Trong chuyến phiêu lưu khám phá miền Tây nhóm của mình đã may mắn làm
quen được 4 em nhỏ Cường, Đạt, Tâm, Hậu vô cùng hài hước và duyên dáng.
Trong video này mời các bạn cùng hòa mình vào không gian đồng quê yên ả,
cùng thưởng thức những món ăn dân dã như ếch đồng nướng cây chuối bên
cạnh dòng kênh xanh mát thơ mộng. Với khả năng hài hước và lầy lội vốn
có, 4 bạn nhỏ bảo đảm sẽ mang đến những tràng cười lăn lê cho người xem.
Dân trí Chúng ta liên tục tìm kiếm những thứ vật chất
khiến chúng ta hạnh phúc. Nhưng một nghiên cứu mới đã chứng minh rằng có
những thứ mang lại hạnh phúc đơn giản hơn nhiều so với việc khoe một
chiếc xe, một bộ trang phục hay đồng hồ mới. >> Giải tỏa căng thẳng với những clip thiên nhiên kỳ thú
Theo các nhà khoa học ĐH bang Oregon, đi lang thang ở đồng quê không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn giúp nụ cười luôn nở trên môi.
Các nhà khoa học trên khắp thế giới đã chỉ ra mối liên quan đáng kể giữa dành thời gian ngoài trời với cải thiện cảm xúc.
Đi lang thang ở những vùng đồng quê không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn giúp bạn luôn vui vẻ
Nghiên cứu trên 4.500 người đã khẳng định niềm tin rằng tự nhiên luôn mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích.
Tất cả các tình nguyện viên đều sống ở vùng Puget Sound của bang
Washington. Khu vực này gồm các thành phố Seattle, Bellevue và Tacoma và
cũng là nơi có Vườn quốc gia Mount Rainier.
Các nhà khoa học muốn đánh giá mối liên quan giữa hưởng thụ trong
cuộc sống với mức độ con người hòa mình với môi trường xung quanh.
13 yếu tố khác nhau đã được đánh giá, bao gồm việc tiếp cận các nguồn
thiên nhiên hoang dã và những căng thẳng được giải tỏa khi ở ngoài
trời.
Các nhà nghiên cứu đã giải thích 11 yếu tố trong đó có mối tương quan tích cực để cải thiện cảm xúc của ai đó.
Trong đó niềm tin vào môi trường mang đến những lợi ích gia tăng lớn
nhất. Điều này rất quan trọng bởi đó là “nền tảng lý do tại sao mọi
người có thể tương tác với thiên nhiên”, trưởng nhóm nghiên cứu, TS.
Kelly Biedenweg nói.
Các nhà khoa học trên khắp thế giới đã báo cáo về mối liên quan rõ rệt giữa dành thời gian ngoài trời với cải thiện cảm xúc.
Đăng tải trên tạp chí Environmental Psychology, bà Kelly nói: “Tất cả
đều có lên quan đến sự hài lòng với cuộc sống. Và các phát hiện cho
thấy gần gũi với thiên nhiên sẽ làm giảm nguy cơ béo phì hay trầm cảm”.
Sau khi xem xét hàng trăm nghiên cứu, các nhà khoa học của Viện chính
sách môi trường Châu Âu khẳng định tự nhiên có thể làm giảm nguy cơ tử
vong 16%.
Trong khi các nghiên cứu khác vào tháng Ba đã khám phá ra cách ngắm nhìn hiên nhiên là cách tốt nhất để giải tỏa căng thẳng.
Các nhà khoa học ĐH California, Berkeley, cũng đã chỉ ra rằng xem
những đoạn phim thiên nhiên sẽ giúp làm tăng cảm xúc về sự sợ hãi, niềm
vui và giải tỏa tinh thần.
Khó ngủ? Hãy đi cắm trại
Những người khó ngủ vào ban đêm có lẽ nên xem xét việc đi cắm trại cuối tuần, một nghiên cứu tháng 2 chỉ rõ.
Các nhà khoa học đã phát hiện một số đêm trong lều trịa có thể chỉnh lại nhịp sinh học, giúp chúng ta ngủ sớm hơn.
Theo giải thích của các nhà nghiên cứu ĐH Colorado, chính sự trong
lành của không khí đã điều chỉnh lại nhịp sinh học sáng và tối của cơ
thể.
Cuộc sống hiện đại, với ánh sáng nhân tạo, truyền hình, máy tính và
điện thoại thông minh từ lâu đã ảnh hưởng đến giấc ngủ của chúng ta.
Sự phân tâm của tinh thần với các thiết bị này, ánh sáng từ màn hình
của chúng đến đèn điện đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng giấc
ngủ.
Nhân Hà
Theo DM
Nhậu, cà phê và quê hương
03/04/2009
Nếu bạn hỏi điều gì làm tôi nhớ nhất về Việt Nam mỗi khi ra nước
ngoài – tất nhiên là trừ gia đình và những người thân – tôi sẽ trả lời
đó là… “nhậu”.
Tôi không phải là người nghiện rượu bia, chắc chắn là vậy, và cũng
không phải tôi đến quán nhậu vì rượu bia, tôi đến là vì cái không gian
bè bạn ngồi nói chuyện trên trời dưới đất ở quán nhậu.
Và vì ở quán nhậu, tôi được ngồi với những người bạn của mình. Tôi có
nhiều mối quan hệ trong công việc, và vì công việc, tôi thường đi ăn
trưa, ăn tối, tiệc tùng… Ở nơi đó cũng có thức ăn, có bia rượu… Nhưng ở
đó không có những người bạn. Vì vậy tôi không gọi đó là đi “nhậu”, tôi
phân biệt rõ tiệc tùng xã giao và… nhậu.
Về hình thức thì “nhậu” đối với tôi rất bình dân, tuy thỉnh thoảng
cũng có vào những quán đắt tiền, nhưng phần đông là ngồi lê la ở những
địa điểm rất bình dân: khi thì làng nướng, khi thì bờ kè, bia Đức bia
Tiệp, hôm nào hứng chí thì chạy xa hơn một chút về Bình Dương, Hốc Môn…
Và “nhậu” thường không sang trọng bằng “tiệc tùng”, ở “tiệc” thì ta
thường nói về những vấn đề cao siêu, những chuyện ít nhiều xoay quanh
công việc, tiền bạc, hoặc nếu có những vấn đề khác thì chỉ là xã giao.
Nhưng khi “nhậu”, đôi khi ta nói… “nhảm”, một chuyện trên trời dưới đất
cũng có thể là chủ đề, và ta cười sảng khoái vì điều đó.
Và tuy “tiệc” sang trọng hơn, nhưng “tiệc” có thể đi với bất kỳ ai,
còn khi ta rủ ai đó đi “nhậu”, đó chắc chắn là bạn của ta. Tất nhiên sẽ
có một số trường hợp ta mời những người ở nhóm tiệc đi “nhậu”, là vì khi
đó họ đã là bạn của ta.
Thời gian tôi ở nước ngoài, hình ảnh làm tôi nhớ nhất về bạn bè đó
chính là những hôm ngồi đến khuya ở bờ kè, kế bên là con kênh mà dẫu đã
cải tạo rất nhiều, tôi cũng không dám gọi đó là thơ mộng, thế mà vẫn
vui.
Còn ở nước ngoài, Singapore chẳn hạn,
nhắc đến đi nhậu ở bên ấy mà phát chán, đừng mong tìm được một cái gì đó
tương tự như bờ kè. Thường thì sau giờ làm, nếu không đến bar, pub thì
đến một cái quán ăn nào đó, hoặc không thì đến bàn bida, rồi kêu vài
chai bia, lúc nào cũng có một cảm giác sang trọng, xa cách. Cái gần nhất
có thể tạo ra với hình ảnh nhậu ở Việt Nam, đó là tự mua vài chai bia,
vài cái thức ăn nhanh, rồi cả bọn ra vịnh Marina mà ngồi. Nhưng nói
chung là không thể có được cái không khí như ở Việt Nam.
…
Ngoài nhậu thì có cà phê, không phải cà phê máy lạnh có wifi và những
người phục vụ mặc đồng phục trong những quán cà phê hiện nay ở Sài Gòn
như Gloria Jean, Highland… Mà là “cà phê cóc” (cà phê lề đường). Dẫu
không sang trọng, không tiện nghi… nhưng chẳng hiểu sao tôi vẫn cứ thích
cái góc Nguyễn Trung Trực buổi sáng, hoặc là Hàn Thuyên. Sáng sớm ra
ấy, xách tờ báo, ngồi uống ly cà phê cùng những người bạn, những người
anh, thậm chí là những người không quen, nói chuyện trên trời dưới biển
thế mà vui, mà đôi khi ngồi một mình nhìn người ta đi qua đilại cũng có
cái vui riêng.
Một nhịp sống bình dị nhẹ nhàng, không phải là cái hối hả của
Singapore hay Hồng Kông, không phải là những đội quân rầm rập bước trong
trạm xe điện ngầm ở Tokyo. Những buổi sáng nhẹ nhàng như thế ở Sài Gòn
mang mọi người đến gần nhau hơn. Đó là nhịp sống Sài Gòn, là nhịp sống
quê hương tôi.
…
Có đi xa mới thấy thương thấy nhớ những hình ảnh quê hương đất nước.
Dẫu rằng tôi chỉ xa quê hương không quá lâu, không phải là 10 năm, 20
năm như những người xa xứ khác, thậm chí đôi khi chỉ là đi công tác nửa
tháng một tháng, thế mà mỗi khi nhìn trên màn hình thấy máy bay đang
tiến về vùng trời của Việt Nam, tim tôi lại đập rộn lên. Rồi khi làm thủ
tục nhập cảnh xong, bước ra cửa được những anh taxi chào đón, bằng
chính thứ tiếng mẹ đẻ của mình, tôi không thấy khó chịu như thường lệ,
và những lần như thế đoạn đường từ phi trường về nhà, ngồi trên taxi tôi
thường hạ kính xuống, để được nghe cái ồn ào, cái khói bụi, nghe những
câu nói tiếng Việt. Tự nhiên thấy thân thuộc, nhẹ nhàng. Dẫu quê hương
không đẹp, không hiện đại bằng nhưng nơi tôi vừa đến, dẫu có nóng bức
khói bụi, đó vẫn là nơi thân thương nhất của mỗi chúng ta mà chỉ có đi
xa tôi mới cảm nhận hết được.
Tôi có may mắn từ ngày ra đời làm việc được đi khá nhiều nước, và đến
giờ tôi rút ra một kết luận cho riêng mình: “Không đâu bằng được sống
chính trên quê hương mình, được sống hòa vào những người cùng màu da,
chung tiếng nói”. Dẫu cho ở Singapore, ở Phillipines, hay Hongkong người
ta cũng tương tự như mình, cũng da vàng, cũng tóc đen. Dẫu ta đã quen
từng con đường, góc phố xứ người, dẫu có thật nhiều bạn bè xứ người… Thì
đó vẫn là xứ người, và không bao giờ có thể có cảm giác như đó là quê
hương.
Tôi nhớ có một lần tôi đi siêu thị ở Singapore, bỗng nhiên tôi nghe
“Mẹ ơi, lại đây xem cái này với con”, như một phản xạ tôi giật mình, và
lật đật chạy đến, chỉ để nhìn 2 mẹ con ấy.
Có những điều tưởng như rất bình thường xung quanh ta, nhưng khi xa
nó rồi ta mới thấy nhớ những điều bình dị mà thân thương ấy. Ngày xưa
học phổ thông, tôi nhớ một câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên:
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hoá tâm hồn!
Lúc ấy tôi chỉ đơn giản đọc câu thơ ấy theo cách học thuộc lòng, vì
lúc ấy tôi vẫn đang ở, và quê hương khi ấy “chỉ là nơi đất ở”. Nhưng giờ
lớn lên, đã từng ra nước ngoài, từng xa quê hương, bỗng tôi thấy thấm
thía từng câu từng chữ ấy.
Quê hương dẫu còn nhiều điều chưa hoàn thiện, ra đường vẫn bị cảnh
chen lấn, nói thách, nhếch nhác… nhưng nếu đã từng xa quê hương một lần,
bạn sẽ thấy đó chỉ là những điều nhỏ nhặt, ta đến một xứ sở văn minh,
ta được những tiện nghi, hoa lệ, nhưng ta sẽ mất đi những cái lớn hơn
nhiều…
Câu hò, điệu lý quê hương
10/08/2014
Năm 1982 cha mẹ tôi có việc phải về Bạc Liêu, khi đó mẹ đang có
thai tôi và nhờ cơ duyên đó nên mảnh đất chôn nhau cắt rốn của tôi là
Bạc Liêu. Thật trùng hợp là nhà thương nơi tôi sinh ra cũng là nơi bà
nội tôi mất mấy năm trước đó, tôi chưa từng được gặp nội, nội trong tôi
chỉ qua những lời kể.
Khi tôi vẫn chưa nhận thức được thì cha mẹ tôi quay trở lại Sài Gòn,
hình như năm đó tôi chỉ mới hai ba tuổi. Nghe kể lại rằng hồi đó nhà tôi
nghèo lắm, ba phải làm đủ nghề để nuôi mẹ con tôi, tôi không thấy được
những cảnh đó nhưng tôi luôn tưởng tượng ra những cảnh gian khó mà ba mẹ
đã trải qua để nuôi anh em tôi lớn từng ngày. Lúc đó nhà tôi sống ở Thủ
Thiêm, chỉ cách có một con sông Sài Gòn thôi mà cho tới bây giờ Thủ
Thiêm vẫn còn chênh lệch nhiều lắm với Quận Nhứt (Q1) bên kia sông, còn
thời gia đình tôi sống bên đó thì Thủ Thiêm nghèo lắm.
Rồi năm tôi 5 tuổi, nhà bắt đầu bớt khó khăn hơn, ba mẹ mua được một
căn nhà bên Nhà Bè (là Quận 7 bây giờ). Trí nhớ trong tôi về Thủ Thiêm
không nhiều, tôi chỉ nhớ được hình ảnh mơ hồ về một cánh đồng lớn đã gặt
xong, những buổi chiều ba hoặc mẹ ẵm tôi ra đồng. Và lời ru của mẹ, của
ba. Đó có lẽ là những nhận thức đầu tiên của tôi về cuộc đời.
Rồi nhà tôi sang Nhà Bè, đó chính là nơi toàn bộ tuổi thơ của tôi đã
trải qua. Nhà Bè hồi xưa là một huyện nghèo của Sài Gòn – chắc cũng
giống huyện Cần Giờ bây giờ – và nhờ vậy nên dù lớn lên ở Sài Gòn nhưng
tôi vẫn được trải nghiệm đầy đủ một tuổi thơ đẹp nhất của những cậu bé
vùng quê, có cánh diều, có con sông, có mò tôm bắt cá, có đủ các trò
chơi tuổi thơ mà giờ mỗi khi có dịp ai đó nhắc lại, tôi đều tự hào mình
đã trải qua hết.
Tôi luôn cám ơn cuộc đời đã cho tôi được sinh ra nơi miệt đất phương
Nam này, được lớn lên với câu hát ru của mẹ, được sống trọn những năm
tháng đẹp nhất của tuổi thơ bên cánh diều, con sông quê.
Rồi ai cũng phải lớn, cũng phải chia tay cái tuổi thơ đẹp đó. Nhưng
có lẽ bạn cũng như tôi, thỉnh thoảng trong cuộc sống tấp nập lại bất
chợt nghe đâu đó một câu hò, một điệu lý.
Tôi đã được sinh ra và lớn lên nơi miệt đất phương Nam này, trong vô
vàn những ký ức đẹp về tuổi thơ, luôn có một chỗ sâu trong tim dành cho
những làn điệu quê hương. Mỗi lúc như vậy có cảm giác như lòng mình
chùng lại, nhắm mắt lại là hiện ra ngay trước mắt những buổi trưa hè bên
con sông và cánh đồng trước mặt.
Giờ đã xa quê hương, những điều bất chợt đó gần như không còn xảy ra
nữa. Tôi chợt nghĩ ra một ý tưởng sưu tầm lại những bài hát, những điệu
lý quê hương, đăng lên trước là cho mình, sau là cho bạn bè gần xa, vì
biết đâu bạn cũng như tôi, cũng có những lúc bất chợt thèm nhớ lại một
bầu trời tuổi thơ. Mà âm nhạc có lẽ là thứ nhanh nhất đưa ta về với
những ký ức đó.
Sydney, 10/8/2014
Sài Gòn niềm nhớ không tên
23/09/2015
Một trong những bài hát viết về Sài Gòn mà mình thích nhất! Và
người hát bài này tình cảm nhất (đối với mình) có lẽ là ca sĩ Nguyên
Khang (chính là bản thu này). Mời mọi người nghe: Audio Player
Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên Như dòng sông nước quẩn quanh buồn Như người đi cách mặt xa lòng Ta hỏi thầm em có nhớ không? Sài Gòn ơi! Đâu những ngày ôi hè phố xôn xao Trong niềm vui tiếng hỏi câu chào Sáng đời tươi thắm vạn sắc màu Nay còn gì đâu… Ai ra đi nhớ hàng me già Thu công viên hoa vàng tượng đá Thôi hết rồi mộng ước xa xôi Theo dòng đời trôi… Sài Gòn ơi! Ðâu những ngày mưa mùa khoác áo đi Tay cầm tay nói nhỏ câu gì Những quầy hoa quán nhạc đêm về Đâu rộn ràng giọng hát Thái Thanh. Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhau Đâu Phạm Duy với tình ca sầu Mắt lệ rơi khóc thuở ban đầu, còn gì đâu… Ai ra đi nhớ hàng me già Thu công viên hoa vàng tượng đá Thôi hết rồi mộng ước xa xôi Theo dòng đời trôi… Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên Mất từng con phố đổi tên đường Khi hẹn nhau ta lạc lối tìm Ôi tình buồn như đã sống thêm Sài Gòn ơi! Ta mất người như người đã mất tên Như mộ bia đá lạnh hương nguyền Như trời sâu đã bỏ đất sầu, còn gì đâu…
Chén rượu… là đầu câu chuyện: Vì sao người Việt thích ‘nhậu’?
Rượu có lẽ là thức uống quen thuộc
của nhân loại hàng nghìn năm nay. Từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, hình
ảnh chén rượu cứ thấp thoáng ẩn hiện trong tâm thức người ta. Cho đến
một ngày rượu trở thành thứ “tôn giáo” của những tay bợm nhậu…
Một điềm báo chẳng lành
Nói đến
chuyện uống rượu, có lẽ nhiều đàn ông đất Việt khó mà ngồi yên, cứ cảm
thấy ngứa ngáy, nhột nhạt trong người. Dễ hiểu thôi, Việt Nam là nơi
tiêu thụ đồ uống có cồn hàng đầu thế giới. Thống kê năm 2016 cho ra một
con số kinh hoàng: 77% đàn ông Việt uống rượu hoặc bia, tỉ lệ đứng đầu
thế giới. Nếu tính riêng về rượu, năm 2015, người Việt đã “cạn chén”
khoảng 70 triệu lít. Nhưng đó chỉ là số rượu được mua bán và giao dịch
công khai. Người Việt còn có một thú vui khác là tự pha chế và nấu rượu.
Vì vậy, mỗi năm chúng ta còn tiêu thụ thêm chừng 200 triệu lít rượu
“nút lá chuối” đặc sản như vậy nữa. Nói chung, người Việt uống rượu bia
nhiều nhất thế giới.
Và chắc
chắn đó không phải là một vinh dự mĩ miều gì cho lắm trừ việc các công
ty bia rượu đang làm ăn ngày càng phát đạt. Những báo cáo chưa đầy đủ
của Hiệp hội Bia – Rượu – Nước giải khát cho biết tốc độ tăng trưởng của
ngành này lên tới 7%/năm. Chỉ riêng số tiền nộp ngân sách năm 2015 của
ngành bia rượu đã là 30 nghìn tỉ đồng. Ngành này cũng tự hào “khoe” rằng
đã tạo ra hàng triệu việc làm “ổn định” suốt hàng chục năm qua. Nhưng
thực sự chẳng ai có thể cười nổi khi nghe những báo cáo này.
Những
con số hoành tráng ấy sẽ lập tức trở nên vô nghĩa khi bạn biết rằng, gần
một nửa đàn ông Việt Nam đang uống bia rượu ở mức nguy hại. Đó là thông
tin được Bộ Y tế đưa ra cách đây hơn 2 năm. Cái “mức nguy hại” ấy, nói
thẳng ra chính là việc đàn ông Việt sẽ phải đối mặt với đủ thứ bệnh nan y
nhất ở ngay trước mắt như: tim mạch, đái tháo đường, rối loạn thần
kinh, bệnh tiêu hóa và ung thư.
Bây giờ
là thời mà hễ bước chân ra ngoài đường là người ta hoàn toàn có thể
“vấp” phải một quán nhậu nào đó, “vấp” theo đúng nghĩa đen. Quán bia,
quán rượu mọc như rừng, có thể dựng lên “dã chiến” ở bất cứ đâu, từ nhà
hàng sang trọng vài sao đến một góc vỉa hè nham nhở cuối phố. Nhiều năm
trước, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân đã viết phóng sự nổi tiếng “Con đường bia bọt”
tả thú ăn chơi của dân nhậu trên con đường Thi Sách ở Sài Gòn như một
dự cảm chẳng mấy hay ho về thứ đồ uống kia. Dự cảm đó bây giờ đã là sự
thật, hơn nữa trở thành nguy cơ. Đó là nguy cơ, điềm báo cả một thế hệ
sắp bị thui chột chỉ vì bia rượu.
“Nam vô tửu như kỳ vô phong”
Đoán
chắc rằng dù là người biết uống rượu hay không, bạn cũng từng phải nghe
câu ấy một lần. Đàn ông không uống rượu như lá cờ không có gió. Ngẫm lại
thật đúng. Cờ không gió thì phẳng lặng, nghiêm trang. Gió mà nổi lên
thì cờ quạt bay phần phật, gió mà mạnh quá thì thậm chí còn gãy cả cán
cờ. Chính là ý tứ đó, uống rượu cũng khiến người ta “gãy đổ”, cả nghĩa
đen lẫn nghĩa bóng.
Trong sở
làm, lúc gặp gỡ bè bạn, trên bàn tiệc đối tác hay đơn giản chỉ là ngày
lễ tết trong gia đình, bạn có hay bị người khác châm chọc kiểu như: “Đàn ông không nhậu thì về mặc váy cho vợ”
không? Đó lại là một câu cửa miệng khác của dân nhậu, cũng là một chiêu
khích tướng phổ biến nhất trên bàn nhậu. Người bị khích tướng hẳn là
không vui vẻ gì cho lắm. Nếu nhẫn nhịn thì cũng phải đỏ mặt, tía tai,
mất hết nhuệ khí; còn không nhẫn được chút khẩu khí, cũng “dô ta” cạn
chén gỡ gạc thể diện thì hẳn là “uống bao nhiêu ra bấy nhiêu”.
Dân nhậu
lại truyền nhau công thức: “Vào ba, ra bảy”, nghĩa là nhập tiệc thì
uống ba chén, rời tiệc phải uống bảy chén, chốt lại vẫn là phải uống từ
đầu đến cuối, muốn thoái thác cũng khó. Người Việt rất nhiệt tình, cái
nhiệt tình ấy thể hiện trên bàn nhậu cũng rõ ràng chẳng kém nơi đâu. Đã
ngồi vào bàn cùng các “chiến hữu” thì phải hết mình, tới bến, rót rượu
“căng mặt trống”, cạn ly “không còn long đen”, hết bia lại chuyển sang
rượu, không say không về…
Trong
tiệc rượu, người ta thực đã lấy tửu lượng để đo giá trị của một người.
Người uống khỏe, trăm chén không say, càn quét bàn rượu được cho là kẻ
mạnh, đáng nể phục, có uy tín và là “nam nhi đích thực”. Còn người chưa
uống đã đỏ mặt, uống vào nôn ra thì bị coi là yếu đuối, bạc nhược, không
có bản lĩnh. Từ bao giờ chén rượu đã trở thành thước đo một người đàn
ông như vậy?
Khi quần
tụ quanh mâm rượu với nhau, mỗi bợm nhậu hầu như đều trở thành văn sĩ,
nhà thơ hết cả, lời nói ra đầy tính triết lý, chừng như xuất phát tự đáy
lòng. Người ta khóc cười bên chén rượu rồi cãi vã nhau, thậm chí hành
hung nhau cũng chỉ vì cái chất cồn ấy. Nếu rảnh rang, bạn có thể lên
mạng gõ những từ khóa kiểu như: “Say rượu đánh nhau”, “Say rượu giết người”… đảm bảo sẽ cho ra hàng trăm, hàng nghìn kết quả.
Rượu không phải là vũ khí thể hiện bản lĩnh nam nhi. Rượu, chính là thuốc độc.
Ấy thế
mà ngày nay chừng như người ta còn ra chiều cổ vũ chuyện bia rượu. Họ
nâng tầm nó lên thành một nét văn minh, rồi gọi tên đàng hoàng là “văn
hóa nhậu”. Bản thân chữ “văn hóa” đầy đẹp đẽ, thâm trầm là không thể đi
cùng chuyện nhậu nhẹt phàm phu tục tử. Cái gì gọi là “văn hóa nhậu” đây?
Mà nhậu
nhẹt từ lâu cũng không còn là chuyện riêng của giới bợm nhậu. Bây giờ,
ai cũng có thể nhậu, nhậu một cách đường hoàng, nhậu được cấp cả… chứng
chỉ. Sinh viên đại học ở ký túc xá 4 năm thì 3 năm ngập chìm trong men
rượu. Ngày chập chững bước vào cổng trường vẫn còn là một chàng trai non
tơ, đến lúc ra trường đã sớm trở thành tay nhậu thứ thiệt được đào tạo
bài bản. Đến khi xin việc, đi làm, người ta cũng không thoát khỏi ám ảnh
của rượu bia. Liên hoan công ty, ngày lễ tết kỷ niệm hay đơn giản như
sinh nhật sếp mà thiếu đi chén rượu, cốc bia thì trong lòng bồn chồn
lắm! Bạn thử nghĩ xem, 77% đàn ông Việt uống rượu bia, hỏi người nào,
ngành nào mà chẳng từng ít nhất một lần trầm mình trong men cay đây?
Như vậy,
tính ra đàn ông Việt Nam ít nhất phải kinh qua chừng 50 năm sống với
bia rượu, chất cồn, từ thời trẻ tráng, khí lực dồi dào tận đến khi già
lão, gậy chống nạng nâng. Đó chỉ là trường hợp lý tưởng khi người uống
rượu sống được 70 tuổi và bỏ rượu lúc về già. Trên thực tế, những người
nghiện rượu thường có thọ mệnh không dài, đến tuổi trung niên có khi đã
bệnh tật đầy thân, sống vô cùng khổ sở.
Càng nghèo thì càng… nhậu
Có một
nghịch lý khó hiểu là phàm ở các nước kém phát triển, người dân lại
thích gần gũi với chén rượu hơn. Năm 2015, lại một thống kê đáng buồn
khác cho thấy Việt Nam đứng thứ 5 trong số 10 nước châu Á tiêu thụ bia
rượu nhiều nhất, “xếp cùng mâm” với Hàn Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và
Trung Quốc. Nhưng rõ ràng GDP của Việt Nam không thể sánh bằng các nước
này, thậm chí chỉ bằng số lẻ. Có một câu tục ngữ rất đúng với trường hợp
này là: “Con nhà lính, tính nhà quan”,
nghèo hơn nhưng người Việt lại sẵn sàng chịu chơi sòng phẳng! Đó cũng
là lý do vì sao người Việt uống rượu nhiều nhất ASEAN dù chỉ có GDP đứng
thứ 8/10 trong khu vực này.
Nhiều người vẫn luôn tự hỏi lòng một câu này: “Vì sao Việt Nam cứ mãi nghèo thế?”.
Lý do nói ra thì rất nhiều nhưng chắc hẳn rượu bia cũng là một thủ phạm
ngấm ngầm góp phần kéo lùi sự phát triển của đất nước. Mà khi uống rượu
bia, người ta lãng phí lắm! Bạn cứ thử nghĩ mà xem, một cân gạo ngon
hiện giờ có giá khoảng 16.000 đồng, tương đương với giá một lon bia
Heineken. Vậy thử làm một phép tính. Trong cuộc nhậu, bạn uống được
khoảng 10 lon Heineken là đã “ngấm đòn”, phải vào nhà vệ sinh tống ra
ngoài chừng 7 – 8 lon nếu không muốn lục phủ ngũ tạng bị tra tấn cả đêm.
Thế là bạn đã tiêu một số tiền đủ mua được 1 yến gạo ngon rồi lại tống
ra ngoài 8 cân gạo mà chẳng để làm gì. Sự lãng phí thật lớn biết chừng
nào!
Càng ở
những vùng nông thôn, người dân lại càng thịnh hành tiêu thụ bia rượu
nhiều hơn. Năm 2015, người ta tính được rằng khu vực nông thôn tiêu thụ
tới 2 tỉ lít bia trong tổng số 3,5 tỉ lít. Bia rượu từ lâu đã không còn
là quyền hạn của thị dân phố phường nữa. Người phố uống rượu Vodka, rượu
ngoại thì người quê tự nấu rượu gạo nút lá chuối cũng vẫn đủ chiều lòng
các bạn nhậu.
Dường
như cuộc sống càng khó khăn, người ta lại càng thích tìm đến rượu chè
nhiều hơn. Chẳng thế mà ông bà ta từng nói rất chí lý như vậy:
Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày
Nết uống rượu cao đẹp của người xưa
Đương
nhiên, người xưa thích uống rượu, thậm chí cũng uống khá nhiều. Lịch sử
có chép một vài vị như vậy. Lưu Linh uống rượu trăm chén không biết say,
những kẻ uống rượu sau này đều chỉ tự nhận là “đệ tử Lưu Linh”. Tào
Thực, con trai Tào Tháo, cũng uống rất dữ, làm thơ: “Quy lai yến Bình Lạc. Mỹ tửu đẩu thập thiên” (Trở về mở yến ở quán Bình Lạc. Rượu ngon uống mười ngàn đấu). Nguyễn Công Trứ uống rượu rồi ngông nghênh ca rằng: “Còn trời, còn nước, còn non. Còn cô bán rượu anh còn say sưa”. Đến thời hiện đại, Trần Huyền Trân một lần ghé tai khắc khoải tâm sự với Tản Đà:
Cụ hâm rượu nữa đi thôi Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu Rồi lên ta uống với nhau Rót đau lòng ấy vào đau lòng này…
Nhưng cái nết uống rượu của cổ nhân hoàn toàn khác hẳn với “văn hóa nhậu” bê bối của ngày nay. Khác như thế nào?
Trước
hết, thuở ban sơ, rượu gắn với các hoạt động tâm linh, là thứ dùng để tế
lễ Trời Đất, “vô tửu bất thành lễ” (không có rượu không thành nghi lễ).
Chu Văn Vương nói: “Tế tự thì dùng rượu. Trời kia xuống mệnh cho dân ta biết nấu rượu chỉ là dùng vào việc tế tự lớn”.
Tế rượu là một nghi thức trọng đại, chẳng thế mà người xưa đặt ra hẳn
một chức quan chuyên trách làm việc ấy, gọi là “quan Tế tửu”. Đó phải là
người có uy tín, phẩm giá, được nể trọng lắm!
Rượu trong tâm thức cổ nhân cũng là thứ vũ khí để tiêu sầu, giải phiền muộn, gọi là “phá thành sầu”. Có câu: “Dục phá thành sầu duy hữu tửu” (Muốn phá thành sầu chỉ có rượu mà thôi). Lý Bạch một đời ôm chén rượu, ngắm trăng, thưởng hoa, làm thơ, từng viết: “Nhân sinh đắc ý tu tận hoan. Mạc sử kim tôn không đối nguyệt”
(Đời người đắc ý cứ vui tràn. Chớ để chén rượu vàng cạn dưới trăng). Ấy
thế mà đôi khi rượu cũng vô tác dụng, chẳng phá nổi sầu mà lại chuốc
thêm phiền đau. Cũng chính Lý Bạch viết: “Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu. Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu” (Rút dao chặt nước nước càng chảy. Nâng chén tiêu sầu sầu càng sầu).
Rượu
cũng là một thứ “tín vật” gắn bó người với người, là chất keo gắn kết
những người bằng hữu. Người xưa nói: “Chén tạc chén thù”. Chủ nâng chén
chúc khách gọi là “tạc”, khách đáp lễ chúc lại gọi là “thù”. Có chén
rượu uống cạn bên người tri âm được coi là một hạnh phúc lớn trong đời.
Bởi thế mà có câu: “Tửu phùng tri kỷ thiên bôi thiểu. Thoại bất đầu cơ bán cú đa” (Rượu gặp bạn hiền ngàn chén ít. Lời không hợp ý nửa câu nhiều).
Ở một
khía cạnh khác, rượu cũng là chất xúc tác cho cảm hứng sáng tác thi ca.
Tô Đông Pha trong một đêm Trung thu hơn nghìn năm trước, tay nâng chén
rượu mà ca rằng:
Minh nguyệt kỷ thời hữu Bả tửu vấn thanh thiên Bất tri thiên thượng cung khuyết Kim tịch thị hà niên”
Tạm dịch:
Vầng trăng sáng có tự khi nào Nâng chén rượu lên hỏi trời cao Chẳng biết cung điện trên chốn ấy Đêm nay đã là đêm năm nao
Xa hơn nữa, Lý Bạch để lại mấy câu thơ về rượu đầy cảm khái thế này:
Hoa gian nhất hồ tửu Độc chước vô tương thân Cử bôi yêu minh nguyệt Đối ảnh thành tam nhân”
Tạm dịch:
Có rượu không có bạn Một mình chuốc dưới hoa Nâng chén mời trăng sáng Mình với bóng là ba
Người
xưa uống rượu một cách tài tử như vậy, uống say rồi lại làm thơ, để lại
cho đời biết bao câu chuyện đẹp. Người xưa cũng uống nhiều, uống dữ
nhưng luôn có thể tự ước thúc được hành động của chính mình, rất hiếm
tìm thấy một “bợm nhậu” phá phách, đảo lộn luân thường đạo lý. Bởi thế
mới nói, cái đạo uống rượu của cổ nhân thực là uy nghiêm, trang trọng,
thực là quyến rũ.
Và tất nhiên, nó khác hoàn toàn với “văn hóa nhậu” xô bồ, dung tục bây giờ…
Lời kết
Lạm bàn
về chuyện bia rượu cũng chính là bước vào một vùng tương đối “nhạy cảm”.
Như đã nói ở phần đầu, 77% đàn ông Việt uống rượu bia, quả thực người
viết không chắc rằng trong số đó lại không có đến hàng nghìn, hàng triệu
người cảm thấy bị đụng chạm đôi chút khi đọc những dòng này.
Nhưng
rồi, chuyện nhậu nhẹt vốn đã trở thành thói hư thâm căn cố đế cũng đến
lúc phải được nhìn nhận một cách trực diện. Một kẻ ưa nhậu nhẹt thì
chẳng thể nên người, thành công. Một dân tộc thích nhậu nhẹt cũng chẳng
thể thay đổi số phận của mình.
Những
thống kê thẳng thắn nhất đã chỉ ra rằng năng suất lao động của người
Việt đang thuộc hàng thấp nhất Châu Á Thái Bình Dương, thấp hơn
Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. Ngay cả
so với những nước láng giềng trong khu vực, năng suất làm việc của chúng
ta cũng còn phải chạy dài mới theo kịp, chỉ bằng 1/5 so với Malaysia và
2/5 so với Thái Lan. Đó là những số liệu được thống kê vào 4 năm trước
(2013).
Năng
suất làm việc kém một phần là bởi người Việt dành nhiều tiền của cho
việc ăn nhậu. Thống kê cho thấy, người Việt đã tiêu tốn 3 tỉ USD/năm cho
bia rượu, vượt xa các nước xếp sau là Thái Lan và Philippines. Trong
khi đó, hãy nhìn sang Singapore bạn sẽ thấy ngay sự khác biệt.
Singapore
chỉ tiêu thụ lượng bia rượu bằng 1/2 so với nước đứng thứ 3 khu vực
ASEAN là Philippines, cũng là nước tiêu thụ đồ uống có cồn vào hàng thấp
nhất thế giới. Có người nói rằng, một người Việt nhậu bằng 15 người
Singapore. Thật trớ trêu, nhậu gấp 15 lần và làm việc kém 15 lần!
Lại có
người nói vui rằng, với dân nhậu Việt thì Singapore chính là… địa ngục.
Bởi chính phủ Singapore cấm kinh doanh và uống rượu bia hằng ngày từ
22h30 đêm đến 7h sáng hôm sau. Nếu chẳng may bạn để cảnh sát nước này
bắt gặp đang cầm một chai bia ở nơi công cộng, hãy chuẩn bị tinh thần
đối diện với những án phạt khắc nghiệt nhất. Khách nước ngoài lỡ mang
bia ra nơi công cộng sẽ bị phạt 1.000 đô la Singapore (khoảng hơn 16
triệu đồng) lần đầu, gấp đôi ở lần thứ hai. Vi phạm lần thứ 3, họ sẽ
phải vào tù.
Singapore
hiện là một trong những đất nước phát triển nhất thế giới với một nền
kinh tế năng động dù tài nguyên và nhân lực hạn hẹp. GDP bình quân đầu
người của họ gấp… 27 lần Việt Nam. GDP bình quân đầu người của Việt Nam
năm 2014 đạt 2.052 USD, chỉ tương đương mức GDP bình quân của Malaysia
năm 1988 và Hàn Quốc năm 1982. Chúng ta đã đi sau các nước khác hàng 20,
30 năm như thế.
Quả thực, từ trên bàn nhậu, có thể phần nào nhìn ra được tương lai của một dân tộc, đất nước vậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét