Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

CHUYỆN VỤ ÁN 16

(ĐC sưu tầm trên NET)

Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ 1: Cuộc đời hai mặt

Trước khi lên giá treo cổ, tên trộm trèo tường khét tiếng nước Anh, Charles Peace đã bày tỏ hối hận vì cuộc đời tội lỗi của mình và mong thế giới hãy quên ông ta đi. Lời hối hận muộn màng có vẻ rất chân thành nhưng điều ước cuối cùng trước khi chết không bao giờ thành hiện thực, bởi cái tên Charles Peace đã được làm sống lại trong vô số tiểu thuyết trinh thám, phim ảnh.

Cây đàn vĩ cầm của Charles Peace.
Trong cuốn sách về những tên tội phạm, sử gia Charles Whibley miêu tả Peace như sau: "Charles Peace không chỉ biến tài đột nhập nhà ăn trộm thành một môn khoa học mà còn phát minh ra một bộ dụng cụ có một không hai dùng để lẻn vào nhà người khác".

Năm 1845, khi mới 13 tuổi, Charles Peace làm việc trong nhà máy thép ở Sheffield. Công việc tại nhà máy này, dù quãng thời gian ngắn ngủi, là một trong những nghề trung thực ít ỏi anh ta từng làm.

Chân dung tên trộm trèo tường khét tiếng.
Là con út, Charles lớn lên trong một gia đình giản dị nhưng cuộc sống thoải mái. Bố Charles, ông John Peace, phải bỏ nghề thợ mỏ sau khi cụt một chân do tai nạn hầm mỏ để làm người huấn luyện thú hoang trong một rạp xiếc nổi tiếng ở Anh. Khi gia đình khấm khá hơn, ông John bỏ nghề này và trở thành thợ đóng giày. Ông đã truyền cho cậu con trai út tình yêu động vật và nghệ thuật giải trí - điều mà Charles đã tận dụng triệt để về sau.

Gia đình lương thiện, bố mẹ trung thực, tuổi thơ của Charles Peace hầu như chẳng có điều gì khiến người ta tin rằng sau này cậu bé sẽ trở thành một tên trộm khét tiếng.

Trước khi vào làm việc trong nhà máy thép, Charles đã theo học ít nhất hai trường nhưng cậu ta rõ ràng không ưa chuyện học hành. Tuy nhiên, cậu ta nhanh chóng nổi tiếng khắp trường, không phải vì thành tích học tập mà vì tài làm mô hình bằng giấy, huấn luyện mèo, làm ống nhòm ảnh, trổ tài tung bóng lên cao và hứng bằng túi da buộc trước trán.

Ngoài ra, Charles Peace còn tự học chơi đàn vĩ cầm một dây. Sau này, cậu ta đã thực sự thuần thục với cây đàn vĩ cầm và các loại đàn dây khác. Kỹ năng chơi đàn của Charles Peace được ví ngang với kỹ năng trộm trèo tường khét tiếng.

Một lần, Charles Peace bị thương nặng do một thanh thép nóng đâm xuyên qua chân khi đang làm việc ở nhà máy thép. Hậu quả là Charles phải nằm viện cả năm trời và chân bị khập khiễng vĩnh viễn. Trong thời gian này, bố Charles cũng qua đời.

Cuộc đời tội phạm của Charles Peace bắt đầu từ ngày anh ta chống nạng rời bệnh viện, bị ném vào một cuộc sống không có chỗ dành cho những người tàn tật.

Nhà máy thép ở Sheffield.

Từ lúc đó cho tới khi lần đầu tiên bị bắt lúc 19 tuổi vì tội ăn trộm, Charles sống một cuộc sống hai mặt, ban ngày làm nghề mua vui cho thiên hạ, ban đêm đi trộm. Dù tàn tật nhưng anh ta nổi tiếng là một người leo trèo, nhào lộn giỏi - cái tài mà anh ta coi là có ích hơn trong những chuyến đi đêm hơn là biểu diễn cho mọi người xem. Anh ta còn kiếm sống bằng việc đọc những lời tự thoại của Shakespeare, chơi đàn vĩ cầm một dây tại các hội chợ, quán rượu quanh khu vực Sheffield.

Tuy nhiên, chơi đàn vĩ cầm chỉ là một trò tiêu khiển của một người có tính khí năng động như Charles. Anh ta coi niềm đam mê của mình chính là những cuộc phiêu lưu ban đêm.

Lần đầu tiên bị bắt năm 1851, Charles Peace chỉ phải ngồi tù 30 ngày nhờ đây là lần đầu vi phạm và được ông chủ cũ bảo lãnh về mặt tư cách đạo đức. Trong cả cuộc đời, anh ta sẽ phải ngồi tù hơn 15 năm. Mỗi lần trở lại đường phố là một lần tên trộm Charles Peace tỏ ra lợi hại hơn. Thời gian ngồi tù chính là lúc anh ta suy ngẫm về những sai lầm đã mắc phải và vạch ra những cách để tránh bị bắt lần nữa.

Sau vài lần bị bắt, anh ta đã rút ra được một số điều quan trọng: không bao giờ hợp tác với một tên trộm khác, nghề trộm cắp đòi hỏi phải suy tính kỹ càng như khi thực hiện một chiến dịch và nhiều cái đầu không bao giờ làm được một việc to lớn.

Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ 2: Kỹ năng hoàn hảo

    Bất chấp thương tật ở chân và ngoại hình nhỏ bé với chiều cao chỉ 1,62 mét, Charles là một tên trộm trèo tường hoàn hảo và có thể sử dụng những kỹ năng nhào lộn, uốn dẻo trong khi hành nghề.

    Charles Peace (ảnh chụp năm 1864).

    Người ta truyền tai nhau rằng, có lần, chủ nhà bị trộm đã rất sửng sốt khi chứng kiến màn ẩn mình của Charles: Anh ta cuộn tròn người trên sàn nhà, lăn quanh chân chiếc bàn ăn một chân, giấu mình sau tấm khăn trải bàn phủ xuống. Chủ nhà nhìn quanh, không thấy ai, nhún vai và quay về giường ngủ.

    Khi thụ án ở nhà tù Wakefield, Charles tìm cách làm một cái cưa bằng thiếc vụn và cắt được một lỗ trên trần phòng giam. Anh ta bò qua cái lỗ khi bị phát hiện và chuông báo động reo lên. Suốt 4 tiếng rưỡi, anh ta không lọt vào tay cảnh sát nhưng cuối cùng bị tóm trong phòng ngủ ở căn hộ của một lính gác sau khi đã tắm và thay quần áo ở đây.

    Có lần, anh ta bị cảnh sát tìm thấy lúc đang trên giường với tình nhân và khi bị thẩm vấn, anh ta khăng khăng rằng mình chỉ là một người buôn kính. Anh ta từ chối ra khỏi giường và mặc quần áo trước mặt cảnh sát vì “ngại”. Cảnh sát buộc phải xuống tầng để đợi anh ta. Trong lúc đó, Charles đã nhân cơ hội len qua khe cửa sổ rộng 15 cm và chuồn mất.

    Trong nhiều lần khác, khi cảnh sát đến tìm Charles, anh ta chỉ việc leo lên mái nhà và trốn sau ống khói cho đến khi cảnh sát bỏ đi.

    Một lần khác, để tránh bị cảnh sát tóm, Charles lẩn vào trường nội trú dành cho học sinh nam, đóng vai một diễn viên lang thang. Anh ta trốn cả ngày trong đó và bày trò tiêu khiển cho học sinh bằng cách đọc lời tự thoại của Shakespeare. Rồi khi không còn bóng dáng cảnh sát, anh ta mới ra ngoài.

    Trốn thoát lưới pháp luật một cách liều lĩnh không phải là kỹ năng duy nhất của Charles. Anh còn là bậc thầy hóa trang và có thể làm cho khuôn mặt nhăn nhó theo ý muốn, tới mức mà trên tờ lệnh truy nã, Sở Cảnh sát Luân Đôn cho rằng Charles trong độ tuổi từ 40 đến 70.

    Charles còn dùng dầu quả óc chó để làm cho da đen đi. Do bị mất một ngón tay khi nạp đạn súng và đây là đặc điểm nhận dạng Charles mà cảnh sát thường dùng, anh ta đã làm cho cánh tay của mình trông như tay giả bằng thạch cao.

    Đối với Charles Peace, chó giữ nhà không phải là đối thủ của anh ta. Thời thơ ấu lớn lên cùng thú hoang trong rạp xiếc của bố khiến anh ta không sợ thú. Vả lại, trong bộ đồ nghề trộm cắp, Charles lúc nào cũng có một hộp đựng đàn vĩ cầm đựng thịt tẩm thuốc để nhử bất kỳ con chó nào anh ta gặp.

    Dù thường xuyên vào tù ra tội và cuộc sống gia đình không ổn định nhưng Charles có một người vợ chung thủy một cách mù quáng, Hannah Ward. Đến với Charles khi đã trải qua một đời chồng và có con riêng, Hannah sinh cho anh ta một con gái và một con trai nhưng cậu con trai chết khi anh ta ở tù.

    Năm 1875, Charles ra khỏi nhà tù Wakefield và cùng gia đình chuyển đến làng Darnell, ngoại ô Sheffield - nơi hàng loạt vận rủi ập đến và cuối cùng dẫn anh ta đến giá treo cổ.

    Charles đến Darnell đúng lúc làng này đón cha xứ mới, ông J.H.Littlewood, từng là cha tuyên úy trong nhà tù Wakefield. Cha sứ ngay lập tức nhận ra Charles và biết rõ quá khứ của anh ta. Tuy vậy, anh ta tuyên bố rằng giờ mình là người ngay thẳng, thật thà. Charles cầu xin cha Littlewood: “Xin hãy khoan dung với con và gia đình con. Con đã hoàn toàn thay đổi. Con đang sống trung thực và cố gắng xây dựng một cuộc sống mới”.

    Cha xứ đồng ý cho Charles một cơ hội miễn là anh ta không bỏ một buổi lễ ngày chủ nhật nào. Trong thời gian làm con chiên trong giáo xứ của cha Littlewood, Charles là mẫu người lý tưởng, thường xuyên đóng góp cho nhà thờ và đứng đầu trường kinh thánh. Điều mà cha Littlewood không biết là sự hào phóng của Charles đều là những thứ anh ta chôm được của người dân trong vùng.

    Ở Darnell, gia đình Charles sống gần ông Arthur Dyson, một kỹ sư xây dựng người Mỹ có cô vợ người Anh là Katherine - một phụ nữ hấp dẫn, nở nang, tóc đen, khoảng 25 tuổi.

    Điều ngạc nhiên là ông chồng Dyson cao 1,95 m lại không phải là đối thủ của gã trộm Charles nhỏ thó với con mắt liếc ngang dọc suốt ngày và đem lòng say mê Katherine. Mối quan hệ của họ thực hư thế nào vẫn còn là điều gây tranh cãi. Charles thề trước khi lên giá treo cổ rằng Katherine từng có thời là tình nhân của anh ta. Còn Katherine khăng khăng quan hệ của họ chỉ là bạn bè đơn thuần.

    Nhưng có một điều chắc chắn là Charles và Katherine đã chụp ảnh cùng nhau, Charles đã tặng nhẫn cho Katherine và có thói quen đi nghe nhạc hoặc lui tới những chốn công cộng cùng Katherine.

    Dù đó có là một cuộc tình hay không, dù mối quan hệ của họ là gì đi chăng nữa thì nó cũng làm cho cuộc hôn nhân của vợ chồng Dyson xấu đi trong mùa hè năm 1875 với kết cục là một vụ giết người.

    Thùy Dương

     

    Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ 3: Vụ ám sát Arthur Dyson

      Khoảng giữa năm 1875, Charles Peace bắt đầu theo dõi nhà Dyson. Anh ta gửi thư đe dọa họ, rồi lại gửi thư van nài Katherine quay lại với mình. Charles thường nhòm ngó hai vợ chồng Dyson qua cửa sổ nhà họ. Do mải đối phó với Charles mà Arthur Dyson lơ là nhiệm vụ ở công ty đường sắt rồi bị sa thải.

      Cặp kính và chiếc dùi cui mà Charles thường dùng.

      Kết quả là Dyson, một người vốn không thích đối đầu, đã phải ném vào sân nhà Charles một mẩu giấy ghi dòng chữ: “Yêu cầu Charles Peace không can thiệp vào gia đình tôi”. Mẩu giấy không những không dừng được hành động của Charles mà còn gây phản ứng ngược. Anh ta đã tiếp cận Dyson trên phố và dọa giết cả hai vợ chồng Dyson.

      Tối ngày 1/7/1876, Charles đã đẩy gia đình Dyson tới mức quá sức chịu đựng. Khi Katherine đứng trong vườn nhà nói chuyện với hàng xóm thì Charles xuất hiện. Với đối mắt hoang dại, anh ta giận dữ rút súng ra khỏi túi, chĩa vào người từng là nhân tình của mình, gằn giọng: “Tôi sẽ bắn nát óc cô và cả chồng cô nữa”. Nói rồi Charles bỏ đi thẳng.

      Gia đình Dyson đã nộp đơn kiện Charles nhưng anh ta không đến khi bị tòa triệu tập mà cùng vợ trốn từ Darnell đến Hull và mở một nhà hàng tại đây.

      Tuy nhiên, mọi chuyện giữa Charles và nhà Dyson chưa chấm dứt. Charles biến mất khoảng 6 tháng và trong lúc đó nhà Dyson cũng dọn tới Banner Cross ở ngoại ô Sheffield. Họ tưởng rằng đến đó thoát được Charles nhưng họ đã nhầm.

      Bức ảnh mô tả cảnh Charles bắn Arthur Dyson.

      Khi Dyson đến nhà mới, họ giật mình khi nhìn thấy Charles chễm chệ trên một trong những chiếc ghế vừa dỡ xuống khỏi xe tải chở đồ. Anh ta nói: “Thấy chưa, tôi đến đây để làm các người bực mình và tôi sẽ chọc giận các người dù các người có đi đâu đi chăng nữa”.

      Charles không nói đùa. Sau này, Katherine kể lại: “Tôi thường đặc biệt sợ anh ta vào ban đêm vì anh ta có thói quen theo dõi không ngừng nhà chúng tôi và đột ngột xuất hiện. Anh ta hóa trang đủ thể loại”.

      Ngày 29/11/1876, Charles Peace chơi đàn vĩ cầm hầu như cả ngày trong một quán rượu gần Banner Cross và được thưởng bằng rượu. Chuếnh choáng hơi men, anh ta quyết định viếng thăm nhà Dyson. Anh ta ngồi trong bóng tối vài giờ liền để theo dõi nhà của họ. Khoảng 8 giờ tối, Katherine ra ngoài nhà để vào nhà vệ sinh ở bên ngoài. Khi quay trở vào nhà, cô bị khẩu súng của Charles chặn lại.

      Tiếng thét của cô khiến ông Dyson phải ra ngoài xem có chuyện gì. Charles nổ súng chỉ thiên cảnh cáo nhưng Dyson vẫn tiến tới và lĩnh trọn viên đạn vào đầu, đổ gục xuống. Charles chạy trốn trong tiếng kêu “Giết người!” của Katherine.

      Gần như ngay lập tức, Charles Peace trở thành kẻ bị truy nã gắt gao nhất nước Anh. Tuy nhiên, “vua” trộm trèo tường đã tận dụng tài hóa trang bậc thầy của mình và bắt đầu đạt đỉnh cao trong nghề ăn trộm. Để vợ ở lại Hull trông coi nhà hàng, Charles đến Luân Đôn.

      Chính quyền đã treo giá cao cho cái đầu của anh ta. Khác với những miêu tả trong tờ truy nã của cảnh sát, Charles đã cạo râu, nhuộm tóc, nhuộm đen da, đeo kính và liên tục sử dụng khả năng đặc biệt là làm biến dạng khuôn mặt. Anh ta rất tự tin vào tài lẩn trốn cảnh sát của mình và thích mạo hiểm.

      Cuối cùng, Katherine quay về Mỹ khi biết rằng chính quyền khó lòng bắt được Charles một sớm một chiều.

      Trong khi đó, Charles quyết định dừng chân ở Nottingham, thuê phòng cùng nhà với một người phụ nữ tên là Adamson – một người chuyên mua hàng hóa ăn trộm. Cùng sống trong khu nhà đó còn có một phụ nữ 35 tuổi đã ly hôn, xinh đẹp, có học vấn tên là Susan Gray Bailey – người khiến Charles mê mẩn.

      Sau khi làm vài chén whisky, Charles đã thổ lộ tình cảm với Susan Bailey và tuyên bố sẽ bắn cô nếu cô từ chối tình cảm của anh ta. Ngày hôm sau, mủi lòng trước lời xin lỗi của Charles, Susan Bailey đồng ý làm tình nhân của anh ta và đổi tên thành Thompson.

      Suốt hai tháng trời, “ông bà Thompson” nghỉ ở Hull, thuê chung nhà với một cảnh sát địa phương. Cảnh sát giám sát chặt chẽ Hull vì vợ của Charles vẫn quản lý nhà hàng ở đây. Tuy nhiên, anh ta vẫn đơn thương độc mã thực hiện hàng loạt vụ trộm táo bạo chưa từng có.

      Một đêm, anh ta trèo vào 7 nhà. Lần khác, khi bị chủ nhà phát hiện, anh ta nổ súng lên trần nhà, lao qua cửa sổ thoát thân trong khi gia chủ luống cuống tìm chỗ trốn.

      Khi suýt bị cảnh sát tóm, anh ta quyết định rời Hull. Anh ta liên lạc với vợ và con riêng của vợ rồi cùng với nhân tình Thompson đến Luân Đôn – nơi anh ta trở thành tên trộm nổi danh. Tuy nhiên, Charles không biết rằng mối đe dọa lớn nhất đối với cuộc đời và sự tự do của anh ta lại đang sống cùng mái nhà với mình.

      Thùy Dương


      Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ 4: Cuộc phiêu lưu cuối cùng

        Trong hai năm cuối đời, Charles Peace đã trở thành một tên trộm khét tiếng, liên tục thành công trong nhiều phi vụ nhờ tài năng bẩm sinh và kinh nghiệm.

        Charles Peace biểu diễn đàn vĩ cầm.
        Từ một ngôi nhà tồi tàn ở khu ổ chuột tại Lambeth, Charles chuyển cả nhà đến một khu dân cư thành thị sang trọng ở Peckham. Charles cùng cô tình nhân Thompson, cô vợ Hannah và con riêng sống trong một ngôi nhà trên phố Evelina.

        Ngôi nhà được trang trí có thẩm mỹ theo phong cách thời bấy giờ, gồm một bộ bàn ghế bằng gỗ óc chó loại tốt, thảm Thổ Nhĩ Kỳ, gương mạ vàng. Nhà Charles còn có một chiếc đàn piano và cây đàn ghita Tây Ban Nha.

        Tối tối, nhà Charles trở thành tụ điểm tổ chức giải trí âm nhạc cho hàng xóm, trong đó Charles độc diễn với cây đàn vĩ cầm của mình.

        Hàng xóm còn coi Charles là một người có tinh thần khoa học. Anh ta cùng một người đã nghĩ ra cách trục vớt tàu bị chìm bằng cách thay nước trong tàu bằng không khí và khí đốt. Tuy nhiên, phát minh này không được cấp bằng sáng chế. Không nản chí, Charles vẫn tiếp tục thí nghiệm khoa học, phát minh ra chiếc mũ chống khói cho lính cứu hỏa, cải tiến chổi quét dùng để rửa toa tàu và một loại thùng chứa nước.

        Charles bị cảnh sát Robinson bắt.

        Cùng thời gian nhà Charles dọn đến Peckham, khu vực này liên tiếp chứng kiến hàng loạt vụ trộm táo tợn. Cảnh sát đã liệt kê các đồ đạc bị ăn trộm theo danh mục và phát hiện ra rằng, ngoài những đồ đạc khác, nhiều khổ chủ bị mất nhạc cụ. Một điều nữa là các dụng cụ âm nhạc này không hề xuất hiện lại tại các cửa hàng cầm đồ ở Luân Đôn hay trên chợ đen.

        Trong khi đó, không ai nghi ngờ khi ông Thompson (tức Charles) thân thiện, đầy phẩm hạnh, yêu động vật, yêu âm nhạc, có óc khoa học có ngày càng nhiều nhạc cụ. Cảnh sát không bao giờ nghĩ ông Thompson ở Peckham lại chính là tên trộm Charles Peace ở Sheffield.

        Nếu như có ai đó ngờ vực ông Thompson mà theo dõi nhà của họ, người ta sẽ để ý thấy rằng sau khi chào tạm biệt hàng xóm đến nghe nhạc, ông Thompson sẽ cầm chiếc hộp đàn vĩ cầm rỗng, lẻn ra sau chuồng ngựa, mở cổng sau và biến mất vào bóng tối trên lưng con ngựa Tommy. Sau đó, ngay trước khi mặt trời ló rạng, con ngựa lại cùng chủ quay về an toàn.

        Thời hoàng kim của Charles không kéo dài được lâu khi anh ta hăm hở tìm vận may bằng các vụ trộm liên tiếp ở khu vực nam Luân Đôn. Anh ta hoạt động ở Lambeth táo tợn đến mức cảnh sát cho rằng phải có hẳn một băng trộm cắp ở khu vực này. Về sau, khi Charles chuyển sang hoạt động ở Greenwich, cảnh sát ở đây cũng giả định rằng có một băng trộm thứ hai đang càn quét nơi này.

        Đầu tháng 10/1878 là thời gian vận rủi của Charles bắt đầu. Sau một đêm biểu diễn nhạc cho hàng xóm nghe, như thường lệ, anh ta tạm biệt khách vào lúc 22 giờ 30 cùng con ngựa Tommy hướng về phía công viên St. James ở Blackheath – nơi anh ta lẻn vào nhà một người giàu có. Tuy nhiên, anh ta không biết rằng đây sẽ là đêm tự do cuối cùng của mình.

        Lúc đó, hai viên cảnh sát là William Girling và Edward Robinson đang đi tuần ở khu vực Blackheath. 2 giờ sáng, họ để ý thấy có ánh đèn mờ đang di chuyển bên trong một ngôi nhà. Cảnh sát Robinson ra phía sau ngôi nhà còn Girling bấm chuông cửa phía trước. Ngay khi chuông nhà kêu lên, ánh đèn bên trong vụt tắt.

        Cửa sổ ngôi nhà đột ngột mở và bóng một người mặc toàn đồ đen lao ra. Cảnh sát Robinson, lúc đó chỉ có một cái dùi cui, hét to “Dừng lại!”. Charles Peace quay lại và chĩa khẩu súng vào viên cảnh sát đang tiến gần. Anh ta hét lên: “Lùi lại nếu không tôi sẽ bắn!”

        Tuy nhiên, viên cảnh sát dũng cảm vẫn tiến tới. Phát đạn đầu tiên của Charles không trúng mục tiêu. Phát đạn thứ hai trúng cánh tay và phát thứ ba bay sát sạt tai Robinson.

        Khi hai người đang đối đầu thì Girling xuất hiện từ phía sau, dùng dùi cui quật vào tay cầm súng của Charles. Charles mất súng và biết rằng chống cự là vô ích nên đã đầu hàng cảnh sát.

        Thùy Dương

        Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ 5: Lật mặt tù nhân bí ẩn

        Khi bị giam ở nhà tù Newgate, Charles biết rằng khai tên thật nghĩa là chết nên anh ta đã không hé răng về tên và nói dối về tuổi. Cảnh sát buộc phải triệu tập các nhân viên từ khắp miền nam nước Anh để xem có ai nhận diện được Charles hay không. Tuy nhiên, tất cả đều không biết tù nhân bé nhỏ có khuôn mặt như ông già 60 tuổi này là ai. Chỉ khi Charles nóng lòng muốn biết thông tin về gia đình mình, cảnh sát mới có manh mối đầu tiên về danh tính Charles.

        Charles Peace ra trước tòa.
        Dùng tên giả John Ward, Charles gửi thư cho ông Brion, người hàng xóm tham gia các thí nghiệm khoa học với mình, để dò hỏi về gia đình. Ông Brion mặc dù không biết ai tên là Ward nhưng tò mò không hiểu tại sao lại nhận được thư từ một tù nhân ở Newgate. Ông đã đến nhà tù này và bất ngờ khi thấy “ông Thompson” đang bị giam.

        Gần như ngay sau khi Charles bị bắt hồi tháng 10/1878, gia đình anh ta đã tan đàn xẻ nghé và họ cố gắng mang được càng nhiều đồ ăn cắp càng tốt. Không một ai, từ cô vợ Hannah đến cô nhân tình, đi tìm anh ta vì họ đều biết thừa rằng nếu anh ta không về nhà sau một đêm trộm cắp có nghĩa là anh ta trong tù hoặc đã chết.

        Sau chuyến thăm của ông Brion, cảnh sát tiến gần thêm một bước tìm ra danh tính thật của tù nhân. Nhưng họ vẫn không hay biết tù nhân bí ẩn này chính là kẻ giết người ở Banner Cross, kẻ bị truy nã từ Yorkshire đến Lands End.

        Nhà tù Newgate.

        Khi chuẩn bị ra hầu tòa, Charles gửi thư cho cô tình nhân nhờ cô tìm giúp nhân chứng có thể xác nhận rằng anh ta là quý ông có tư cách tốt. Cảnh sát cho rằng lần theo dấu vết bức thư gửi cho bà Thompson có thể dẫn họ đến hang ổ của những tên còn lại trong băng trộm.

        Khi tìm đến chỗ bà Thompson, cảnh sát phát hiện ra người phụ nữ này có một lượng lớn tài sản ăn trộm. Lòng trung thành có vẻ như không phải là điểm mạnh của bà Thompson. Biết rằng sẽ được thưởng lớn nếu giúp bắt Charles Peace, cô nhân tình phản bội đã vạch mặt anh ta.

        Trong phiên tòa, bồi thẩm đoàn nhanh chóng cáo buộc Charles tội danh âm mưu giết cảnh sát Robinson. Khi được quan tòa hỏi có điều gì cần nói trước tòa hay không, Charles van nài, cầu khẩn được tha tội bằng cái giọng rên rỉ, nước mắt lã chã, gần như nằm phục xuống sàn.

        Charles nhảy qua cửa sổ đoàn tàu đang chạy.
        Lời cầu khẩn này có thể có tác dụng nếu anh ta chỉ là ông Ward hay ông Thompson. Nhưng khi anh ta là Charles Peace, quan tòa không có lý do gì để không dành cho anh ta hình phạt khổ sai chung thân ở nhà tù Pentonville. Cái án này chỉ có ý nghĩa thủ tục vì ngay sau khi phiên tòa kết thúc, Charles bị đưa về Yorkshire để hầu tòa về tội giết Arthur Dyson.

        Tháng 1/1879, trong khi chờ điều tra sơ bộ trước phiên tòa xử vụ giết Dyson, Charles đã trốn khi bị đưa từ nhà tù đến Sheffield. Trong chuyến áp giải bằng tàu hỏa, Charles làm phiền cảnh sát bằng cách đòi họ dẫn đi nhà vệ sinh liên tục. Điều đó có nghĩa là cảnh sát phải tháo ra đóng vào xích cho tù nhân. Quá phiền nhiễu, họ đã cho anh ta một cái xô và bảo anh ta giải quyết vào đó rồi đổ ra ngoài cửa sổ tàu.

        Thay vì đổ, Charles tận dụng lúc cửa sổ mở và lần cuối sử dụng kỹ năng nhào lộn của mình. Anh ta lao người ra ngoài khi đoàn tàu đang chạy ầm ầm. Một cảnh sát tóm được gót chân Charles nhưng không giữ được anh ta. Không may cho tên trộm khét tiếng, anh ta đã tính nhầm tốc độ của tàu và nằm bất tỉnh trên mặt đất.

        Trong khi Charles chữa trị vết thương ở bệnh viện nhà tù, cảnh sát thẩm vấn Katherine - nhân chứng duy nhất của vụ giết người. Khi có đủ bằng chứng, phiên tòa xử Charles được ấn định vào một ngày tháng 2/1897.

        Phiên tòa chỉ kéo dài hơn một ngày. Luật sư của Charles đã bào chữa cho anh ta bằng cách tô đậm mối quan hệ tình nhân của anh ta và Katherine. Luật sư đã trình ra hàng loạt bức thư được cho là do Katherine gửi cho Charles, nhằm chứng minh cô lừa dối chồng.

        Tuy nhiên, Katherine khăng khăng mình chưa bao giờ viết những bức thư đó. Cô cũng bám lấy một điều rằng chồng cô không chạm vào Charles trong vụ giết người.
        Cuối cùng, mọi nỗ lực của luật sư và lời van nài “Tôi không đáng chết” của Charles đều không đủ và bồi thẩm đoàn kết án anh ta tội giết người và sẽ bị treo cổ.

        Không biết mối quan hệ trước đây của Katherine và Charles là như thế nào, chỉ biết rằng vào lúc cuối, Katherine căm ghét anh ta đến tận xương tủy. Trả lời báo chí trước khi về Mỹ, cô nói: “Tôi cho rằng Charles là một con quỷ hoàn hảo, không phải người. Nơi mà anh ta phải đến vẫn chưa xứng với tội của anh ta... Ngay cả Shakespeare cũng khó có thể lột tả được con người anh ta. Tôi sẽ hối hận cả đời vì đã từng biết anh ta”.

        Thùy Dương

        Gã trộm trèo tường khét tiếng nước Anh - Kỳ cuối: Bất ngờ cuối cùng

        Có lẽ Katherine Dyson đã nhầm khi gọi Charles Peace là "con quỷ hoàn hảo" vì một con quỷ không thể nỗ lực sửa chữa sai lầm của mình như anh ta đã làm trong những ngày cuối cùng của cuộc đời.

        Charles Peace trên giá treo cổ.

        Có thể nói ngay rằng không ai có thể thành tâm hơn, chân thành hơn, hối lỗi hơn Charles. Điều đó thể hiện rõ ràng qua hành vi và thái độ của anh ta. Anh ta lao vào chuộc tội cũng với cái nhiệt huyết và tinh thần anh ta thể hiện khi làm một tên trộm.

        Bất kỳ người nào đã từng gặp Charles đều công nhận anh ta hối hận chân thành về những lỗi lầm trong quá khứ. Trong thời đó, sự ăn năn không có tác dụng hoãn, hủy thi hành án hay giảm tội cho nên người ta chỉ có thể cho rằng sự ăn năn của Charles xuất phát từ chính con người anh ta.

        Trước khi bị hành quyết, Charles đã tặng cho chính quyền một điều ngạc nhiên cuối cùng khi tự thú tỉ mỉ về vụ giết một cảnh sát trẻ tên là Nicholas Cock, 20 tuổi, làm việc ở Sheffield hồi tháng 7/1875. Đó là thời gian mà Charles thường hay theo dõi nhà Dyson.

        Cock và đồng nghiệp là cảnh sát Beanland đang đi tuần thì thấy một người đàn ông nấp trong bụi rậm gần nhà của Katherine. Khi Beanland lên tiếng gọi, người này nhảy qua bức tường bao quanh vườn trốn và suýt lao vào Cock.

        Sách viết về cuộc đời Charles Peace.

        Kẻ rút súng ra và cảnh báo Cock lùi lại nhưng giống như cảnh sát Robinson, Cock vẫn tiến về phía người đàn ông dù đạn bay vèo qua đầu. Hậu quả là anh cảnh sát hứng trọn viên đạn vào ngực, nằm bất động trên đất trong khi kẻ sát nhân bỏ trốn.

        Trước đó, có ba anh em người Ailen bị cảnh sát Cock đưa ra tòa vì hành vi say rượu và một trong số họ đã dọa trả thù Cock. Dù không có mấy bằng chứng chứng minh người này, William Habron, đã bắn Cock nhưng anh ta vẫn bị xét xử và bị kết án tử hình. Trước ngày hành quyết, Bộ trưởng Nội vụ đã quyết định giảm án còn tù chung thân cho anh ta.

        Trong số những người đến xem phiên xét xử có cả Charles Peace - thủ phạm thực sự của vụ giết cảnh sát Cock. Về sau, Charles thú nhận: “Mọi người sẽ nghĩ rằng tôi là một thằng độc ác vì để một người vô tội chịu hậu quả về tội ác mình đã làm. Nhưng trong tình huống như thế liệu người ta có đầu thú khi biết chắc mình sẽ bị treo cổ? Giờ tôi sắp phải từ bỏ cuộc sống của mình và cảm thấy rằng tôi chẳng thu được lợi lộc gì nếu giấu chuyện này. Nhân danh Chúa, tôi thấy mình đúng khi minh oan cho anh thanh niên trẻ tuổi vô tội đó”.

        Cuối cùng, Charles cũng thuyết phục được chính quyền Anh rằng Habron vô tội trong vụ giết cảnh sát Cock. Habron được thả và được bồi thường 800 bảng.
        Trước ngày hành quyết, Charles được vợ, con riêng của vợ và vợ chồng con gái đến thăm. Trong trạng thái tinh thần tốt, Charles mong muốn người thân kiềm chế tình cảm và cho biết anh ta cảm thấy thoải mái, vui vẻ. Anh ta bảo người nhà bán hoặc trưng bày một số tác phẩm nghệ thuật do chính anh ta tạo ra để lấy tiền, trong đó có bản vẽ tấm bia kỷ niệm mà anh ta muốn đặt trên mộ mình.

        Charles đã đưa cho vợ một thẻ tang viết: “Tưởng nhớ Charles Peace - người đã bị hành hình ở nhà tù Armley thứ ba ngày 25/2/1879, khi 47 tuổi vì đã làm những gì không cố ý”.

        Trước giờ ly biệt, Charles đã cùng người thân quỳ gối cầu nguyện nửa tiếng. Rồi anh ta bắt tay, cầu nguyện cho từng người một, lặng lẽ khóc khi người thân đi khuất.
        Ngày 25/2/1879, một ngày lạnh lẽo, Charles đã ăn một bữa sáng thịnh soạn và bình tĩnh chờ người hành quyết. Khi bước lên giá treo cổ, anh ta tin tưởng rằng Chúa đã tha thứ cho những tội lỗi của mình. Anh ta chết mà không bao giờ biết rằng chỉ ba tuần trước đó, cô tình nhân Thompson đã đòi cảnh sát trả khoản tiền thưởng 100 bảng vì đã giúp họ bắt được Charles.

        Mặc dù bị treo cổ vì tội giết người nhưng Charles Peace lại được cả những người săn lùng anh ta nể trọng. Một cảnh sát từng nói nhân vụ hành quyết tên trộm trèo tường khét tiếng rằng: “Quan điểm thật của tôi về Charles Peace là anh ta là một tên trộm chính cống nhưng không phải là một kẻ giết người có chủ tâm”.

        Cuộc đời của Charles Peace đã được tái hiện trong bộ phim “Cuộc đời Charles Peace” năm 1905 của đạo diễn Frank Mottershaw và bộ phim “Trường hợp về Charles Peace” năm 1949 của đạo diễn Norman Lee.

        Trong “Người khách hàng nổi tiếng”, một truyện ngắn của tác giả Arthur Conan Doyle, cái tên Charles Peace đã trở thành một trong số ít những tên tội phạm thu hút được sự chú ý của thám tử lừng danh Sherlock Holmes.

        Thùy Dương (Mời xem trọn các kỳ trên trang web: baotintuc.vn)


        Vụ cướp tàu hỏa táo tợn nhất nước Anh- Kỳ 1

        Không ai biết chính xác kẻ nào đã nảy ra âm mưu cướp đoàn tàu chở bưu kiện từ Glasgow tới Luân Đôn, Anh. Người ta chỉ biết một điều chắc chắn đây là một trong những vụ cướp táo tợn nhất lịch sử nước này. Điều đặc biệt trong vụ cướp là 15 tên cướp đã tay không ẵm trọn 2 triệu bảng Anh, tương đương 41 triệu bảng ngày nay.

        Kỳ 1: Kế hoạch hoàn hảo

        Thủ lĩnh băng cướp - Bruce Reynolds.
        Vụ cướp tàu táo tợn xảy ra năm 1963 khiến dư luận bàng hoàng vì khó có thể ngờ một băng nhóm tội phạm nhỏ ở Luân Đôn lại có thể liều lĩnh như vậy. Cuốn “The Robbers Tale” năm 1965 của tác giả Peta Fordhams cho rằng, một tên trùm thế giới ngầm Luân Đôn chính là người vạch ra âm mưu này nhưng về sau băng nhóm của hắn đã không dám thực hiện vì quá mạo hiểm.

        Năm 1962, khi đang ở tù, một thành viên của băng nhóm nói trên tình cờ kể về kế hoạch này cho bạn tù Bruce Richard Reynolds, một tay buôn đồ cổ và là một tên trộm khét tiếng ở Luân Đôn. Reynolds cho rằng ý tưởng này “hay ho” và đã dành những tháng cuối cùng trong tù để vạch kế hoạch.

        Sau khi được thả, Reynolds bàn kế hoạch với nhóm South West của mình. Hắn chọn cấp phó là Douglas Gordon Goody, một thợ cắt tóc kiêm tội phạm “bán thời gian” nổi tiếng vì độ liều lĩnh và chịu áp lực giỏi.

        Các thành viên băng South West dù trung thành và lão luyện nhưng số lượng thành viên quá ít để thực hiện một vụ cướp quy mô. Reynolds đã đồng ý hợp tác với băng South East do Ronald Buster Edwards cầm đầu. Khi lực lượng đã đủ, Reynolds bắt đầu rình thời cơ.

        Đoàn tàu hỏa mà Reynolds định cướp là tàu chở bưu kiện chạy từ Glasgow đến Luân Đôn, gồm 12 toa, có một đầu máy động cơ diesel. Ngoài bưu kiện thông thường, nó còn “cõng” một lượng lớn tiền từ các thể chế tài chính và ngân hàng ở Xcốtlen tới Luân Đôn. Tiền và những bưu kiện có giá trị được phân loại và chất vào hai toa ngay sau đầu tàu.

        Đoàn tàu chở bưu kiện - mục tiêu của băng cướp.

        Nhờ những mối quan hệ trong thế giới ngầm, Reynolds dễ dàng nắm được lịch trình, địa điểm cất tiền và số nhân viên trên tàu. Reynolds biết chắc lượng tiền trên tàu thường sẽ nhiều hơn sau ngày nghỉ lễ của ngân hàng. Một trong số những ngày nghỉ lễ đó rơi vào ngày 5/8/1963, thời điểm hoàn hảo cho kế hoạch của hắn. Điều duy nhất mà Reynolds không biết chắc là tiền sẽ được chuyển tới Luân Đôn vào ngày nào. Nhưng nhờ một “tay trong”, hắn đã biết được ngày chuyển tiền và lên kế hoạch cho vụ cướp vào ngày 6/8/1963.

        Tuy nhiên, còn một vài chi tiết quan trọng cần phải giải quyết. Theo kế hoạch ban đầu, băng cướp phải lên tàu, cắt rời đầu máy và hai toa đầu tiên rồi đưa chúng đến một địa điểm đã định sẵn để chuyển tiền lên các xe tải chờ ở đó. Vấn đề là cần tìm một người biết lái tàu và phải tìm cách dừng đoàn tàu mà không gây quá nhiều nghi ngờ.

        Ronald Biggs.
        Reynolds có quen một tên trộm vặt tên là Ronald Arthur Ronnie Biggs. Do thiếu tiền nên Biggs đã tìm đến Reynolds hỏi vay. Reynolds gợi ý hắn tham gia vụ cướp tàu và hứa sẽ chia cho hắn 40.000 bảng nếu tìm được một người biết lái tàu. Tình cờ, Biggs lại quen một người từng là nhân viên lái tàu tên là Peter. Cả hai đều mờ mắt trước số tiền chia phần và nhanh chóng đồng ý.

        Vấn đề thứ hai đã được giải quyết trong một cuộc họp của nhóm. Roger John Cordrey, một thợ máy lành nghề và hiểu biết về tàu hỏa, đã đề xuất một ý tưởng đơn giản là sẽ chỉnh sửa tín hiệu buộc đoàn tàu phải dừng lại theo yêu cầu. Sau khi đánh giá toàn bộ lộ trình của đoàn tàu, cả nhóm quyết định rằng địa điểm tốt nhất để chỉnh tín hiệu sẽ là khu vực Leighton Buzzard ở Bedfordshire. Theo lịch trình, đoàn tàu sẽ tới Leighton Buzzard lúc 3 giờ 30 sáng - thời điểm lý tưởng vì băng cướp sẽ có đủ thời gian để chặn tàu, mang tiền xuống và tẩu thoát vào bóng đêm.

        Ngay bên ngoài thị trấn Leighton Buzzard là bảng tín hiệu. Tùy thuộc vào giao thông đường sắt và tình trạng đường ray, bảng này có thể bật hoặc là tín hiệu xanh báo hiệu đường thông thoáng để đi, hoặc là tín hiệu vàng báo hiệu chuẩn bị dừng. Bảng tín hiệu tiếp theo được gọi là tín hiệu nhà (home signal), cách khu vực Sears Crossing khoảng 1 km.

        Cordrey đã bày ra cho cả nhóm xem một loạt thiết bị để chỉnh tín hiệu, gồm vài bộ ắc quy, một đoạn dây kim loại, găng tay da và vài miếng giấy đen. Găng tay và giấy đen sẽ được dùng để che đèn tín hiệu thật, còn ắc quy sẽ được dùng để chiếu sáng tín hiệu vàng ở Leighton Buzzard và tín hiệu đỏ ở Sears Crossing.

        Băng cướp cũng cần một nơi an toàn tách biệt nhưng lại gần đường ray để tập kết phương tiện và người trước vụ cướp, quay trở về cùng chiến lợi phẩm rồi từ đó tỏa đi các hướng mà không bị phát hiện. Lúc đầu, Reynolds định chuyển tiền tới nhà một người bạn ở Oxfordshire và chia tiền sau. Nhưng đề xuất này bị phản đối mạnh mẽ vì đối với những kẻ tội phạm, chúng có thể giao tính mạng và tự do cho người khác chứ không thể giao tiền. Khi thời gian không còn nhiều, Reynolds đành gợi ý nông trại Leatherslade gần đó. Sau khi xem xét nhanh chóng, cả bọn nhất trí chọn địa điểm này.
        Nông trại Leatherslade nằm ở trung tâm một cộng đồng nhỏ làm nghề nông, chỉ cách nơi định cướp tàu 43 km. Nó gồm một ngôi nhà 2 tầng xiêu vẹo và vài khu nhà phụ nhỏ bên ngoài, đủ chỗ cho cả băng cướp. Reynolds định tiếp cận chủ nông trại qua trung gian để mua lại khu này. Để trì hoãn vụ mua bán, Reynolds sẽ đề nghị chủ nhà cho một nhóm thợ ở lại nông trại vài ngày để chuẩn bị sửa sang. Mọi việc trôi chảy theo đúng ý định Reynolds. Tất cả chỉ còn chờ thời điểm.

        Thùy Dương

        Vụ cướp tàu hỏa táo tợn nhất nước Anh - Kỳ 2

        Hành động chớp nhoáng

        Đúng hẹn, các thành viên băng cướp rời nhà ngày 6/8/1963 tới nông trại chờ thời điểm hành động. Biggs và Peter bắt cùng chuyến tàu đến ga Victoria gặp Reynolds và anh rể hắn, John Daly. Cả bọn cùng leo lên một chiếc Land Rover ăn cắp rồi lái đến nông trại. Mãi đến giữa buổi sáng chúng mới tới nơi, dỡ đồ và vào nhà chờ đồng bọn đến đông đủ. Khi cả băng cướp đã có mặt, chúng ngồi uống bia, chơi bài cho đỡ căng thẳng trong lúc chờ tin báo thời điểm tiền được gửi lên tàu.

        Chúng phải chờ đến tận hôm sau vì lúc đó tiền mới được chuyển đi. Chiều muộn hôm đó, cả nhóm rà soát lại kế hoạch một lần nữa. Chúng định giả làm một đơn vị quân đội đi trực ca đêm trên chiếc xe quân đội vừa đánh cắp. Bọn chúng đã chuẩn bị đồng phục quân đội và giấy tờ giả trong trường hợp bị ai đó kiểm tra.

        Đoàn tàu bị chặn trên cầu Bridego.

        Sau khi được mật báo rằng tiền đã lên tàu với số lượng lớn bất thường, cả bọn lên 3 xe và tiến về Leighton Buzzard đêm 8/8/1963. Chưa đầy một giờ, băng cướp đã có mặt tại địa điểm.

        Sau khi đến bảng tín hiệu ở Leighton Buzzard, chúng thả hai tên là John Daly và Roger Cordrey xuống canh chừng tín hiệu và tiếp tục lái đến cầu Bridego. Tại đây, chúng mặc quần áo lao động màu xanh nhằm che bộ đồng phục quân đội bên trong để trong trường hợp bị nhìn thấy, chúng sẽ đóng giả là công nhân đường sắt đang bảo trì đường ray.

        Cả nhóm chia ra và đến các vị trí đã được phân công. Biggs và Peter đi về phía Sears Crossing. Chúng đánh dấu vị trí đoàn tàu sẽ bị chặn lại để cướp tiền. Trong khi đó, một thành viên khác đã cắt đường dây điện thoại tại hộp gọi điện khẩn cấp bên cạnh đường ray. Để đảm bảo chuông báo động không vang lên quá sớm, hắn còn cắt luôn cả đường dây điện thoại của cả vùng. Về phần mình, Reynolds lái xe đến vị trí đã xác định trước để nhìn bao quát các đoàn tàu đang tiến đến và báo hiệu cho đồng bọn.

        Tái hiện cảnh băng cướp chuyển tiền từ tàu ra xe.

        Trong vòng 2 tiếng tiếp theo, Reynolds quan sát vài đoàn tàu chạy qua. Mãi đến 3 giờ sáng, “con mồi” của băng cướp mới đến. Reynolds ra hiệu cho đồng bọn. Ngay lập tức, tín hiệu giả được kích hoạt. Ba phút sau, đoàn tàu chở bưu kiện đi chậm lại và dừng ngay bên cạnh nơi băng cướp đang ẩn mình chờ trong bóng tối.

        Dave Whitby, công nhân đốt lò trên tàu, là người đầu tiên ra khỏi đoàn tàu. Theo quy định, Dave tiến đến hộp điện thoại khẩn cấp phía trước và tìm chỉ dẫn. Khi phát hiện ra điện thoại không hoạt động, anh ta quay về tàu và nhìn thấy một người đàn ông (Buster Edwards) trong bộ quần áo công nhân xanh đứng cạnh đường ray. Đoán rằng người này là công nhân đường sắt và có thể biết lý do tàu phải ngừng, Dave đi về phía đó nhưng bị hai tên đội mũ len trùm đầu thình lình xuất hiện và đẩy xuống phía dưới. Anh ta bị còng tay và được lệnh không được kêu.

        Jack Mills, tên to khỏe nhất của băng cướp, lúc đó đã leo lên cabin, chạm mặt với người lái tàu đang cáu tiết và tìm cách kháng cự với những kẻ lạ mặt. Tuy nhiên, người lái tàu nhanh chóng bị hạ gục. Peter lập tức ngồi vào ghế lái tàu.

        Trong khi đó, một nhóm khác đã tháo móc nối từ toa thứ ba, chỉ để lại hai toa có tiền gắn vào đầu tàu. Peter được lệnh lái hai toa này đến đoạn đường ray đã được đánh dấu trước. Tuy nhiên, đầu tàu không nhúc nhích. Trong lúc Peter giải thích rằng đoàn tàu không thể nhúc nhích do áp lực phanh thấp thì hắn đã bị vứt ra khỏi cabin và Jack Mills nhảy vào vị trí.

        Mills nhả chiếc phanh hơi mà Peter đã bỏ qua và đoàn tàu chầm chậm chuyển động về phía cầu Bridego. Khi đến chỗ đã đánh dấu, tàu dừng lại. Biggs được lệnh đưa Peter, tên lái tàu vô dụng, vào chiếc Land Rover và chờ, chính thức chấm dứt vai trò trong vụ cướp.

        Khi nghe thấy tiếng tàu bị tháo móc toa, nhân viên bưu điện trong toa tàu chở tiền biết rằng có điều gì đó không ổn. Tuy nhiên, trước khi họ có thể phản ứng, một nhóm do tên Gordon Goody dẫn đầu đã ập vào khoang và khống chế toàn bộ. Chỉ trong vòng vài phút, họ bị trói, bịt miệng và bắt nằm úp mặt xuống sàn.

        Trong khi đó, toàn bộ số tiền trên khoang được chuyển ra. Băng cướp đứng thành hàng nối từ toa tàu đến chỗ xe tải. Từng bao tải tiền đầy ắp được chúng chuyền tay nhau nhanh gọn lên các xe cho đến khi không thể chất thêm được nữa. Khi chỉ còn 7 bao tiền trên tàu và nhận thấy trời đang sáng dần, Reynolds ra lệnh cả nhóm rút. Toàn bộ “chiến dịch” từ lúc tàu dừng đến lúc tẩu thoát chỉ mất vỏn vẹn 40 phút.

        Dưới sức nặng của các bao tải tiền, đoàn xe ì ạch quay về nông trại Leatherslade. Biggs được giao nhiệm vụ nghe đài để nắm tình hình cảnh sát, tuy nhiên, chiếc đài của Biggs im lặng bất thường. Khi trời vừa hửng sáng, đoàn xe vừa qua cổng nông trại thì đài phát thanh đưa tin về vụ cướp. Mặc dù thấm mệt nhưng cả băng cướp nhanh chóng khuân tiền vào nhà trước khi mặt trời lên hẳn.

        120 bao tiền xếp đầy phòng chính. Không ai buồn động chân tay để đếm tiền cho đến khi một tên trong số chúng mở bao đầu tiên. Khi nhìn thấy cơ man các cọc tiền đầy ứ trong bao, nhóm cướp mắt sáng lên và lao vào điên cuồng xé các bao tiền. Reynolds nhanh chóng lập lại trật tự và giao cho mỗi tên một việc. Một vài người canh chừng các cửa sổ, số khác được giao nhiệm vụ kiểm tra xem có thiết bị theo dõi trong các bao tiền hay không. Hai tên Cordrey và Wilson làm nhiệm vụ đếm và chia tiền. Reynolds và Biggs xé giấy gói các cọc tiền và đưa cho hai người đếm.

        Ba giờ sau, việc đã xong. Cả băng đứng quanh đống tiền khổng lồ. Tổng cộng là 2.631.784 bảng (khoảng 41 triệu bảng theo giá trị năm 2013) - số tiền mà chưa ai trong số bọn chúng từng được nhìn. Sau khi chia chác, bọn chúng thư giãn bằng vài ván bài và chuyện phiếm.

        Theo kế hoạch ban đầu, bọn chúng sẽ ở lại nông trại 2 tuần chờ cho mọi việc lắng xuống rồi mới tẩu thoát. Tuy nhiên, khôn ngoan chẳng lại với trời.

        Vụ cướp tàu hỏa táo tợn nhất nước Anh - Kỳ 3

        Kỳ 3: Cuộc hội ngộ trong tù

        Qua đài phát thanh, băng cướp biết được rằng vụ cướp tàu chúng vừa thực hiện đã gây một cơn chấn động ở nước Anh. Toàn bộ cảnh sát trong khu vực đang ráo riết tìm thủ phạm. Theo một mẩu tin trên đài, cảnh sát đoán rằng bọn trộm đã dùng xe quân sự và có thể đang lẩn trốn trong một nông trại gần đó.

        Cảnh sát điều tra tại Sears Crossing.

        Reynolds nhanh chóng tính lại kế hoạch vì biết rằng bọn chúng không có nhiều thời gian để dọn dẹp nông trại, phi tang bằng chứng và tẩu thoát êm thấm. Theo lệnh Reynolds, một nhóm sơn lại chiếc xe tải bằng thùng sơn màu vàng tìm thấy trong nhà kho. Nhóm khác gom bao đựng bưu kiện và giấy gói tiền mang đi chôn.

        Reynolds đồng ý để Roger Cordrey đi xe đạp tới làng gần nhất thám thính tình hình và tìm phương tiện di chuyển khác. Trong lúc Cordrey đi, cả bọn ngồi chờ, tâm trạng lo lắng tăng lên từng phút theo tin tức trên đài. Khi Cordrey về, hắn cho biết vụ cướp của bọn chúng đã lên trang nhất của tất cả các tờ báo trong nước và cảnh sát đã tăng cường gấp đôi lực lượng để tìm kiếm.

        Cảnh sát canh gác nông trại Leatherslade.

        Hai thành viên trong nhóm cùng Cordrey được giao nhiệm vụ đi tìm phương tiện đủ để đưa cả bọn đến nơi an toàn. Nhóm sẽ thuê một tên tòng phạm để dọn dẹp lần cuối, xóa mọi dấu vân tay và các bằng chứng khác.
        Trong khi đó, hai ngày sau vụ cướp, cảnh sát đã thành lập một đội cơ động đặc biệt gồm những thám tử giỏi nhất. Đội này do thám tử Tommy Butler dẫn đầu. Butler được coi là một huyền thoại của Sở Cảnh sát London, nổi tiếng vì tính tận tụy với công việc và độ tỉ mẩn. Được mệnh danh là “Bóng ma Xám”, ông đòi hỏi sự chính xác và chuyên nghiệp từ nhân viên.

        Ban đầu, vụ cướp đã khiến cảnh sát bối rối vì số tiền cực lớn và hầu như không có bất kỳ dấu vết gì trước, trong và sau vụ cướp. Mãi đến ngày thứ 8, công tác điều tra mới đạt được đột phá đầu tiên. Tin báo từ người dân cho biết có một chiếc xe khả nghi đỗ tại một nông trại cách hiện trường vụ án 48 km. Khi đến nông trại, cảnh sát vui mừng xác nhận đây đúng là nơi trú ẩn của băng cướp.

        Băng cướp thất kinh khi biết rằng kẻ mà bọn chúng thuê với số tiền lớn để dọn dẹp nông trại đã nhận không số tiền rồi bỏ đi, để lại cả kho manh mối cho cảnh sát tìm. Thám tử Butler đã ra lệnh phong tỏa toàn bộ khu vực, cho lấy mẫu vân tay và mọi bằng chứng.

        Chỉ sau một ngày phân tích bằng chứng, thành viên đầu tiên của băng cướp, Roger Cordrey đã bị tóm. Sở dĩ cảnh sát bắt Cordrey nhanh chóng đến vậy vì cảnh sát biết hắn là một tên tội phạm sành sỏi về tàu hỏa. Nghe tin Cordrey bị bắt, Biggs tỏ ra lo lắng. Nỗi lo của hắn đã biến thành sự kinh hoàng khi hay tin cảnh sát tìm được một vali 100.000 bảng ở trong rừng cách nhà hắn chỉ vài km. Một tuần sau, Charlie Wilson bị bắt ở London. Cảnh sát cũng thông báo đang tìm kiếm Bruce Reynolds, Jimmy White, Roy James và Buster Edwards để thẩm vấn. Biggs biết rằng cảnh sát sẽ sớm tìm đến mình để hỏi thăm về Reynolds.

        Ba tên liên quan đến vụ cướp bị cảnh sát dẫn giải.

        Quả nhiên, hai ngày sau cảnh sát viếng thăm nhà Biggs, nhưng chỉ hỏi han và xem xét nhanh quanh nhà. Một tháng sau, cảnh sát thăm nhà Biggs lần hai và lần này hắn bị bắt và đưa tới sở cảnh sát để thẩm vấn. Đích thân thám tử Butler đã thẩm vấn hắn. Hắn bị đưa tới đồn cảnh sát Aylesbury ở Buckinghamshire để lấy dấu vân tay, chụp ảnh và chính thức bị kết tội tham gia vụ cướp. Sau đó, Biggs bị đưa vào nhà tù Bedford chờ xét xử cùng với đồng bọn là Charlie Wilson, Tommy Wisbey, Jim Hussey và Bob Welch.

        Cả 5 tên không hiểu nổi tại sao cảnh sát lại biết bọn chúng dính đến vụ cướp. Câu hỏi đã được trả lời khi vợ Biggs, Charmaine, vào thăm chồng với thông tin mà cô ta có được nhờ một người bạn có liên hệ với Sở Cảnh sát London. Theo đó, bọn chúng bị bắt vì dấu vân tay đã bị tìm thấy ở nông trại, cụ thể là trên các chai nước sốt, chai bia và vài quân bài bỏ lại.

        Chỉ trong một thời gian ngắn, hầu như toàn bộ băng cướp đều được hít thở chung không khí nhà tù Aylesbury. Luật sư cho chúng biết rằng bằng chứng chống lại cả nhóm là quá lớn và quá mạnh, “hứa hẹn” những án tù hàng chục năm.

        Thay vì bàn đến phiên tòa sắp tới, bọn cướp tính kế vượt ngục. Chúng “nịnh nọt” một cai tù và hối lộ tiền để người này lén mang vào cho chúng một số thứ hỗ trợ vụ vượt ngục. Một trong số đó là chiếc phôi chìa khóa để chúng giũa thành chìa mở cửa phòng giam và cửa ra vào.

        Kế hoạch đang tiến triển tốt đẹp thì bị hỏng vào phút chót khi một thành viên trong băng cướp cảm thấy run chân và đã báo với cai tù. Chỉ trong vòng vài tiếng, phòng giam của bọn chúng đã bị lục soát, bất kỳ thứ gì khả nghi đều bị tịch thu. Cai tù cũng bị đổi, an ninh được thắt chặt, người ngoài không được phép thăm tù nhân và liên lạc giữa các tù nhân bị cấm. Tia hi vọng về vượt ngục của băng cướp vụt tắt.

        Vụ cướp tàu hỏa táo tợn nhất nước Anh - Kỳ cuối


        Dù đóng một vai trò nhỏ trong vụ cướp tàu nhưng Ronald Biggs lại là cái tên được nhắc đến nhiều nhất. Nguyên nhân là vì hắn đã cả gan vượt ngục, chạy trốn khỏi tay của cảnh sát hàng chục năm trời, mỗi hành động của hắn khiến báo chí tốn không ít giấy mực.

        Raimunda cùng con trai tại Brazil năm 1974.

        Trong vòng vài tuần sau khi bị tuyên án, các thành viên bị đưa đến nhiều nhà tù khác nhau để thụ án. Trong khi phần lớn băng cướp đến nhà tù Brixton thì Biggs lại bị đưa đến nhà tù Lincoln và về sau là nhà tù Wandsworth.

        Ngay từ ngày đầu ở Wandsworth, Biggs đã nghĩ đến chuyện trốn tù. Ngày 12/8/1964, trong khi Biggs vẫn đang nghiền ngẫm kế hoạch vượt ngục, thì có tin Charlie Wilson trốn khỏi nhà tù Winson Green ở Birmingham. Sau khi Wilson trốn thoát, các thành viên còn lại của băng cướp bị tăng cường giám sát đặc biệt. Dù bị quản nghiêm ngặt nhưng Biggs vẫn có một khoảng thời gian trong ngày dành cho việc tập thể dục ngoài trời. Hắn đã tận dụng thời cơ này móc nối với hai bạn tù khác là Paul Seabourne và Eric Flowers để bàn chuyện vượt ngục. Eric đang thụ án 12 năm tù còn Paul sắp mãn hạn 4 năm tù và có thể giúp đồng bọn từ bên ngoài.

        Kế hoạch khá đơn giản. Vào ngày 8/7/1965, Biggs và Flowers cùng tập thể dục với nhau. Ngay sau 3 giờ chiều, một chiếc xe tải đã đậu sẵn bên ngoài bức tường nhà tù, thang dây được ném vào. Trong khi hai tù nhân khác đánh lạc hướng cai tù, Biggs và Flower đã trèo qua tường rồi được Seabourne đợi sẵn để hỗ trợ. Nhân cơ hội, vài tù nhân khác cũng leo vội qua tường và kết quả là chiếc xe phải “cõng” 7 người thay vì 4.

        Biggs tại đám tang Reynolds.

        Đi được vài km, bọn chúng chia nhau đi các nơi khác nhau. Về sau, Seabourne bị bắt lại, còn Biggs và Flower trốn được sang Antwerp ở Bỉ. Chúng phải bỏ ra rất nhiều tiền để mua hộ chiếu, quần áo và phẫu thuật thay đổi khuôn mặt. Khi lành vết phẫu thuật, Biggs đến Sydney (Australia) dưới một cái tên giả. Biggs còn đoàn tụ được với vợ con và sống lẩn trốn vài năm dưới vỏ bọc mới ở Australia.

        Năm 1968, trùm băng cướp là Reynolds cũng bị bắt. Những tên còn lại cũng lần lượt chui vào lưới cảnh sát, trừ Biggs - kẻ duy nhất còn tự do. Tuy nhiên, cảnh sát cũng lần ra nơi ở của Biggs, khiến hắn và vợ con quyết định mỗi người một ngả. Hắn rời Australia, còn vợ con hắn ở lại đất nước này.

        Chỉ vài ngày sau, cảnh sát đã đột kích nhà Biggs thuê ở Melbourne và bắt giam vợ hắn, Charmaine. Cô ta bị kết tội vào Australia trái phép và về sau được thả. Với sự hỗ trợ của bạn bè, Biggs chỉ lẩn trốn được vài tháng rồi lại bị cảnh sát mò ra tung tích. Hắn lại gom ít tiền trốn đến Panama rồi đặt vé máy bay đến Rio de Janeiro, Brazil. Hắn đặt chân đến Rio de Janeiro ngày 11/3/1970 dưới cái tên Michael Haynes, ở trong một khách sạn rẻ tiền. Thời điểm này, Biggs không còn bao nhiêu tiền vì đã tiêu phần lớn số tiền được chia chác sau vụ cướp trong quá trình lẩn trốn cảnh sát.

        Sống tằn tiện, làm những việc vặt để kiếm sống, Biggs dần ổn định cuộc sống ở Rio. Hắn thường xuyên liên lạc với vợ nhưng vẫn có người tình ở Brazil. Trong thời gian này, Biggs nhận được tin con trai cả chết trong tai nạn ô tô. Sống trong cảnh túng quẫn và nhớ thương gia đình, hắn dần dần nghĩ đến việc nộp mình để được về quê hương.

        Tuy nhiên, mọi chuyện trở nên phức tạp khi Raimunda, người tình của hắn, có bầu. Biggs cần tiền hơn bao giờ hết để chu cấp cho cả vợ con và người tình. Cực chẳng đã, hắn đã nhờ một người bạn liên lạc với các tờ báo lớn ở Anh để họ đăng độc quyền tin hắn nộp mình cho cảnh sát. Đổi lại, báo chí phải trả cho hắn 50.000 bảng.

        Tháng 1/1974, người bạn của Biggs nhận được liên lạc từ tờ Daily Express và đề nghị mua câu chuyện. Sau khi Biggs gửi cho tờ báo một lá thư kèm chữ ký và dấu vân tay để xác nhận danh tính, tờ Daily Express đã đồng ý cử phóng viên tới gặp hắn ở Rio. Ngày 30/1, phóng viên tên là Mackenzie đã tới gặp Biggs ở khách sạn. Sau khi thỏa thuận, cuộc phỏng vấn bắt đầu. Sang đến ngày thứ 3, khi đang phỏng vấn thì có tiếng gõ cửa và một nhóm người ập vào phòng. Họ là quan chức cảnh sát địa phương, lãnh sự Anh, phó lãnh sự Brazil và hai thám tử Sở cảnh sát London. Biggs bị tóm gọn.

        Biggs không ngờ rằng mình đã bị lừa ngay từ đầu. Khi cảnh sát ập vào, họ vờ như là đã theo dấu chân của phóng viên để bắt Biggs. Nhưng thực ra, tờ Daily Express đã liên lạc với cảnh sát trước khi cử phóng viên tới gặp Biggs. Kết quả là, cảnh sát bắt được kẻ cần bắt còn Daily Express có tin nóng mà không tốn một xu.

        Trong thời gian bị giam ở Brazil, Biggs biết rằng do hắn đang sống với một phụ nữ Brazil mang thai con của hắn nên chính quyền nước này sẽ không “đành lòng” trục xuất hắn. Năm 1997, Brazil và Anh ký kết hiệp định dẫn độ. Hai tháng sau, chính quyền Anh chính thức đề nghị Brazil đưa Biggs về nước, tuy nhiên Tòa án Tối cao Brazil đã từ chối. Điều đó có nghĩa là Biggs được quyền sống ở Brazil nốt quãng đời còn lại.

        Nhưng lúc này, Biggs lại không muốn kháng lại nỗ lực dẫn độ của Anh. Lâm bệnh nặng, hắn muốn được quay về thụ án nốt và chết ở quê hương. Tháng 5/2001, Biggs, lúc này đã 71 tuổi, đã gửi thư điện tử cho Sở cảnh sát London, cho biết hắn muốn có hộ chiếu về Anh và sẽ tình nguyện giao mình cho họ ngay tại sân bay Heathrow. Hắn viết: “Mong ước cuối cùng của tôi là được bước vào quán rượu Margate với tư cách là một người Anh và mua một ít rượu. Tôi hi vọng có thể sống đủ lâu để làm điều đó”.

        Ngày 5/7/2001, một máy bay riêng chở Biggs đã hạ cánh xuống Heathrow. Ngay lập tức, Biggs bị tra tay vào còng và đưa về bệnh viện nhà tù để thụ án nốt 28 năm trong án tù 30 năm. Sức khỏe của Biggs ngày càng yếu, phải ăn qua đường ống truyền.

        Do các bác sĩ nói Biggs “không còn hi vọng gì” nên năm 2009 tòa án đã đồng ý thả tự do cho Biggs theo lời kêu gọi của gia đình. Sau khi ra tù, sức khỏe Biggs khá dần lên và hiện hắn vẫn còn sống. Biggs thậm chí còn tới dự đám tang của thủ lĩnh băng cướp Bruce Reynolds. 

        Thùy Dương

        Không có nhận xét nào:

        Đăng nhận xét