Voi ma mút - những kẻ khổng lồ đã từng thống trị khắp Châu Âu và Châu Á
từ rất lâu. Trước khi tổ tiên của chúng ta bị chúng làm cho choáng váng.
Tuyệt chủng từ hàng nghìn năm, chúng vừa là biểu tượng vừa ẩn chứa
những điều bí ẩn. Biến đổi khí hậu đồng nghĩa với lớp băng tuyết ở cực
bắc đang tan chảy nhanh hơn trước. Những bộ xác tiền sử dần dần hé lộ.
Nhờ có chúng, các nhà khoa học có thể vén bức màn bí ẩn về loài vật
khổng lồ đã biến mất từ hàng chục nghìn năm trước đây. Với sự hỗ trợ của
các công nghệ tiên tiến. Giờ đây con người có thể trả lời những câu hỏi
vẫn luôn ám ảnh chúng ta. Chúng ta có thể lần theo những vết tích tiến
hoác của loài voi ma mút, từ đó tìm hiểu xem chúng đã thích nghi như thế
nào ở một trong những môi trường sống khắc nghiệt nhất Trái Đất. Cứ
thêm 1 phát hiện mới, chúng ta lại tiến một bước gần hơn tới lời giải
của câu hỏi lớn nhất mọi thời đại. Tại sao loài vật vĩ đại này đột ngột
tuyệt chủng?
Hé lộ nguyên nhân thật sự về sự tuyệt chủng của voi ma mút
Mới đây kết quả phân tích DNA của những loài vật
đã tuyệt chủng vừa được tiến hành trên quy mô lớn đã chỉ ra rằng: voi ma
mút và các loài sinh vật khổng lồ khác từng sống ở thời kỳ băng hà đã
bị tuyệt chủng vì nguyên nhân khí hậu thay đổi bất ngờ chứ không phải do
tác nhân con người.
Nguyên nhân sự tuyệt chủng của voi ma mút
Theo đó, kết luận của các nhà khoa học sau khi nghiên cứu băng tích ở đảo Greenland và DNA của những sinh vật cổ, và đã được công bố trên tạp chí Science cho hay một loạt những biến đổi về khí hậu trong 60 triệu năm gần đây là nguyên nhân chính dẫn đến sự biến mất của loài voi ma mút và các động vật to lớn ở kỷ băng hà. "Khi mà con người còn chưa xuất hiện tại những vùng đất ngự trị
của các loài khổng lồ thì ở đó đã xảy ra hiện tượng tuyệt chủng hàng
loạt. Nếu như thêm vào những tác nhân bởi con người ngày nay và sự tàn
phá của hiện tượng ấm lên toàn cầu đang gây ra cho môi trường, chúng tôi
có những câu hỏi đáng lo ngại rằng những gì đang chờ đợi thế giới của
chúng ta trong tương lai" - Alan Cooper đến từ trung tâm DNA cổ đại ở Adelaide, Australia.
Cooper và các đồng nghiệp của mình khi đối chiếu DNA của các loài
sinh vật cổ khác nhau với sự thay đổi khí hậu của trái đất trong khoảng
thời gian 50-60 nghìn năm đã làm sáng tỏ rằng, sự xuất hiện của con
người tại những vùng cực Bắc trái đất và Tân Thế Giới
hiếm có khả năng là nguyên nhân chính gây ra sự tuyệt chủng cho voi ma
mút, tê giác có lông, culi khổng lồ (con lười) và các đại diện của động
vật khổng lồ.
Kết quả đối chiếu cho thấy, rất nhiều loài động vật khổng lồ bị diệt
vong ở nhiều nơi trên trái đất hoặc là biến mất hoàn toàn khỏi bề mặt
hành tinh trong những giai đoạn có sự biến đổi khí hậu đột ngột - họ gọi chúng là các thời kỳ tan băng, khi mà có sự phân tách giữa một kỷ băng hà này với kỷ băng hà khác.
Ngay cả những phân tích DNA của các loài thực vật ở thời kỳ đó cũng cho thấy voi ma mút và các loại động vật cỡ lớn
bị tuyệt chủng do nguyên nhân khí hậu. Năm 2014, nhà sinh vật học tiến
hóa Eske Willerslev và đồng nghiệp đã phát hiện: một trong những nguyên
nhân gây ra sự tuyệt chủng của voi ma mút có thể do thức ăn ưa thích của
chúng - cỏ ba lá và các loại thực vật thân cỏ khác - đã bị biến mất khỏi các vùng đất băng giá không lâu trước khi xảy ra tuyệt chủng.
Xác voi ma mút Buttercup được tìm thấy ở Siberia, Nga, năm 2013. (Ảnh: Live Science)
Trước đó, theo tiến sĩ Love Dalen (bộ phận phân loại di truyền thuộc
Bảo tàng Lịch sử quốc gia Thụy Điển), do đảo Wrangel quá nhỏ nên ban đầu
người ta nghĩ rằng, một quần thể voi ma mút quan hệ đồng huyết và gây
ra tình trạng thiếu đa dạng di truyền khiến chúng tuyệt chủng.
Khi toàn bộ voi ma mút ở lục địa Á, Âu giảm từ hàng
chục ngàn xuống còn một số ít trong kỷ Băng hà, đã có sự sụt giảm 30% về
đa dạng di truyền. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học, đó là một sự sụt
giảm bình thường.
Ông Dalen cho biết: “Khi kiểm tra mẫu vật từ đảo Wrangel, chúng
tôi nhận thấy đã đạt đến một thời điểm mà tình trạng này trở nên ổn định
và sự đa dạng di truyền không bị mất thêm. Giai đoạn này kéo dài cho
đến khi những con voi ma mút bị tuyệt chủng”. Điều này, theo ông,
đã phủ định giả thuyết đồng huyết. Các con voi trên đảo đã bị cô lập
trong gần 6.000 năm nhưng vẫn duy trì một quần thể ổn định.
Những tên săn trộm đào bới các tảng băng hàng triệu năm tuổi ở Siberia để kiếm xác sinh vật thời tiền sử bán ra chợ đen.
Nhiếp ảnh gia Amos Chapple đã dành ba tuần sống cùng giới săn trộm mà ông mô tả là "những kẻ ngâm mình trong rượu vodka" ở vùng Siberia, Nga. Chiếc ngà voi trong ảnh nặng 65kg, được bán với giá 34.000 USD.
Họ
sục sạo ở vùng Siberia xa xôi, lẩn trốn cảnh sát, khoan sâu vào các
tảng băng hàng triệu năm tuổi để tìm kiếm xác động vật hóa thạch thời
tiền sử.
Những
tay săn trộm bỏ ra hàng tháng trời cắm trại tại những nơi băng giá với
hy vọng làm giàu từ hóa thạch voi ma mút. Loài voi này từng sống trên
Trái đất hàng trăm nghìn năm trước cho tới khi tuyệt chủng vào cuối kỷ
Băng hà.
Nhiếp ảnh gia Chapple đã trả tiền cho một nhóm săn trộm ở Siberia để vào khu vực có nhiều hóa thạch voi ma mút. "Tôi phải chờ tới khi những người xua đuổi tôi phát chán để chụp được ảnh họ", Chapple nói.
Nhiều tay săn trộm có súng bắn đạn ghém hoặc pháo sáng để xua đuổi gấu. "Những
đàn muỗi ở khắp nơi, chúng bám theo bạn. Còn khi bạn đã vào trại của
nhóm săn trộm, rượu vodka biến họ thành những con thú", Chapple kể.
Các
tay săn hóa thạch voi ma mút sử dụng vòi cao áp làm tan chảy các tảng
băng. Nước nóng chảy ra sông và khiến các loài cá trong vùng biến mất.
Việc làm yêu thích của các tay săn trộm trong lúc rảnh rỗi là nốc rượu vodka.
Biến
đổi khí hậu là nguyên nhân chủ yếu khiến loài voi ma mút bị tuyệt
chủng, theo nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học thuộc trường đại
học Durham (Mỹ).
Loài voi ma mút đã tuyệt chủng do biến đổi khí hậu. Ảnh: Telegraph
Loài voi ma mút xuất
hiện trên Trái Đất cách nay khoảng 4,5 triệu năm và bị tuyệt
chủng khoảng 13.000 năm trước. Cho đến nay, nhiều giả thuyết
được đưa ra để giải thích nguyên nhân khiến voi ma mút bị tuyệt
chủng. Một số nghiên cứu trước đây cho rằng sự săn bắt của loài người
hay thậm chí có thể một thiên thạch đã rơi xuống Trái đất là nguyên
nhân khiến khiến loài voi ma mút khổng lồ đối mặt với nguy cơ tuyệt
chủng vào cuối thời kỳ Băng Hà cách đây 20.000 năm.
Tuy nhiên, nghiên cứu của
mới nhất của các nhà khoa học thuộc trường đại học Durham (Mỹ) cho
thấy rằng sự phát triển không ngừng của các khu rừng do khí hậu ấm lên ở
thời kỳ này đã làm các cánh đồng cỏ bị thu hẹp khiến loài voi ma mút
bị thiếu thức ăn.
Giáo sư Brian Huntley,
thuộc trường đại học Durham và là thành viên nhóm nghiên cứu, cho rằng
một phần lớn diện tích đồng cỏ ở châu Âu và Bắc Mỹ đã phát triển thành
những khu rừng do khi hậu ấm lên vào cuối thời kỳ Băng Hà. Cùng thời kỳ
này, loài người bắt đầu nghĩ ra những kỹ năng săn bắt hiệu quả hơn,
khiến số lượng loài voi ma mút bị suy giảm.
“Việc các cánh đồng
cỏ rộng lớn ở phía bắc châu Âu và châu Á cũng như ở Alaska và Yukon
dần chuyển thành các khu rừng đã khiến môi trường sống của nhiều loài
đồng vật, đặc biệt là những loài vật lớn như voi ma mút và tê giác lông
mịn bị thay đổi. Những loài động vật gặp khó khăn trong việc tìm kiếm
thức ăn khi đồng cỏ bị thu hẹp”, tiến sĩ Brian Huntley cho biết.
Từ kết quả cuộc nghiên
cứu này, các nhà khoa học cũng cảnh báo rằng biến đổi khí hậu dẫn tới
môi trường sống bị thay đổi có thể sẽ đe dọa sự sinh tồn của các động
vật hiện tại trên Trái đất, tương tự như điều đã xảy ra với loài voi ma
mút ở thời kỳ Băng Hà.
“Kịch bản biến đổi
khí hậu ảnh hưởng tới loài voi ma mút và nhiều loài động vật khổng lồ
khác cách đây 20.000 năm có thể sẽ lặp lại trong thế kỷ tới nếu như
tình trạng biến đổi khí hậu vẫn diễn ra với tốc độ như hiện nay. Vì
thế, nghiên cứu này là một bài học tốt để chúng ta suy ngẫm về hậu quả
của sự ấm lên toàn cầu”, giáo sư Brian Huntley cảnh báo.
Giới khoa học đang nắm chắc cơ hội làm sống lại
dòng voi ma mút lông xoăn đã biến mất khỏi bề mặt địa cầu cách đây 4.000
năm, thông qua dự án đầy tham vọng trong lĩnh vực công nghệ di truyền.
Phát biểu trước Hội nghị thường niên của Hiệp hội Mỹ về những tiến bộ
trong khoa học (AAAS) tổ chức tại Boston trong tuần qua, trưởng nhóm dự
án xóa nạn tuyệt chủng ở voi ma mút, Giáo sư George Church cho hay đội
ngũ chuyên gia Đại học Harvard (Mỹ) do ông dẫn đầu đang cách mục tiêu
tạo ra phôi ma mút khoảng 2 năm nữa.
Trên thực tế, phôi này tồn tại dưới dạng phôi lai, bằng cách lập
trình các đặc điểm của voi ma mút vào voi châu Á. Sinh vật này, với một
số người gọi là "mammophant", dự kiến sẽ có bề
ngoài như voi châu Á, nhưng bên cạnh đó sẽ xuất hiện các đặc điểm như
tai nhỏ, mỡ dưới da dày, lông dài xù xì và máu huyết thích hợp với cái
lạnh. Nhóm gene thể hiện những đặc điểm này sẽ được chèn vào ADN voi nhờ
vào công cụ chỉnh sửa gene đầy hiệu lực là Crispr.
Voi ma mút đang đứng trước cơ hội hồi sinh trong bộ dạng của voi châu Á. (ẢNH: AFP).
Đến nay, đội ngũ chuyên gia chuẩn bị chuyển sang bước tạo phôi.
"Chúng tôi đang triển khai các biện pháp nhằm đánh giá tác động của toàn
bộ quá trình chỉnh sửa gene, và về cơ bản đang cố gắng thiết lập tình
trạng phát sinh phôi (nói đơn giản là tạo phôi) trong phòng thí nghiệm", theo tờ The Guardian dẫn lời Giáo sư Church. Kể từ khi khởi động dự án vào năm 2015, các nhà nghiên cứu đã gia tăng số lượng "cắt - dán" ở những điểm ADN được ghép vào nhau trong chuỗi gene của voi, từ 15 lên 45 điểm. "Chúng tôi đã biết những điểm cần thiết để tạo nên tai thu nhỏ, mỡ dày dưới da, lông và máu huyết",
ông Church chỉ ra và cho rằng những thay đổi này có thể giúp bảo tồn
loài voi châu Á, vốn đang bị xếp vào danh sách nguy cấp. Tuy nhiên,
những người khác lại nêu bật quan ngại về mặt đạo đức đối với dự án này.
Matthew Cobb, giáo sư về động vật học của Đại học Manchester (Anh),
cho rằng cần nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo, vì loài ma mút cũng như
bao loài khác không chỉ là một tổ hợp các gene, và chúng là loài động
vật sinh hoạt bầy đàn, giống như voi châu Á hiện đại. "Điều gì sẽ xảy cho con voi lai được sinh ra? Những con voi khác sẽ đối xử với nó như thế nào?", Giáo sư Cobb đặt câu hỏi.
Về vấn đề trên, Giáo sư Church cho hay ông đang phác thảo các kế
hoạch nuôi lớn động vật lai bên trong dạ con nhân tạo chứ không cấy vào
voi cái giống trường hợp mang thai hộ. Hiện phòng thí nghiệm của ông đã
có thể nuôi phôi chuột trong tử cung nhân tạo suốt 10 ngày, tức đạt nửa
thời gian trong giai đoạn thai nghén ở loài này. "Chúng tôi đang thử nghiệm sự tăng trưởng của chuột bên ngoài cơ thể sinh vật", Giáo sư Church kỳ vọng.
Loài voi ma mút lông xoăn đã đặt dấu chân rong ruổi
khắp châu Âu, châu Á, châu Phi và Bắc Mỹ trong kỷ Băng hà gần đây nhất,
và biến mất vào khoảng 4.000 năm trước, có thể là do tình trạng thay đổi
khí hậu ảnh hưởng môi trường sống của chúng và cuối cùng bị con người
đuổi tận giết tuyệt. Họ hàng gần nhất của chúng là voi châu Á, cũng là đối tượng sẽ được ghép gene với hy vọng có thể làm sống lại sinh vật huyền thoại một thời của địa cầu.
Cập nhật: 20/02/2017Theo Thanh Niên
Truy tìm "vương quốc" cuối cùng của voi ma mút trước khi tận diệt
Trang Ly |
4
Loài voi ma mút được cho là biểu tượng tinh hoa của kỷ Băng Hà. Ảnh: Phys.org
Giai đoạn phát triển hưng thịnh nhất của loài voi ma mút khổng
lồ là vào cuối kỷ Băng Hà, theo nghiên cứu khoa học mới được công bố.
Loài voi ma mút được cho là biểu
tượng tinh hoa của kỷ Băng Hà. Điều này đã được khoa học chứng minh
bằng nghiên cứu của tiến sĩ, giáo sư Ralf-Dietrich Kahlke thuộc Trung
tâm nghiên cứu cổ sinh vật học Senckenberg ở Weimar, Đức.
“Nghiên cứu gần đây cho thấy, voi ma mút
là loài động vật có vú phân bố trên phạm vi rộng nhất trong giai đoạn
cuối kỷ Băng Hà. Do vậy, chúng xứng đáng được coi là loài động vật đặc
trưng của thời kỳ giá lạnh này”, tiến sĩ Kahlke nhận định.
Tiến sĩ Kahlke kiểm tra xương đùi của một hóa thạch voi ma mút.
Nhà cổ sinh vật học Kahlke đã thu thập
dữ liệu để xác định phạm vi phân bố của loài voi ma mút cuối kỷ Băng Hà
(cách đây khoảng 110.000 đến 12.000 năm) trên bản đồ thế giới.
Kết quả cho thấy, loài động vật khổng lồ
này sinh sống trên diện tích rộng khoảng 33,3 triệu km2, gấp 100 lần
diện tích của nước Đức ngày nay.
Loài voi ma mút được phát hiện ở khắp
mọi nơi trên thế giới vào cuối kỷ Băng Hà, bao gồm: Bồ Đào Nha, dọc khu
vực Trung và Đông Âu, Mông Cổ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, vùng
Siberia, Tây Mỹ, Đông Canada và Bắc Cực.
Một chiếc ngà của voi ma mút được tìm thấy trên bán đảo Taimyr ở vùng Siberia.
“Chúng tôi kết hợp phạm vi phân bố của
voi ma mút (được xác định bằng máy tính) với địa điểm thực tế vào thời
kỳ đó, để tạo ra bản đồ chính xác nhất cho tới nay về phạm vi sinh sống
của loài động vật này trên toàn cầu”, ông Kahlke giải thích.
“Bản đồ chi tiết này thậm chí còn có giá
trị đối với nhiều loài động vật còn sống tới ngày nay”, nhà cổ sinh vật
học cho biết thêm.
Bản đồ mới về phạm vi phân bố của voi ma
mút được tạo ra dựa trên kết quả khảo sát hàng nghìn khu khai quật trên
ba lục địa trong vòng nhiều thập kỷ.
So sánh kích thước của một con voi ma mút với một người trưởng thành, cao 1,8m
“Những địa điểm khai quật dưới biển như,
ngoài khơi bờ biển Bắc Mỹ và Biển Bắc cùng được đưa vào cuộc khảo sát”,
ông Kahlke cho biết.
Theo nhà cổ sinh vật học người Đức, chỉ
duy nhất loài bò rừng (Bison priscus) có phạm vi phân bố rộng như loài
voi ma mút trong thời kỳ cuối của kỷ Băng Hà.
Nhưng voi ma mút có khả năng thích nghi
với thời tiết khắc nghiệt tốt hơn, nên chúng sống ở nhiều khu vực hơn so
với loài bò rừng.
Nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học do
tiến sĩ Kahlke đứng đầu cũng cho thấy những yếu tố hạn chế phạm vi phân
bố của loài voi ma mút bào gồm: sông băng, các dãy núi cao, vùng địa
hình bán sa mạc và sa mạc cũng như sự thay đổi của mực nước biển và thức
ăn.
Đã có nhiều lập luận cho rằng, việc hồi sinh voi
Ma mút ở thế giới hiện tại là điều không tưởng nhưng nếu chúng ta có thể
hồi sinh lại được những loài vật thời cổ đại này, lợi ích mà nó đem lại
sẽ vô cùng lớn.
Lý do cần hồi sinh lại voi Ma mút
Đã có nhiều lập luận cho rằng, việc hồi sinh voi Ma mút ở thế giới hiện tại là điều không tưởng nhưng nếu chúng ta có thể hồi sinh lại được những loài vật thời cổ đại này, lợi ích mà nó đem lại sẽ vô cùng lớn.
Theo cây viết Kevin Loria chia sẻ trong một bài viết được đăng tải trên trang công nghệ Tech Insider cho biết: "Nhà
di truyền học từ ĐH. Harvard George Church đã cố gắng cấy loại gen cho
phép voi Ma mút có thể sống được tại vùng Bắc Cực lạnh giá vào những
người họ hàng thân cận nhất của chúng là loài voi Châu Á. Nếu thành
công, những loài voi sở hữu gen của loài voi Ma mút về mặt lý thuyết có
thể sống sót được ở vùng Siberia và Bắc Âu, nơi mà chúng sẽ ít phả đối
mặt với nhiều đe dọa từ sự phát triển của con người hơn so với môi
trường sống hiện tại của loài voi Châu Á. Điều này có thể giúp bảo vệ một số loài voi bị đe dọa do bởi việc
mở rộng phạm vi môi trường sống ngày càng xa về phía Bắc như vậy sẽ
giúp chúng tìm được các vùng đất phù hợp và ít xung đột hơn với những
người nông dân".
Tuy nhiên, Loria có nói thêm về những rủi ro mà kỹ thuật này có thể gặp phải chưa kể nó còn liên quan cả tới vấn đề đạo đức. "Nếu như phòng thí nghiệm của Church xác định sẽ cấy ghép một số
phôi voi Ma mút vào trong loài voi Châu Á, họ sẽ phải tìm một số trứng
của loài voi cái phù hợp. Sau đó, họ sẽ phải tìm được một tử cung voi
cái thích hợp để nuôi dưỡng bào thai voi con trong vòng hai năm và cùng
hy vọng về khả năng có thể tạo ra một quái vật có thể hoặc không thể hồi
sinh. Không có thí nghiệm nào trong nghiên cứu này là đơn giản hoặc là
được quyết định một cách đơn giản".
Dù các ý tưởng có điên rồ như thế nào đi chăng nữa thì ý tưởng về
việc đưa những loài động vật từ thời xa xưa quay trở lại với thế giới
hiện đại cũng là một cách để con người bảo tồn được hệ sinh thái đa dạng trong tự nhiên đang dần có xu hướng bị phá vỡ do chính bàn tay tác động của con người hiện nay.
Những con voi ma mút sẽ lại xuất hiện ở khu vực
Bắc Cực trong một kế hoạch đặc biệt nhằm nhân bản những con vật to lớn
đã biến mất từ 10.000 năm trước này.
Các nhà khoa học thuộc Đại học Harvard (Mỹ) đang sử dụng ADN từ một
con voi ma mút được bảo quản ở vùng băng tuyết Siberia hơn 42.000 năm
trong một kế hoạch đặc biệt. Nếu kế hoạch 2 năm này thành công, những
con voi ma mút sẽ có thể sống trong một công viên Kỷ băng hà rộng 20.000
hecta do các nhà khoa học Nga tạo ra ở vùng Siberia xa xôi.
Việc này cũng giúp tạo ra khí hậu Bắc cực bởi vì chúng sẽ kích thích
sự phát triển của thực vật – nhà khoa học đứng đầu nghiên cứu trên cho
biết.
Tham vọng của họ sẽ bao gồm việc nuôi lớn con voi ma mút lai bên
trong một bào thai nhân tạo chứ không phải nhờ một con voi cái làm mẹ.
Voi ma mút.
Con vật mới ra đời sẽ là con lai giữa một con voi châu Á và một con voi ma mút.
Các nhà khoa học đang sử dụng một kỹ thuật chỉnh sửa gene có tên CRISPR-Cas9. Theo đó các chuỗi gene ADN sẽ được “cắt và dán”
với độ chính xác chưa từng có từ trước tới nay. Sử dụng kỹ thuật này,
các nhà khoa học có thể cắt ADN đã được bảo tồn của voi ma mút và dán
vào các con voi châu Á để tạo ra voi lai ma mút.
Giáo sư George Church nói với tờ Sun Online: “chúng tôi đã hồi
sinh hàng chục gene và đang thử nghiệm chúng trong các tế bào của voi.
Chúng tôi đang tập trung vào việc hồi sinh gene voi ma mút và tạo ra
những con lai rồi giúp chúng sinh sản khắp vùng khí hậu bắc cực hoang
dã”.
Theo giáo sư Church, những con vật này thậm chí có thể khiến vùng đầm lầy băng giá được nhân rộng. “Những con voi chịu được lạnh sẽ làm những đống tuyết trở nên
bằng phẳng, hỗ trợ cây mọc trong mùa đông và giúp cho các loại cỏ phản
xạ nhiệt trong mùa hè. Chúng cũng có thể giúp hấp thụ carbon bằng cách
cách tăng cường khả năng quang hợp của thực vật” – giáo sư Church nói.
Người ta cho rằng vùng đồng cỏ sẽ phản chiếu nhiều ánh nắng mặt trời
hơn so với rừng tồn tại ngày nay, cho phép cái lạnh mùa đông xâm nhập
sâu hơn và làm mát đất bên dưới.
Qua nhiều năm, cây cối ở công viên Siberia đã được san phẳng do các
phương tiện giống xe tăng. Tuy nhiên, để giữ những cái cây này lại, họ
cần phải có những con vật lớn, bao gồm những con voi ma mút.
Cập nhật: 23/04/2018Theo GDTĐ
Giả thuyết sửng sốt, voi Mamút tuyệt chủng vì khát nước?
TPO - Nguyên nhân thực sự khiến voi mamút tuyệt chủng hiện vẫn còn là
một vấn đề gây tranh cãi. Tuy nhiên, một vài nghiên cứu gần đây đã chỉ
ra rằng có thể những con voi mamút cuối cùng trên Trái đất đã chết vì
thiếu nước uống.
Cho đến gần đây, người ta vẫn tin rằng con voi ma mút cuối cùng đã
biến mất ở châu Âu và nam Xibia khoảng 12.000 năm trước. Tuy nhiên, vẫn
còn một số giả thiết khác, cho rằng khoảng 8.000 năm sau khi loài mamút
trên đất liền bị tuyệt chủng, trên hòn đảo hẻo lánh St.Paul ở vùng
Alaska vẫn còn tồn tại một số cá thể voi mamút. Đây mới là những cá thể
mamút cuối cùng còn sót lại trên Trái đất.
Hóa thạch loài voi mamút lông mịn cũng đã được phát hiện trong một
hang động trên đảo St.Paul. Đặc biệt, trên hòn đảo này cũng không có dấu
hiệu cho thấy sự sống của con người. Vì vậy khả năng voi mamút trên hòn
đảo này bị tuyệt chủng do con người săn bắn là không có.
Từ suy luận đó, các nhà khoa học đã đề ra một giả thuyết khác, rằng:
đến cách đây 5.600 năm, hồ nước ngọt duy nhất trên hòn đảo St.Paul dần
bị thu hẹp. Lượng nước không đủ để cung cấp cho những con voi mamút có
kích thước lớn. Do đó chúng chết dần và loài mamút bị tuyệt chủng hoàn
toàn.
Các nhà khoa học cũng đã tiến hành nghiên cứu phần trầm tích của đáy
hồ và tìm thấy dấu vết của các loài thực vật cổ đại, động vật, nấm và
thậm chí là cả dấu vết DNA của loài voi khổng lồ. Ngoài ra, họ cũng nhận
thấy có sự gia tăng của tảo chịu mặn và động vật giáp xác trong hồ vào
khoảng cách đây 6.000 năm, chứng tỏ lượng nước ngọt trong hồ vào thời
điểm đó đã ít dần và mặn lên theo thời gian do nước biển dâng.
Một số đảo ở Nam Thái Bình Dương hiện đang gặp phải tình trạng thiếu
nước ngọt tương tự do nước biển dâng. Đó là tin xấu cho các đảo và vùng
ven biển nơi có những động vật kích thước lớn, cần nhiều nước ngọt để
tồn tại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét