Sau động thái gây chấn động của bị cáo Slobodan Praljak, cảnh sát Hà Lan ngay lập tức kêu gọi bắt đầu một cuộc điều tra độc lập về vụ việc.
Các câu hỏi đặt ra gồm: Chất lỏng mà bị cáo Praljak đã uống
là gì? Làm thế nào ông ta có thể mang thuốc độc vào trong phòng xử án
vốn được bảo vệ chặt chẽ. Theo CNN, đến nay, chưa xác nhận được chất độc
mà Slobodan Praljak đã uống là gì.
Phòng xử án nơi bị cáo Slobodan Praljak uống thuốc độc tự tử đã được
niêm phong. Thẩm phán ngồi ghế chủ tọa Carmel Agius cho biết, hiện phòng
xét xử được xem là một "hiện trường phạm tội".
Một luật sư người Serbia, quen với các phiên xét xử tại tòa án của
Liên Hợp Quốc ở Hà Lan, chia sẻ với hãng thông tấn AP rằng, rất dễ lén
mang chất độc vào tòa án. Luật sư Toma Fila cho biết, công tác an ninh
cho luật sư và các nhân viên khác trong tòa án giống như ở sân bay. Nhân
viên an ninh kiểm tra các đồ vật kim loại và tịch thu điện thoại di
động, nhưng "thuốc và chất lỏng có khối lượng nhỏ" không bị kiểm tra.
Nick Kaufman, một luật sư Israel đã từng làm việc với tư cách công tố
viên tại tòa cũng cho biết, bị can có thể tìm được cách để mang theo
một chất bị cấm.
Đây không phải lần đầu tiên các bị cáo tội phạm chiến tranh tự tử
trong quá trình chờ xét xử của Tòa án hình sự quốc tế xét xử tội phạm
chiến tranh Nam Tư cũ (ICTY) của Liên Hợp Quốc.
Tháng 7.1998, Slavko Dokmanovic - một thủ lĩnh người Serbia ở Croatia
bị buộc tội gây ra cái chết của hơn 200 tù nhân Croatia, đã được tìm
thấy đã chết trong nhà tù ở The Hague. Milan Babic - một nhà lãnh đạo
người Serbia thời chiến đã tự tử vào tháng 8.2006.
ICTY, được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thành lập năm 1993. ICTY đã truy tố 161 tội phạm chiến tranh từ Bosnia, Croatia, Serbia, Montenegro và Kosovo. Trong số 83 người đã bị kết án, hơn 60 người là người Serbia.
Tuần trước, tòa đã kết án tướng người Serbia Ratko Mladić tù chung thân
vì đã gây ra hàng loạt các tội ác chiến tranh, trong đó có tội diệt
chủng.
Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018
SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 23
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người, và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hanging Of Three Japanese Post WWII
Unpublished Photographs of the War in Russia
Tội phạm Slobodan Praljak mang chất độc vào phòng xử bằng cách nào?
LĐO |
Sau vụ uống thuốc độc tự tử ngay tại tòa gây chấn động của tội phạm chiến tranh Slobodan Praljak, nhiều câu hỏi đã đặt ra.
H.L
Unpublished German photographs of the war in Russia
Xét xử và hành quyết những tên trùm Đức Quốc xã?
07:50 16/05/2005Sau khi thi hành án, các thi thể của những tên trùm phát xít và của tên Goring tự sát trước đó được đặt thành một hàng. Những người đại diện của các cường quốc đồng minh xem xét các dấu vết còn sót lại và ký xác nhận về việc xử tử.
Tại toà án Nuremberg. |
Riêng tên Borman, người ta cho rằng hắn đã bỏ trốn và đã bị xử vắng mặt. Tuy nhiên, Viện Kiểm sát Tây Đức đã chứng minh được rằng, tên phó của Hitler phụ trách vấn đề về đảng đã bị lùng bắt gắt gao ở Mỹ Latinh và đã bị chết tại Berlin vào ngày 2/5/1945. Đến năm 1973, tòa án Tây Đức đã chính thức thừa nhận về cái chết của hắn.
Đối diện với sự trừng phạt không thể tránh khỏi, một số tên trùm phát xít đã kịp có hành động tự sát. Trong số này có Hitler và Eva Brauwn - người tình lâu năm; Gobbel và vợ hắn là Magda cũng tự tử sau khi đã đầu độc 5 đứa con nhỏ của mình. Tên trùm Gestapo khét tiếng tàn bạo cũng đã tự kết liễu cuộc đời. Tên tướng hậu cần Robert Lei bị bắt và tự vẫn ngay trước khi tòa án bắt đầu vụ xét xử.
Trừ Kaltenbrunner, còn những bị cáo khác bị kết án tử hình đều đề nghị xin được ân xá. Đại đô đốc Rederdax có một hành động bất ngờ khi hắn yêu cầu được thay án tù chung thân bằng án xử bắn. Nhưng tất cả những yêu cầu trên đều bị bác bỏ.
Người vợ đầy bản lĩnh của tên đại tướng Iodl đã thành công khi yêu cầu xử lại vụ án cho chồng mình ở Munkhen. Kết quả là tên đứng đầu Bộ Tổng tư lệnh tối cao đã được phép bào chữa. Tuy nhiên điều này chỉ được thực hiện vào năm 1953.
Việc thi hành án tử hình những tên trùm tội phạm chiến tranh được ấn định vào ngày 16/10/1946. Trong thời gian thi hành bản án của Tòa án quân sự Quốc tế có sự chứng kiến của hai nhà báo Xôviết trong đó có nhà báo nổi tiếng Bôrít Pôlêvôi.
Đến xế chiều, các nhà báo được phép đi thăm trại giam ở Nuremberg nơi vẫn đang giam giữ các tử tù trong khi bọn chúng còn chưa được biết rằng bản án sẽ được thi hành ngay trong đêm hôm đó. Việc này sẽ diễn ra bên khu nhà nhỏ một tầng trên sân trại giam. Đối diện ngay ở cửa là ba chiếc giá treo cổ được sơn màu xanh xám, có 13 bậc thang dẫn lên giá treo cổ.
Trên các ròng rọc có treo các sợi dây gai to, dày có thể chịu được trên 200kg trọng tải. Dưới mỗi giá treo cổ là một chiếc cửa sập có hai cánh được mở ra bằng cách ấn tay gạt. Trong số ba chiếc giá treo cổ có hai chiếc “làm việc”, còn một chiếc để dự phòng.
Trong các nhà giam, sau khi Ban Kiểm tra đã tuyên bố việc phê chuẩn bản án thì các tử tù đều bị còng tay. Đến 0h55’, các nhà báo tiến đến chỗ dành cho chúng cách giá treo cổ khoảng 3 - 4m. Đứng bên cạnh giá treo cổ là 2 lính Mỹ: một là phiên dịch, còn người kia là đao phủ.
Người bị xốc nách ra đầu tiên là tên Fon Ribbentrop. Trông hắn nhợt nhạt và người ta tháo còng ra khỏi tay hắn, trói giật khuỷu tay ra sau lưng rồi đội lên đầu hắn một chiếc mũ đen. Những chiếc cánh cửa sập đã được mở toang ra... Đến 1h37’ thì đến lượt Kaltenbunner.
Trước khi bị chụp mũ, tên này còn kịp đưa ánh mắt cầu khẩn về phía ông mục sư, cha thánh đọc lời cầu nguyện. Các nghi thức vẫn tiếp diễn theo tuần tự: chiếc mũ đen đội đầu, tiếng cót két của chiếc tay gạt rồi thân thể rơi xuống và treo trên dây. Sau gần 2 giờ đồng hồ thì việc treo cổ 10 người mới xong.
Mỗi thi thể được chụp 2 kiểu ảnh: một mặc trang phục và một ở trần. Sau đó, những cái xác được quấn lại rồi được đặt vào quan tài cùng với quần áo mà trước đó dùng vào việc xử tử tử tù. Tất cả những chiếc quan tài sau đó đều được niêm phong.
Vào 4h sáng thì các cỗ quan tài được chất lên những chiếc xe tải loại 2,5 tấn trong sân trại giam và phủ vải bạt. Đoàn xe được một đoàn quân với súng máy hộ tống lên đường lao vào màn mưa. Vài giờ sau, đoàn xe đã tới Munkhen và dừng lại ở bên nhà hỏa táng. Sau này, người lính Mỹ làm đao phủ đã lấy đoạn dây treo cổ các tử tù và đem cắt ra bán cũng thu được khá tiền
Ngọc Bích (theo Tiếng vọng hành tinh)
Tội phạm phát-xít đã bị xét xử như thế nào?
By Dạ Lãm
Posted on
Không có phiên tòa nào có
thể cho thấy bản chất và nguyên nhân dẫn tới cái ác rõ ràng hơn những
phiên tòa Nuremberg, được diễn ra từ năm 1945 đến năm 1949. Những ai đến
với Nuremberg với ý định sẽ được nhìn thấy những con quỷ bạo tàn đội
lốt người trước vành móng ngựa thường ra về trong thất vọng.
- Dạ Lãm, dịch từ The Nuremberg Trials, Doug Linder, 2000
Sở dĩ phiên tòa này có thể gây sốc cho
công chúng là vì các bị cáo hoàn toàn mang một dáng vẻ bình dị, như tất
cả mọi người khác trong xã hội. Một người đàn ông vẫn luôn là một người
cha tốt, tử tế ngay cả với động vật, thậm chí khiêm tốn – nhưng đồng
thời cũng có thể phạm các tội ác kinh người.
Nhiều năm sau đó, khi báo cáo về phiên
tòa xử Adolf Eichmann, Hannah Arendt đã viết, “cái ác vốn tầm thường”.
Giống như Eichmann, các bị cáo của chuỗi phiên tòa khét tiếng nhất nhì
lịch sử thế giới hiện đại chưa bao giờ mong muốn, hay thậm chí không
nghĩ rằng mình là kẻ thủ ác.
Thay vào đó, họ gắn kết một cách cực
đoan danh tính của bản thân với một ý thức hệ, mà ý thức hệ ấy vốn tự
thân nó khiếm khuyết trí tưởng tượng, tính cởi mở và đồng cảm. Điều này
đã làm họ trở nên mù quáng, để rồi họ không thể đánh giá đầy đủ những hệ
quả nhân tính từ các quyết định trong sự nghiệp chính trị của mình.
Mười hai phiên tòa, với hơn 100 bị cáo
tại nhiều tòa án khác nhau đã diễn ra ở Nuremberg từ năm 1945 đến năm
1949. Không có gì bất ngờ, là đến tận ngày nay, tâm điểm của mọi chú ý
vẫn luôn là phiên Nuremberg đầu tiên về 21 trọng tội chiến tranh. Tuy
nhiên, rất nhiều trong số 11 phiên Nuremberg sau đó cũng có những vấn đề
và đáng suy nghĩ không kém phiên xử Trọng tội chiến tranh đầu tiên.
Ví dụ, phiên xử Tư pháp (The Justice Trial)
xử 16 thẩm phán và quan chức của chính phủ Đức Quốc Xã. Đây là phiên
xét xử xem xét trách nhiệm hình sự của các thẩm phán đã chấp nhận thực
thi những đạo luật vô đạo đức.
Phiên tòa Tư pháp đã trở thành nguồn cảm hứng cho một bộ phim Hollywood nổi tiếng với tựa đề “Phán quyết tại Nuremberg” (Judgment at Nuremberg). Những phiên tòa khác tiếp theo đó như phiên xử Bác sĩ (ND: Doctors Trial
– xét xử các Các bác sĩ y khoa của Đức Quốc xã bị cáo buộc can dự vào
những thí nghiệm trên người sống) hay phiên xử các đội đặc nhiệm (ND:
Einsatzgruppen Trial – xét xử các đội đặc nhiệm dưới thời Đức Quốc xã bị
cáo buộc sát hại người Do Thái và chính ủy Liên Xô, các dân tộc Slav… ở
Đông Âu) đặc biệt thuyết phục bởi những sự kiện khủng khiếp được miêu
tả qua lời kể của nhân chứng.
Đối thoại phe Đồng Minh
Năm 1944, khi chiến thắng cuối cùng có
vẻ nghiêng về phe Đồng Minh, Tổng thống Franklin Roosevelt đã yêu cầu
Cục Chiến tranh Hoa Kỳ (sau này đã được sát nhập với Cục Binh chủng Không quân và Cục Hải quân để hình thành Bộ Quốc Phòng hiện nay – ND) lập một kế hoạch nhằm đem tội phạm chiến tranh ra công lý.
Tuy nhiên, trước khi Cục Chiến tranh có
thể đưa ra một kế hoạch cụ thể, Bộ trưởng Tài chính Henry Morgenthau đã
gửi ý tưởng của riêng ông về vấn đề này tới Tổng thống. Đề xuất “ăn
miếng trả miếng” của Morgenthau đưa ra gợi ý là nên bắn bỏ tại chỗ nhiều
lãnh đạo chủ chốt của Quốc xã tại thời điểm bắt được, và “đuổi cổ”
những kẻ còn lại đến những vùng đất xa xôi trên thế giới.
Theo kế hoạch của Morgenthau, tù binh
chiến tranh Đức sẽ bị buộc làm việc để tái xây dựng châu Âu. Vị Bộ
trưởng Tài chính thậm chí còn hướng đến ý tưởng hủy diệt nền móng công
nghiệp mạnh mẽ của Đức và biến nước này thành một quốc gia yếu kém, nông
nghiệp.
Cục trưởng Cục Chiến tranh, Henry
Stimson nhìn nhận sự việc khác hẳn so với Morgenthau. Một đề xuất phản
biện mà Stimson ủng hộ, được hoàn thiện bởi Đại tá Murray Berays của
Nhánh Dự án Đặc biệt, có nội dung trái ngược với ý tưởng của Bộ Tài
chính.
Theo đó, phe Đồng minh sẽ đưa những lãnh
đạo Quốc xã có trách nhiệm ra tòa. Kế hoạch của Cục Chiến tranh là coi
những hành động tàn bạo và việc phát động một cuộc chiến tranh xâm lược
là tội phạm chiến tranh. Cụ thể hơn, kế hoạch này kiến nghị nên xử lý
chế độ Đức Quốc xã như một vụ án hình sự.
Đến cuối cùng, Tổng thống Roosevelt đã
chọn ủng hộ kế hoạch của Cục Chiến tranh. Tuy nhiên, những lãnh đạo đồng
minh khác cũng có chính kiến của riêng mình.
Churchill đã từng nói với Stalin rằng,
ông ủng hộ việc hành hình những thủ lĩnh Đức Quốc xã bị bắt. Stalin đã
trả lời: “Ở Liên Xô, chúng tôi không bao giờ hành quyết ai mà không
thông qua xét xử”. Churchill đồng ý: “Tất nhiên, tất nhiên. Chúng ta nên
xét xử họ trước tiên”. Và thế là cả ba nhà lãnh đạo thế giới khi đó đã
ban hành một tuyên bố chung tại Yalta vào tháng 2/1945, đi kèm với một
số thủ tục pháp lý dành cho những lãnh đạo phe kẻ thù đã bị bắt giữ.
Từ chiến tranh đến tòa án
Vào tháng 4/1945, hai tuần sau cái chết
đột ngột của Tổng thống Mỹ Roosevelt, Thẩm phán Tối cao Pháp viện Robert
Jackson tiếp Samuel Rosenman tại nhà riêng. Rosenman đã thay mặt cho
Tổng thống Truman yêu cầu Jackson trở thành Công tố viên trưởng của Hiệp
chúng quốc Hoa Kỳ tại phiên tòa xét xử các tội phạm chiến tranh sau khi
thế chiến kết thúc.
Truman muốn có một gương mặt đáng kính,
một người liêm chính không thể gây tranh cãi, và một nhà hùng biện hạng
nhất để đại diện cho Hoa Kỳ. Và Roseman đã khẳng định, người đó chỉ có
thể là Thẩm phán Jackson. Ba ngày sau đó, Jackson đồng ý. Vào ngày 2/5,
Harry Truman đã bổ nhiệm Jackson làm công tố viên trưởng. Nhưng công tố
viên của ai, dưới cơ chế nào? Nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải đáp.
Một số lãnh đạo Đức Quốc xã đã thoát
khỏi phiên tòa và sự trừng phạt. Hai ngày trước khi Jackson được bổ
nhiệm, trong một boongke dày khoảng 7 mét dưới hệ thống thoát nước của
Berlin, Adolf Hitler tự sát.
Không lâu sau đó, Heinrich Himmler, có
thể là gương mặt đáng sợ nhất nhì của chế độ Phát xít Đức, đã uống tinh
thể Xyanua trong khi được kiểm tra sức khỏe bởi một bác sĩ người Anh.
Ông ta chết chỉ vài phút sau đó.
Không có mặt tại phiên tòa còn có Joseph
Goebbels (đã chết) và Martin Bormann (mất tích). Tuy vậy, nhiều thủ
lĩnh phe Quốc xã đã rơi vào tay quân Đồng minh, vì đầu hàng hoặc bị bắt.
“Phó tướng” của Hitler là Rudolph Hess đã bị bắt từ năm 1941 khi đang
nhảy dù xuống bầu trời nước Anh trong một nỗ lực cá nhân nhằm thuyết
phục lãnh đạo Anh quốc giảng hòa với chính quyền Đức quốc xã.
Reischsmarschall Hermann Goering
đầu hàng quân Mỹ vào ngày 6/5/1945. Ông đã uống rượu và hát hò với các
sỹ quan người Mỹ trong đêm đầu tiên bị bắt. Những sỹ quan này sau đó đã
bị Tướng Eisenhower khiển trách vì những đãi ngộ đặc biệt với kẻ địch.
Hans Frank, “Tay đồ tể người Do Thái ở
Cracow”, thì không nhận được đãi ngộ thân thiện như thế từ binh sỹ Mỹ ở
Bavaria. Họ đã bắt hắn phải chạy qua đoạn đường 70 foot (khoảng 22 m)
bao quanh bởi lính Mỹ, và bị đấm đá trên suốt quãng đường đó.
Những nghi can tội phạm chiến tranh khác
bị quân lực Anh vây bắt vào ngày 23/5 ở Flensburg, vị trí cuối cùng còn
tồn tại chính quyền thuộc Quốc xã. Nhóm bị bắt tại Flensburg bao gồm
Karl Doenitz (người kế thừa vai trò Quốc trưởng của Hitler), Field
Marshall Wilhelm Keitel, nhà triết học của Đảng Quốc xã Alfred
Rosenberg, Tướng Alfred Jodl, và Bộ trưởng Vũ trang Albert Speer. Cuối
cùng, đã có 22 trong số những kẻ tai to mặt lớn của chính quyền Đức Quốc
xã bị quân Đồng minh bắt giữ, được mang ra truy tố trước tòa.
Áp dụng phương pháp tranh tụng của hệ thống luật Anh – Mỹ
Vào ngày 26 tháng 7, Robert Jackson bay
đến London gặp các đại biểu từ ba thế lực Đồng minh để thảo luận về
những gì thủ tục tố tụng dành cho phiên xử các lãnh tụ Đức Quốc xã đang
bị giam giữ. Mỗi quốc gia có luật hình sự của riêng mình, và vì vậy, họ
cũng có các quan điểm khác nhau trong việc tổ chức phiên tòa.
Jackson dành ra một khoản thời gian đáng
kể để giải thích tại sao những đạo luật hình sự liên quan đến tội chiến
tranh xâm lược và tội ác chống lại loài người mà ông đề xuất soạn thảo
để xét xử ở Nuremberg, sẽ không phải là các điều luật mang hiệu lực hồi tố (ex post facto laws).
Jackson đã đàm phán với những quốc gia khác rằng: “Những gì chúng ta đề
xuất là để trừng phạt những hành vi vốn bị coi là tội ác kể từ thời đại
của Cain (Ý nói đến ngụ ngôn Cain giết anh trai Able trong Kinh
thánh-ND), và điều này đã được ghi nhận trong bất kỳ bộ luật văn minh
hiện đại nào”.
Các đại biểu cũng tranh luận liệu có nên
sử dụng hình thức tố tụng tranh tụng (adversarial system) theo hệ thống
Anh-Mỹ, vốn tập trung vào vai trò của luật sư biện hộ cho bị cáo và bên
công tố, hay là hình thức tố tụng thẩm vấn (inquisitive system) – tập
trung vào vai trò của thẩm phán thường được áp dụng ở Pháp và Liên Xô.
Sau 10 ngày tranh luận, quy trình đã được định hình ngày một rõ ràng.
Tòa được gọi là Tòa án Quân sự Quốc tế,
và sẽ bao gồm một chánh thẩm và một thẩm phán luân phiên đến từ mỗi
nước. Quy trình tố tụng tranh tụng của Anh-Mỹ sẽ được áp dụng. Các cáo
trạng chống lại các bị can nghiêm cấm những lời biện hộ dựa trên mệnh
lệnh cấp cao, cũng như ngụy biện “anh cũng vậy” (tu quote). Các
đại biểu hạ quyết tâm là họ sẽ không để cho các bị can và luật sư bào
chữa người Đức biến phiên tòa thành nơi có thể phơi bày những hành vi
gây chiến đáng tranh cãi từ phía lực lượng Đồng minh.
Jackson tin rằng các phiên tòa xử tội
phạm chiến tranh nên được tổ chức ngay tại Đức. Vào năm 1945, ở vài
thành phố ở Đức đã có những tòa án đã từng là nơi xét xử các phiên xét
xử lớn. Một trong số ít các thành phố đó là Nuremberg, với quảng trường
Zeppelin nơi mà các cuộc mít tinh, diễu hành ngoạn mục nhất ủng hộ Đức
Quốc xã của Hitler đã từng xảy ra. Cũng chính tại Nuremberg, vị thủ lĩnh
Đức quốc xã đã ban hành Đạo luật Nuremberg khét tiếng, tước quyền công
dân của người Do Thái, cũng như tài sản và các quyền cơ bản khác của họ.
Robert Jackson thích tính tương quang
đó. Tuy thành phố đã bị phá hủy 91%, nhưng bên cạnh Cung điện Công lý,
khách sạn tốt nhất của thành phố là Grand Hotel lại được bảo toàn một
cách thần kỳ và có thể sử dụng làm cơ sở điều hành cho các quan chức tòa
án và báo chí thế giới. Trước sự phản đối của Liên Xô (vốn ưa chuộng
Berlin hơn), các đại diện Đồng minh vẫn quyết định tiến hành phiên tòa ở
Nuremberg.
Vào ngày 6/8, các đại biểu đã ký kết Hiến chương Tòa án Quân sự Quốc tế (Charter of the International Military Tribunal),
thiết lập hành lang pháp lý và quy trình tố tụng cho các phiên tòa
Nuremberg. Sáu ngày sau đó, một máy bay chở hàng đã chuyển hầu hết các
bị can phạm trọng tội chiến tranh đáp xuống Nuremberg. Quân đội Đồng
minh đã đưa các tù nhân vào xe cứu thương và chở họ đến một nhà giam
kiên cố ở Cung điện Công lý, nơi họ sẽ ở đó trong 14 tháng tiếp theo.
Các thẩm phán của Tòa án Quân sự Quốc tế gặp nhau lần đầu vào ngày 13/10. Thẩm phán người Mỹ là Francis Biddle, được Harry Truman chỉ định. Robert Jackson đã ngăn cản không để cho Biddle, một người liều lĩnh có được vị trí chủ tọa, và ủng hộ vị thẩm phán người Anh là Ngài Geoffrey Lawrence đảm đương vai trò đó.
Jackson cho rằng, chọn một người Anh
đứng đầu Tòa án Quân sự Quốc tế sẽ giảm bớt những chỉ trích đối với việc
người Mỹ đang đóng vai trò quá lớn ở các phiên tòa Nuremberg. Các phiếu
từ Mỹ, Anh và Pháp đã bầu Lawrence làm chủ tọa.
Càng gần đến ngày mở phiên xét xử 20/11, càng có nhiều khách đến Nuremberg.
Đội ngũ hơn 600 nhân viên công tố của Mỹ
cộng thêm hàng trăm người từ ba cường quốc còn lại đã tập hợp lại, bắt
đầu thẩm vấn những nhân chứng có tiềm năng và xác định tài liệu trong số
hơn 100.000 người bị bắt để phục vụ cho các trường hợp bị truy tố.
Các luật sư Đức, một số trong đó từng là
người của Đức Quốc xã, cũng đến và phỏng vấn thân chủ của họ để bắt đầu
chuẩn bị cho phiên xét xử. Báo chí thế giới đổ về Grand Hotel. Và bất
kỳ góc nào mà họ có thể tìm được, bắt đầu viết về những đặc trưng cơ bản
của phiên tòa sắp tới. Gần một nghìn công nhân vội vã hoàn thành công
trình phục hồi Cung điện Công lý.
***
Các phiên tòa ở Nuremberg còn tiếp tục
kéo dài hơn hai năm sau đó. Tuy nhiên, Tòa án Quân sự Quốc tế đã hoàn
thành nhiệm vụ của nó vào ngày 30/9/1946. Tất cả thẩm phán của các phiên
Nuremberg tiếp theo đều được lấy từ cơ quan tư pháp Hoa Kỳ. Những phiên
tòa Nuremberg tiếp tục dấy lên các cuộc tranh luận. Nghi vấn được đặt
ra đối với cả tính hợp pháp của tòa án và tính thích đáng của các bản án
cá nhân được tuyên.
Quan trọng hơn, có thể là câu hỏi liệu
“Phiên tòa Nuremberg” có ý nghĩa quan trọng nào hay không? Không ai có
thể phủ nhận rằng phiên tòa này đã cung cấp hồ sơ thấu đáo về tội ác của
phát xít Đức. Trong hơn một nửa thế kỷ, những hình ảnh và lời khai đi
ra từ Nuremberg không hề mất đi tính kinh hoàng của nó.
Các phiên tòa cũng giúp bắt các bị cáo
phải đối mặt và nhìn nhận những tội ác khủng khiếp mà mình gây ra, và
không cho phép những người này có cơ hội “tử vì đạo” một cách đầy chính
nghĩa trong mắt công chúng Đức. Không có bức tượng tưởng niệm anh hùng
chiến tranh nào dành cho Đức quốc xã. Những tiết lộ của Nuremberg cũng
đã góp phần xây dựng nền dân chủ ở Đức về sau.
Tuy nhiên, những phiên tòa Nuremberg không hoàn thành được giấc mơ vĩ đại của những người mong muốn lập ra nó.
Họ đã không thành công trong việc chấm
dứt chiến tranh xâm lược. Họ đã không thể đặt dấu chấm hết cho nạn diệt
chủng. Tội ác chống lại loài người vẫn còn hiện hữu bên cạnh chúng ta.
Bạn có biết...
... Luật Khoa là một
tạp chí độc lập và phi lợi nhuận. Với mong muốn mang lại trải nghiệm đọc
báo tốt nhất cho bạn đọc, chúng tôi không đặt quảng cáo và do đó không
có doanh thu. Luật Khoa chi trả mọi chi phí bằng các khoản đóng góp của bạn đọc.
Mỗi ngày, các phóng
viên, biên tập viên và cộng tác viên của Luật Khoa đều tận tâm với từng
con chữ và từng mối quan tâm của bạn đọc, nhằm mang lại cho bạn đọc cái
nhìn mới mẻ và đa chiều về những vấn đề pháp luật, chính trị.
Nếu tất cả bạn đọc đều
đóng góp cho Luật Khoa, dù là 20 nghìn đồng, tờ báo độc lập và khai
phóng này của chúng ta sẽ hoạt động hiệu quả và bền vững hơn rất nhiều. Mỗi
đồng bạn đóng góp đều giúp cho Việt Nam của chúng ta ngày càng tốt đẹp
hơn, và bạn chỉ mất một phút để trở thành nhà tài trợ của Luật Khoa. Xin
cảm ơn.
03/05/1946: Tòa án Tội ác Chiến tranh Tokyo bắt đầu xét xử
Nguồn: “Japanese war crimes trial begins,” History.com (truy cập ngày 02/5/2015).
Biên dịch & Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Ngày 3 tháng 5 năm 1946, ở Tokyo, Nhật Bản, Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông bắt đầu xét xử 28 quan chức chính phủ và sĩ quan quân đội Nhật Bản bị cáo buộc phạm các tội ác chiến tranh và chống lại loài người trong Thế chiến II.
Phiên tòa kéo dài đến ngày 4 tháng 11 năm 1948, kết quả là 25 trên 28 bị cáo bị tuyên là có tội. Hai trong số ba bị cáo còn lại đã chết trong thời gian phiên tòa diễn ra, một người còn lại được tuyên bố là mất trí. Ngày 12 tháng 11 cùng năm, Tòa án Tội ác Chiến tranh Tokyo thông qua án tử hình đối với 7 người, trong đó có Đại tướng Tōjō Hideki, Thủ tướng Nhật Bản trong thời gian chiến tranh, và một số quan chức cấp cao khác, trong đó có Đại tướng Matsui Iwane, người tổ chức vụ Thảm sát Nam Kinh, và Kimura Heitarō, người tiến hành bạo hành tù binh chiến tranh của quân đội Đồng Minh. 16 người khác bị kết án tù chung thân, 2 người còn lại cũng phải chịu án tù. Ngày 23 tháng 12 năm 1948, Tōjō và 6 người khác bị hành quyết (bằng cách treo cổ) tại Tokyo.
Không giống như Tòa án Nüremberg xét xử các tội phạm chiến tranh của Đức Quốc xã, nơi có bốn công tố viên trưởng, đại diện cho Vương quốc Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và Liên Xô, Tòa án Tội ác Chiến tranh Tokyo chỉ bao gồm một công tố viên trưởng người Mỹ là Joseph B. Keenan, cựu trợ lý Tổng chưởng lý Hoa Kỳ. Tuy nhiên, các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc, cũng tham gia đóng góp cho quá trình tố tụng, và thẩm phán người Úc William Flood Webb làm chủ tọa phiên tòa.
Ngoài Tòa án Quân sự Quốc tế vùng Viễn Đông¸nhiều tòa án khác bên ngoài Nhật Bản cũng tiến hành xét xử khoảng 5.000 người Nhật vi phạm các tội ác chiến tranh, trong đó có hơn 900 người đã bị hành quyết. Một số nhà quan sát cho rằng nên xét xử cả Nhật hoàng Hirohito vì đã ngầm chấp thuận những chính sách của Nhật Bản trong chiến tranh, nhưng chính quyền Mỹ đã bảo vệ Hirohito vì họ coi ông là biểu tượng của sự thống nhất và chủ nghĩa bảo thủ Nhật Bản, hai đặc tính có lợi trong quan điểm hậu thế chiến của Hoa Kỳ.
Hình thức tử hình thời hiện đại của các nước trên thế giới
- 15:46 27/01/2017
Treo cổ, ném đá tới chết, tiêm thuốc độc... là những hình thức tử hình còn được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới hiện nay.
Theo thống kê của Tổ chức Ân xá quốc tế, ít nhất 1.634 tù nhân đã bị
hành quyết tại 25 quốc gia vào năm 2015. Đây có con số cao nhất trong
vòng 25 năm qua, kể từ 1989. Hầu hết vụ xử tử đều được thi hành ở các
nước như Trung Quốc, Iran, Pakistan, Arab Saudi. Mỹ hiện là quốc gia duy
nhất ở phương Tây còn thực hiện án tử hình.
Ảnh: Getty. |
Treo cổ là phương pháp phổ biến nhất được thực hiện ở các nước như
Pakistan, Ấn Độ, Bangladesh, Nhật Bản, Iran... Năm 2013, trong khi hầu
hết quốc gia ra sức bỏ hình thức này, thì Iran vẫn cương quyết treo cổ
369 phạm nhân. Những tội có thể dẫn đến tử hình như: giết người, hiếp
dâm, lạm dụng tình dục trẻ em, kê gian, buôn bán ma tuý, khủng bố, phản
quốc... Ảnh: Aljazeera America. |
Quốc đảo Singapore thi hành án tử bằng cách treo cổ phạm nhân tại nhà
tù Changi vào rạng sáng ngày thứ sáu. Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự Nhật
Bản quy định án tử hình chỉ được thi hành bằng biện pháp treo cổ. Theo
các cuộc thăm dò ý kiến, 85% người dân nước này ủng hộ việc bảo lưu hình
phạt tử hình, dù bị Liên Hợp Quốc lên án mạnh. Ảnh: Getty. |
Xử bắn được áp dụng từ thời chiến. Đến nay, nó vẫn được sử dụng tại
nhiều quốc gia như Indonesia, Trung Quốc, Triều Tiên, Yemen. Những người
hành quyết sẽ dàn hàng, bắn cùng lúc vào ngực tử tù. Nếu tù nhân chưa
chết, chỉ huy sẽ bắn phát đạn cuối cùng vào đầu tù nhân. Tử tù thường
được bịt mắt hoặc đội mũ trùm đầu. Tháng 7/2016, Indonesia xử bắn 4 tội
phạm buôn bán ma tuý, trong đó bao gồm 2 người nước ngoài. Ảnh: Raw Story. |
Arab Saudi hiện là nước duy nhất trên thế giới áp dụng bản án chặt
đầu. Phạm nhân và người thi hành án đều mặc đồ trắng. Arab công khai quá
trình hành quyết này tại các nơi công cộng như quảng trường, hoặc nơi
đông người gần nhà tù. Trong những năm gần đây, nước này gia tăng việc
chặt đầu nạn nhân. Đến tháng 5/2015, tổng số phạm nhân bị xử tử theo
hình thức này tại riêng Arab là 78 người.
Ảnh: Executed today. |
Dù trong thời hiện đại nhưng nhiều quốc gia vẫn còn thi hành hình
thức tử hình bằng cách ném đá như thời Trung cổ. Đây là hình phạt dã man
gây nhiều tranh cãi và được coi là xâm phạm quyền con người. Luật pháp
của nhiều nước đạo hồi như Iran, Pakistan, Afghanistan công nhận ném đá
là hình thức tử hình hợp pháp.
Ảnh: Fox News. |
Tháng 8/2014, một thai phụ Pakistan bị ném đá đến chết vì tự ý kết
hôn. Điều đáng nói là vụ việc xảy ra ngay gần tòa án trung tâm thành phố
Lahore, thủ phủ tỉnh Punjab (Pakistan) mà không có bất kì ai cứu giúp
hay can thiệp. “Tôi giết chính con gái mình vì nó đã xúc phạm đến danh
dự gia đình, tôi không hối tiếc về điều đó”, cha của nạn nhân (trong
ảnh) khẳng định.
Ảnh: CBC. |
Tại Mỹ, tiêm thuốc độc là hình thức tử hình nhân đạo nhất và chủ yếu.
Tử tù sẽ được tiêm một liều thuốc độc tổng hợp, thường gồm 3 loại: gây
mê, tê liệt cơ bắp và dây thần kinh, làm tim ngừng đập. Đầu tiên được áp
dụng tại Mỹ, tiêm thuốc độc dần trở thành phương pháp thi hành án tử ở
Trung Quốc, Thái Lan, Guatemala và Việt Nam.
Ảnh: Blider Box. |
Ghế điện trở thành biểu tượng cho hình phạt tử hình ở Mỹ. Người bị kết án được buộc vào chiếc ghế gỗ đặc biệt. Dòng điện xoay chiều đi qua cơ thể phạm nhân gây tổn thương, tử vong các cơ quan nội tạng, trong đó có não. Tù nhân phải chịu 2 cú sốc lớn. Cú sốc đầu tiên gây bất tỉnh, chết não. Cú thứ 2 tác động mạnh đến các cơ quan nội tạng. Ngày nay, một số tiểu bang ở Mỹ vẫn áp dụng hình thức này theo yêu cầu của nạn nhân. Ảnh: Redletterchristian s. |
Phòng hơi ngạt là thiết bị tử hình, bao gồm buồng kín trong đó khí
độc hoặc khí ngạt được bơm vào. Các khí độc thường được sử dụng nhất là
hydrogen cyanide; carbon dioxide và carbon monoxide. Phòng hơi ngạt được
sử dụng như một phương pháp tử hình cho các tù nhân bị kết án ở Hoa Kỳ
bắt đầu vào những năm 1920.
Ảnh: Gephardt Daily . |
Nếu muốn ra lệnh ân xá hoặc hoãn hành quyết, thống đốc bang phải ra
lệnh kịp thời, trước khi khí độc tỏa ra khắp phòng. Đôi khi, chỉ cần
chậm vài giây, họ có thể cướp đi tính mạng của phạm nhân.
Ảnh: Dp-stuff. |
Trà My
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét