-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí. -Nhưng xét trên bình
diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn
nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con
người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn
vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! -Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì: trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc! -Chân lý là đây: Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau! -Như
vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham
và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai. -Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trận chiến đảo Saipan - Quân đội Mỹ tấn công Nhật Bản
Trận chiến Saipan đẫm máu giữa quân Mỹ và phát xít Nhật
Mỹ. Nhưng sau
đó quân Mỹ dựa vào lựu pháo và súng máy bắn gần để đẩy lui hoặc tàn sát
gần như toàn bộ quân Nhật.
Đây là trận xung
phong banzai lớn nhất của Nhật t
VOV.VN - Binh lính Nhật
chiến đấu máu lửa nhưng vẫn không cưỡng lại được sức mạnh của quân Mỹ
trong trận huyết chiến trên đảo Saipan vào cuối Thế chiến 2.
Vào
ngày 15/6/1944, trong chiến dịch Thái Bình Dương của Thế chiến 2
(1939-1945), thủy quân lục chiến Mỹ đã tấn công mãnh liệt vào các bờ
biển của hòn đảo Saipan có tầm quan trọng chiến lược và do Nhật Bản
chiếm giữ khi đó. Mục đích của họ là có được một căn cứ không quân trọng
yếu mà từ đó quân Mỹ có thể sử dụng các máy bay ném bom tầm xa B-29 mới
của mình để tấn công thẳng vào lãnh thổ Nhật Bản.
Lính Mỹ khi đổ bộ lên bờ biển Saipan đã bị quân Nhật bắn tỉa. Ảnh: Thủy quân lục chiến Mỹ.
Trước sức kháng
cự mãnh liệt của binh lính Nhật, quân Mỹ từ các tàu xe đổ bộ đã nhanh
chóng thiết lập “đầu cầu”, quần thảo với lính Nhật trên đảo và đẩy lui
chúng về phía bắc. Chiến sự diễn ra đặc biệt tàn khốc và giằng co quanh
ngọn núi Tapotchau – đỉnh núi cao nhất trên đảo Saipan. Thủy quân lục
chiến Mỹ đặt biệt danh cho một số địa điểm giao chiến trong khu vực này,
như “Thung lũng Tử thần” và “Dãy đỉnh đồi Trái tim Tím”.
Khi quân Mỹ
"nhốt" được quân Nhật ở khu vực phía bắc của đảo, các binh sĩ phát xít
Nhật đã mở một cuộc tấn công vỗ mặt ồ ạt kiểu cảm tử nhưng không xoay
chuyển được tình thế. Vào ngày 9/7, lá cờ chiến thắng của người Mỹ tung
bay trên hòn đảo Saipan.
Bộ tư lệnh Mỹ nhắm tới mục tiêu Saipan
Mùa Xuân năm
1944, các lực lượng Mỹ tham gia vào chiến dịch Thái Bình Dương đã xâm
chiếm các hòn đảo do Nhật Bản chiếm giữ ở khu vực giữa Thái Bình Dương
dọc theo hành lang tiến tới Nhật Bản. Một đội tàu Mỹ gồm 535 chiếc chở
127.000 lính, bao gồm 77.000 binh sĩ thủy quân lục chiến, đã chiếm quần
đảo Marshall. Bộ tư lệnh tối cao Mỹ sau đó tính tới việc chiếm quần đảo
Mariana – tiền đồn quan trọng trong hệ thống phòng thủ của đế chế Nhật
Bản.
Lúc quân Mỹ tiến
công các bờ biển trên đảo Saipan vào ngày 15/6, 800 lính thủy đánh bộ Mỹ
da đen thực hiện dỡ lương thực và đạn dược khỏi các tàu xe đổ bộ và
cung cấp cho lực lượng Mỹ trên bờ biển. Họ là những binh sĩ thủy quân
lục chiến Mỹ gốc Phi đầu tiên tham chiến trong Thế chiến 2.
VOV.VN - Cả Pháp và Đức đã mất rất nhiều binh sĩ trong những cuộc bắn phá đẫm máu kéo dài trong trận đánh Verdun “địa ngục”.
Các tư lệnh Mỹ
phân tích: Việc chiếm các đảo chính trong quần đảo Mariana – gồm Saipan,
Tinian và Guam – sẽ cắt đứt Nhật Bản khỏi phần phía nam giàu tài nguyên
của đế chế này và dọn đường cho việc tiến sát hơn nữa tới Tokyo. Tại
Saipan - hòn đảo gần Nhật Bản nhất, quân Mỹ có thể thiết lập một căn cứ
không quân trọng yếu mà từ đó các siêu pháo đài bay B-29 tầm xa của quân
đội Mỹ có thể cất cánh và giáng những đòn trừng phạt xuống lãnh thổ
Nhật Bản trước khi quân Đồng minh đổ bộ xuống lãnh thổ nước này.
Bộ tư lệnh quân
đội Mỹ quyết định cuộc đổ bộ đầu tiên lên quần đảo Mariana sẽ được thực
hiện tại đảo Saipan – đảo lớn nhất trong quần đảo này.
Saipan khi ấy đặt
dưới sự cai trị của Nhật Bản từ năm 1920. Theo một số dữ liệu, lực
lượng Nhật đồn trú trên đảo lên tới 30.000 quân. Saipan có một sân bay
quan trọng nằm ở Aslito.
Tướng thủy quân
lục chiến Mỹ Holland Smith được trao một bản kế hoạch tác chiến và nhận
lệnh phải chiếm được hòn đảo này trong 3 ngày. Sau khi đánh chiếm được
đảo Saipan, theo kế hoạch đó, quân Mỹ sẽ nhanh chóng cơ động chiếm nốt
đảo Guam và Tinian.
Tuy nhiên các cơ quan tình báo Mỹ khi đó đã đánh giá quá thấp sức mạnh của quân Nhật đồn trú trên đảo Saipan.
Đổ bộ dưới mưa bom bão đạn
Sáng ngày
15/6/1944, một đội tàu vận tải của Mỹ tập kết gần bờ biển phía nam của
đảo Saipan. Thủy quân lục chiến Mỹ bắt đầu tiến về phía bờ biển bằng
hàng trăm tàu xe đổ bộ.
Các chiến hạm,
khu trục hạm và máy bay Mỹ đã dọn đường cho thủy quân lục chiến bằng
cách tấn công cấp tập vào vị trí của đối phương nhưng đã không thể dập
tắt các hỏa điểm bố trí cẩn thận dọc theo các vách đá ở bờ biển. Hậu quả
là thủy quân lục chiến Mỹ phải tiến quân dưới hỏa lực xối xả của địch.
Thủy quân lục chiến khiêng tử sĩ, trên đảo Saipan vào tháng 6/1944. Ảnh: Thủy quân lục chiến Mỹ.
Trong một cuốn
sách về trận chiến Saipan, tác giả John C. Chapin – từng là một lính
thủy đánh bộ Mỹ trên đảo Saipan, đã mô tả lại cảnh hỗn loạn xung quanh
ông vào sáng hôm đó: “Các thi thể nằm la liệt trong trạng thái rách nát,
biến dạng; các ụ súng bị phá tung và cháy rụi; các xác xe đổ bộ bốc
cháy…; mùi khét lẹt của thuốc nổ; những cây xanh bị xé nát; và rải rác
trên cát là những vật dụng bị bỏ đi.”
Bất chấp sự kháng
cự dữ dội, 8.000 lính thủy quân lục chiến Mỹ vẫn tiến lên được bờ vào
sáng hôm đó. Vào cuối ngày, khoảng 20.000 lính Mỹ đã thiết lập được một
“đầu cầu” trên đảo Saipan. Tuy nhiên, quân Mỹ phải trả giá bằng khoảng
2.000 lính bị thương vong trong quá trình này.
Sáng hôm sau,
lính Mỹ được tăng viện thêm và bắt đầu tiến sâu vào đảo, hướng về sân
bay Aslito và các lực lượng Nhật nằm ở khu vực phía nam và trung tâm của
đảo. Vào ngày 18/6, quân Mỹ tiếp tục tỏa ra toàn đảo ngay cả khi lực
lượng hải quân yểm trợ cho họ đã phải rời đi để đánh chặn hạm đội đế
quốc Nhật được phái tới để củng cố thế phòng ngự trên đảo Saipan.
Thung lũng Tử thần
Sau khi thất bại
trong việc ngăn chặn quân Mỹ đổ bộ lên đảo Saipan, quân đồn trú Nhật rút
lui tới khu vực ngọn núi Tapotchau – đỉnh núi có vị thế khống chế toàn
hòn đảo. Ngọn núi này nằm ở vị trí trung tâm của đảo Saipan và là nơi
cao nhất của đảo, ở độ cao khoảng 457m. Sau các đợt giao chiến khốc
liệt, cuối cùng quân Mỹ cũng dần đẩy lui lực lượng phòng ngự của Nhật ra
khỏi vị trí tưởng chừng bất khả công phá của chúng trên các điểm cao.
VOV.VN - Năm 1941 Hồng quân chưa
thực sự mạnh, lại bị Đức tấn công bất ngờ. Lúc đó nếu bị Nhật Bản tấn
công từ phía đông, Liên Xô sẽ khó bề trụ được.
Lúc cao trào của
cuộc chiến, tướng Mỹ Smith ra lệnh cho một binh đoàn vượt qua một thung
lũng rộng và trống trải để tiến đánh các vị trí của quân Nhật.
Một bên gờ của
thung lũng này là một dãy đồi mà từ đó các binh sĩ Nhật được trang bị vũ
khí hạng nặng trong công sự kiên cố đã bắn thẳng xuống đầu lính Mỹ đang
tiến lại gần.
Phải đến cuối
tháng 6, sau những cuộc giao tranh trên địa hình rừng núi nhiệt đới,
thủy quân lục chiến mới giành được quyền kiểm soát đối với ngọn núi
Tapotchau. Quân Nhật buộc phải rút lui tiếp lên phía bắc, tạo ra bước
ngoặt trong trận chiến Saipan.
Quân Mỹ đã phải
đối mặt với các phát súng bắn tỉa từ trong các hang, những nơi trú ẩn bí
mật. Để đối phó, lính Mỹ dùng súng phun lửa tiêu diệt mục tiêu trong
hang.
Nhiều dân thường
Nhật Bản thiệt mạng. Quân Mỹ không phải lúc nào cũng phân biệt quân nhân
với dân thường khi họ truy kích trong hang hay nghe thấy các tiếng
chuyển động trong rừng rậm vì quân Nhật thường dùng dân thường làm mồi
nhử để phục kích lính Mỹ.
Đòn xung phong cảm tử của lính Nhật
Vào đầu tháng
7/1944, các lực lượng của tướng Yoshitsugu Saito, tư lệnh của Nhật trên
đảo Saipan , đã triệt thoái về khu vực phía bắc của hòn đảo này. Tại đó
quân Nhật bị kẹp giữa hỏa lực của quân Mỹ từ trên bộ, trên biển và trên
không.
Saito kỳ vọng hải
quân Nhật sẽ giúp ông ta đẩy lui quân Mỹ khỏi đảo này nhưng Hạm đội
Nhật đã bị đánh tan tác trong trận hải chiến trên Biển Philippines (vào
các ngày 19-20/6/1944) và không bao giờ tới đảo Saipan nữa. Nhận thấy
mình không thể chống cự đòn tiến công của người Mỹ, tướng Sato xin lỗi
Tokyo vì đã không bảo vệ được Saipan rồi tự sát.
VOV.VN - Chiến thuật phi công
cảm tử Thần Phong (kamikaze) của người Nhật vào cuối Thế chiến 2 đã
khiến quân đội Anh phải căng óc đối phó.
Tuy nhiên trước khi chết, Saito lệnh cho tàn quân của mình mở một cuộc tấn công tổng lực và bất ngờ vì danh dự của Nhật hoàng.
Đầu sáng 6/7,
khoảng 4.000 lính Nhật đồng thanh hô to “Banzai!” (nghĩa là “Vạn tuế!”),
cầm lựu đạn, lưỡi lê, gươm và dao găm lao vào đội hình quân Mỹ gần cảng
Tanapag. Lớp lớp quân Nhật quét qua một vài tiểu đoàn lính Mỹ, đánh
giáp lá cà với họ, làm chết hoặc bị thương hơn 1.000 lính
rong chiến tranh Thái Bình Dương. Đa
phần lính Nhật chiến đấu tới hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên đòn cảm tử
cũng không lật ngược được tình thế. Đến ngày 9/7, sau các đợt truy quét
cuối cùng, quân Mỹ đã phất cờ chiến thắng trên đảo Saipan.
Hậu quả trận chiến
Trận đánh tàn bạo
trong 3 tuần đã khiến 3.000 lính Mỹ tử trận, và hơn 13.000 lính Mỹ bị
thương. Theo một số ước tính, về phần mình, quân Nhật mất ít nhất 27.000
lính.
Vào ngày 9/7 phía
Mỹ tuyên bố trận chiến đã kết thúc. Hàng ngàn cư dân đảo Saipan bị bộ
máy tuyên truyền của Nhật nhồi sọ rằng họ sẽ bị quân Mỹ giết nên đã tự
sát bằng cách nhảy xuống từ các vách đá dựng đứng ở phía bắc hòn đảo.
Một nghiên cứu
kết luận: “Tình trạng chưa hoàn thành của hệ thống phòng thủ Nhật [trên
đảo Saipan] là một nhân tố quan trọng tạo nên chiến thắng quyết định của
Mỹ. Các tàu ngầm tầm xa của hải quân Mỹ đã cản trở thành công nhiều tàu
bè của Nhật Bản, làm giảm việc vận chuyển xi măng và các vật liệu xây
dựng lên đảo để củng cố vững chắc công sự ở Saipan”.
Một tù binh Nhật
trong một cuộc hỏi cung đã cho biết, nếu cuộc tấn công của Mỹ lùi lại 3
tháng thì hòn đảo Saipan sẽ thực sự bất khả công phá và số lượng thương
vong (của Mỹ) còn cao hơn nhiều.
Việc Saipan thất
thủ đã gây choáng váng cho giới chính trị ở Tokyo, thủ đô Nhật Bản. Ban
lãnh đạo nước này hiểu rằng họ sắp lãnh các đòn sấm sét từ các oanh tạc
cơ tầm xa của Mỹ.
Tướng Hideki Tojo
– Thủ tướng quân phiệt của Nhật Bản, trước đó công khai hứa hẹn rằng Mỹ
sẽ không bao giờ chiếm được Saipan. Trước việc để mất Saipan, ông ta
buộc phải từ chức vào thời điểm một tuần sau khi Mỹ chinh phục được hòn
đảo Saipan./.
Trung Hiếu/VOV.VN Dịch từ History.com và Japan Times
The Killing Fields - Einsatzgruppen - The "other" Holocaust
Chiến dịch đổ bộ khiến 55.000 người thiệt mạng ở Thái Bình Dương
Mỹ giành thắng lợi trong trận đổ bộ lên đảo
Saipan, nhưng phải chịu thiệt hại nặng nề khi vấp phải chiến thuật tử
thủ của lính phát xít Nhật.
Đầu năm 1944, quân đội Mỹ quyết định đánh chiếm đảo Saipan thuộc quần đảo Marianas ở Thái Bình Dương nhằm
hình thành thế trận bao vây Nhật Bản. Các chiến lược gia Mỹ tin rằng
hòn đảo này có thể cắt đứt tuyến tiếp tế từ Nhật Bản đến Indonesia, đồng
thời trở thành căn cứ đồn trú cho oanh tạc cơ tầm xa B-29 tấn công
Tokyo, theo US History.
Nhận thấy mối đe dọa từ Mỹ, bộ chỉ huy tối cao Nhật Bản nhanh chóng tăng
cường lực lượng phòng thủ cho đảo Saipan. Đến tháng 5/1944, Nhật huy
động được gần 30.000 lính bảo vệ đảo Saipan, ngay trước khi Mỹ thực hiện
chiến dịch đổ bộ. Lính Nhật đào hệ thống công sự, bố trí hàng loạt điểm phòng thủ đợi quân Mỹ đổ bộ lên bờ biển.
Trong kế hoạch chiếm đảo Saipan mang mật danh Forager, Mỹ dự kiến tấn công phía tây đảo bằng hai mũi đổ bộ. Ngày
11/6/1944, lực lượng tác chiến gồm 7 tàu sân bay, 8 tàu sân bay hạng
nhẹ, 7 thiết giáp hạm tốc độ cao, ba tàu tuần dương hạng nặng, 10 tàu
tuần dương hạng nhẹ và 52 khu trục hạm được lệnh tấn công, phá hủy máy
bay và tàu chiến Nhật Bản quanh đảo Saipan.
Trong vòng chưa đến 10 ngày, các chiến đấu cơ Mỹ đã tiêu diệt phần lớn
chiến đấu cơ Nhật trên đảo, nhưng không gây thiệt hại nào đáng kể cho
trận địa pháo đối phương.
Bản đồ chiến dịch bao vây, chiếm đảo Saipan (khoanh đỏ) do Mỹ tiến hành. Ảnh: Wikipedia.
Sáng sớm ngày 15/6, chiến dịch đổ bộ chiếm đảo Saipan diễn ra. Các
tàu chiến Mỹ đồng loạt nã pháo vào bờ biển, trong khi chiến đấu cơ Mỹ
không kích các cứ điểm phòng thủ, ụ pháo và công sự, cũng như sân bay và
mục tiêu khác trên bộ, nhằm mục đích uy hiếp tinh thần lính Nhật.
Đến 7h sáng, 34 tàu đổ bộ (LST) thả neo cách bờ 800 m, bắt đầu thả tàu tấn công và xuồng. Tuy nhiên, mỗi
khi xuồng đổ bộ áp sát bờ biển, lực lượng phòng thủ Nhật Bản lại sử
dụng súng máy, pháo binh, pháo chống tàu và pháo cối đáp trả, khiến một
số xe tăng lưỡng cư, tàu kéo và xuồng bị chìm trước khi đến bờ.
Hầu hết lực lượng đổ bộ đều cập bờ an toàn theo kế hoạch, nhưng
khi họ lên bờ cũng là lúc địa ngục hỗn loạn bắt đầu. Các cứ điểm phòng
ngự của Nhật chống trả dữ dội, khiến hàng nghìn lính Mỹ thiệt mạng trên
bờ biển, đợt đổ bộ đầu tiên bị dồn ứ lại, gây ra tâm lý hoảng loạn trong
lính Mỹ.
Xe thiết giáp không thể chọc thủng phòng tuyến bờ biển như dự kiến
do bị hỏa lực địch loại khỏi cuộc chiến quá nhiều. Xác xe bị bắn cháy
cản trở đường hành tiến của cánh quân phía sau. Sư đoàn thủy quân lục
chiến số 2 chịu thương vong 1.500 người ngay trong đêm đổ bộ đầu tiên.
Dù vấp phải hỏa lực dữ dội của Nhật Bản, quân Mỹ vẫn tiếp tục đổ bộ và
đẩy lùi đối phương vào sâu trong đảo. Sau gần ba tuần giao tranh ác
liệt, Mỹ gần như giành chiến thắng cuối cùng. Tuy nhiên, Nhật Bản ra
lệnh cho chỉ huy trên đảo không được đầu hàng, phải chiến đấu đến hơi
thở cuối cùng. Trung đoàn bộ binh 105 thuộc Sư đoàn bộ binh 27 Mỹ là nạn
nhân xấu số của mệnh lệnh này.
Quân đổ bộ Mỹ tăng cường lên đảo Saipan tháng 6/1944. Ảnh: Kyodo.
Ngày 7/7, thông tin tình báo cho thấy chỉ còn khoảng 1.000 lính Nhật Bản
yếu ớt và đói khát trên đảo. Trung đoàn 105 là đơn vị vệ binh quốc gia,
có nhiệm vụ thiết lập tuyến phòng ngự sâu bên trong đảo. Bỗng nhiên
hàng nghìn lính Nhật la hét xông thẳng vào phòng tuyến để tấn công tự
sát.
Do không quân và hải quân Mỹ đã cắt đứt tuyến tiếp tế nên hầu hết lính
Nhật không còn đạn để chiến đấu. Nhiều người trong số họ sử dụng kiếm và
gậy tre gắn lưỡi lê tấn công lính Mỹ đến hơi thở cuối cùng. Cuộc tấn
công khiến 406 lính Mỹ thiệt mạng và 516 người thuộc Trung đoàn 105 bị
thương, trong khi 4.300 lính Nhật bỏ mạng trước phòng tuyến Mỹ.
Trước khi lính Mỹ tiến đến phía bắc đảo Saipan hai hôm sau đó, 1.000 lính và 22.000 thường dân trên đảo, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em, do lo sợ bị tra tấn đã nhảy từ mỏm núi xuống biển tự sát, bất chấp nỗ lực thuyết phục bằng loa của quân Mỹ.
Theo sử gia Jeff Kingston, trận đổ bộ chiếm đảo Saipan đã khiến tổng
cộng 55.000 binh sĩ và dân thường thiệt mạng. Trong số 71.000 quân Mỹ đổ
bộ lên đảo, gần 3.000 người tử trận và hơn 10.000 người bị thương.
Trong số 30.000 quân Nhật phòng thủ đảo, chỉ có 921 lính sống sót, số
còn lại đều thiệt mạng, trong đó các chỉ huy và khoảng 5.000 lính tự
sát.
Mỹ cuối cùng cũng đánh bật quân Nhật khỏi đảo Saipan, nhưng mặt trận
Thái Bình Dương vẫn diễn ra ác liệt thêm một năm với chiến thuật tử thủ
lặp lại nhiều lần trên các hòn đảo khác.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ 2, phát xít Đức gây ra thảm
họa diệt chủng Holocaust khiến hơn 11 triệu người thiệt mạng, trong đó
có hơn 6 triệu người Do Thái. Holocaust được xem là một trong những sự
kiện tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại.
Thảm họa diệt chủng Holocaust
là một trong những sự kiện tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại với hơn 6
triệu nạn nhân người Do Thái bị phát xít Đức sát hại trong Thế chiến 2.
Cũng trong thảm họa diệt chủng Holocaust, Đức quốc xã còn tàn sát hơn 5 triệu người thuộc các nhóm cộng đồng khác.
Theo ước tính hơn 1,1 triệu trẻ em Do Thái bị Đức quốc xã sát hại trong cuộc diệt chủng Holocaust.
Một
trong những sự kiện tồi tệ nhất trong thảm họa diệt chủng Holocaust
diễn ra vào tháng 9/1941. Khi ấy, hơn 33.000 người Do Thái ở Babi Yar
Ravine, bên ngoài Kiev, Ukraine bị giết chết chỉ trong 2 ngày.
Trong
thời gian thực hiện cuộc diệt chủng Holocaust, phát xít Đức bắt người
Do Thái vào sống trong các khu ổ chuột hoặc vào các trại tập trung.
Hitler
đã xây dựng mạng lưới hơn 1.000 trại tập trung ở Đức và một số nước
châu Âu bị phát xít Đức chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới 2 để giam
giữ tù nhân chiến tranh, người Do Thái...
Trại
tập trung đầu tiên của phát xít Đức là Dachau. Ban đầu, trại tử thần
Dachau là nơi phát xít Đức giam giữ những kẻ thù chính trị, người chống
đối Hitler. Về sau, nơi này giam giữ cả những người cộng sản, các nhà xã
hội...
Hơn 1 triệu người bị phát xít Đức giết hại tại trại tập trung Auschwitz.
Nhiều
người Do Thái chết trong quá trình di chuyển đến các trại tập trung do
bị nhét vào trong các toa xe lửa chật kín người, không có nước, thức ăn
hay nhà vệ sinh...
Một
số nạn nhân sống sót qua các thí nghiệm rùng rợn của phát xít Đức đều
bị giết hại sau đó. Trẻ em là một trong những đối tượng được các bác sĩ
Đức quốc xã lựa chọn tham gia thí nghiệm.
</ifarme>
Mời quý độc giả xem video ngang nhiên buôn bán kỷ vật chiến tranh (nguồn: VTC).
Tâm Anh (theo Factretriever)
Sự thật kinh hoàng về tàn sát người Do Thái thời CTTG2
Cuộc thảm sát Holocaust là cuộc tàn sát người Do Thái và
nhiều nhóm thiểu số khác ở Châu Âu và Bắc Phi trong Chiến tranh thế giới
2.
Tâm Anh (theo List25)
Phát
xít Đức và các nước cùng phe đã gây ra cuộc thảm sát Holocaust khiến 6
triệu người thiệt mạng. Theo ước tính, khoảng 1/3 người Do Thái trên thế
giới bị giết hại trong cuộc tàn sát người Do Thái do Hitler khởi xướng.
Trong số 6 triệu nạn nhân chết trong cuộc thảm sát Holocaust, có hơn 1 triệu người là trẻ em.
Mặc dù Hitler là người đứng đầu cuộc thảm sát Holocaust và cho xây dựng các trại tập trung nhưng trùm phát xít chưa bao giờ đến bất cứ trại tử thần nào.
Dachau
là trại tập trung đầu tiên, bắt đầu hoạt động từ 6 năm trước khi Chiến
tranh thế giới 2 nổ ra. Tù nhân bị giam cầm ở Dachau chủ yếu là tội phạm
chính trị.
99%
người Do Thái sống ở Đan Mạch đã thoát khỏi số phận diệt vong của cuộc
thảm sát Holocaust vì chính quyền nước này đã sơ tán họ đến Thụy Điển -
một quốc gia trung lập.
Sau khi Chiến tranh thế giới 2 kết thúc, 200 cựu sĩ quan cơ quan mật vụ phát xít Đức được cơ quan tình báo Đức tuyển dụng.
Helena
Citronova - tù nhân người Slovakia tại trại tập trung Auschwitz đã yêu
lính canh Franz Wunsch. Franz đã nhiều lần cứu sống Citronova bằng cách
cho cô công việc thu dọn quần áo của những tù nhân được đưa tới phòng
hơi ngạt.
Trong
Chiến tranh thế giới 2, nhà ngoại giao người Nhật Chiune Sugihara đã
cứu sống 6.000 người Do Thái bằng việc cấp cho họ thị thực quá cảnh vào
xứ sở hoa anh đào.
Trẻ
em Do Thái là mục tiêu hàng đầu của Đức quốc xã trong cuộc thảm sát
Holocaust bởi vì chính quyền Hitler không muốn nhóm đối tượng này trở
thành "mối đe dọa" khi trưởng thành.
Tại trại tập trung Treblinka, gần 1 triệu tù nhân bị sát hại bởi 150 nhân viên của phát xít Đức làm việc tại trại tử thần này.
Thảm họa diệt chủng Holocaust: khi Chủ nghĩa Dân tộc bị đẩy lên đến mức cực đoan.
Thế chiến thứ hai đã qua đi được hơn bảy thập niên. Bảy thập niên
tuy không phải là ngắn nhưng vẫn chưa đủ để xóa mờ những kí ức đau
thương về cuộc chiến tàn khốc nhất trong lịch sử nhân loại. Hơn sáu mươi
triệu người đã ngã xuống trong những cuộc tắm máu, cùng hàng trăm triệu
người khác tổn thương từ cuộc chiến. Nhắc đến sự tàn bạo của Thế chiến
thứ hai là gợi về những tử địa rải khắp ba mặt trận: Châu Âu, Bắc Phi và
Châu Á – Thái Bình Dương, là những kí ức của hai quả bom nguyên tử hủy
diệt Hiroshima và Nagasaki trong những ngày cuối cuộc chiến . Chắc chắn
chúng ta không thể không nhắc đến Holocaust, một trong những cuộc diệt
chủng bạo tàn nhất được thực hiện bởi con người lên chính đồng loại của
mình. Holocaust có đơn thuần chỉ là một cuộc diệt chủng?
“Cuộc đại đồ sát dân Do Thái” – Holocaust khởi nguyên từ tiếng Hi Lạp, bao gồm hai thành tố : hólos có nghĩa là “toàn bộ” và “kaustós” có nghĩa là “thiêu đốt” hay còn được biết đến trong tiếng Hebrew với tên gọi “Shoah” – “đại thảm họa”.
Đây là một thuật ngữ được các nhà sử học hiện đại sử dụng để chỉ cuộc
diệt chủng và thảm sát quy mô lớn do Đức Quốc xã tiến hành trên cộng
đồng người Do Thái và các nhóm thiểu số tại các vùng bị chiếm đóng trong
Thế chiến thứ hai. Theo ước tính, tổng cộng hơn 11 triệu người đã bị
giết trong cuộc diệt chủng này, bao gồm 6 triệu người Do Thái và 5 triệu
người thuộc cácnhóm thiểu số Ngày nay, Holocaust vẫn được nhắc đến là
một trong những vết nhơ lớn nhất trong lịch sử văn minh nhân loại.
Đối tượng mà Đức Quốc xã nhắm đến chủ yếu là người Do Thái cùng những
người thuộc nhóm thiểu số mà Đức Quốc xã liệt vào nhóm “đáng ghét”, “hạ
đẳng”, “kẻ thù của nhà nước” hoặc “nhân tố phi xã hội”: dân Digan và
các nhóm sắc tộc Slav khác, tín hữu của Nhân chứng Jehovah, những thành
viên của Hội kín Tam Điểm, những người đồng tính và các nhà báo, thành
viên nghiệp đoàn. Thậm chí, những người Đức thuần huyết nhưng bị tâm
thần hay khuyết tật và dị dạng cơ thể cũng sẽ bị giết chết để “bảo vệ
tính thuần huyết di truyền của dân tộc Đức” Mein Kampf và những mầm mống dẫn đến cuộc diệt chủng Holocaust
Chủ nghĩa bài Do Thái (antisemitism) đã có từ những năm 1879. Ngay từ
khi còn trẻ, Adolf Hitler đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ chủ
nghĩa bài Do Thai khi xem người Do Thai phải chịu trách nhiệm cho sự bại
trận của nước Đức trong Thế chiến thứ Nhất . Vốn là người Áo, Hitler
sinh trưởng tại Vienna, nơi có một viên thị trưởng mang nặng tư tưởng
bài xích người Do Thái, đồng thời ông cũng tạo điều kiện để chủ nghĩa
bài Do Thái được truyền bá rộng khắp, chính những yếu tố này đã cấu
thành tư tưởng kì thị người Do Thái ngày càng nặng nề trong đầu óc của
Hitler.
Những năm 1925, Hitler đã cho phát hành quyển sách có tựa đề Mein
Kampf (tạm dịch: “Cuộc tranh đấu của tôi”), cuốn sách sau này được xem
là quyển sách gối đầu giường của những lãnh tụ phe phát-xít. Mein Kampf
trình bày những tư tưởng, cương lĩnh và tham vọng của Hitler để vực dậy
một nước Đức thất trận sau Thế chiến thứ nhất cũng như viễn cảnh về Đế
chế Đức một khi ông lên nắm quyền.
Trong quyển sách này, Adolf Hitler, với một tinh thần sục sôi về chủ
nghĩa dân tộc Đức nhưng rất ít kiến thức về lịch sử và nhân chủng học,
đã xem chủng tộc của người Đức – Aryan – đã được Ơn Trên kêu gọi trở
thành một chủng tộc ưu việt để có thể “thống trị thế giới” dưới sự lãnh
đạo của một thể chế độc tài. Một trong những nội dung chủ yếu khác của
quyển sách chính là đặt nặng về vấn đề chủng tộc: ngoài việc xác lập vị
trí thượng đẳng cho chủng tộc Aryan, Hitler xem các chủng tộc khác đều
là hạ đẳng, trong đó có người Do Thái và người Slav, đối tượng bị lãnh
tụ phát-xít Đức đặc biệt căm ghét.
Mục tiêu của Hitler là nhắm đến việc đảm bảo sự thuần huyết của chủng
tộc Aryan cũng như tạo lập một quốc gia Đức “thuần chủng”, không bị lai
tạp với bất kì chủng tộc nào khác. Ý tưởng về việc thành lập một quốc
gia thuần chủng này đã ám ảnh Hitler suốt cả cuộc đời, đã chi phối mọi
hành động, suy nghĩ và chính sách của nhà độc tài này. Những bước đi đầu tiên chống lại người Do Thái
Năm 1932, Đảng Quốc xã thắng thế trong cuộc bầu cử tại Đức, Hitler
trở thành Thủ tướng, kiểm soát Chính phủ. Ngày 30 tháng 01 năm 1933,
Đảng Quốc xã lên nắm quyền tại Đức, ít lâu sau, Adolf Hitler được suy
tôn làm lãnh tụ kiêm nguyên thủ quốc gia của Đế quốc Đức, nắm quyền lực
tuyệt đối, hoàn thiện chế độ độc tài. Gần như ngay lập tức, chính quyền
Đức Quốc xã đã trục xuất và bức hại 525,000 người Do Thái sinh sống
trong lãnh thổ Đức. Những trí thức Do Thái ở nước này là những người đầu
tiên rời bỏ quê hương để phản đối chính quyền Hitler, trong đó có nhà
triết học Walter Benjamin, nhà văn Leon Feuchtwanger và nhà bác học vĩ
đại Albert Einstein.
Trong suốt những năm tiếp theo của thập niên 30, các quyền pháp lý,
kinh tế, và xã hội của người Do Thái dần dà bị hạn chế. Một loạt các đạo
luật đã được thông qua nhằm đẩy người Do Thái ra khỏi những lĩnh vực
quan trọng như y tế, nông nghiệp và luật pháp kéo theo sự hành hung và
trục xuất đối với những người Do Thái làm việc trong các lĩnh vực trên.
Các nhà giam được gán mác trại tập trung và trại lao động bắt đầu
được lập nên từ tháng 3 năm 1933 tại Dachau với mục đích ban đầu là nơi
giam giữ, tra tấn và giết hại các tù chính trị thuộc đảng phái đối lập.
Cuối cùng, chúng trở thành những trại tử thần khét tiếng, nơi Đức Quốc
xã tàn sát người Do Thái và các nhóm thiểu số đối lập. Bộ luật Nuremberg, Endlösung và “Đêm Kính vỡ”: tình trạng ngày càng bi thảm của người Do Thái những năm sau đó.
Ngày 15 tháng 09 năm 1935, bộ luật Nuremberg được ban hành. Thông qua
bộ luật này Hitler đã tước hết quyền công dân và mọi quyền dân sự của
người Do Thái nhằm “bảo vệ sự thuần huyết và vinh quang của chủng tộc
người Đức.” Hitler cũng phát biểu đây được gọi là Endlösung – giải pháp cuối cùng cho vấn đề tận diệt người Do Thái.
Ngày 09 tháng 11 năm 1938 có thể xem là sự kiện mở đầu cho cuộc diệt
chủng Holocaust với Kristallnacht – “Đêm Kính vỡ” khi trong đêm đó, trên
khắp cả nước Đức và Áo, người Do Thái đồng loạt bị tấn công và cướp phá
tài sản. 100 người đã chết, 30,000 người bị đưa vào trại tập trung,
7,000 cửa hiệu và 1,668 hội đường của người Do Thái bị phá hủy hoàn
toàn.
Tháng 09 năm 1939, Đức Quốc xã đánh chiếm Ba Lan, khởi đầu cho Chiến
tranh thế giới lần thứ hai. 2,3 triệu người Do Thái tại Ba Lan lâm vào
tình thế sinh tử. Họ bị dồn vào các khu biệt cư (được gọi là “ghetto”) nằm cách xa khu dân cư và giao thông nhằm phục vụ cho ngành công nghiệp chiến tranh của Đức và sau đó họ sẽ bị tàn sát.
Tại các nước bị Đức Quốc xã chiếm đóng như Romania, Ba Lan…, hàng
loạt các cuộc thảm sát người Do Thái đã diễn ra tại các nước Trung Âu và
Đông Âu. Điều đáng buồn ở đây không chỉ là sự giết hại người Do Thái
của lực lượng vũ trang các nước trên mà còn bởi chính người dân. Số
lượng người Do Thái bị giết không ngừng tăng cao trong suốt cuộc thế
chiến với nhiều cách thức giết chóc ngày càng tinh vi, quy mô và tàn bạo
hơn.
Ngày 20 tháng 01 năm 1942, cuộc diệt chủng bước sang một trang mới bi
thảm hơn với Hội nghị Wannsee quy tụ 15 bộ óc “kiệt xuất” nhất của Đức
Quốc xã. Một kế hoạch được đệ trình nhằm tàn sát tất cả người Do Thái ở
Châu Âu, kể cả một nhóm thiểu số đang sống tại lãnh thổ Vương quốc Anh
nếu như Đức chiếm được nước này. Cũng theo kế hoạch, tổng cộng 6,5
triệu người Do Thái đang sinh sống trên khắp lãnh thổ Châu Âu (bao gồm
cả vùng lãnh thổ Liên Xô bị Đức chiếm đóng, nơi có cộng đồng 3 triệu
người Do Thái) đều sẽ được vận chuyển bằng tàu hỏa về các trại hành
quyết tử thần đặt tại Ba Lan. Địa ngục trần gian đối với người Do Thái.
Thật vậy, khi tội ác cùng cực của Đức Quốc xã bị đem ra ánh sáng, cả
thế giới không thể nào không kinh sợ với sự tàn ác mà con người có thể
gieo lên đồng loại của mình và đem việc bảo vệ sự thuần huyết của chủng
tộc ra biện minh.
Tổng cộng Đức Quốc xã cũng như phe phát xít đã cho xây dựng trên khắp
Châu Âu gần 60 trại tập trung với quy mô và mục đích khác nhau, trong
đó lớn nhất là trại Auschwitz tại Ba Lan (nơi ghi nhận con số 1 triệu tù
nhân đã bị giết chết).
Khi bị bắt vào các trại tập trung, các tù nhân bị buộc xăm lên mình
số tù và bị buộc phải lao động khổ sai 12 – 14 tiếng mỗi ngày trong điều
kiện cực kì tệ hại. Các cuộc điểm danh kéo dài hàng tiếng đồng hồ ngay
cả trong khi trời có mưa và tuyết rơi. Không chỉ bị cưỡng bức lao động
khổ sai, các tù nhân còn chịu đựng nhiều hình thức nhục mạ và tra tấn
tinh thần. Họ thường xuyên bị đánh đập bằng roi vọt, treo lên xà ngang
và có thể bị bắn chết bất kì lúc nào. Các loại nhục hình thể xác và tra
tấn tinh thần được đan xen liên tiếp, tạo ra trải nghiệm kinh hoàng đến
nỗi các tù nhân chỉ mong được chết đi để tìm đến sự giải thoát.
Một trong những biểu tượng kinh hoàng nhất của các trại tập trung đó
là các phòng hơi ngạt khổng lồ, nơi hàng nghìn tù nhân bị dồn vào trong
căn phòng kín được bơm đầy khí CO (carbon monoxide) để họ chết ngạt bên
trong . Các lò thiêu xác được vận hành liên tục bằng chính mỡ của các tử
thi chảy ra để kế hoạch tàn sát tập thể của Đức Quốc xã được đẩy lên
đến mức cao nhất.
Một biểu tượng thứ hai không thể không nhắc đến đó chính là các cuộc
thí nghiệm khoa học quái gở lên các tù nhân bởi các “nhà khoa học” vĩ
cuồng người Đức. Người Do Thái cũng như các tù nhân tại đây bị đem ra
làm vật thí nghiệm. Đức Quốc xã nhốt tù nhân vào phòng áp suất, dùng họ
để thử các loại dược phẩm khác nhau, bắt họ chịu rét cóng đến chết, cố
gắng biến đổi màu mắt bằng cách tiêm hóa chất vào mắt trẻ em, dùng phẫu
thuật để đoạn chi và những cắt xẻ tàn bạo khác. Tất cả những tù nhân khi
trải qua thí nghiệm, dù thành công hay thất bại, đều bị giết chết.
Kinh hoàng hơn, trẻ em cũng không hề nhận được một chút sự khoan hồng
nào trong chính sách diệt chủng này. Trẻ em đủ sức lao động sẽ bị xăm
số tù và đưa đến lao động khổ sai tại các nhà máy đan và thường chết ít
lâu sau đó vì điều kiện quá tồi tệ. Trẻ nhỏ không có sức làm việc sẽ lập
tức bị đưa vào phòng hơi ngạt. Một số trẻ sơ sinh bị tước đoạt khỏi cha
mẹ chúng, được giữ lại để các “bác sĩ” tiến hành các thử nghiệm trên cơ
thể, đặc biệt là các cặp sinh đôi. Những thí nghiệm này có mức độ man
rợ và dã man đến mức người thường khó có thể tưởng tượng được như việc
khâu dính người một cặp song sinh lại và để chúng đau đớn đến chết. Một
trong những “bác sĩ” đồ tể nổi tiếng nhất chính là Josef Mengele, người
thường… cho kẹo các trẻ em trước khi tiến hành thí nghiệm trên người
chúng.
Không chỉ dừng lại trong phạm vi các trại tập trung, trên khắp các
vùng lãnh thổ bị quân đội phe phát-xít chiếm đóng (chủ yếu ở Đông Âu và
Trung Âu). Khoảng 1,6 triệu người Do Thái bị giết hại trong các vụ hành
quyết tập thể vào khoảng thời gian trước khi Đức Quốc xã thiết lập những
trại tập trung (khoảng năm 1941). Giải thoát và những vết thương chưa lành.
Cuối năm 1944, tình hình chiến sự có những chuyển biến bất lợi cho
phe Trục, quân đội Đồng minh càng ngày càng áp sát nước Đức. Tình thế
buộc Đức Quốc xã phải di dời, phá dỡ các trại tập trung và hủy bỏ các
chứng cứ về cuộc diệt chủng man rợ này. Các tù nhân bị buộc rời khỏi
trại tập trung và đi bộ giữa thời tiết giá lạnh, sau đó họ bị nhồi nhét
vào các toa tàu lửa đóng kín bưng mà không có thức ăn lẫn nước uống cho
những cuộc hành trình dài ngày để di chuyển đến các trại tập trung ở xa
hơn. Đây được gọi là “Cuộc hành trình tử thần”, thêm 100,000 người Do
Thai tiếp tục bỏ mạng khi tự do đang đến rất gần.
Tháng 7 năm 1944, trại tập trung lớn đầu tiên, Majdanek được phát
hiện bởi Hồng quân Liên Xô, hé lộ với thế giới tội ác đáng sợ của Đức
Quốc xã. Các trại tập trung sau dó lần lượt được quân Đồng minh phát
hiện. Tháng 01 năm 1945, trại tập trung lớn nhất và nổi tiếng nhất
Aushwitz được Hồng quân Liên Xô giải phóng, ngày 15 tháng 04 năm1945,
liên quân Hoa Kì và Anh giải phóng được trại Bergen – Belsen. Các trại
tập trung dần dần đều bị đưa ra ánh sáng, cả nhân loại khiếp sợ vì những
hành động mất tính người của phe Phát-xít lên người Do Thái và phe
chống đối.
Một làn sóng bi thương và căm phẫn lan rộng khắp thế giới, tuy nhiên,
những đau thương về thể xác và những ám ảnh về tâm lí của những người
Do Thái trong chiến tranh thế giới thứ hai vẫn chưa thể nguôi ngoai hẳn
sau hơn bảy thập niên. Nguyện cầu
Chiến tranh thế giới thứ hai đã lùi xa vào dĩ vãng, nhưng thời gian
vẫn chưa thể xóa nhòa được kí ức. Người Nhật vẫn đau thương với hai quả
bom nguyên tử hủy diệt hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, người Mĩ vẫn
tưởng niệm những người đã ngã xuống tại Trân Châu cảng, người Nga vẫn
nhớ về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại với hai mươi bảy triệu người hi
sinh và người Do Thái vẫn nặng trong lòng những ám ảnh không dứt về thảm
họa diệt chủng Holocaust.
Ngay từ thời Cổ đại, Do Thái đã là một trong những dân tộc hứng chịu
nhiều đau thương. Cuộc diệt chủng kinh hoàng Holocaust sẽ mãi mãi là một
minh chứng rõ nét nhất về sự tàn bạo của chiến tranh, của những mất
mát, đau thương không khác gì địa ngục mà chính con người áp dụng lên
đồng loại của mình. Nhìn lại Holocaust cũng chính là sự cảnh tỉnh cho
nhân loại, để chính chúng ta không cho phép những sự kiện tương tự diễn
ra trong tương lai nữa. Minh Khôi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét