SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 19
-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Câu hỏi: Nguyên nhân nào gây ra chủ nghĩa bài Do Thái trên thế giới?
Trả lời: Tại sao thế giới ghét người Do Thái? Tại sao chủ nghĩa bài Do Thái lan tràn trên nhiều quốc gia? Người Do Thái có gì xấu? Lịch sử đã cho thấy rằng tại nhiều thời điểm khác nhau trong vòng 1.700 năm qua, người Do Thái đã bị trục xuất khỏi hơn 80 quốc gia khác nhau. Các nhà sử học và các chuyên gia đã kết luận có ít nhất sáu lý do khác nhau:
• Thuyết Chủng tộc — người Do Thái bị ghét bởi họ là một tộc người thấp kém.
• Thuyết Kinh tế — người Do Thái bị ghét bởi họ sở hữu quá nhiều của cải và quyền lực.
• Thuyết Người ngoại — người Do Thái bị ghét bởi họ khác biệt với những người khác.
• Thuyết "Con Dê Gánh Tội" — người Do Thái bị ghét bởi họ là nguyên nhân cho tất cả các vấn đề của thế giới
• Thuyết Giết Chúa — người Do Thái bị ghét bởi họ đã giết Chúa Giê-su Christ.
• Thuyết Dân được chọn — người Do Thái bị ghét bởi họ kiêu ngạo tuyên bố họ là "dân được chọn của Đức Chúa Trời".
Vậy, những thuyết này có căn bản nào không?
Về thuyết Chủng tộc, sự thật là Do Thái không phải là một chủng tộc. Bất kỳ ai trên thế giời với làn da, tín ngưỡng, hay chủng tộc nào cũng có thể là người Do Thái.
Thuyết Kinh tế cho rằng người Do Thái giàu có không thuyết phục. Lịch sử cho thấy từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, đặc biệt ở Ba Lan và Nga, người Do Thái rất nghèo khổ và hầu như không có ảnh hưởng gì đến hệ thống kinh doanh hay chính trị.
Về thuyết Người ngoại, trong thế kỷ 18, người Do Thái đã cố gắng hết mình để đồng hoá với phần còn lại của châu Âu. Họ đã hy vọng rằng sự đồng hoá sẽ khiến chủ nghĩa bài Do Thái mất đi. Tuy nhiên, họ bị ghét nhiều hơn bởi những người tuyên bố rằng người Do Thái sẽ lây nhiễm các gen hạ cấp của họ đến chủng tộc những người này. Điều này đặc biệt đúng ở Đức trước Thế chiến II.
Về thuyết Vật tế thần, thực tế là người Do Thái vẫn luôn bị ghét, khiến cho họ trở thành một mục tiêu thuận tiện.
Về ý tưởng của thuyết Giết chúa, Kinh thánh nói rõ ràng rằng người La Mã là những người đã thực sự giết Chúa Giê-su, mặc dù người Do Thái đã tham gia làm kẻ đồng loã. Mãi tới vài trăm năm sau, người Do Thái mới bị coi là kẻ giết Chúa Giê-su. Người ta thắc mắc tại sao người La Mã không bị ghét. Chính Chúa Giê-su đã tha thứ cho người Do Thái (Lu-ca 23:34). Ngay cả Va-ti-căn đã giải phóng người Do Thái khỏi cáo buộc giết Chúa vào năm 1963. Tuy nhiên, cả hai tuyên bố này đều không làm giảm chủ nghĩa bài Do Thái.
Về tuyên bố của họ là "dân được chọn của Đức Chúa Trời", người Do Thái ở Đức từ bỏ sự "được chọn" của họ trong phần sau của thế kỷ 19 để có thể đồng hoá tốt hơn vào văn hoá Đức. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu vụ thảm sát Holocaust. Ngày nay, một số tín đồ Tin Lành và Hồi giáo tuyên bố họ là "dân được chọn" của Đức Chúa Trời, nhưng phần lớn, thế giới chấp nhận họ và vẫn ghét người Do Thái.
Điều này đưa chúng ta đến nguyên nhân chính khiến cho cả thế giới ghét người Do Thái. Sứ đồ Phao-lô nói rằng, "Vì tôi ước ao có thể chính mình bị nguyền rủa và dứt bỏ khỏi Đấng Christ thay cho anh em là đồng bào của tôi; tức là người Y-sơ-ra-ên, dân được hưởng danh phận con nuôi, vinh quang, lời giao ước, luật pháp, sự thờ phượng, và lời hứa; là dân được sinh ra bởi các tổ phụ và từ dòng dõi nầy, về phần xác, đã sinh ra Đấng Christ, Đấng trên hết mọi sự, là Đức Chúa Trời đáng được chúc tụng đời đời" (Rô-ma 9:3-5). Sự thật là cả thế giới ghét bỏ người Do Thái vì cả thế giới ghét bỏ Đức Chúa Trời. Người Do Thái là con đầu lòng của Chúa, là dân Ngài đã chọn (Phục truyền 14:2). Qua các tổ phụ, các tiên tri, và đền thờ Do Thái, Thiên Chúa dùng người Do Thái để truyền Lời Ngài, Luật pháp, và đạo đức đến thế giới tội lỗi. Ngài đã sai con của Ngài, Chúa Giê-su Christ, đến trong hình hài một người Do Thái để chuộc lại thế giới tội lỗi. Sa-tan, hoàng tử của thế gian (Giăng 14:30, Ê-phê-sô 2:2), đã đầu độc tâm trí con người với sự hận thù người Do Thái của hắn. Xem Khải huyền 12 diễn tả một cách ẩn dụ sự hận thù của Sa-tan (con rồng) đến dân Do Thái (người phụ nữ, STK 37:9-11).
Sa-tan đã cố gắng quét sạch người Do Thái qua người Babylon, người Ba Tư, người Assyrian, người Ai Cập, người Hittiles, và Đức Quốc Xã. Nhưng hắn luôn thất bại. Chúa chưa xong việc với Y-sơ-ra-ên. Rô-ma 11:26 cho chúng ta biết rằng một ngày, cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, và điều này không thể xảy ra nếu Y-sơ-ra-ên không còn nữa. Vì thế, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ người Do Thái cho tương lai, cũng như cách Ngày đã bảo tồn phần còn lại của họ trong suốt lịch sử, cho đến lúc kế hoạch của Ngài được trọn vẹn. Không gì có thể cản trở kế hoạch của Chúa cho Y-sơ-ra-ên và dân Do Thái.
English
Nguyên nhân Hitler chống đối người Do Thái
Theo Mạng Truyền thông Công cộng (PBS, Mỹ), người Do Thái là đại diện của những điều mà Hitler khiếp sợ hoặc coi thường, như chủ nghĩa tư bản, tư tưởng hiện đại trong nghệ thuật, quan điểm chống chủ nghĩa dân tộc trong báo chí và các sản phẩm gợi dục. "Tôi đã tìm ra những đối tượng phải chịu trách nhiệm vì đã khiến nhân dân chúng ta lạc lối", Hitler khẳng định.
Tuy nhiên, một quyển sách xuất bản năm 2009 cho rằng, Hitler căm phẫn người Do Thái vì họ đã "cướp" chiến thắng của nước Đức trong Thế chiến 1, theo Telegraph. Quyển sách có tựa "November 9: How World War One Led to the Holocaust" (tạm dịch: Ngày 9/11: Thế chiến 1 dẫn đến nạn diệt chủng như thế nào). Tác giả là nhà báo, nhà sử học, tiến sĩ Joachim Riecker.
Riecker khẳng định: "Cốt lõi trong quan điểm bài Do Thái của Hitler là thất bại của nước Đức. Hitler đổ lỗi cho người Do Thái, cho rằng họ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ quân chủ cũng như cuộc sống của hàng triệu người".
Một số giả thiết cho rằng, Hitler bắt đầu nuôi hận thù vì một bác sĩ người Do Thái không thể chữa khỏi bệnh cho mẹ của y, bà Klara.
Ông Riecker không hoàn toàn đồng ý, nhưng nhấn mạnh: "Adolf Hitler chỉ yêu duy nhất hai điều trong cuộc sống của hắn: người mẹ và Đế chế thứ 3". Bà Karla qua đời năm 1907 vì ung thư vú.
Hitler từng sống ở Munich, nơi phong trào khởi nghĩa chống chế độ quân chủ diễn ra vào ngày 9/11/1918. Người Do Thái đóng vai trò quan trọng trong phong trào khởi nghĩa ấy. "Ảo giác 'độc tố từ bên trong' về người Do Thái dẫn đến thất bại của nước Đức, kết hợp với nỗi đau mất mẹ, khiến Hitler hình thành quan điểm coi người Do Thái như chất độc mà y phải loại trừ", tiến sỹ Riecker phân tích.
Lá thư của Hitler
Tháng 9/1919, một năm sau khi Thế chiến 1 kết thúc, đơn vị tuyên truyền và giáo dục những binh sĩ giải ngũ nhận bức thư từ người lính tên Adolf Gemlich. Nội dung thư đề nghị quân đội nêu rõ quan điểm về người Do Thái.
Lãnh đạo đơn vị khi đó là Karl Mayr đã để cấp dưới, Adolf Hitler, trả lời câu hỏi này.
Trong thư, Hitler viết: "Chủ nghĩa bài Do Thái không phải là hiện tượng cảm xúc. Đây là một hoạt động chính trị và không thể định nghĩa bằng cảm xúc, mà phải bằng công nhận những sự thật". Đối với Hitler, người Do Thái là những người tham lam tài sản và luôn muốn nắm vai trò thống trị.
Theo các nhà sử học, bức thư phản hồi của Hitler chính là bằng chứng đầu tiên về thái độ bài Do Thái của trùm phát xít ở thời kỳ đầu, trước khi dẫn đến nạn diệt chủng vào những thập kỷ sau.
"Dù căn nguyên thái độ chống đối người Do Thái của Hitler cho đến khi chiến dịch tàn sát bắt đầu vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa các nhà sử học, quan điểm phổ biến nhất là sự căm phẫn của Hitler đã tích tụ trong khoảng 10 tháng từ sau khi nước Đức thất bại năm 1918 đến khi y trả lời bức thư này", Peter Hayes, giáo sư nghiên cứu về thảm kịch người Do Thái bị tàn sát tại Đại học Northwestern, nói với tạp chí Time.
Còn nhà sử học Saul Friedlander (Đại học California) nhấn mạnh: "Ngay từ những dòng quan điểm đầu tiên trong thư, Hitler đã thể hiện rõ sự căm phẫn với người Do Thái là cốt lõi trong sự nghiệp chính trị của y".Ông Friedlander từng đoạt giải Pulitzer cho công trình nghiên cứu về Đức Quốc xã.
Trong thư, Hitler chỉ đề cập đến hành động "cách ly" hoặc "khai trừ" người Do Thái chứ không nhắc đến những biện pháp diệt chủng. "Vào năm 1919, ngay cả Hitler cũng không thể tưởng tượng ra những gì y có thể làm", nhà sử học Ian Kershaw trả lời New York Times. Tuy nhiên, ông Kershaw tin rằng đây là những mầm mống đầu tiên hình thành tư tưởng muốn tàn sát người Do Thái của Hitler.

Tác giả: Đặng Hoàng Xa
Không sai khi nói rằng Holocaust là trung tâm của tâm lý Israel. Không giống như hầu hết các sự kiện lịch sử khác mà ảnh hưởng dần dần mờ nhạt, ảnh hưởng của thảm sát Holocaust trong xã hội Israel ngược lại đã thực sự tăng lên theo thời gian. Quá trình này rất phức tạp và khó khăn để mô tả trong một vài trang giấy. Tuy nhiên, hiểu biết động lực của nó là điều cần thiết trong bất kỳ khảo sát nào về văn hóa Israel.
Holocaust là thảm họa lớn nhất của dân tộc Do Thái xẩy ra vào cuối những năm 1930 trong Thế Chiến II, khi sáu triệu người Do Thái trên khắp châu Âu bị đưa vào các trại tập trung của Phát xít Đức và bị giết hại bằng hơi ngạt. Năm 1933, Adolf Hitler trở thành quốc trưởng Đức và sau đó quốc gia này rất nhanh chóng mở rộng chương trình bài Do Thái. Hitler với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Đức đã khơi dậy được lòng tự hào và đồng thuận của người Đức khi khẳng định rằng nguồn gốc của người Đức – người Aryan – là chủng tộc siêu đẳng và những chủng tộc khác, đặc biệt là người Do Thái, là hạ đẳng.
Triết lý của Hitler là chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Hậu quả của triết lý bệnh hoạn này là sáu triệu người Do Thái trên khắp châu Âu đã bị cướp đi mạng sống chỉ trong giai đoạn ngắn ngủi từ 1939-1945. Tại thời điểm này dân tộc Do Thái tưởng như đã bị xóa xổ. Vậy câu chuyện này thực hư như thế nào?
Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các ngôn ngữ Âu châu ngày nay lại có chung nguồn gốc với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ). Nguồn gốc ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan. Điểm đặc biệt trong lịch sử của người Aryan là gì?
Vào khoảng 1.500 năm trước CN, người Aryan từ vùng cao nguyên Iran đã xâm nhập vùng Tây Bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1.000 năm đầu tiên tại Ấn Độ, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này và đặt ra chữ viết cho nó. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ (còn gọi là tiếng Phạn hay Bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là Nam Phạn và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo). Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit được lưu giữ trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu[1] mà ngày nay người ta mới biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng, máu mê chiến tranh, và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là “người quí phái” (nobleman) hoặc “chúa đất” (lords of land).
Thực tế thì khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất TCN, các văn bản cổ và di tích khảo cổ cho thấy người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thuật ngữ Iran lấy từ thuật ngữ “Ariana” (tiếng Hy Lạp cổ đã Latin hóa) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: ngôn ngữ cổ Iran và ngôn ngữ Sanskrit. Trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chữ Ariana được gọi là Eran, và trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran.
Một nhánh khác của người Aryan di cư sang châu Âu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Do vậy mà ngôn ngữ của phần lớn người châu Âu ngày nay rất giống nhau – đó là thứ ngôn ngữ có chung nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Ngôn ngữ Aryan vì thế được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, và người Aryan được gọi là người Ấn-Âu-tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ cũng được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng màu, trong khi người Ấn Độ ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé và nước da tối mầu.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học đã lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người châu Âu tiền sử với người Aryan cổ đại.
Như thế, theo dòng lịch sử, người Aryan một phần ở lại Iran, một phần xâm nhập Bắc Ấn, và một phần đã di cư sang Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người châu Âu như ngày nay.
Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan của châu Âu biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại cho đến ngày nay, và đỉnh cao là thảm họa Holocaust. Câu chuyện là như thế này.
Như độc giả đã thấy, các văn bản lịch sử đã cố gắng mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: đó những “người quí phái” hoặc “chúa đất”. Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu. “Thành tích vượt trội” này của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và, trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú” so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920, Chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan” lên đến tầm mức cực kỳ bệnh hoạn: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Darwin về Xã hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng máy móc nguyên lý đấu tranh sinh tồn trong thế giới tự nhiên của Darwin vào xã hội loài người. Học thuyết Darwin về Xã hội cho rằng, cũng như thế giới tự nhiên, xã hội loài người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Lý thuyết “chủng tộc thượng đẳng” của chủ nghĩa Quốc Xã là một quái thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của Học thuyết Darwin về Xã hội cộng với tư tưởng phục thù điên rồ trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Chúng ta nên biết rằng, bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc và mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong cuộc chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn. Đễ chống lại mặc cảm này, những nhà lý luận có đầu óc phân biệt chủng tộc của nước Đức đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan cùng với Học thuyết Darwin về Xã hội đã trở thành “những chất liệu quý giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến thành một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh tuý nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới. Bối cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng Quốc Xã thắng thế vào cuối những năm 1920 đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử.
Một câu hỏi rất phổ biến và gây nhiều tranh cãi là tại sao Hitler và những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đức Quốc xã lại xếp “chủng tộc Do Thái” (mà không phải là dân tộc khác) vào loại hạ đẳng và là đối tượng cần phải bị xóa bỏ. Lời giải thích cho câu hỏi này là như sau.
Chúng ta đều biết rằng sau 2.000 năm lưu vong và phấn đấu giữ gìn bản sắc dân tộc của mình, trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, các cộng đồng Do Thái Diaspora ở châu Âu đã có những phát triển rất ngoạn mục. Vào thời gian này, người Do Thái có thể nói là hầu như đã nắm huyết mạch tài chính và ngân hàng của châu Âu và điều này đã gây nên sự khó chịu của rất nhiều chính phủ ở đây. Với trí tuệ và sự năng động, thậm chí là “ranh mãnh”, người Do Thái đã đạt những thành tựu lớn trong mọi lĩnh vực, nhưng cũng vì thế mang đến sự ghen ghét và bị xua đuổi tại một số các quốc gia châu Âu. Liệu Hitler và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đức Quốc xã, trong khi tự ngộ nhận mình là “chủng tộc siêu đẳng Aryan” có thể chấp nhận sự tồn tại song song một dân tộc “được Chúa chọn” đầy trí tuệ như dân tộc Do Thái hay không. Câu trả lời là “không”, tuyệt đối “không”. Nếu nước Đức Quốc xã là một “chủng tộc siêu đẳng” nhất, thì sẽ không thể tồn tại một chủng tộc siêu đẳng thứ hai nào khác. “Chủng tộc siêu đẳng” của nước Đức phải là duy nhất. Và kết quả là, như mọi người đã biết, một chiến dịch hủy diệt toàn diện người Do Thái tại các vùng đất Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến II đã được khởi động.
Thêm vào đó, sự bại trận của Đức sau Thế Chiến I, cũng như những thảm họa lạm phát về kinh tế Đức, đều được Hitler đổ lỗi cho người Do Thái. Hitler đặt điều rằng, tất cả mọi vấn đề trên thế giới đều có nguồn gốc từ Do Thái và do người Do Thái gây nên. Phải giải quyết nạn Do Thái Diaspora ở châu Âu như thế nào? Nước Đức Quốc xã của Hitler đã tìm ra một giải pháp rẻ và nhanh: tập trung người Do Thái ở khắp châu Âu vào các trại tập trung và giết bằng hơi ngạt Zyklon B. Cuộc đại thảm sát này, gọi là Holocaust (tiếng Hy Lạp: holokáutoma: holo – “hoàn toàn” – và kausis – “thiêu, đốt”), đã lấy đi sáu triệu mạng người dân Do Thái tức là một phần ba dân số Do Thái lúc đó. Một điều đáng buồn là vào lúc mà người Do Thái cần cứu giúp nhất thì ở nhiều nơi trên thế giới các cánh cửa đã đóng lại với họ. Luật di dân của Mỹ đã ngăn cản họ vào nước Mỹ. Còn đất tổ Palestine, từ năm 1938, đã ban bố “sách trắng” đóng cửa với người Do Thái.
Cũng cần nói thêm rằng bản thân Hitler cũng có “vấn đề rất cá nhân” với người Do Thái. Mặc dù lúc trẻ Hitler cũng từng hàm ơn sự giúp đỡ của một vài người bạn Do Thái, nhưng trong sự nghiệp chính trị về sau, ông ta quay ngoắt tuyên bố là ghét tất cả mọi thứ liên quan đến người Do Thái: đó là một “chủng tộc khác” với một “mùi hôi khác”. Trong cuốn sách sặc mùi phát xít Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi), Hitler khẳng định rằng mình bắt đầu trở thành người bài Do Thái kịch liệt ngay từ lúc ở Vienna (thủ đô Áo) khi phát hiện ra rằng người Do Thái là “một nhà đạo diễn toan tính, trơ tráo, và có trái tim đá” gây ra tệ nạn mãi dâm; rằng thế giới âm nhạc và hội họa ở Vienna là do người Do Thái kiểm soát; rằng báo chí của những người theo chủ nghĩa dân chủ xã hội phần lớn là do người Do Thái quản lý… Sự căm ghét bệnh hoạn của Hitler với người Do Thái cứ âm ỉ như thế cho đến khi Hitler lên nắm quyền quốc trưởng của nước Đức và bùng nổ cùng với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tư tưởng phục thù của Đức Quốc xã.
Trong một thời gian dài sau thảm sát Holocaust, nền văn hóa sáng tạo của Do Thái, ở một góc tối nào đó, đã mang một màu xám ảm đạm, kéo dài cho đến ngày nay. Những ai đã xem bộ phim Schindler’s List (Bản danh sách của Schindler) nổi tiếng của đạo diễn Steven Spielberg được giải Oscars năm 2002, nghe nhạc chủ đề của phim, đều sẽ thấy được một nỗi đau day dứt, âm ỉ không thôi trong tâm khảm mỗi người dân Do Thái. Nỗi đau ấy phải chăng là một lời nguyền đè nặng lên số phận của cả dân tộc Do Thái từ đó và sẽ kéo dài cho đến cả mai sau?
Ở một khía cạnh nào đó, sức nặng của ký ức cay đắng này ngày càng trở nên u uất với thời gian. Rõ ràng vấn đề này sẽ vẫn là một phần không nhỏ của tâm lý Israel và biểu hiện nghệ thuật của nó trong nhiều năm tới.
Bài viết được trích từ cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.
Một số người Do Thái đã thoát khỏi cuộc tàn sát bằng cách chạy trốn
khỏi đất nước, những người khác lẩn trốn và một số cố gắng sống sót đủ
lâu để được trả tự do khỏi các trại tập trung. Tuy nhiên, sự can thiệp
cá nhân của Hitler đã cứu được ông Ernst Moritz Hess khỏi nạn diệt
chủng.
Theo tờ Daily Mail hôm 5.7, Hitler đã ra lệnh cho tổ chức vũ trang SS để yên cho vị thẩm phán người Do Thái vì Hess từng là chỉ huy của ông trong Thế chiến thứ nhất.
Hitler vốn rất tự hào về thời kỳ quân ngũ tại Mặt trận phía Tây của hắn ta. Thế nên, trong khi khoảng 6 triệu người Do Thái chết trong nạn diệt chủng Holocaust theo ý của Hitler, Hess đã được phép sống.
Con gái của Hess tên Ursule, hiện 86 tuổi, đã tiết lộ câu chuyện đáng kinh ngạc sau khi một tờ báo khám phá được bức thư gửi theo lệnh của Hitler yêu cầu không “hành hạ hoặc trục xuất” Hess.
Hồ sơ của lực lượng mật vụ Gestapo ở thành phố Dusseldorf về ông này bao gồm một lá thư từ Heinrich Himmler, người đứng đầu lực lượng SS và Gestapo, vào ngày 27.8.1940, nói rằng Hess phải được “cứu trợ và bảo vệ theo ý nguyện của Quốc trưởng”.
Ernst Moritz Hess, sinh năm 1890, đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh dự bị Bavaria số 2 vào lúc khởi đầu Thế chiến thứ nhất, cùng đơn vị mà Hitler tình nguyện gia nhập.
Cả hai được triển khai đến mặt trận Flanders vào mùa thu năm 1914, phục vụ trong đơn vị được biết dưới tên Trung đoàn List cho đến năm 1918.
Hess bị thương nặng vào tháng 10.1914 và bị thương thêm một lần nữa vào tháng 10.1916. Trong mùa hè năm đó, Hess tạm thời đảm nhận vai trò chỉ huy đại đội của Hitler.
Mặc dù theo đạo Tin lành, mẹ của Hess là một người Do Thái và theo Luật Chủng tộc Nuremberg của Quốc xã Đức, Hess được xem là một người Do Thái.
Theo luật, ông bị buộc rời chức thẩm phán vào năm 1936. Gia đình ông từng chứng kiến ông bị đánh đập bên ngoài ngôi nhà của họ trong năm đó.
Ông đã gửi kiến nghị đến Hitler vào năm 1936 xin được miễn trừ áp dụng luật chủng tộc cho ông và con gái.
Hess qua đời ở thành phố Frankfurt vào ngày 14.9.1983 sau một sự nghiệp thành công thời hậu chiến ở Tây Đức.
Ông từng đưa gia đình đến thành phố Bolzano ở Ý vào tháng 10.1937 song bị buộc trở về vào năm 1939. Hy vọng mối quan hệ với Hitler sẽ giúp ông được an toàn, Hess đã chuyển gia đình đến một ngôi làng hẻo lánh ở bang Bavaria, miền đông nam nước Đức vào giữa năm 1940.
Một bản sao bức thư Himmler gửi cho lực lượng mật vụ Gestapo ở thành phố Dusseldorf được trao cho ông.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 6.1941, Hess bị lực lượng SS ở thành phố Munich triệu tập. Khi trưng ra bức thư “hộ mệnh”, nó đã bị lấy đi và ông được thông báo rằng chỉ thị đã được hủy bỏ vào tháng 5.1941 và ông lúc đó chỉ là “một người Do Thái như những người khác”.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Cảnh tàn sát người Do Thái vào thời Hitler
Nguyên nhân nào gây ra chủ nghĩa bài Do Thái trên thế giới?
Câu hỏi: Nguyên nhân nào gây ra chủ nghĩa bài Do Thái trên thế giới?
Trả lời: Tại sao thế giới ghét người Do Thái? Tại sao chủ nghĩa bài Do Thái lan tràn trên nhiều quốc gia? Người Do Thái có gì xấu? Lịch sử đã cho thấy rằng tại nhiều thời điểm khác nhau trong vòng 1.700 năm qua, người Do Thái đã bị trục xuất khỏi hơn 80 quốc gia khác nhau. Các nhà sử học và các chuyên gia đã kết luận có ít nhất sáu lý do khác nhau:
• Thuyết Chủng tộc — người Do Thái bị ghét bởi họ là một tộc người thấp kém.
• Thuyết Kinh tế — người Do Thái bị ghét bởi họ sở hữu quá nhiều của cải và quyền lực.
• Thuyết Người ngoại — người Do Thái bị ghét bởi họ khác biệt với những người khác.
• Thuyết "Con Dê Gánh Tội" — người Do Thái bị ghét bởi họ là nguyên nhân cho tất cả các vấn đề của thế giới
• Thuyết Giết Chúa — người Do Thái bị ghét bởi họ đã giết Chúa Giê-su Christ.
• Thuyết Dân được chọn — người Do Thái bị ghét bởi họ kiêu ngạo tuyên bố họ là "dân được chọn của Đức Chúa Trời".
Vậy, những thuyết này có căn bản nào không?
Về thuyết Chủng tộc, sự thật là Do Thái không phải là một chủng tộc. Bất kỳ ai trên thế giời với làn da, tín ngưỡng, hay chủng tộc nào cũng có thể là người Do Thái.
Thuyết Kinh tế cho rằng người Do Thái giàu có không thuyết phục. Lịch sử cho thấy từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, đặc biệt ở Ba Lan và Nga, người Do Thái rất nghèo khổ và hầu như không có ảnh hưởng gì đến hệ thống kinh doanh hay chính trị.
Về thuyết Người ngoại, trong thế kỷ 18, người Do Thái đã cố gắng hết mình để đồng hoá với phần còn lại của châu Âu. Họ đã hy vọng rằng sự đồng hoá sẽ khiến chủ nghĩa bài Do Thái mất đi. Tuy nhiên, họ bị ghét nhiều hơn bởi những người tuyên bố rằng người Do Thái sẽ lây nhiễm các gen hạ cấp của họ đến chủng tộc những người này. Điều này đặc biệt đúng ở Đức trước Thế chiến II.
Về thuyết Vật tế thần, thực tế là người Do Thái vẫn luôn bị ghét, khiến cho họ trở thành một mục tiêu thuận tiện.
Về ý tưởng của thuyết Giết chúa, Kinh thánh nói rõ ràng rằng người La Mã là những người đã thực sự giết Chúa Giê-su, mặc dù người Do Thái đã tham gia làm kẻ đồng loã. Mãi tới vài trăm năm sau, người Do Thái mới bị coi là kẻ giết Chúa Giê-su. Người ta thắc mắc tại sao người La Mã không bị ghét. Chính Chúa Giê-su đã tha thứ cho người Do Thái (Lu-ca 23:34). Ngay cả Va-ti-căn đã giải phóng người Do Thái khỏi cáo buộc giết Chúa vào năm 1963. Tuy nhiên, cả hai tuyên bố này đều không làm giảm chủ nghĩa bài Do Thái.
Về tuyên bố của họ là "dân được chọn của Đức Chúa Trời", người Do Thái ở Đức từ bỏ sự "được chọn" của họ trong phần sau của thế kỷ 19 để có thể đồng hoá tốt hơn vào văn hoá Đức. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu vụ thảm sát Holocaust. Ngày nay, một số tín đồ Tin Lành và Hồi giáo tuyên bố họ là "dân được chọn" của Đức Chúa Trời, nhưng phần lớn, thế giới chấp nhận họ và vẫn ghét người Do Thái.
Điều này đưa chúng ta đến nguyên nhân chính khiến cho cả thế giới ghét người Do Thái. Sứ đồ Phao-lô nói rằng, "Vì tôi ước ao có thể chính mình bị nguyền rủa và dứt bỏ khỏi Đấng Christ thay cho anh em là đồng bào của tôi; tức là người Y-sơ-ra-ên, dân được hưởng danh phận con nuôi, vinh quang, lời giao ước, luật pháp, sự thờ phượng, và lời hứa; là dân được sinh ra bởi các tổ phụ và từ dòng dõi nầy, về phần xác, đã sinh ra Đấng Christ, Đấng trên hết mọi sự, là Đức Chúa Trời đáng được chúc tụng đời đời" (Rô-ma 9:3-5). Sự thật là cả thế giới ghét bỏ người Do Thái vì cả thế giới ghét bỏ Đức Chúa Trời. Người Do Thái là con đầu lòng của Chúa, là dân Ngài đã chọn (Phục truyền 14:2). Qua các tổ phụ, các tiên tri, và đền thờ Do Thái, Thiên Chúa dùng người Do Thái để truyền Lời Ngài, Luật pháp, và đạo đức đến thế giới tội lỗi. Ngài đã sai con của Ngài, Chúa Giê-su Christ, đến trong hình hài một người Do Thái để chuộc lại thế giới tội lỗi. Sa-tan, hoàng tử của thế gian (Giăng 14:30, Ê-phê-sô 2:2), đã đầu độc tâm trí con người với sự hận thù người Do Thái của hắn. Xem Khải huyền 12 diễn tả một cách ẩn dụ sự hận thù của Sa-tan (con rồng) đến dân Do Thái (người phụ nữ, STK 37:9-11).
Sa-tan đã cố gắng quét sạch người Do Thái qua người Babylon, người Ba Tư, người Assyrian, người Ai Cập, người Hittiles, và Đức Quốc Xã. Nhưng hắn luôn thất bại. Chúa chưa xong việc với Y-sơ-ra-ên. Rô-ma 11:26 cho chúng ta biết rằng một ngày, cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, và điều này không thể xảy ra nếu Y-sơ-ra-ên không còn nữa. Vì thế, Đức Chúa Trời sẽ bảo vệ người Do Thái cho tương lai, cũng như cách Ngày đã bảo tồn phần còn lại của họ trong suốt lịch sử, cho đến lúc kế hoạch của Ngài được trọn vẹn. Không gì có thể cản trở kế hoạch của Chúa cho Y-sơ-ra-ên và dân Do Thái.
English
Vì sao Hitler căm thù và muốn tàn sát người Do Thái?
Trùm phát xít Đức Adolf Hitler căm thù người Do Thái vì y cho rằng họ là
nguyên nhân khiến nước Đức thất bại trong Thế chiến thứ nhất.
| Trùm phát xít Đức Adolf Hitler. Ảnh: Daily Beast |
Theo Mạng Truyền thông Công cộng (PBS, Mỹ), người Do Thái là đại diện của những điều mà Hitler khiếp sợ hoặc coi thường, như chủ nghĩa tư bản, tư tưởng hiện đại trong nghệ thuật, quan điểm chống chủ nghĩa dân tộc trong báo chí và các sản phẩm gợi dục. "Tôi đã tìm ra những đối tượng phải chịu trách nhiệm vì đã khiến nhân dân chúng ta lạc lối", Hitler khẳng định.
Tuy nhiên, một quyển sách xuất bản năm 2009 cho rằng, Hitler căm phẫn người Do Thái vì họ đã "cướp" chiến thắng của nước Đức trong Thế chiến 1, theo Telegraph. Quyển sách có tựa "November 9: How World War One Led to the Holocaust" (tạm dịch: Ngày 9/11: Thế chiến 1 dẫn đến nạn diệt chủng như thế nào). Tác giả là nhà báo, nhà sử học, tiến sĩ Joachim Riecker.
Riecker khẳng định: "Cốt lõi trong quan điểm bài Do Thái của Hitler là thất bại của nước Đức. Hitler đổ lỗi cho người Do Thái, cho rằng họ là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chế độ quân chủ cũng như cuộc sống của hàng triệu người".
Một số giả thiết cho rằng, Hitler bắt đầu nuôi hận thù vì một bác sĩ người Do Thái không thể chữa khỏi bệnh cho mẹ của y, bà Klara.
Ông Riecker không hoàn toàn đồng ý, nhưng nhấn mạnh: "Adolf Hitler chỉ yêu duy nhất hai điều trong cuộc sống của hắn: người mẹ và Đế chế thứ 3". Bà Karla qua đời năm 1907 vì ung thư vú.
Hitler từng sống ở Munich, nơi phong trào khởi nghĩa chống chế độ quân chủ diễn ra vào ngày 9/11/1918. Người Do Thái đóng vai trò quan trọng trong phong trào khởi nghĩa ấy. "Ảo giác 'độc tố từ bên trong' về người Do Thái dẫn đến thất bại của nước Đức, kết hợp với nỗi đau mất mẹ, khiến Hitler hình thành quan điểm coi người Do Thái như chất độc mà y phải loại trừ", tiến sỹ Riecker phân tích.
Lá thư của Hitler
Tháng 9/1919, một năm sau khi Thế chiến 1 kết thúc, đơn vị tuyên truyền và giáo dục những binh sĩ giải ngũ nhận bức thư từ người lính tên Adolf Gemlich. Nội dung thư đề nghị quân đội nêu rõ quan điểm về người Do Thái.
Lãnh đạo đơn vị khi đó là Karl Mayr đã để cấp dưới, Adolf Hitler, trả lời câu hỏi này.
Trong thư, Hitler viết: "Chủ nghĩa bài Do Thái không phải là hiện tượng cảm xúc. Đây là một hoạt động chính trị và không thể định nghĩa bằng cảm xúc, mà phải bằng công nhận những sự thật". Đối với Hitler, người Do Thái là những người tham lam tài sản và luôn muốn nắm vai trò thống trị.
Theo các nhà sử học, bức thư phản hồi của Hitler chính là bằng chứng đầu tiên về thái độ bài Do Thái của trùm phát xít ở thời kỳ đầu, trước khi dẫn đến nạn diệt chủng vào những thập kỷ sau.
"Dù căn nguyên thái độ chống đối người Do Thái của Hitler cho đến khi chiến dịch tàn sát bắt đầu vẫn còn là vấn đề tranh cãi giữa các nhà sử học, quan điểm phổ biến nhất là sự căm phẫn của Hitler đã tích tụ trong khoảng 10 tháng từ sau khi nước Đức thất bại năm 1918 đến khi y trả lời bức thư này", Peter Hayes, giáo sư nghiên cứu về thảm kịch người Do Thái bị tàn sát tại Đại học Northwestern, nói với tạp chí Time.
Còn nhà sử học Saul Friedlander (Đại học California) nhấn mạnh: "Ngay từ những dòng quan điểm đầu tiên trong thư, Hitler đã thể hiện rõ sự căm phẫn với người Do Thái là cốt lõi trong sự nghiệp chính trị của y".Ông Friedlander từng đoạt giải Pulitzer cho công trình nghiên cứu về Đức Quốc xã.
Trong thư, Hitler chỉ đề cập đến hành động "cách ly" hoặc "khai trừ" người Do Thái chứ không nhắc đến những biện pháp diệt chủng. "Vào năm 1919, ngay cả Hitler cũng không thể tưởng tượng ra những gì y có thể làm", nhà sử học Ian Kershaw trả lời New York Times. Tuy nhiên, ông Kershaw tin rằng đây là những mầm mống đầu tiên hình thành tư tưởng muốn tàn sát người Do Thái của Hitler.
Nguồn gốc của Thảm sát Holocaust

Tác giả: Đặng Hoàng Xa
Không sai khi nói rằng Holocaust là trung tâm của tâm lý Israel. Không giống như hầu hết các sự kiện lịch sử khác mà ảnh hưởng dần dần mờ nhạt, ảnh hưởng của thảm sát Holocaust trong xã hội Israel ngược lại đã thực sự tăng lên theo thời gian. Quá trình này rất phức tạp và khó khăn để mô tả trong một vài trang giấy. Tuy nhiên, hiểu biết động lực của nó là điều cần thiết trong bất kỳ khảo sát nào về văn hóa Israel.
Holocaust là thảm họa lớn nhất của dân tộc Do Thái xẩy ra vào cuối những năm 1930 trong Thế Chiến II, khi sáu triệu người Do Thái trên khắp châu Âu bị đưa vào các trại tập trung của Phát xít Đức và bị giết hại bằng hơi ngạt. Năm 1933, Adolf Hitler trở thành quốc trưởng Đức và sau đó quốc gia này rất nhanh chóng mở rộng chương trình bài Do Thái. Hitler với chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Đức đã khơi dậy được lòng tự hào và đồng thuận của người Đức khi khẳng định rằng nguồn gốc của người Đức – người Aryan – là chủng tộc siêu đẳng và những chủng tộc khác, đặc biệt là người Do Thái, là hạ đẳng.
Triết lý của Hitler là chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Hậu quả của triết lý bệnh hoạn này là sáu triệu người Do Thái trên khắp châu Âu đã bị cướp đi mạng sống chỉ trong giai đoạn ngắn ngủi từ 1939-1945. Tại thời điểm này dân tộc Do Thái tưởng như đã bị xóa xổ. Vậy câu chuyện này thực hư như thế nào?
Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các ngôn ngữ Âu châu ngày nay lại có chung nguồn gốc với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ). Nguồn gốc ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European language) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan. Điểm đặc biệt trong lịch sử của người Aryan là gì?
Vào khoảng 1.500 năm trước CN, người Aryan từ vùng cao nguyên Iran đã xâm nhập vùng Tây Bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1.000 năm đầu tiên tại Ấn Độ, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này và đặt ra chữ viết cho nó. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ (còn gọi là tiếng Phạn hay Bắc Phạn để phân biệt với tiếng Pali là Nam Phạn và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo). Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit được lưu giữ trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu[1] mà ngày nay người ta mới biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng, máu mê chiến tranh, và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là “người quí phái” (nobleman) hoặc “chúa đất” (lords of land).
Thực tế thì khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất TCN, các văn bản cổ và di tích khảo cổ cho thấy người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thuật ngữ Iran lấy từ thuật ngữ “Ariana” (tiếng Hy Lạp cổ đã Latin hóa) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: ngôn ngữ cổ Iran và ngôn ngữ Sanskrit. Trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chữ Ariana được gọi là Eran, và trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran.
Một nhánh khác của người Aryan di cư sang châu Âu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Do vậy mà ngôn ngữ của phần lớn người châu Âu ngày nay rất giống nhau – đó là thứ ngôn ngữ có chung nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, Hungary, xứ Basques, Phần Lan, Latvia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga).
Ngôn ngữ Aryan vì thế được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, và người Aryan được gọi là người Ấn-Âu-tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ cũng được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng màu, trong khi người Ấn Độ ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé và nước da tối mầu.
Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học đã lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người châu Âu tiền sử với người Aryan cổ đại.
Như thế, theo dòng lịch sử, người Aryan một phần ở lại Iran, một phần xâm nhập Bắc Ấn, và một phần đã di cư sang Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người châu Âu như ngày nay.
Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan của châu Âu biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại cho đến ngày nay, và đỉnh cao là thảm họa Holocaust. Câu chuyện là như thế này.
Như độc giả đã thấy, các văn bản lịch sử đã cố gắng mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: đó những “người quí phái” hoặc “chúa đất”. Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu. “Thành tích vượt trội” này của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và, trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú” so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920, Chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan” lên đến tầm mức cực kỳ bệnh hoạn: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Darwin về Xã hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng máy móc nguyên lý đấu tranh sinh tồn trong thế giới tự nhiên của Darwin vào xã hội loài người. Học thuyết Darwin về Xã hội cho rằng, cũng như thế giới tự nhiên, xã hội loài người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Lý thuyết “chủng tộc thượng đẳng” của chủ nghĩa Quốc Xã là một quái thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của Học thuyết Darwin về Xã hội cộng với tư tưởng phục thù điên rồ trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Chúng ta nên biết rằng, bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc và mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong cuộc chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn. Đễ chống lại mặc cảm này, những nhà lý luận có đầu óc phân biệt chủng tộc của nước Đức đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan cùng với Học thuyết Darwin về Xã hội đã trở thành “những chất liệu quý giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến thành một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh tuý nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới. Bối cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng Quốc Xã thắng thế vào cuối những năm 1920 đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử.
Một câu hỏi rất phổ biến và gây nhiều tranh cãi là tại sao Hitler và những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đức Quốc xã lại xếp “chủng tộc Do Thái” (mà không phải là dân tộc khác) vào loại hạ đẳng và là đối tượng cần phải bị xóa bỏ. Lời giải thích cho câu hỏi này là như sau.
Chúng ta đều biết rằng sau 2.000 năm lưu vong và phấn đấu giữ gìn bản sắc dân tộc của mình, trong khoảng thời gian từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20, các cộng đồng Do Thái Diaspora ở châu Âu đã có những phát triển rất ngoạn mục. Vào thời gian này, người Do Thái có thể nói là hầu như đã nắm huyết mạch tài chính và ngân hàng của châu Âu và điều này đã gây nên sự khó chịu của rất nhiều chính phủ ở đây. Với trí tuệ và sự năng động, thậm chí là “ranh mãnh”, người Do Thái đã đạt những thành tựu lớn trong mọi lĩnh vực, nhưng cũng vì thế mang đến sự ghen ghét và bị xua đuổi tại một số các quốc gia châu Âu. Liệu Hitler và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của Đức Quốc xã, trong khi tự ngộ nhận mình là “chủng tộc siêu đẳng Aryan” có thể chấp nhận sự tồn tại song song một dân tộc “được Chúa chọn” đầy trí tuệ như dân tộc Do Thái hay không. Câu trả lời là “không”, tuyệt đối “không”. Nếu nước Đức Quốc xã là một “chủng tộc siêu đẳng” nhất, thì sẽ không thể tồn tại một chủng tộc siêu đẳng thứ hai nào khác. “Chủng tộc siêu đẳng” của nước Đức phải là duy nhất. Và kết quả là, như mọi người đã biết, một chiến dịch hủy diệt toàn diện người Do Thái tại các vùng đất Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến II đã được khởi động.
Thêm vào đó, sự bại trận của Đức sau Thế Chiến I, cũng như những thảm họa lạm phát về kinh tế Đức, đều được Hitler đổ lỗi cho người Do Thái. Hitler đặt điều rằng, tất cả mọi vấn đề trên thế giới đều có nguồn gốc từ Do Thái và do người Do Thái gây nên. Phải giải quyết nạn Do Thái Diaspora ở châu Âu như thế nào? Nước Đức Quốc xã của Hitler đã tìm ra một giải pháp rẻ và nhanh: tập trung người Do Thái ở khắp châu Âu vào các trại tập trung và giết bằng hơi ngạt Zyklon B. Cuộc đại thảm sát này, gọi là Holocaust (tiếng Hy Lạp: holokáutoma: holo – “hoàn toàn” – và kausis – “thiêu, đốt”), đã lấy đi sáu triệu mạng người dân Do Thái tức là một phần ba dân số Do Thái lúc đó. Một điều đáng buồn là vào lúc mà người Do Thái cần cứu giúp nhất thì ở nhiều nơi trên thế giới các cánh cửa đã đóng lại với họ. Luật di dân của Mỹ đã ngăn cản họ vào nước Mỹ. Còn đất tổ Palestine, từ năm 1938, đã ban bố “sách trắng” đóng cửa với người Do Thái.
Cũng cần nói thêm rằng bản thân Hitler cũng có “vấn đề rất cá nhân” với người Do Thái. Mặc dù lúc trẻ Hitler cũng từng hàm ơn sự giúp đỡ của một vài người bạn Do Thái, nhưng trong sự nghiệp chính trị về sau, ông ta quay ngoắt tuyên bố là ghét tất cả mọi thứ liên quan đến người Do Thái: đó là một “chủng tộc khác” với một “mùi hôi khác”. Trong cuốn sách sặc mùi phát xít Mein Kampf (Cuộc tranh đấu của tôi), Hitler khẳng định rằng mình bắt đầu trở thành người bài Do Thái kịch liệt ngay từ lúc ở Vienna (thủ đô Áo) khi phát hiện ra rằng người Do Thái là “một nhà đạo diễn toan tính, trơ tráo, và có trái tim đá” gây ra tệ nạn mãi dâm; rằng thế giới âm nhạc và hội họa ở Vienna là do người Do Thái kiểm soát; rằng báo chí của những người theo chủ nghĩa dân chủ xã hội phần lớn là do người Do Thái quản lý… Sự căm ghét bệnh hoạn của Hitler với người Do Thái cứ âm ỉ như thế cho đến khi Hitler lên nắm quyền quốc trưởng của nước Đức và bùng nổ cùng với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và tư tưởng phục thù của Đức Quốc xã.
Trong một thời gian dài sau thảm sát Holocaust, nền văn hóa sáng tạo của Do Thái, ở một góc tối nào đó, đã mang một màu xám ảm đạm, kéo dài cho đến ngày nay. Những ai đã xem bộ phim Schindler’s List (Bản danh sách của Schindler) nổi tiếng của đạo diễn Steven Spielberg được giải Oscars năm 2002, nghe nhạc chủ đề của phim, đều sẽ thấy được một nỗi đau day dứt, âm ỉ không thôi trong tâm khảm mỗi người dân Do Thái. Nỗi đau ấy phải chăng là một lời nguyền đè nặng lên số phận của cả dân tộc Do Thái từ đó và sẽ kéo dài cho đến cả mai sau?
Ở một khía cạnh nào đó, sức nặng của ký ức cay đắng này ngày càng trở nên u uất với thời gian. Rõ ràng vấn đề này sẽ vẫn là một phần không nhỏ của tâm lý Israel và biểu hiện nghệ thuật của nó trong nhiều năm tới.
Bài viết được trích từ cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.
Lịch sử biểu tượng ‘chữ thập ngoặc’ của Đức Quốc Xã
10 lý do vì sao Hitler ghét người Do Thái
10 lý do vì sao Hitler ghét người Do Thái
Có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhằm giải thích vì sao Hitler và Đảng Quốc Xã lại căm ghét người Do Thái đến mức đã giết chết 6 triệu người. Sau đây là 10 lý do, không có cái nào đúng và chính xác hoàn toàn, chỉ Hitler mới có thể trả lời chính xác vì sao ông ta lại ghét người Do Thái đến thế.
Có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhằm giải thích vì sao Hitler và Đảng Quốc Xã lại căm ghét người Do Thái đến mức đã giết chết 6 triệu người. Sau đây là 10 lý do, không có cái nào đúng và chính xác hoàn toàn, chỉ Hitler mới có thể trả lời chính xác vì sao ông ta lại ghét người Do Thái đến thế.
- Hồi nhỏ, khi mẹ ông ta bị bệnh, một bác sĩ người Do Thái đã chữa bệnh nhưng không thành. Điều này khiến Hitler đau lòng và hoài nghi về mức độ trung thực của người Do Thái. — Mức thuyết phục: có thể.
- Ngày xưa, lúc 16 tuổi, Hitler đã có tình cảm với một cô gái Do Thái nhưng cô ta đã không đáp lại tình cả. Điều này làm Hitler có chút ác cảm với người Do Thái. — Mức thuyết phục: không thuyết phục lắm, nhưng có thể.
- Khi ông ta nộp đơn để vào Học Viên Nghệ Thuật Vienna, một giám đốc người Do Thái đã từ chối ông ta. Điều này khiến ông ta rất đau đơn và thất vọng. — Mức thuyết phục: có thể.
- Tư duy ghét người Do Thái đã có từ rất lâu, từ khi người Do Thái bắt đầu di dân sang Châu Âu. Người Do Thái là người trùm ngành tài chính vì giáo lý họ không cấm họ kinh doanh tiền tệ và lấy lãi, một điều trước đây rất cấm kỵ đối với người Thiên Chúa. — Mức thuyết phục: hơi thuyết phục.
- Trong thời điểm đó, phần lớn người Do Thái ở Đức là nhà tri thức, nhà văn, giáo sư, khoa học, kế toán, ngân hàng. Họ là những người có đủ học thức và trình độ khiến họ không bao giờ tin Hitler và Hitler biết rằng ông ta không thể nào thuyết phục và lôi kéo họ. Không lôi kéo họ được thì ghét. — Mức thuyết phục: hơi đúng.
- Người Do Thái là một dân tộc hữu thần. Trái tim của họ đã dành cho Thượng Đế. Họ thuộc về Thượng Đế chứ không phải một người hay tổ chức nào. Nên Đảng Quốc Xã theo lẽ tự nhiên đã là địch thủ của họ trong tư tưởng. — Mức thuyết phục: cũng rất đúng.
- Hitler và giới sĩ quan quân lực Đức cần một thứ, một người, một nguyên nhân hay một cái gì đó để biện hộ và đổ lỗi cho sự thất bại của họ trong Thế Chiến Thứ Nhất. Vì thuyết âm mưu Do Thái đã có từ rất lâu, nên họ dùng đó làm đòn bẩy để thuyết phục và tuyên truyền mục đích chính trị của họ. Khi đã có một sự biện hộ, đối với một đám đông không suy nghĩ thì sự thật không quan trọng nữa. — Mức thuyết phục: rất đúng trong thời đó.
- Hitler và những người Đức Quốc Xã ghen ăn tức ở với sự thành công của người Do Thái ở Đức. Họ không thể chịu được và chấp nhận được rằng những người nước ngoài có thể thành công hơn họ trong chính đất nước của họ. Như đã nói, phần lớn người Do Thái là tri thức và những người rất thành đạt và nằm ở đỉnh cao của sự nghiệp ở Đức. Người Do Thái là người nước ngoài mà thành công vượt bậc hơn đại đa số người Đức bản xứ. Ghen ăn tức ở, nên ghét. — Mức thuyết phục: rất thuyết phục.
- Những người gốc Do Thái là những người sinh ra và phát triển phong trào cộng sản. Karl Marx là người gốc Do Thái, Lenin cũng có máu Do Thái. Nhiều nhà lãnh đạo phong trào cộng sản ở Đức lúc bấy giờ là người gốc Do Thái. Hitler muốn đập tan đối thủ của mình, phe cộng sản, nên đã nhắm vào người Do Thái và cho rằng họ dẫn dắt phong trào cộng sản. — Mức thuyết phục: rất thuyết phục.
- Nguyên nhân thuyết phục nhất chính là ‘Người Do Thái không hề đánh trả lại.’ Người Do Thái thời đó rất hiền và ôn hòa. Họ chỉ muốn cho qua chuyện, họ không hề phản đối công khai hay đánh trả lại. Sự hiền lành này đã khiêu khích Hitler và Quốc Xã đổ lỗi cho mọi vấn đề lên họ. Người Do Thái lúc đó hiền đến độ khi Hitler ra lệnh họ phải thêu Ngôi Sao David lên áo, họ cũng tuân thủ. Khi quân SS ra lệnh bắt họ đi vào những trại tử hình, họ cũng làm theo mà không đánh trả lại. — Mức thuyết phục: rất rất thuyết phục.
Tiết lộ về người Do Thái duy nhất Hitler muốn cứu
(TNO) Một bức thư lạ lùng đã tiết lộ
chuyện một chỉ huy từ thời Thế chiến thứ nhất của trùm phát xít Adolf
Hitler đã tránh khỏi cuộc tàn sát của Quốc xã Đức bất chấp nguồn gốc Do
Thái của ông.
Theo tờ Daily Mail hôm 5.7, Hitler đã ra lệnh cho tổ chức vũ trang SS để yên cho vị thẩm phán người Do Thái vì Hess từng là chỉ huy của ông trong Thế chiến thứ nhất.
Hitler vốn rất tự hào về thời kỳ quân ngũ tại Mặt trận phía Tây của hắn ta. Thế nên, trong khi khoảng 6 triệu người Do Thái chết trong nạn diệt chủng Holocaust theo ý của Hitler, Hess đã được phép sống.
Con gái của Hess tên Ursule, hiện 86 tuổi, đã tiết lộ câu chuyện đáng kinh ngạc sau khi một tờ báo khám phá được bức thư gửi theo lệnh của Hitler yêu cầu không “hành hạ hoặc trục xuất” Hess.
Hồ sơ của lực lượng mật vụ Gestapo ở thành phố Dusseldorf về ông này bao gồm một lá thư từ Heinrich Himmler, người đứng đầu lực lượng SS và Gestapo, vào ngày 27.8.1940, nói rằng Hess phải được “cứu trợ và bảo vệ theo ý nguyện của Quốc trưởng”.
Ernst Moritz Hess, sinh năm 1890, đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh dự bị Bavaria số 2 vào lúc khởi đầu Thế chiến thứ nhất, cùng đơn vị mà Hitler tình nguyện gia nhập.
Cả hai được triển khai đến mặt trận Flanders vào mùa thu năm 1914, phục vụ trong đơn vị được biết dưới tên Trung đoàn List cho đến năm 1918.
Hess bị thương nặng vào tháng 10.1914 và bị thương thêm một lần nữa vào tháng 10.1916. Trong mùa hè năm đó, Hess tạm thời đảm nhận vai trò chỉ huy đại đội của Hitler.
Mặc dù theo đạo Tin lành, mẹ của Hess là một người Do Thái và theo Luật Chủng tộc Nuremberg của Quốc xã Đức, Hess được xem là một người Do Thái.
Theo luật, ông bị buộc rời chức thẩm phán vào năm 1936. Gia đình ông từng chứng kiến ông bị đánh đập bên ngoài ngôi nhà của họ trong năm đó.
Ông đã gửi kiến nghị đến Hitler vào năm 1936 xin được miễn trừ áp dụng luật chủng tộc cho ông và con gái.
Hess qua đời ở thành phố Frankfurt vào ngày 14.9.1983 sau một sự nghiệp thành công thời hậu chiến ở Tây Đức.
Ông từng đưa gia đình đến thành phố Bolzano ở Ý vào tháng 10.1937 song bị buộc trở về vào năm 1939. Hy vọng mối quan hệ với Hitler sẽ giúp ông được an toàn, Hess đã chuyển gia đình đến một ngôi làng hẻo lánh ở bang Bavaria, miền đông nam nước Đức vào giữa năm 1940.
Một bản sao bức thư Himmler gửi cho lực lượng mật vụ Gestapo ở thành phố Dusseldorf được trao cho ông.
Tuy nhiên, vào cuối tháng 6.1941, Hess bị lực lượng SS ở thành phố Munich triệu tập. Khi trưng ra bức thư “hộ mệnh”, nó đã bị lấy đi và ông được thông báo rằng chỉ thị đã được hủy bỏ vào tháng 5.1941 và ông lúc đó chỉ là “một người Do Thái như những người khác”.
Sơn Duân


Nhận xét
Đăng nhận xét