Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là
những biểu tượng. Người Việt gọi hai biểu tượng này bằng hai tên gọi
khác nhau, nhưng người Tây phương đều gọi là Swastika, vì cả hai có hình
thức bề ngoài hoàn toàn giống nhau. Một số tài liệu Phật giáo, thậm chí
cả một số Bách khoa toàn thư, đã cố gắng chứng minh rằng hai biểu tượng
này có hình dạng khác nhau – khác nhau về chiều quay và khác nhau về tư
thế thẳng đứng hoặc nghiêng: Chữ Vạn quay thuận chiều, “chữ thập ngoặc”
quay ngược chiều; Chữ Vạn thẳng đứng, “chữ thập ngoặc” đổ nghiêng.
Nhưng thực tế không đúng như thế: Chữ “Vạn” của Phật giáo sử dụng cả hai
chiều quay trái ngược nhau, “chữ thập ngoặc” của Đức Quốc Xã sử dụng cả
hình đứng lẫn hình nghiêng. Tóm lại về hình thức bề ngoài, hai biểu
tượng này hoàn toàn giống nhau. Vì thế, cần tìm hiểu vì sao có sự “trùng
lặp” khó hiểu như vậy. Tuy nhiên, tìm hiểu lịch sử của Swastika chúng
ta sẽ thấy rằng:
● Swastika đã xuất
hiện từ thời cổ đại, ngay từ đầu nó không chỉ là biểu tượng của riêng
Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác
nhau.
● Swastika của Đức
Quốc Xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ
liên quan đến Swastika của người Aryan.
Vậy để tránh nhầm
lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là
Swastika. Chữ Vạn sẽ chỉ được dùng khi đề cập đến Swastika của Phật
giáo.
Vậy Swastika có xuất
xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao
Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi cần
được trả lời.
PHẦN I: TỪ SWASTIKA ĐẾN ARYAN
I.1-Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika:
Swastika là một
trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được
phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại
khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số
vùng trong thung lũng Indus. Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm
và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành T’roa (Troy), chứng tỏ nó
đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N.
Mặc dù chưa ai vẽ ra
được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại,
nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có
mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên
gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp – tetraskelion,
tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz,
tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là
swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng
Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ.
Trong tiếng
Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có
nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay
sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt
lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being).
Charles Messenger
trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of
World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và
sáng tạo (creativity).
Swastika trong nghệ
thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư, nhưng
Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện
sự thiêng liêng cao cả.
Phật giáo đã thừa
hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất
hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái
bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternity).
Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết:
Theo truyền thuyết
cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32
tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt.
Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32
tướng tốt của Phật. Theo kinh Trưòng A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16
nằm trước ngực của Phật.
Tại Nhật Bản, chữ
Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân
bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong
đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và
lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể
hiện sức mạnh và trí thông minh.
Tại Nam Âu, khu vực
tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các
công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu
vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận
thời trung cổ.
Dấu vết Swastika
cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic
hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất
xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều
thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá
này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng
thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu.
Cần đặc biệt chú ý
rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn
được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và
ngôn ngữ Ấn-Âu là gì?
I.2-Ngôn ngữ Aryan và người Aryan:
Những người ít quan
tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các
thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng
Hindi (tiếng Ấn Độ).
Thuỷ tổ ấy là ngôn
ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của
những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa
vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự
gọi mình là người Aryan.
Vào khoảng 1500 năm
trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một
nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ
đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là
ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi,
ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit.
Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được
trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta
biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan
có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và
bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú quý
(nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)!
Một nhánh khác của
người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ
ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống
nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc
Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia, và một
vài nhóm nhỏ ở Nga).
Vì thế ngôn ngữ
Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu
tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là
người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền
nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn.
Việc khám phá ra
ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá
vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết
rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp”
vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với
họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao
vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ
đại.
Dân tộc Iran ngày
nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ,
hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người
Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh
nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?.
Đây là câu trả lời.
Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã
có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ
Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của
người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit
và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy
chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại,
được gọi là Iran.
Nhà triết học nổi
tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of
history) rằng: “Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các
di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền
văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây.
Tóm lại, người Aryan
một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di
cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản
địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay.
Tuy nhiên, khái niệm
“người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng
thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị
xã hội vô cùng tệ hại.
I.3-Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”:
Như độc giả đã thấy,
các văn bản đã cổ gắng mô tả người Aryan là những người có những “ưu
điểm vượt trội”: những người “phú quý” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong
thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á
sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ
theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong
con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan
race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng
tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit
học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi
không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói
cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi
là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi
giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm
“chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học.
Đến những năm 1920,
chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực
kỳ phản động: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race)
có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một
học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Darwin-xã-hội
(Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên
lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người.
Nhưng tại sao Đức Quốc Xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng?
Trước khi biết rõ
bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu
tượng cho đảng Quốc Xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây:
Cuối thế kỷ 19, nhà
khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika
trên đống đổ nát của thành T’roa, trong một công trình nghiên cứu công
phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng
quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách
khác:
Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan!
PHẦN II –TỪ HỌC THUYẾT BỆNH HOẠN ĐẾN SWASTIKA CỦA QUỶ DỮ
Lý thuyết “chủng tộc
thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa Quốc Xã (nazism) là một quái
thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện
tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của một “bà mẹ bệnh hoạn” – Học thuyết
Darwin-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố điên rồ” – Tư
tưởng phục thù (Feeling of Revenge) trong xã hội Đức sau Thế Chiến I.
Khi đã có Học thuyết
Darwin-xã-hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc Đức” thành
“chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa Quốc Xã
chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler
đã tìm thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan!
Vậy trước hết hãy tìm hiểu xem Học thuyết Darwin-xã-hội là gì?
II.1-Học thuyết Darwin-xã-hội:
Học thuyết
Darwin-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hoá thông qua
quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn,
khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có
quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi
trường sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách máy móc
Thuyết tiến hoá của Darwin vào trong xã hội loài người.
Không phải ngẫu
nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn
lan chủ nghĩa thực chứng (positivism) vào trong xã hội học.
Chủ nghĩa thực chứng
do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ những thập kỷ đầu tiên của thế
kỷ 19, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở thành khoa học
thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế.
Với thắng lợi trong
khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã tạo ra tinh thần lạc quan
mạnh mẽ trong thế kỷ 19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích
hành vi của số đông (en masse behaviour) bằng những quy luật của tự
nhiên.
Đúng lúc đó, Thuyết
tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng
Thuyết tiến hoá của Darwin để giải thích sự tiến hoá của xã hội loài
người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loại người cũng phải tiến hoá
theo quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết
Darwin-xã-hội.
Học thuyết Darwin-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin không?
Trước đây tôi luôn
luôn nghĩ rằng Darwin chỉ nêu lên quy luật tiến hoá trong xã hội loài
vật mà thôi. Việc đem lý thuyết của ông áp dụng một cách máy móc vào xã
hội loài người là việc làm của những kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc.
Nhưng gần đây, tôi phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo “What Darwin
taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên
tạp chí SIGNS of the Times ở Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả
đã trích nguyên văn một phát biểu của Darwin như sau:
“Trong một tương lai
không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài
người hầu như sẽ tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã man trên thế
giới”.
Có thật Darwin đã
nói như thế hay không? Trong bài báo nói trên, Kent nói rõ rằng câu nói
này nằm trong cuốn On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài), tác
phẩm nổi tiếng nhất của Darwin. Nếu đúng như thế thì không thể trách
tại sao ở Phương Tây hiện nay, một nửa giới khoa học chống lại Darwin.
Liệu một lý thuyết thực sự khoa học có thể bị một nửa thế giới chống lại
nó hay không? Điều này chúng ta không hề thấy ở các học thuyết khác,
như Cơ học Newton, Thuyết tương đối của Einstein, Cơ học lượng tử của
Bohr-Heisenberg, v.v.
Ngay từ năm 1934, Lý
Tôn Ngô đã viết trong cuốn “Hậu Hắc Học” rằng “Darwin phát minh (ra học
thuyết) sinh vật tiến hoá cũng như Newton phát minh ra “Sức hút của quả
đất”, là những công thần lớn của giới học thuật, điều ông nói “Muốn
sinh tồn phải cạnh tranh mạnh được yếu thua” là một điều không khỏi lệch
lạc, cần uốn nắn lại”.
Than ôi, nhân loại
chưa kịp uốn nắn thì đã xẩy ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai thảm
khốc chưa từng có – một cuộc chiến tranh bắt nguồn trực tiếp từ một đầu
óc bệnh hoạn về đấu tranh sinh tồn dựa trên học thuyết Darwin!
Những người quen
sùng bái Darwin như ông thánh sẽ dẫy nẩy lên khi thấy ông thánh của mình
bị kết tội, nhưng chắc chắn họ không thể tranh cãi với Kent khi ông đặt
dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao Hitler lại không được
bào chữa về mặt khoa học?”. Theo Kent, chủ nghĩa Quốc Xã Đức đã từng lý
luận rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động vật thì tại sao chúng ta không
hành động theo quy luật (đấu tranh sinh tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con
mắt của chủ nghĩa Quốc Xã, con người trước hết là một động vật, do đó
mọi hành vi trước hết phải tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn – một
quy luật bất khả kháng của tự nhiên (!!!). Nếu Darwin đúng và nếu con
người là một bộ phận của thế giới động vật thì cớ gì con người không
tuân thủ những “định luật tiến hoá” của Darwin? Đó là một câu hỏi quá
khó đối với tư duy khoa học logic máy móc – kiểu tư duy chủ yếu đến nay
vẫn thống trị trong thế giới khoa học!
Ngày nay, khi Học
thuyết Darwin-xã-hội đã lộ nguyên hình là một học thuyết bệnh hoạn,
không ai có thể chấp nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học thuyết thuần
tuý sinh học để đem áp dụng vào xã hội loài người một cách thô thiển và
đơn giản đến như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một sự thật đã diễn ra
vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chúng ta không thể được phép
quên!
Thật vậy, vào đầu
thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt cứng sinh viên ngồi nghe
các giáo sư trình bầy Học thuyết Darwin-xã-hội. Trong đám thính giả có
rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương gia và các lãnh tụ của nhà
nước Đức. Một trong số đó là Heinrich Himmler, kẻ sau này trở thành
cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS – bộ máy tàn sát chủng tộc
khét tiếng của Nazi.
Bối cảnh ấy thúc đẩy
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh
mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng Quốc Xã thắng thế vào cuối những
năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third
Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một
chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử.
II.2-Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù:
Bước vào thế kỷ 19,
trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng
mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến
năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới
trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế
muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua
kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những
nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức
trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm
trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc hơn nữa. Đễ chống lại căn bệnh tủi hổ
này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới lên những học
thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa
dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức
mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới.
Trong bối cảnh ấy,
Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết Darwin-xã-hội đã trở
thành “những nguyên liệu quý giá” để những nhà lý thuyết và chính trị
theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc
trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thuỷ tổ của người Đức,
người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh tuý nhất của người
Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới.
Một trong những kẻ
đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg. Rosenberg coi
“chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ thống
các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi “chung tộc Do
Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn minh thuần
nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc
Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn hoá
và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ
gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi. Rosenberg sau này đã
trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng
Quốc Xã, đồng thời làm bộ trưởng Quốc Xã phụ trách khu vực chiếm đóng ở
Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án
tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946.
Từ điển Lịch sử thế
giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994
viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức
như là bộ phận tinh tuý nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người
cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của
nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa Quốc Xã khẳng định rằng thế giới được
chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó
người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn
hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là
người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang
661)”.
Một khi đã tự nhận
mình là hậu dệ tinh tuý nhất của người Aryan thì đương nhiên, những kẻ
theo chủ thuyết chủng tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika là biểu tượng của
họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ trước: Nhà khảo cổ học
Heinrich Schliemann đã khám phá ra rằng Swastika là một biểu tượng đặc
trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó là lý do để chủ nghĩa
Quốc Xã đã chộp lấy Swastika để biến thành biểu tượng của chúng.
II.3-Swastika rơi vào tay quỷ dữ:
Cuối thế kỷ 19,
Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc xuất
bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng
chính thức của những vận động viên thể thao Đức.
Đầu thế kỷ 20,
Swastika của người Aryan đã trở thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa
dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm thấy ở nhiều nơi như
biểu tượng của Wandervogelb – một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp chí
Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels;
trên nhiều đơn vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội
Thule.
Nhưng Swastika chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ dữ kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng đó.
Sau hai lần thi
trượt vào Đại học Mỹ thuật vì bị phê là “thiếu tài năng”, Hitler rất hậm
hực bất mãn. Năm 1909, Hitler rơi vào cảnh nghèo túng, nhưng được một
người Do Thái là Hanisch giúp kiếm sống bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho
du khách (tổng cộng trước Thế Chiến I, hắn đã bán được 2000 bưu thiếp).
Trớ chêu thay, chẳng bao lâu sau Hitler đã phản bội lại người giúp đỡ
mình khi hắn say mê với những lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi người Do
Thái là kẻ thù của người Aryan và phải chịu trách nhiệm về những khủng
hoảng trong nền kinh tế Đức.
Đến những năm 1920,
khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng Quốc Xã, hắn thấy đảng này cần phải có
một lá cờ và biểu tượng riêng của nó.
Năm 1923, Hitler bị
phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính phủ. Trong tù, hắn viết tác
phẩm “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi), trong đó viết: “Lá cờ mới
phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của chúng ta, đồng thời
có hiệu quả cao như một áp-phích tuyên truyền”. Không những thế, vốn
xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể của lá
cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một
hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf: “Mầu trắng thể hiện tư
tưởng dân tộc, biểu tượng Sawstika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng
lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến thắng của tinh thần sáng
tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”.
Chẳng bao lâu sau,
Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng Quốc Xã,
chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa Quốc Xã, bao gồm cả những
kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh
nước Đức, sau đó là chiếm lĩnh châu Âu.
II.4-Kết:
Đến đây độc giả thấy
rõ chính đích thân Hitler đã chọn Swastika của người Aryan làm biểu
tượng cho đảng Quốc Xã. Từ năm 1933, khi đảng Quốc Xã thắng cử ở Đức,
Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III, thì Swastika trở thành
biểu tượng của cả nhà nước Quốc Xã và quân đội Quốc Xã. Kể từ đó,
Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau Thế Chiến II, Swastika bị
cấm phô bầy tại rất nhiều nước Âu châu.
Trong thời đại hiện
nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các quốc gia, các sắc tộc,
các vùng địa lý, các truyền thống văn hoá khác nhau ngày một phát triển,
thì hai nhận thức khác nhau về Swastika đã gây nên những hiểu lầm và va
chạm rất đáng tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra xung đột. Chỉ có một cách
duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung đột này là mọi người phải biết
rõ lịch sử của Swastika, để có thể phân biệt được đâu là Swastika của
cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ dữ. Vì thế, lịch sử là một khoa học
rất cần thiết đối với nhận thức nói chung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét