Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018
LẦY (Đăng lại)
Tuổi Đá Buồn - Khánh Ly
Tao không nốc rượu triền miên
Chỉ khi trời lặn trăng lên mới...lầy
Hũ chìm thì... đúng là đây
Nhưng ai bảo nghiện, thằng này chửi cho...
Nghiện rồi thì đố mà lo
Còn tao đang dựng cơ đồ đấy thôi?
Suốt ngày đít bệt chỗ ngồi
Đầu bay lêu lổng khắp nơi Hoang Đường
Cần cù sàng sẩy Yêu Thương
Rải ra tứ xứ mười phương dòng đời
Không rao bán, chẳng chào mời
Ngất nga ngất ngưởng trao người thiên duyên...
Tao không nốc rượu triền miên
Tại chiều cô lạnh cho nên... thích lầy...
Tao sống thế, đúng hay sai?
Không biết...Híc, híc...híc,...lại say!...
Trần Hạnh Thu
Nguyên văn
Dịch nghĩa Dịch ra song thất lục bát - Trần Trọng Kim - Ngô Tất Tố - Tchya Dịch ra hát nói - Khuyết danh Dịch ra lục bát - Thu Tứ |
Tết
hết lâu rồi mà vẫn rượu chè ư?(1)
Ấy, chỉ mới ngày Tết
hết chứ ngày xuân đâu đã hết.
Với lại, đây là "rượu thơ" chứ có phải rượu thực đâu, mà sợ "say sưa nghĩ cũng hư đời".(2) Nói vậy chứ thơ đọc nhiều quá, có khi cũng say đấy. Thử đọc cả năm bản dịch bài Tương Tiến Tửu sau đây một hơi xem. Được cái, đọc thơ dù có say chắc cũng không đến nỗi nào. À, hẳn có người lấy làm lạ: Nhà Thơ Rượu Ta dịch nhiều thơ Tàu, sao lại không dịch cái bài rất nổi tiếng này của Nhà Thơ Rượu Tàu nhỉ?(3) Ai biết. Họa chăng núi Tản sông Đà... Nguyên văn Tương Tiến Tửu Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng laiDịch nghĩa (4) Sắp Mời Rượu Bạn chẳng thấy sao: nước sông Hoàng Hà từ trên trời rơi xuốngDịch ra song thất lục bát Trần Trọng Kim: Anh chẳng thấy Hoàng Hà nước nọ,Ngô Tất Tố: Con sông Hoàng lưng trời tuôn nước,Tchya: Há chẳng thấy trên trời sa xuống,Dịch ra hát nói Khuyết danh: Biết chăng ai:Dịch ra lục bát Thu Tứ: Kìa trông nước rớt lưng trời______________ (1) Bài này viết ngày 13 tháng Giêng năm Nhâm Thìn (2012). Nhưng bản dịch Tương Tiến Tửu ra thơ lục bát thì đã hoàn tất từ nhiều năm trước. (2) Trong bài Lại Say của Tản Đà. (3) Nhà Thơ Rượu Ta: Tản Đà. Nhà Thơ Rượu Tàu: Lý Bạch. (4) Tham khảo: Đường thi của Trần Trọng Kim và Thơ Đường (nxb. Văn Học, VN, 1987). |
Bài thơ tuyệt tác kinh điển của Lý Bạch, xưa nay chưa ai dám học theo
Lý
Bạch (701 – 762), tự Thái Bạch, được đánh giá là một trong những ngôi
sao chói lọi nhất của thi ca thời Đường. Ông được người đời sau tôn kính
gọi là “Thi Tiên”, đã làm hàng ngàn bài thơ. Thơ Lý Bạch thấm đẫm phong
cách lãng mạn, trữ tình, phong thái siêu trần, thoát tục, từ hàng ngàn
năm qua đã in sâu vào lòng độc giả Á Đông.
Lý Bạch
được người đời gọi là Trích Tiên Nhân (ông Tiên bị giáng đày xuống trần
gian), cũng được ca ngợi là Thi Tiên (ông Tiên thơ ca), được Đỗ Phủ miêu
tả trong bài “Ẩm trung bát Tiên ca” (bài ca 8 vị Tiên đang uống rượu):
Tuý trung vãng vãng ái đào thiền.Lý Bạch nhất đấu thi bách thiên,
Trường An thị thượng tửu gia miên.
Thiên tử hô lai bất thướng thuyền.
Dịch thơ:
Trốn thiền khi rượu đã say,
Lý Bạch một đấu thơ ngay trăm bài.
Trường An quán rượu ngủ ngay,
Lên thuyền vua gọi nằm dài không lên.
Các
tuyệt tác thi ca xưa thường được coi là kinh điển, được người đời sau mô
phỏng học tập. Nhưng Lý Bạch có một bài tuyệt tác kinh điển mà xưa nay
không ai dám học, vì không thể học theo nổi.
Đây là
bài thơ tống biệt nổi tiếng nhất của ông, cũng là một trong những bài
tiễn biệt bằng hữu nổi tiếng nhất trong lịch sử thơ ca Á Đông.
Chữ Hán:贈汪倫
李白乘舟將欲行,
忽聞岸上踏歌聲。
桃花潭水深千尺,
不及汪倫送我情
Âm Hán Việt:
Tặng Uông Luân
Lý Bạch thừa chu tương dục hành,
Hốt văn ngạn thượng đạp ca thanh.
Đào hoa đàm thủy thâm thiên xích,
Bất cập Uông Luân tống ngã tình.
Dịch nghĩa
Lý Bạch ngồi thuyền chuẩn bị khởi hành,
Bỗng nghe thấy tiếng hát và tiếng giậm chân theo điệu “Đạp ca” trên bờ.
Nước đầm hoa đào sâu nghìn thước,
Cũng không sâu bằng tình cảm Uông Luân đến tiễn biệt tôi
Dịch thơ
Lý Bạch lên thuyền sắp khởi hành,
Bỗng nghe giọng hát đạp ca thanh.
Hoa đào đầm nước sâu ngàn thước,
Uông Luân đưa tiễn chứa chan tình.
Đây là
bài thơ Lý Bạch viết tặng lúc tiễn biệt người bạn thân Uông Luân vào năm
Thiên Bảo thứ 14 (năm 755) khi du ngoạn Kinh huyện (phía nam An Huy
ngày nay). Uông Luân là huyện lệnh huyện Kinh, Lý Bạch đến thăm, Uông
Luân khoản đãi, lưu luyến không lỡ từ biệt. Sau này Uông Luân từ quan về
ở bên đầm hoa đào huyện Kinh, Lý Bạch đến thăm bạn và sáng tác bài này.
Bài thơ này đối với Lý Bạch mà nói, là một sự hiểu lầm. Uông Luân biết Lý Bạch là nhã sỹ phong lưu, nên gửi thư rằng “Tiên sinh thích du ngoạn à? Ở đây có mười dặm đào hoa. Tiên sinh thích uống rượu à? Ở đây có vạn gia tửu điếm (vạn quán rượu)”.
Lý Bạch xem thư cho rằng đó là nơi rất đáng đi ngao du, nên nhận lời
mời đến nơi. Đến nơi, Uông Luân mới cho biết, cái gọi là “mười dặm đào
hoa” là đầm nước có tên đầm hoa đào (Đào hoa đàm), cái gọi là “vạn gia
tửu điếm” (vạn quán rượu) chỉ là một quán rượu có tên “Vạn gia” mà thôi.
Lý Bạch phóng khoáng thong dong, vui cười ha hả, Uông Luân giữ lưu lại
mấy hôm, tặng 8 con tuấn mã và 10 súc gấm. Lý Bạch cảm động thành ý bạn,
sáng tác bài thơ tuyệt cú này.
Trong thơ, đầu tiên miêu tả tình cảnh Lý Bạch lên thuyền chuẩn bị xuất phát, Uông Luân hát điệu Đạp ca (vừa đi vừa hát vừa giậm chân làm nhịp phách) đến tiễn đưa, tình cảm thuần phác chân thành.
Hai câu
cuối nhà thơ đầu tiên dùng “thâm thiên xích” (sâu ngàn thước) khen đầm
hoa đào nước trong sâu thẳm, sau đó tiếp bằng hai chữ “bất cập” (không
bằng), lấy tình bạn vô hình so sánh với đầm nước sâu ngàn thước hữu
hình, biểu đạt tình bạn Uông Luân đối với ông. Cả bài thơ, ngôn ngữ mới
mẻ, trong trẻo, tự nhiên, làm cho người đọc suy ngẫm vô cùng. Tuy chỉ 4
câu 28 chữ, mà lại sảng khoái lòng người, là một trong những bài được
lưu truyền rộng rãi của thi nhân họ Lý.
Ngôn từ
bài thơ rất dung dị, mộc mạc, như lời nói vẫn gặp thường ngày, nhưng qua
tay Lý Bạch, nó đã trở thành bài thơ kinh điển, được người đời ca ngợi
là “Không gọt không giũa, tự nhiên thành vần điệu, lời nói từ tình cảm hết sức chân thành, cho nên trở thành tuyệt diệu”.
Phép tắc thơ cổ đại là “Lời kỵ thẳng, ý kỵ nông, mạch kỵ lộ, vị kỵ ngắn”.
Nhưng với bài thơ này, Lý Bạch “phạm” các kiêng kỵ phép tắc thơ ca :
thẳng thắn, dung dị, bộc lộ. Ông “lời thẳng”, “mạch lộ”, nhưng “ý chẳng
nông”, “vị càng nồng”. Cũng chính vì “Phạm kỵ húy” như thế này mà người
đời sau không ai dám bắt chước học theo, vì có học có lẽ cũng chẳng
thành.
Triêu LộLại Rượu và Thơ
Thân tặng các bằng hữu Mossard và Taberd với những kỷ niệm thuở học trò.
Trong bài trước, sau cuộc trà dư tửu hậu, tôi mới có chuyến du lịch trong tâm tuởng: từ bên Tây với rượu ngon bậc nhất trên đời, đến bài thơ Đường xưa cổ cao vời và kết thúc bằng bài cải lương nước Nam bình dân mà thấm thiết, chung qui cũng về rượu và thơ. Tôi nghĩ rằng đó là tam tuyệt (the three classics) của ba chốn khác nhau. Rượu và Thơ khắn khích từ lâu và là đề tài muôn thưở… Trong bài này tôi ghi lại những vần thơ cũ vẫn lại rượu và thơ để làm tài liệu khởi nguồn cho những cuộc mạn đàm trong bàn tiệc sau này…
Trong bài trước, sau cuộc trà dư tửu hậu, tôi mới có chuyến du lịch trong tâm tuởng: từ bên Tây với rượu ngon bậc nhất trên đời, đến bài thơ Đường xưa cổ cao vời và kết thúc bằng bài cải lương nước Nam bình dân mà thấm thiết, chung qui cũng về rượu và thơ. Tôi nghĩ rằng đó là tam tuyệt (the three classics) của ba chốn khác nhau. Rượu và Thơ khắn khích từ lâu và là đề tài muôn thưở… Trong bài này tôi ghi lại những vần thơ cũ vẫn lại rượu và thơ để làm tài liệu khởi nguồn cho những cuộc mạn đàm trong bàn tiệc sau này…
o0o
Trở về dĩ vãng, văng vẳng còn nghe câu hò say sưa:
Còn trời còn nước còn non,
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Còn cô bán rượu, anh còn say sưa.
Say sưa tối ngày là điều xấu, tục ngữ “rượu vào lời ra” ám chỉ cách giới phàm phu uống rượu và ca dao cũng đồng ý:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu… nói dai tối ngày.
Sợ thằng say rượu… nói dai tối ngày.
Đó là hình ảnh thường thấy trong xã hội nông nhiệp ngày xưa: sau mùa gặt lúa người xưa dành cả ba tháng ăn chơi, gồm cả tháng rượu chè:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi,
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè…
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè…
Đọc lại những bài thơ cũ, tôi nhớ đến nhà thơ Sông Đà Núi Tản trong bài Thơ Rượu. Say sưa của thi sĩ có vẻ nên thơ hơn nhiều
Thương ai cho bận lòng đây?
Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ!
Cảnh đời gió gió mưa mưa,
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn.
Rượu say thơ lại khơi nguồn,
Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng tình.
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái hình phù du.
Trăm năm thơ túi rượu vò,
Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai?"
(Tản Đà, Thơ Rượu)
Cho vơi hũ rượu cho đầy túi thơ!
Cảnh đời gió gió mưa mưa,
Buồn trông, ta phải say sưa đỡ buồn.
Rượu say thơ lại khơi nguồn,
Nên thơ, rượu cũng thêm ngon giọng tình.
Rượu thơ mình lại với mình,
Khi say quên cả cái hình phù du.
Trăm năm thơ túi rượu vò,
Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai?"
(Tản Đà, Thơ Rượu)
Thơ túi rượu bầu là hình ảnh của người đã thoát vòng danh lợi và là phần thưởng của kẻ đã trả xong nợ đời
Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo,
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
(Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ)
và …
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.
(Thoát vòng danh lợi - Nguyễn Công Trứ)
…
Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
(Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan) (1)
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
(Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ)
và …
Hẹn với lợi danh ba chén rượu,
Vui cùng phong nguyệt một bầu thơ.
(Thoát vòng danh lợi - Nguyễn Công Trứ)
…
Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
(Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan) (1)
Nhưng thơ và rượu cũng là đề tài của người chờ thời hay của kẻ thất thời
Trời đất sinh ra rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
(Ngày xuân thơ rượu - Tản Đà)
Không thơ không rượu sống như thừa
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
(Ngày xuân thơ rượu - Tản Đà)
Hay là cái sự say sưa với rượu của kẻ bất cần đời?
… Say sưa nghĩ cũng hư đời,
Hư thì hư vậy, say thì cứ say,
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?
(Lại say - Tản Đà)
Hư thì hư vậy, say thì cứ say,
Đất say đất cũng lăn quay,
Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười?
(Lại say - Tản Đà)
Nhớ bạn, nhớ rượu, nhớ văn thơ nhưng không uống và viết vì chẳng có người tri kỷ để hiểu lòng mình:
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
(Khóc bạn - Nguyễn Khuyến)
Không mua, không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa.
(Khóc bạn - Nguyễn Khuyến)
Nhưng nếu gặp người tâm đầu, thì nếu có say, chẳng qua là vì tình nghĩa. Ca dao có giải thích tại sao phải uống để thật say để trọn tình với người đối ẩm
Say là say nghĩa say nhân
Say thơ Lý Bạch say đàn Bá Nha
Say thơ Lý Bạch say đàn Bá Nha
Trong cổ văn ngày xưa, “cầm kỳ thi tửu” là mấy món ăn chơi của người thanh lịch. Đàn và cờ, thơ và rượu bổ túc cho nhau
Cầm tứ tiêu nhiên, Kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, Tửu hoài nồng.
(Cầm kỳ thi tửu - Nguyễn Công Trứ) (2)
Tiếng đàn hay, làm cờ sáng nước,
Ý thơ vui, vì rượu say nồng.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Ðế Thích là làng tri âm.
Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Ðịch lầu thu đường gã Tiêu Lang,
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng…
(Cung oán ngâm khúc)
Thi hoài lạc hĩ, Tửu hoài nồng.
(Cầm kỳ thi tửu - Nguyễn Công Trứ) (2)
Tiếng đàn hay, làm cờ sáng nước,
Ý thơ vui, vì rượu say nồng.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Thi, cầm, kỳ, tửu cũng được nhắc đến trong Cung oán ngâm khúc
…Câu cẩm tú đàn anh họ Lý,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương,
Cờ tiên rượu thánh ai đang,
Lưu Linh, Ðế Thích là làng tri âm.
Cầm điếm nguyệt phỏng tầm Tư Mã,
Ðịch lầu thu đường gã Tiêu Lang,
Dẫu nghề tay múa miệng xang,
Thiên tiên cũng xếp nghê thường trong trăng…
(Cung oán ngâm khúc)
Vũ Hoàng Chương mượn rượu để tiêu sầu, nhưng cái sầu càng sâu đậm thêm, có chép lại
Có ai say để quên sầu,
Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn
và…
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai ?
(Ðời vắng em rồi - Vũ Hoàng Chương)
Lòng ta lảo đảo càng sâu vết buồn
và…
Em ơi lửa tắt bình khô rượu
Ðời vắng em rồi say với ai ?
(Ðời vắng em rồi - Vũ Hoàng Chương)
Rượu là một trong ba cái lăng nhăng trong đời của Tú Xương:
Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ đấy,
Họa chăng chừa rượu với chừa trà.
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được thứ nào hay thứ đấy,
Họa chăng chừa rượu với chừa trà.
Nguyễn Du, trong Truyện Kiều, có đoạn tả đến Thúy Kiều mượn chén rượu để ôn lại quảng đời lưu lạc trôi nổi của mình
Khi chén rượu, khi cuộc cờ,
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi
Sống, vò không dốc say bầu cạn
Chết, mộ ai còn tưới rượu đây
(Đông A dịch thơ)
Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
Trong bài Đối tửu (3), ông có câu:
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu
Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi
Sống, vò không dốc say bầu cạn
Chết, mộ ai còn tưới rượu đây
(Đông A dịch thơ)
o0o
Trên đây là những vần thơ từ bên xứ ta, nói đến rượu và thơ làm sao ta quên được ông tiên trong rượu (4) Lý Bạch bên Trung quốc. Trong Tương tiến tửu (5), cảm hứng trước cảnh thiên nhiên hùng vĩ, uy nghi “Nước sông Hoàng Hà từ trời cao đổ xuống, chảy ra biển khơi cuồn cuộn chẳng quay về”, tác giả đã làm ra những dòng thơ hào hùng, phóng khoáng
Nhân sinh đắc ý tu tận hoan
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
Đời người lúc thích cứ chơi,
Dưới trăng đừng để chén vơi làm gì!
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Mạc sử kim tôn không đối nguyệt
Đời người lúc thích cứ chơi,
Dưới trăng đừng để chén vơi làm gì!
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
và ông cao ngạo cho rằng:
Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh
Xưa nay lặng tiếng thánh hiền,
Chỉ người uống rượu… còn truyền lưu danh!
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Chỉ người uống rượu… còn truyền lưu danh!
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Tiếng tăm lưu truyền của Lưu Linh, Lý Bạch Tửu trung tiên (4), có lẽ đã chứng minh được phần chí lý của hai câu này!
Trong thơ họ Lý, ông viết rất nhiều về những đề tài khác nhau, nhưng cái tôi, trăng và rượu được nhắc lại nhiều lần. Ông có bốn bài Nguyệt hạ độc chước (6) (Dưới trăng một mình uống rượu). Trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả: ánh trăng, ông và bóng hình của ông, tất cả là ba người – tạo thành một cuộc đối ẩm sống động, hào hứng:
Hoa gian nhất hồ tửu,
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
(Nguyệt hạ độc chước)
Giữa hoa là rượu một bầu,
Mình ta cứ rót chẳng đâu bạn hiền,
Mời trăng cất chén triền miên,
Nhìn vào bóng đó, ngả nghiêng ba người !
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Ðối tửu bất giác minh,
Lạc hoa dinh ngã y.
Túy khởi bộ khê nguyệt,
Ðiểu hoàn nhân diệc hy.
(Tự khiển - Lý Bạch)
Cạn ly chẳng biết tối trời,
Áo ta sương gió hoa rơi rớt đầy,
Say qua khe suối trăng mây,
Chim đàn về tổ, chốn này còn ai?
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Độc chước vô tương thân.
Cử bôi yêu minh nguyệt,
Đối ảnh thành tam nhân.
(Nguyệt hạ độc chước)
Giữa hoa là rượu một bầu,
Mình ta cứ rót chẳng đâu bạn hiền,
Mời trăng cất chén triền miên,
Nhìn vào bóng đó, ngả nghiêng ba người !
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Ông uống say, chẳng biết ngày đêm, đất trời:
Ðối tửu bất giác minh,
Lạc hoa dinh ngã y.
Túy khởi bộ khê nguyệt,
Ðiểu hoàn nhân diệc hy.
(Tự khiển - Lý Bạch)
Cạn ly chẳng biết tối trời,
Áo ta sương gió hoa rơi rớt đầy,
Say qua khe suối trăng mây,
Chim đàn về tổ, chốn này còn ai?
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Quanh năm suốt tháng, ông say bét không sót một ngày, và tự mình “kiểm điểm” trong bài Tặng nội:
Tam bách lục thập nhật,
Nhật nhật túy như nê.
Tuy vi Lý Bạch phụ,
Hà dị Thái Thường thê.
Ba trăm sáu chục ngày trời,
Ngày ngày say bét như đời con nê.
Vợ chàng Lý Bạch ta kia,
Như ai vợ Thái Thường xưa khác gì.
(Tản Đà dịch thơ)
Nhật nhật túy như nê.
Tuy vi Lý Bạch phụ,
Hà dị Thái Thường thê.
Ba trăm sáu chục ngày trời,
Ngày ngày say bét như đời con nê.
Vợ chàng Lý Bạch ta kia,
Như ai vợ Thái Thường xưa khác gì.
(Tản Đà dịch thơ)
Thái Thường là một ông quan nổi tiếng giữ mình nghiêm nghị, không dám gần vợ giữ chay tịnh để coi sóc chuyện thờ cúng. Còn Lý Bạch thì bị rượu hành quanh năm, nên có gần vợ cũng như thừa. Lý Bạch phụ và Thái Thường thê là hai người vợ của hai ông, cùng cảnh ngộ bị chồng bỏ bê, giống nhau ở điểm đó.
Nhưng ông giải thích vì sao phải uống rượu
Xử thế nhược đại mộng,
Hồ vi lao kỳ sinh ?
Sở dĩ chung nhật tuý,
Ðồi nhiên ngọa tiền doanh…
(Xuân nhật túy khởi ngôn chí) (7)
Ðời như giấc mộng lớn
Nhọc lòng mà làm chi ?
Suốt ngày say túy lúy
Trước hiên nằm li bì…
(Trần Trọng San dịch thơ)
Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô Tửu tuyền
Thiên địa ký ái tửu
Ái tửu bất quí thiên...
("Nguyệt hạ độc chước Kỳ II)
Hồ vi lao kỳ sinh ?
Sở dĩ chung nhật tuý,
Ðồi nhiên ngọa tiền doanh…
(Xuân nhật túy khởi ngôn chí) (7)
Ðời như giấc mộng lớn
Nhọc lòng mà làm chi ?
Suốt ngày say túy lúy
Trước hiên nằm li bì…
(Trần Trọng San dịch thơ)
và cứ uống tiếp nữa, vì ông lý luận…
Thiên nhược bất ái tửu,
Tửu tinh bất tại thiên.
Địa nhược bất ái tửu,
Địa ưng vô Tửu tuyền
Thiên địa ký ái tửu
Ái tửu bất quí thiên...
("Nguyệt hạ độc chước Kỳ II)
Nếu trời không thích rượu
Sao rượu ở chi trời ?
Nếu đất không thích rượu,
Suối rượu ở chi đời ?
Trời đất đã thích rượu,
Thích rượu không thẹn trời...
(Trần Trọng San dịch thơ)
Sao rượu ở chi trời ?
Nếu đất không thích rượu,
Suối rượu ở chi đời ?
Trời đất đã thích rượu,
Thích rượu không thẹn trời...
(Trần Trọng San dịch thơ)
Trong cái vui với rượu, đôi lúc có cái buồn vời vợi. Lý Trích Tiên mượn rượu để tiêu sầu nhưng lắm lúc cái sầu vẫn triền miên không dứt được: “Rút đao chém nước, nước vẫn chảy. Nâng chén tiêu sầu, sầu càng sầu”.
Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lưu
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu
(Nguyệt hạ độc chước IV)
Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu
(Nguyệt hạ độc chước IV)
Rút gươm chém nước, nước trôi,
Giải sầu cạn chén; lòng buồn, buồn thêm.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Giải sầu cạn chén; lòng buồn, buồn thêm.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Hai câu cuối trong bài Nguyệt hạ độc Chước “Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ mạc Vân Hán”, đã được chuyển ngữ thành “Forever committed to carefree play, we’ll all meet again in the Milky Way” [CTDHM]. Hai câu này đã diễn tả phù hợp với cuộc đời của Lý tiên sinh
Suốt đời rượu tiệc cuồng ngông,
Kiếp sau uống tiếp… trên sông Ngân Hà.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Kiếp sau uống tiếp… trên sông Ngân Hà.
(Lý Hữu Phước dịch thơ)
Cả cuộc đời họ Lý là một cuộc rong chơi lớn: Ông uống rượu từ lúc thất thời ngao du lang thang trong thiên hạ, lại uống nhiều thêm lúc được ân sủng của Đường Minh Hoàng tại triều đình, và đến cuối đời mình - huyền thoại để lại - ông uống say, nhảy vào hồ, ôm bắt bóng trăng rồi chết đuối. Một vầng trăng mà trong rượu và thơ, ông theo đuổi cả đời mà không sao sờ tay bắt được… Có lẽ cái chết là bắt đầu của cuộc hành trình tửu du vô tận của ông ở bên kia thế giới. Từ xưa đến nay, thật không có cuộc đời nào đầy thơ và rượu như của ông !
o0o
Viết đến đây, tôi nhớ lại chuyện đời xưa trong sách có liên quan với rượu và chơi chữ: “Thuở người Pháp còn ở Sài Gòn… tại mé sông Sài Gòn, ở sát cạnh sở Ba Son, có một quán bán rượu chát chủ quán là một võ quan Thủy binh chơi chữ, hiệu quán vỏn vẹn đề mấy số thật lớn, trên bảng: 0 - 20 - 100 - 0 và phải đọc là 'Au vin sans eau' (quán bán rượu không pha nước)” [NĐCL]. Phải chăng chính người Chợ Lớn năm xưa đã pha rượu với nước để làm giàu, tạo thành cách uống rượu lạ lùng của dân Sài Gòn, nên mới có cái quảng cáo chơi chữ nên thơ! Mấy chục năm trước, còn nhớ cả đường Lý Nam Đế (cũ) ở Chợ Lớn, phụ tùng xe đạp được sản xuất ở đây và đóng dòng chữ “Fabriqué en France” chứ không xài “Made in Japan” vì đồ Nhật còn chưa tốt…
o0o
Câu tục ngữ “rượu vào lời ra” chỉ cái xấu của những người uống rượu nói dai, riêng đối với người có nợ với văn chương thì rượu là nguồn cảm hứng bao la của bao nhiêu sáng tác văn học rực rỡ. Đường thi có câu đấu tửu thi bách thiên (4) - rượu vào hàng trăm bài thơ ra.
Đọc và chép lại những vần thơ cũ trích dẫn ở trên, tôi nghĩ thơ cũng giống như rượu: càng lâu năm thì càng quý. Quan hệ mật thiết giữa rượu và thơ là như hình với bóng – cùng nhau trưởng thành già dặn qua thời gian, và tôi rất tán thành về sự so sánh giữa rượu và thơ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị:
Rượu có mùi thơm nên uống mãi,
Thơ là thuốc bổ cứ ngâm hoài…
Thơ là thuốc bổ cứ ngâm hoài…
Lý Hữu Phước biên soạn
Sydney, mùa Giáng Sinh 2005.
Tài liệu tham khảo
[CTDHM] | China’s Tang Dynasty – Heather
Milar, Marshall Cavendish 1996.… Li Po’s poems covered almost every
topic under the sun. He wrote whole sets of poems dedicated to the
pleasures of nature and wine. In one he exulted: ‘Forever committed to carefree play, we’ll all meet again in the Milky Way’ |
[ĐTTTK] |
Ðường Thi – Trần Trọng Kim – Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 1995 |
[LHPTL] | Ðường thi Tuyển chọn, Cổ văn & Thơ mới – Lý Hữu Phước – tài liệu riêng. |
[NĐCL] | [NĐCL] Nửa đời còn lại – Vương Hồng Sển – Văn Nghệ, 1996 California USA |
[TTLB] | Tứ Tuyệt Lý Bạch – Phạm Hải Anh |
[chinese text] |
http://zhongwen.com/tangshi.htm - 李 白 http://etext.lib.virginia.edu/etcbin/chinesebin/chinese-search?poem=085 |
Chú thích & Phụ lục
(1) Tức cảnh chiều thu - Bà Huyện Thanh Quan
Thánh thót tầu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa nguời nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ
Xanh om cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa tràng giang phẳng lặng tờ
Bầu giốc giang sơn say chấp ruợu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Cho hay cảnh cũng ưa nguời nhỉ
Thấy cảnh ai mà chẳng ngẩn ngơ
(2) Cầm kỳ thi tửu - Nguyễn Công Trứ
Ðường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay,
Ðàn năm cung réo rắt tính tình dây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần, tiên vẫn là ta,
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng !
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy.
Sách có chữ "nhân sinh thích chí"
Ðem ngàn vàng chác lấy chuyện cười,
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.
Ðàn năm cung réo rắt tính tình dây,
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó.
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ,
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà.
Thú xuất trần, tiên vẫn là ta,
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng !
Cầm tứ tiêu nhiên, kỳ tứ sảng,
Thi hoài lạc hĩ, tửu hoài nồng.
Một chữ nhàn giá lại đáng muôn chung
Người ở thế dẫu trăm năm là mấy.
Sách có chữ "nhân sinh thích chí"
Ðem ngàn vàng chác lấy chuyện cười,
Chơi cho lịch mới là chơi,
Chơi cho đài các, cho người biết tay.
Tài tình dễ mấy xưa nay.
(3) Đối tửu - Nguyễn Du
(4) Đời Ðường, bốn thi sĩ nổi tiếng được đặt những biệt danh:
(5) Tương Tiến Tửu - Lý Bạch
(6) Nguyệt hạ độc chước - Lý Bạch
(7) Xuân nhật túy khởi ngôn chí - Lý Bạch
Đối tửu
Phu tọa nhàn song túy nhãn khai Lạc hoa vô số há thương đài Sinh tiền bất tận tôn trung tửu Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi Xuân sắc tiêm thiên hoàng điểu khứ Niên quang ám trục bạch đầu lai Bách kỳ đãn đắc chung triêu túy Thế sự phù vân chân khả ai. (Nguyễn Du) |
Ngồi uống rượu
Ngồi xếp bên song chếch choáng say Hoa rơi tơi tả xuống rêu đầy Sống, vò không dốc say bầu cạn Chết, mộ ai còn tưới rượu đây Xuân đổi khiến oanh rời tổ khác Năm qua dục tóc bạc đầu rày Trăm năm mong được say sưa suốt Thật đáng thương đời tựa đám mây. (Đông A dịch thơ) |
(4) Đời Ðường, bốn thi sĩ nổi tiếng được đặt những biệt danh:
- Lý Bạch (Li Po 701-762) - Thi Tiên
- Ðỗ Phủ (Tu Fu 721-770) - Thi Thánh
- Vương Duy (Wang Wei 699-761) - Thi Phật
- Lý Hạ (Li Ho ) - Thi Quỉ
Lý Bạch đấu tửu thi bách thiên,
Trường An thị thượng tửu gia miên. Thiên tử hô lai bất thượng thuyền, Tự xưng thần thị tửu trung tiên. |
(Lý Bạch uống rượu làm hàng trăm bài thơ,
Nơi quán rượu Trường An ngủ say li bì. Vua gọi lên thuyền chẳng thèm lên, Tự cho mình là tiên trong rượu.) |
(5) Tương Tiến Tửu - Lý Bạch
Tương tiến tửu Quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, Bôn lưu đáo hải bất phục hồi ! Hựu bất kiến Cao đường minh kính bi bạch phát, Triêu như thanh ti mộ thành tuyết. Nhân sinh đắc ý tu tận hoan Mạc sử kim tôn không đối nguyệt Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng, Thiên kim tán tận hoàn phục lai. Phanh dương tể ngưu thả vi lạc, Hội tu nhất ẩm tam bách bôi. Sầm phu tử! Đan Khâu sinh! Tương tiến tửu, Bôi mạc đình! Dữ quân ca nhất khúc, Thỉnh quân vị ngã khuynh nhĩ thính. Chung cổ soạn ngọc bất túc quý, Đãn nguyện trường túy bất nguyện tinh Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch, Duy hữu ẩm giả lưu kỳ danh. Trần Vương tích thời yến Bình Lạc, Đẩu tửu thập thiên tứ hoan hước. Chủ nhân hà vi ngôn thiểu tiền, Kính tu cô thủ đối quân chước. Ngũ hoa mã, Thiên kim cừu, Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu, Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu |
將 進 酒 君 不 見 黃 河 之 水 天 上 來 奔 流 到 海 不 復 回 君 不 見 高 堂 明 鏡 悲 白 髮 朝 如 青 絲 暮 成 雪 人 生 得 意 須 盡 歡, 莫 使 金 樽 空 對 月 天 生 我 材 必 有 用 千 金 散 盡 還 復 來 烹 羊 宰 牛 且 為 樂 會 須 一 飲 三 百 杯 岑 夫 子! 丹 丘 生! 將 進 酒 君 莫 停! 與 君 歌 一 曲 請 君 為 我 側 耳 聽 鐘 鼓 饌 玉 不 足 貴 但 願 長 醉 不 願 醒 古 來 聖 賢 皆 寂 寞 惟 有 飲 者 留 其 名 陳 王 昔 時 宴 平 樂 斗 酒 十 千 恣 讙 謔 主 人 何 為 言 少 錢 徑 須 沽 取 對 君 酌 五 花 馬 千 金 裘 呼 兒 將 出 換 美 酒 與 爾 同 消 萬 古 愁 |
Sắp dâng rượu Há chẳng thấy Nước sông Hoàng từ trời tuôn xuống Chảy nhanh ra biển,chẳng quay về, Lại chẳng thấy Thềm cao gương soi rầu tóc bạc Sớm như tơ xanh, chiều tựa tuyết ? Đời người đắc ý hãy vui tràn, Chớ để bình vàng suông bóng nguyệt ! Trời sinh thân ta, hẳn có dùng, Nghìn vàng tiêu hết rồi lại đến. Mổ dê, giết trâu, cứ vui đi, Uống liền một mạch ba trăm chén ! Bác Sầm ơi ! Bác Đan ơi ! Sắp mời rượu, chớ có thôi ! Vì nhau tôi xin hát, Hãy vì tôi hai bác nghe cùng : "Này cỗ ngọc, nhạc rung, chẳng chuộng, "Muốn say hoài, chẳng muốn tỉnh chi ! "Thánh hiền tên tuổi bặt đi, "Chỉ phường thánh rượu tiếng ghi muôn đời ! "Xưa Trần Vương yến nơi Bình Lạc, "Rượu tiền muôn đùa cợt tha hồ" Chủ nhân kêu thiếu tiền ru ? Để cùng dốc chén, ta mua đi nào ! Đây ngựa gấm, đây áo cừu, Này con, đổi rượu hết, Cùng nhau ta giết cái sầu nghìn thu ! (Hoàng Tạo Và Tương Như dịch thơ) |
(6) Nguyệt hạ độc chước - Lý Bạch
Nguyệt hạ độc chước kỳ I
Hoa gian nhất hồ tửu, Độc chước vô tương thân. Cử bôi yêu minh nguyệt, Đối ảnh thành tam nhân. Nguyệt ký bất giải ẩm Ảnh đồ tùy ngã thân. Tạm bạn nguyệt tương ảnh, Hành lạc tu cập xuân. Ngã ca nguyệt bồi hồi; Ngã vũ ảnh linh loạn. Tỉnh thì đồng giao hoan, Tuý hậu các phân tán. Vĩnh kết vô tình du, Tương kỳ diểu Vân Hán. |
月 下 獨 酌 其 一
花 間 一 壺 酒 獨 酌 無 相 親 舉 杯 邀 明 月 對 影 成 三 人 月 既 不 解 飲 影 徒 隨 我 身 暫 伴 月 將 影 行 樂 須 及 春 我 歌 月 徘 徊 我 舞 影 零 亂 醒 時 同 交 歡 醉 後 各 分 散 永 結 無 情 遊 相 期 邈 雲 漢 |
Trong hoa rượu ngọt một bầu,
Một mình chuốc chén có đâu bạn bè. Mời trăng cất chén lè nhè, Thân ta, bóng ấy, trăng kia, ba người. Trăng thì tiếp rượu không nguôi, Bóng ta theo mãi không rời thân ta. Bạn cùng trăng bóng vẩn vơ, Vui chơi khuây khỏa để chờ ngày xuân. Ta ca trăng cũng băn khoăn, Khi ta nhảy múa, bóng lăn lộn hoài. Cùng nhau khi tỉnh vui cười, Say rồi nghiêng ngửa, mọi nơi rạc rời. Vô tình giao kết chơi bời, Hẹn nhau ở chỗ xa khơi cõi trời. (Trần Trọng Kim dịch thơ) |
Here among flowers one flask of wine,
with no close friends, I pour it alone. I lift cup to bright moon, beg its company, then facing my shadow, we became three. The moon has never known how to drink; my shadow does nothing but follow me. But with moon and shadow as companions the while, this joy I find must catch spring while it’s here. I sing, and the moon just lingers on; I dance, and my shadow flails wildly. When still sober we share friendship and pleasure, then, utterly drunk, each goes his own way – Let us join to roam beyond human cares and plan to meet far in the river of stars. (“Drinking Alone by Moonlight” Stephen Owen in An Anthology Of Chinese Literature: Beginning to 1911 |
(7) Xuân nhật túy khởi ngôn chí - Lý Bạch
Xuân nhật tuý khởi ngôn chí Xử thế nhược đại mộng Hồ vi lao kỳ sinh? Sở dĩ chung nhật túy Đồi nhiên ngọa tiền doanh Giác lai miện đình tiền Nhất điểu hoa gian minh Tá vấn thử hà nhật? Xuân phong ngữ lưu oanh Cảm chi dục thán tức Đối chi hoàn tự khuynh Hạo ca đãi minh nguyệt Khúc tận dĩ vong tình The best of life is but ... -- translated by H.A. Giles What is life after all but a dream ? And why should such bother be made ? Better far to be tipsy, I deem, And doze all day long in the shade. When I wake and look out on the lawn, I hear midst the flowers a bird sing; I ask "Is it evening or dawn ?" The mango-bird whistles, "'Tis spring." Overpowered with the beautiful sight, Another full goblet I pour, And would sing till the moon rises bright -- But soon I’m as drunk as before. (Chinese poetry in English verse, London, 1898) |
春 日 醉 起 言 志 處 世 若 大 夢 胡 為 勞 其 生 所 以 終 日 醉 禿 然 臥 前 楹 覺 來 盼 庭 前 一 鳥 花 間 鳴 借 問 此 何 時 春 風 語 流 鶯 感 之 欲 嘆 息 對 酒 還 自 傾 浩 歌 待 明 月 曲 盡 已 忘 情 |
Ngày xuân say rượu tỉnh dậy nói chí mình Ðời như giấc mộng lớn Nhọc lòng mà làm chi ? Suốt ngày say túy lúy Trước hiên nằm li bì Tỉnh dậy trông sân trước Trong hoa chim hót vang Hôm nay ngày nào nhỉ Gió đưa tiếng oanh vàng Cảm xúc ta than thở Ðối cảnh ta nghiêng bình Hát vang đợi trăng sáng Hết khúc đã quên tình (Trần Trọng San dịch thơ) Réveil de l'ivresse un jour de printemps -- Translated by P. Demiéville Si la vie en ce monde est un grand songe, A quoi bon la gâcher en se donnant du mal ? Aussi pour moi tout le jour je suis ivre, Et me couche effondré au pilier de la porte. Au réveil, je regarde au-delà du perron; Un oiseau chante parmi les fleurs. "Dis moi, quelle est donc la saison ?" "C'est le vent du printemps qui fait parler le loriot vagabond." J'en suis ému, et je vais soupirer; Mais, face au vin, je m'en verse à nouveau. A voix haute je chante en attendant le clair de lune; Ma chanson finie, tout est oublié ... (Anthologie de la poésie chinoise classique, Gallimard, Paris, 1962) |
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét