt tội cũng không thể khép án tử hình”. Bà lại được giải trở lại nhà lao Hà Tĩnh. Vì sao bà được hưởng đặc ân như thế? Không lẽ thực dân Pháp và bọn tay sai của chúng đã thấu nỗi oan vô tội của bà chăng? Thực ra thì chúng giảm án cho bà để lợi dụng bà, dùng bà làm người đưa thư dụ dỗ mua chuộc của chúng “Các quý quan” mà HCK nhắc tới trong thư chính là tên toàn quyền De Lanessan – kẻ đạo diễn ra vở kịch này.
Lợi dụng mưu đồ của giặc Pháp
Bà Phan Thị Đại biết được mưu đồ mua chuộc của chúng. Nhưng đây là cơ hội duy nhất để được gặp em trai, bà không thể bỏ qua. Bởi vì từ khi giặc tấn công vào đại đồn Đông Thái (11-1885), PĐP chuyển lên lập căn cứ ở núi rừng Hương Sơn, bà bị giặc bắt giam, đến nay đã 9 năm hai chị em không được gặp nhau. Vì vậy, dù biết được mưu đồ của chúng, bà vẫn vui vẻ nhận lời. Bọn cầm quyền cũng hy vọng qua bức thư của HCK và qua sự khuyên giải của bà có thể lay chuyển được ý chí của PĐP chăng? Vào một ngày đẹp trời tháng 4 năm Giáp Ngọ (1894), bà ra đi từ tỉnh thành Hà Tĩnh, mang theo bức thư của HCK, có phu khiêng cáng, có một tiểu đội lính tráng cầm cờ quạt chiêng trống đi mở đường. Đến địa giới huyện Hương Khê, địa đầu của vùng nghĩa quân kiểm soát, quân lính của PĐP được báo trước cũng đem cờ, quạt, võng lọng ra đón rước rất trọng thể. Tới đây, bọn lính tráng của triều đình quay lại. Bà lại lên cáng của nghĩa quân, về đại bản doanh của PĐP đặt ở Ngàn Trươi.
Tại quân doanh, chị em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Sau khi hàn huyên mọi chuyện về gia đình, quê hương, PĐP hỏi:
- Chị đã lên đây thì ở lại đây với em chứ? Người chị trả lời:
- Không, chị gặp được cậu là tốt rồi. Chị phải về vì còn gia đình hai bên nội ngoại, cần phải phụng dưỡng. Bọn giặc chẳng làm gì được chị đâu.
PĐP lại hỏi:
- Chị có điều gì khuyên em không?
Trái với mong ước của bọn cầm quyền, bà Đại trả lời:
- Việc của cậu là việc quốc gia đại sự. Một quyết định của cậu có ảnh hưởng đến số phận của muôn ngàn người. Chị là phận đàn bà, chẳng thể khuyên được điều gì. Chỉ mong cậu muôn phần bảo trọng…
Vạch trần sự bịp bợm của Hoàng Cao Khải
Tối hôm đó, tại quân doanh, PĐP đọc thư HCK. Bức thư vừa dọa dẫm, vừa lừa mị, lại khuyên PĐP ra đầu thú thì y sẽ mở đường cho. Y tỏ ra “đau xót” vì nhân dân đang “lầm than” và đổ lỗi cho PĐP gây nên hoàn cảnh đó: “Những việc túc hạ đã làm bấy lâu nay, bảo là trung thì trung thật đấy. Nhưng riêng nhân dân hạt ta thì phỏng có tội gì mà lâm vào cảnh lầm than ấy? Đây là lỗi của ai? Nếu cứ theo cái đà này thì tôi sợ rằng cả cái vùng Hồng Lam nay sẽ thành ao cá hết, chứ có phải riêng cái làng Đông Thái chúng ta phải lo thôi đâu”. HCK dẫn chứng những người đã ra đầu thú mà y đã bảo lãnh cho được an toàn: “Tức như trước đây, quan bố Trần, quan thị Phan, người thì bị án mạng, người thì bị an trí, tôi đều vì tình trong làng, trong tỉnh, bảo toàn cho cả, may đều được yên ổn”. Rồi y khuyên PĐP: “Nếu túc hạ không cho lời tôi nói là viển vông quá, xin hoàn toàn đừng lo ngại sự gì. Quyết không để cho cố nhân mang tiếng là bất tri đâu” (trích thư HCK gửi PĐP – TTVHVN – Tập 19). PĐP không lạ gì tim đen của HCK, ý tứ phúc đáp thế nào, ông đã có chủ định. Tuy nhiên, nếu bây giờ ông khẳng định lập trường dứt khoát của mình, đập lại những luận điệu lừa bịp của HCK thì sợ rằng bọn giặc sẽ “giận cá chém thớt” mà giết mất bà chị. Vì vậy ông cầm bút ghi mấy dòng sơ lược như sau:
“Kính gửi ông cử nhân họ Hoàng, người cùng làng:
Kính đọc thư cố nhân, tình lý chu đáo, lời lẽ dồi dào, vì còn bận việc, phải suy nghĩ mươi ngày rồi mới trả lời được. Trong quân vội vàng, xin phúc đáp cố nhân biết sơ ý kiến còn các lẽ cố nhân khuyên bảo thì xin thong thả, suy nghĩ kỹ sẽ phúc đáp lại sau”.
Bà Đại ở lại một hôm rồi về. Vì ở điểm hẹn, bọn lính tráng đang chờ bà và nhất là chờ thư phúc đáp của PĐP gửi HCK, mục đích cơ bản trong chuyến tháp tùng của chúng. Đến điểm hẹn hôm trước, bà lại được bọn lính tráng đưa đón trọng thể như lúc đi. HCK nhận được thư của PĐP thì chưng hửng. Tuy nhiên, y vẫn chờ và hy vọng ở thư phúc đáp chính thức của PĐP.
Bức thư đó không phải sau “mươi ngày” như lời hẹn mà mãi 7 tháng sau (11-1894), PĐP mới viết trả lời. Trong thư, ông nêu rõ lập trường quan điểm của mình và vạch trần luận điệu “thương dân” bịp bợm của HCK. Ông viết: “Vả chăng, hạt ta đến nỗi điêu đứng lầm than quá, không phải riêng vì tai họa binh đao làm nên nông nỗi thế đâu. Phải biết quân Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu nhân người mình hùa theo bày kế lập công, những người không có tội gì chúng cũng cho là có tội, rồi thì bữa nay trách thế này, ngày mai phạt thế kia, phàm có cách gì đục khoét được của dân, chúng nó cũng dùng hết không từ (PĐP nhấn mạnh). Bởi thế mà thói hư, mối tệ tuôn ra cả trăm, cả ngàn, quân Pháp làm sao biết thấu? Như thế mà bảo làng xóm không phải tan lìa, trôi dạt đi thì có thể được ư?” (TTVHVN – Tập 19). Ở đây, “lũ tiểu nhân người mình hùa theo bày kế lập công” mà PĐP nhắc tới chính là bè lũ tay sai bán nước mà HCK là kẻ đại diện. PĐP đã đánh vào điểm yếu nhất của HCK khiến y rất tức giận.
Mua chuộc, dụ dỗ không lay chuyển được ý chí của PĐP, bọn giặc chỉ còn cách ngày càng siết chặt gọng kìm, bao vây nghĩa quân ngày một gắt gao hơn, hòng dập tắt cuộc khởi nghĩa.
Bọn giặc đã không lợi dụng được bà chị gái để lung lạc ý chí của PĐP, mà trái lại, bà đã lợi dụng chúng để đi thăm người em thân thiết của mình ở trong rừng sâu, sau nhiều năm chưa được gặp mặt. Đấy là cơ hội quý báu cuối cùng để hai chị em được gặp nhau. Hơn một năm sau, PĐP mất tại quân doanh, hôm ấy là ngày 12-11 ất Mùi (28-12-1895). Nghĩa quân khâm liệm, mặc áo, đội mũ tiến sĩ vào cho ông, sau đó chặt một cây vàng tâm lớn, khoét rỗng lòng, đặt thi hài ông vào, gắn lại, rồi đem chôn dưới chân núi Rú Quạt (Hương Khê, Hà Tĩnh). Mười ngày sau, bọn giặc dò biết được, quật mồ ông, thiêu xác thành tro, trộn vào thuốc súng, bắn xuống dòng sông La (1).
Còn bà Phan Thị Đại sau đó được trả tự do. Bà là mẹ của Giải Huân, tức Lê Văn Huân, một chí sĩ yêu nước, hoạt động trong phong trào Đông Du.
 
____________________ (1) Mộ Phan Đình Phùng được gạt bằng, không đắp thành nấm để giữ bí mật. Tuy nhiên, có một nghĩa quân bị giặc bắt được tra khảo. Người nghĩa quân này không chịu đựng được, đã cung khai.
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.
KS. PHAN DUY KHA
Nguồn http://newvietart.com/index4.1871.html

Cao Thắng (1864-1893) là một trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng, và là một chỉ huy xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê (1885-1896) trong lịch sử Việt Nam ở cuối thế kỷ 19.

Thân thế và sự nghiệp

Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân ở huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm Giáp Tuất (1874), khi mới 10 tuổi, Cao Thắng đi theo Đội Lựu (Trần Quang Cán)  làm liên lạc cho nghĩa quân mà triều đình Huế gọi là giặc Cờ Vàng. Sau khi Đội Lựu chết, Cao Thắng lẩn trốn, được giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) đưa về nuôi.
Năm 1881, khi ông Thuật mất Cao Thắng trở về Sơn Lễ làm ruộng. Năm Giáp Thân (1884), Cao Thắng bị vu cáo là thủ phạm giết vợ Quản Loan nên bị bắt và giam tại nhà lao Hà Tĩnh.
Ngày 2 tháng 10 năm Ất Dậu (5 tháng 11 năm 1885), thủ lĩnh trong phong trào Cần vươngLê Ninh đã đưa quân đến tập kích tòa thành trên, giết chết Bố chính Lê Đại, bắt sống Án sát Trịnh Vân Bưu, và giải phóng tù nhân, trong đó có Cao Thắng.

Gia nhập lực lượng Hương Khê

Trở lại quê nhà, Cao Thắng cùng Cao Nữu (em ruột) và Nguyễn Kiểu (bạn thân) chiêu mộ được khoảng 60 người đồng chí hướng, rồi tất cả cùng tự nguyện đến tham gia cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Tiến sĩ Phan Đình Phùng (người được vua Hàm Nghi giao trọng trách tổ chức phong trào kháng PhápHà Tĩnh) làm thủ lĩnh.
Ban đầu, Cao Thắng được phong làm Quản cơ. Đến đầu năm 1887, khi phong trào bị suy yếu, Phan Đình Phùng giao quyền tổng chỉ huy lại cho Cao Thắng để ra Bắc đến các tỉnh Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh,...tìm sự hỗ trợ và liên kết lực lượng.
Ở lại Hà Tĩnh, Cao Thắng cùng các chỉ huy khác như Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên,...đem quân đến làng Lê Động (Hương Sơn) để tổ chức lại lực lượng, luyện quân, xây dựng hệ thống đồn lũy, rèn đúc vũ khí,...
Theo thông tin trên báo Hà Tĩnh (bản điện tử đăng tải ngày 21 tháng 8 năm 2009) thì Cao Thắng đã cho xây dựng một hệ thống đồn lũy tựa lưng vào dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn, vây kín ba mặt Bắc, Tây, Nam, sẵn sàng ứng cứu cho nhau một cách nhanh chóng. Ngoài ra, ở đây còn có đường rút sang Lào, có đường sang Nghệ An, vào Quảng Bình, xuống các vùng thuộc Hà Tĩnh. Quân Pháp tiến vào đây chỉ có một con đường độc đạo là Quốc lộ 8. Chính vì thế mà những căn cứ này đã đứng vững cho đến ngày cuối cùng của cuộc khởi nghĩa (1896).
Đề cập đến việc Cao Thắng rèn đúc vũ khí, nhà sử học Phạm Văn Sơn kể:
Một sự khó khăn nhất bấy giờ đối với nghĩa quân là vấn đề vũ khí. Kinh nghiệm cho thấy gươm giáo, gậy guộc không chống nổi súng đồng...Cho nên Cao Thắng liền nghĩ cách chế tạo súng đạn...Trong một trận giáp chiến trên đường Nghệ An-Hương Sơn, Cao Thắng đoạt được 17 khẩu súng bắn mau của quân Pháp...Ông liền cho thợ rèn ở hai làng là Vân Chàng và Trung Lương (Hà Tĩnh) lấy súng làm mẫu...Sau mấy tháng ròng đúc được 350 khẩu như hệt kiểu súng năm 1874 của Pháp...
Cuối tháng 9 năm 1889, Phan Đình Phùng từ Bắc Kỳ trở về Hà Tĩnh. Nhờ Cao Thắng và các chỉ huy khác, mà lực lượng lúc này đã có khoảng ngàn lính và 500 khẩu súng kiểu Pháp và rất nhiều súng hỏa mai. Nhận thấy trong công tác chuẩn bị, mọi mặt đều đã khá, Phan Đình Phùng và Cao Thắng bèn cho mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp bốn tỉnh là Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình; làm cản trở con đường đi lại Bắc-Nam và công cuộc thôn tính nước Việt của quân Pháp.
Kể từ đó trở đi, Cao Thắng trở thành một trợ thủ đắc lực của thủ lĩnh Phan Đình Phùng, và là một chỉ huy dũng cảm và xuất sắc của lực lượng Hương Khê. Mặc dù bận rộn công việc điều hành chung và rèn đúc vũ khí, nhưng Cao Thắng cũng đã tham dự một số trận đánh, đáng kể là trận:
  • Chống cuộc càn quét của quân Pháp tại khu Hói Trùng và Ngàn Sâu vào đầu tháng 8 năm 1892.
  • Dùng mưu bắt sống được Tuần phủ Đinh Nho Quang vào tháng 3 năm 1892, làm chấn động dư luận Hà Tĩnh.
Thấy nghĩa quân Hương Khê ngày càng lớn mạnh, quân Pháp một mặt tăng cường càn quét, thu hẹp phạm vi hoạt động của quân, mặt khác tìm cách cắt đứt liên lạc giữa các quân thứ, và giữa nghĩa quân với nhân dân.

Tử trận

Để phá thế bị bao vây và mở rộng địa bàn hoạt động, được thủ lĩnh Phan Đình Phùng đồng ý, tháng 11 năm 1893, Cao Thắng cùng Cao Nữu, Nguyễn Niên đem khoảng một ngàn quân từ Ngàn Tươi mở trận tấn công lớn vào tỉnh lỵ Nghệ An. Trên đường hành quân, nhiều đồn trại đối phương bị phá bỏ. Nhưng trận trận tấn công đồn Nu (hay Nỏ) ở Thanh Chương (một huyện miền núi nằm ở phía tây nam thuộc tỉnh Nghệ An), Cao Thắng trúng mưu của viên đồn trưởng tên Phiến.
Sử gia Phạm Văn Sơn kể:
Ở đồn Nỏ chỉ có trăm quân. Liệu sức không chống nổi, thiếu úy đồn trưởng tên Phiến chia quân ra làm hai, một nửa ở giữ đồn, một nửa ra ngoài mai phục. Khi Cao Thắng phát lệnh tấn công, thì quân ông bất ngờ bị hỏa lực của đối phương đánh kẹp từ cả hai phía trước và sau. Cao Thắng không may bị đạn, chết tại trận tiền lúc 29 tuổi, gây tổn thất lớn cho nghĩa quân Hương Khê...Để trả thù cho ông, ngày 29 tháng 3 năm 1894, Lãnh Lợi đã tổ chức trận đã phục kích tại Vạn Sơn (Nam Đồng). Cuối cùng, Đốc binh Nguyễn Bảo đã giết được thiếu úy Phiến.
Lợi dụng cơ hội nghĩa quân bị mất người đứng đầu tài giỏi, quân Pháp tăng thêm binh lực rồi siết chặt vòng vây. Nghĩa quân Hương Khê cố gắng đánh trả những cuộc vây quét, nhưng thế lực của lực lượng ngày càng giảm sút.

Sau khi hy sinh

Sau khi Cao Thắng mất, nghĩa quân Hương Khê thắng một trận lớn ở Vụ Quang (tháng 10 năm 1894), nhưng vẫn không xoay chuyển được tình thế. Ngày 28 tháng 12 năm 1895, thủ lĩnh Phan Đình Phùng cũng bị tử thương trong một trận kịch chiến . Đến đầu năm 1896, cuộc khởi nghĩa Hương Sơn mà Phan Đình Phùng, Cao Thắng và các tướng lĩnh khác đã dày công xây dựng kết thúc.
Theo sử liệu thì di hài Cao Thắng được nghĩa quân đưa về chôn cất tại Ngàn Trươi (núi Vụ Quang). Hiện ở thôn Khê Thượng (huyện Hương Khê) và ở thôn Cao Thắng (xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn) đều có đền thờ ông . Ngoài ra, tên ông còn được dùng để đặt tên cho nhiều trường học và đường phố tại Việt Nam.

Thương tiếc

Mất đi một trợ thủ đắc lực là Cao Thắng, quá thương tiếc Phan Đình Phùng đã làm hai câu liễn để thờ, và nhờ Võ Phát  soạn một đọc bài văn tế Nôm để cho ông đọc. Trong bài văn tế có đoạn:
Hào kiệt ấy tài,
Kinh luân là chí;
Vén mây nửa gánh giang san
Vỗ cánh bốn phương hồ thỉ,
Gặp quốc bộ đang cơn binh cách, nghĩa giúp vua chung nỗi ân ưu,
Bỏ gia đình theo việc nhung đao, lòng đánh giặc riêng phần lao tuỵ;
Địa bộ muốn theo dòng Nhạc mục, thét nhung bào từng ghê trận oai linh,
Thiên tài toan học chước Võ hầu, chế súng đạn biết bao chừng cơ trí;
Ơn quân tướng Đổng nhung vâng mạng, cầm ấn quan phòng,
Tước triều đình Chưởng vệ gia phong, kéo cờ tân chế;
Những chắc rằng: ba sinh có phước, hăm hở mài gươm chuốt đá, chí khuông phò không phụ với quân vương.
Nào ngờ đâu! một sớm không chừng, mơ màng đạn lạc tên bay, trường chiến đấu biết đâu là số hệ;...
...Thôi! Thôi!
Cửa tía lầu vàng đành kẻ khuất, đem thân bách chiến, để tiếng thơm cho tỏ mặt anh hùng.
Súng đồng gươm bạc mặc người còn, truyền lệnh ba quân, thét hơi mạnh để xây nền bình trị.
Thương ôi là thương,
Kể sao xiết kể
Trong sách Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu cũng có đoạn viết về Cao Thắng như sau:
...Ở hạt Hà Tĩnh, trong khoảng 11 năm, (nhiều người) đã liều mạng đánh nhau với Pháp, vất vả trăm trận đánh trở thành danh tướng một thời, reong số ấy nổi bật nổi bật có Chưởng doanh nghĩa binh là Cao Thắng,...Thắng quả cảm, thiện chiến, thấy một cái súng tây mà có thể y theo kiểu chế tạo ra tinh xảo không kém gì của Pháp. Đánh nhau với Pháp, ông đã chém được đầu những quan một, quan hai của Pháp, quân Pháp đã phải khuyên nhau hễ gặp Thắng là phải tránh đi. Giá mà trong nước có được mấy trăm ông Thắng thì người Pháp chả phải rút về Tây ư?...Thắng chết, người Pháp đốt chỗ làng (ông) quật mộ ông lên...Tiếc thay! (Nguyễn) Chanh, Thắng chết rồi, Hà Tĩnh không có danh tướng nữa...
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 22:52, ngày 24 tháng 10 năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét