Tư liệu về bí ẩn khảo cổ 12
(Đại Chúng sưu tầm trên NET)
Kỳ 1: Kho xương “biết nói”
Những người chuyên "đánh thức" mộ cổ
Nằm trên tầng 3 của một toà nhà cổ, đẩy cửa vào, người
yếu bóng vía sẽ phải rụng rời chân tay khi trông thấy rất nhiều đầu lâu
trắng xóa... Kho xương có một không hai ở Hà Nội này là một tài sản vô
giá , không chỉ của Việt Nam mà cả thế giới bởi chỉ cần dựa vào đó, có
thể làm sáng tỏ nguồn gốc của loài người...
Chị Nguyễn Kim Thuỷ, người “trụ trì” kho xương, dẫn tôi
lên tầng 3 của Viện Khảo cổ. Cánh cửa chưa mở, nhưng hơi lạnh đã rịn
ra. Vào trong là căn phòng rộng mấy chục mét vuông, rờn rợn những sọ,
răng, ống tay, ống chân người, nhiều màu sắc và kích cỡ.
Có cái đầu lâu trắng như thạch cao, hai hốc mắt đen
ngòm gợi cảm giác bí ẩn. Có cái nhỏ hơn, lấm tấm những nốt xanh mốc,
xương miệng khép lại như thể đang có điều gì ấp ủ chưa nói. Một vài sọ
người nứt toác, cháy sém. Các biến thiên lịch sử, những cơn làm mình làm
mẩy của thiên nhiên đã đặt dấu ấn lên chiếc sọ tưởng rất mỏng manh
nhưng đã trường tồn mấy nghìn năm nay.
Kho xương cũng là một bộ sưu tập về răng người hết sức
đa dạng. Răng to, răng nhỏ, răng ngắn, răng dài, răng sâu, răng
khuyết... Có chiếc răng người nhưng không hiểu sao lại dài và nhọn hoắt,
cong vút lên trông chẳng khác gì răng của lợn rừng? Đoán được băn khoăn
của tôi, chị Thuỷ giải thích: “Đây là răng của các vị sống ở thời kỳ
tiền sử. Răng của tổ tiên chúng ta ngày xưa như vậy đó, tiến hoá dần dần
mới được như bây giờ”.
Mỗi một bộ xương, một chiếc răng cửa có khi giúp dựng
lại cả một giai đoạn lịch sử đã lùi xa hàng thiên niên kỷ. Nhưng việc
tìm xương cốt của người xưa là một “hành lộ nan” đầy khó khăn, nguy hiểm
và nhiều khi cũng kịch tính, rùng rợn như trong tiểu thuyết đường rừng.
Dấn thân vào nghề khảo cổ đã 20 năm có lẻ, chị Thuỷ trở
thành người phụ nữ hiếm hoi, nếu không nói là duy nhất, đã đi khắp đất
nước để tìm dấu vết người xưa. Như một thử thách khắc nghiệt cứ đeo đẳng
người phụ nữ này, dấu vết của người xưa thường chỉ có những nơi thâm
sơn cùng cốc, rất hiểm trở, hoang vắng. Lên khảo cổ các di chỉ thuộc
thời kỳ văn hóa Hoà Bình cách đây mấy nghìn năm, chị đã quá quen với
cảnh trèo đèo lội suối, ngủ rừng, nhưng tất cả mệt nhọc sẽ tan biến nếu
như phát hiện ra một cái hang động cổ.
Nếu trong hang than và bếp đã hoá thạch, thường ở đó sẽ
có di cốt người xưa. Trong những ngôi mộ đó, thường có một số đồ trang
sức thời bấy giờ như vòng ốc lợn, chuỗi xương cá. Tại di chỉ khảo cổ
thuộc thời văn hoá Quỳnh Văn, cạnh di cốt người còn thấy cả những vỏ sò
điệp. Chi tiết tưởng như rất bình thường này đã mở ra một giả thuyết đầy
lãng mạn nhưng có cơ sở thực tế: biển ngày xưa đã từng vỗ sóng nơi đây.
Chị Thuỷ cũng không nhớ hết mình đã bao nhiêu lần đào
các ngôi mộ cổ, đã bao nhiêu lần chui vào các hang sâu rồi tỷ mẩn tìm
kiếm ở đó cả tháng trời. Có khi phải đào đất trong hang đưa vào sàng,
đãi. Quá trình “đãi đất, tìm di chỉ” ấy nhiều khi kéo dài trong vô vọng.
Có lần các nhà khảo cổ Việt Nam và Đức đã mở tiệc liên hoan chỉ vì họ
tìm được một chiếc răng của người tối cổ. Đối với những người trong cuộc
ấy, chiếc răng nhỏ như hạt đậu đó chứa đựng bí mật cần giải mã của cả
một thời đại lịch sử.
Dẫu đã nhiều lần gặp những niềm vui như thế, nhưng chị
Thuỷ vẫn không bao giờ quên được lần khai quật di chỉ khảo cổ thuộc thời
kỳ văn hóa Đồng Đậu. Cái hố được đào sâu mãi, chừng khoảng 4m, phải bắc
thang mới xuống được, đúng lúc ấy, hài cốt của một người đàn ông hiện
ra. Các nhà khảo cổ đã reo lên khi thấy một chiếc vòng bằng đá - đồ
trang sức xưa trên xương tay của người đàn ông. Cho đến thời điểm này,
đó vẫn là chiếc vòng đá cổ duy nhất của khu vực Đông Nam Á được tìm
thấy.
Trong lần khai quật di chỉ ở huyện Bá Thước (Thanh
Hóa), hai chiếc sọ người được tìm thấy và ngay lập tức các nhà khảo cổ
học đã xem nó như báu vật. Hai chiếc sọ người với cái tên Mái đá điều và
Mái đá nước giờ đây đã nổi tiếng cả châu Á bởi những giá trị cực kỳ lớn
trong nghiên cứu sự hình thành và phát triển chủng tộc. Gần như tất cả
những nhà nhân chủng học trên thế giới đều đã đến xem 2 chiếc sọ này.
Biết bao nhiêu chuyến đi vào rừng rậm, hang sâu, dãi
dầm mưa nắng nhưng không làm vơi đi lòng yêu nghề của chị Thuỷ. Ngoài 50
tuổi nhưng người phụ nữ này luôn sẵn sàng để lên đường. Và sau mỗi
chuyến đi, kho xương người của Viện Khảo cổ thường có thêm “thành viên”
mới. Đối với chị, kết thúc một chuyến công tác cũng là sự bắt đầu công
việc “nhuận sắc”, “trang điểm” những bộ xương, những hộp sọ người.
Có nhiều sọ người bị nứt toác, vỡ vụn ra, phải tỷ mẩn
gắn lại sao cho đúng, cho khớp với hình dạng ban đầu. Có những hộp sọ,
chỉ riêng việc gỡ lớp trầm tích bám trên đó cũng mất cả tháng trời. Công
việc được làm trong sự vây bọc của hàng trăm bộ xương người. Cái kho
của Viện Khảo cổ cũ kỹ và ẩm thấp lắm rồi, không phải con cháu có ý bạc
đãi các cụ mà cũng bởi kinh phí eo hẹp. Nhưng mới đây, Viện Khảo cổ đã
đầu tư nhiều trang thiết bị để nơi yên nghỉ của các cụ thêm phần yên ấm.
Hoàng thành thực ra chỉ là xưởng thủ công?!
Mới đây, sự kiện tìm thấy Hoàng thành đã làm xôn xao dư
luận, nhưng ít ai biết rằng trong lòng đất Hoàng thành, ngoài những
hiện vật đã được giới thiệu còn có nhiều bộ xương người. Mỗi bộ xương có
được chôn với tư thế và đồ tuỳ táng kèm theo rất khác nhau. Di cốt
người trong ngôi mộ ký hiệu BĐ.20.B19.M1 bị vỡ vụn, từ 128 mảnh xương,
các nhà khảo cổ đã gắn chắp và phục dựng lại sọ của một cá thể (cách gọi
chung một di chỉ người của ngành khảo cổ) nam giới nhuộm răng đen,
khoảng 35 - 40 tuổi. Đặc biệt ở phần trán - đỉnh bên trái đầu có một vết
chém dài 5cm, sâu 3cm.
Đáng chú ý ở bãi phế thải thời Lê đã phát hiện một hố
chôn người tập thể. Sơ bộ ban đầu xác định trong hố có 4 cá thể, điều lý
thú là các cá thể này bị trói buộc hai tay, hai chân quặt ra sau lưng
và vứt xuống hố. Niên đại ngôi mộ cổ này khả năng vào thời Hậu Lê. Xung
quanh những ngôi mộ cổ này còn nhiều bí ẩn mà chị Nguyễn Kim Thuỷ, người
trực tiếp nghiên cứu chưa thể công bố vì mọi việc vẫn còn dang dở.
Nhưng một nhà khảo cổ đã căn cứ vào các bộ xương đào được để nhận định
rằng nơi vừa đào được của Hoàng thành thực ra là một xưởng thủ công của
các tù binh?
Phùng Nguyên
|
|||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Kỳ 2: Ngôi mộ cổ Linh Đường và bí mật về bà hoàng trong lăng đá
Người chuyên "đánh thức" mộ cổ
Chờ ba bóng đen chụm đầu vào nhau, các chiến sỹ an ninh
bất thần ập đến, tóm gọn. Việc bắt giữ diễn ra hết sức mau lẹ nên hai
tên đang trộm đào mộ ở bên trong không hề hay biết. Chỉ khi nghe tiếng
súng nổ chát chúa bên tai, chúng mới vội vàng tẩu thoát...
Dưới ánh sáng ban ngày, ngôi mộ cổ ở làng Linh Đường
(Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội) hiện lên sừng sừng giữa đồng không
mông quạnh. Dân làng đổ ra xem ngôi mộ vô danh đã “trơ gan cùng tuế
nguyệt” ở đây mấy trăm năm nhưng chẳng mấy ai để ý đến. Tiếng nổ của
khối bộc phá nặng chừng nửa cân phá tan cửa lăng đá, mọi người nhìn rõ
lỗ thủng trên áo quan.
Mộ có cấu trúc đặc biệt gồm lăng đá, quách tam hợp và
quan tài. Lăng đá được làm theo dạng khối hộp chữ nhật, bên trong có mái
che. Lăng đá dài 4,1m, rộng 3,0m, chiều cao từ đỉnh nóc xuống đến chân
lăng khoảng 3m. Phần nhiều các mộ xác ướp đã phát hiện không bao giờ xây
lăng đá nổi bên trên, nếu có chăng chỉ là gò mộ được đắp bằng đất phủ
lên, còn chủ yếu đều nằm chìm dưới đất. Nhìn vào lăng đá nổi, TS Cường
đã tự hỏi phải chăng có những yếu tố kỹ thuật mai táng mới ở ngôi mộ cổ
này?
Nằm trong lăng đá là lớp quách tam hợp, cũng được xây
theo khối hộp chữ nhật rất kín. Quách tam hợp này kích thước chỉ nhỉnh
hơn áo quan đôi chút nhằm bảo vệ cho áo quan. Quách được tạo từ vôi, cát
mật trộn với giấy bản đã ngâm nước và giã nhỏ thành bột tạo thành một
chất siêu bền, càng để lâu càng cứng. Quan tài được làm từ gỗ Ngọc Am –
một loại gỗ quý hiếm được lấy từ lõi cây thông già. Gỗ rất thơm và chống
được mối mọt.
Nắp quan tài được mở ra, đập vào mắt những nhà khảo cổ
là một xác người được bó khá cầu kỳ. Lần lượt từ trong ra ngoài có 1 tấm
chăn đại liệm gồm vỏ chăn gấm và ruột bông trắng tinh, 5 lớp vải đại
liệm loại mộc màu trắng ngà, 1 mảnh vải lụa màu vàng che mặt, 2 mũ đội
đầu bằng gấm và vải... Tử thi được mặc nhiều lớp váy áo, trong đó có 4
lớp áo gấm đặc biệt như áo gấm trang trí hoa văn đồng tiền, hoa văn kiểu
hoa hướng dương. Sau 4 lớp áo này, còn có 3 kiểu áo khác gồm áo may
kép, trên ve áo có hai chữ Hán là “Mụ đình”; áo gấm màu vàng có trang
trí hình rồng và sóng nước; áo gấm màu vàng óng trang trí hình rồng chầu
mặt nguyệt... Ngoài ra, sát thân còn hơn chục lớp áo khác. Tổng cộng có
cả thẩy 33 lớp áo cùng 9 lớp váy!
Đồ tuỳ táng chôn theo gồm 1 chiếc quạt giấy 14 nan còn
nguyên vẹn, 1 túi đựng trầu gồm 37 miếng trầu còn tươi xanh như vừa mới
hái, 34 quả cau hơi héo, một chuỗi tràng hạt đeo cổ gồm 105 hạt, trong
đó có 104 hạt táo và 1 hạt ngọc... Các số đo nhân học cho phép đoán định
người chết nằm trong mộ là một người đàn bà xinh đẹp, cao khoảng 1,50m,
dáng người đẫy đà, khuôn mặt cân đối. Bà mất vào tuổi 62 đến 64 vào nửa
cuối thế kỷ XVIII – thế kỷ đầy biến động của lịch sử Việt Nam. Người
đàn bà đó là ai?
Mộ cổ Linh Đường từng là mộ giả của vua Quang Trung?
Thường trong các ngôi mộ xác ướp của Việt Nam, người
chết luôn mang theo tấm thẻ căn cước được gọi là tấm minh tinh, nói về
hành tung và thân phận xã hội của mình. Nhưng tấm minh tinh đã không tìm
thấy trong ngôi mộ cổ Linh Đường. Người chết là ai? Câu trả lời vẫn còn
bỏ ngỏ ngay cả khi đã khai quật xong ngôi mộ.
“Lúc đó, tôi hơi hoang mang, không biết nghiên cứu theo
hướng nào để xác định được thân phận của chủ ngôi mộ cổ. Đúng vào thời
điểm đó, cách khu khai quật khoảng 500m về phía Bắc còn lại một tấm bia
trụ in chữ 4 mặt được khắc vào khoảng cuối thế kỷ XVII. Nội dung đề cập
đến một người đàn bà họ Trần là cung phi trong phủ chúa Trịnh đã cúng
tiền của đất đai... Một hướng nghiên cứu đã hé mở...” - TS Nguyễn Mạnh
Cường nhớ lại.
Cùng thời gian đó, có người thuộc dòng họ Trần đã cho
các nhà khảo cổ xem cuốn gia phả trong đó có nói tới một người đàn bà
quyền thế ở phủ chúa, khi chết được an táng tại Lăng đá xứ thuộc cánh
đồng Mô. Một vài người vội tin vào cuốn gia phả đã cho công bố kết quả
nghiên cứu. Theo công bố thì chủ nhân của ngôi mộ là bà Dĩnh, người làng
Linh Đường được phong là Chiêu Dung công chúa, khi chết có lăng đá để
thờ. Công bố này được xem như một giả thiết lịch sử, nhưng sau khi
nghiên cứu kỹ cuốn gia phả, các nhà khảo cổ nhận thấy bà Dĩnh là em vợ
chúa Trịnh Tạc.
Theo quy định tang lễ nghiêm ngặt của chế độ phong kiến
thì em vợ chúa khi chết không được mặc áo hoàng bào xuống mộ. Một chi
tiết đáng lưu ý nữa là bà Dĩnh được nói trong gia phả sống ở nửa cuối
thế kỷ XVII, trong khi đó các hiện vật tuỳ táng trong ngôi mộ đá lại xác
nhận dấu vết của thế kỷ XVIII. Từ những tư liệu có cơ sở khoa học đó,
các nhà khảo cổ học kết luận: Đức bà Dĩnh trong gia phả họ Trần không
phải là chủ nhân của ngôi mộ cổ.
Chặng đường đi tìm lai lịch chủ nhân ngôi mộ tưởng như
rơi vào ngõ cụt bỗng mở ra một hướng thênh thang khi các nhà khảo cổ tìm
thấy trong Viện Thông tin (Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam) một tài
liệu lịch sử có đề cập đến Mỹ Vương, người làng Linh Đường, chủ sự việc
kiêu binh sau khi Trịnh Sâm mất. Lần giở hồ sơ nói về cuộc đời Mỹ Vương,
được biết ông tên thật là Nguyễn Mỹ, con trai Nguyễn Trọng Viêm. Nguyễn
Trọng Viêm lại là anh trai Trịnh Thái Phi. Như vậy ở làng Linh Đường có
người con gái họ Nguyễn lấy chúa Trịnh và là bà cô của Nguyễn Mỹ.
Các tư liệu lịch sử cho hay người con gái họ Nguyễn đó
chính là bà Hoa Dung - Vợ chúa Trịnh Doanh, mẹ của chúa Trịnh Sâm. Sử cũ
chép rằng bà Hoa Dung là người đoan trang, chính trực. Việc Đặng Thị
Huệ âm mưu đưa con trai mình lên ngôi chúa khiến bà bất bình và tìm lời
khuyên giải Trịnh Sâm. Tiếc rằng vị chúa luỵ tình này đang bệnh hiểm
nghèo nên không xoay chuyển được tình thế. Sau khi chúa Trịnh mất, loạn
kiêu binh đã lật nhào Trịnh Cán lập Trịnh Tông lên ngôi chúa, bà Hoa
Dung đã bức tử Đặng Thị Huệ. Nhưng chẳng bao lâu nhà Trịnh sụp đổ, bà bỏ
về quê ở ẩn và mất tại đó. Phải chăng lúc này bà hoàng thất cơ nên đám
ma đưa tiễn cũng chỉ diễn ra một cách vội vàng, đơn sơ với những gì lúc
sống bà lưu giữ?
T.S Nguyễn Mạnh Cường dừng lại trước câu hỏi đó một hồi
lâu rồi mới “cởi nút”: “ Sau khi khai quật ngôi mộ cổ được một thời
gian, chúng tôi đọc được gia phả của dòng họ Nguyễn ở Linh Đường. Thật
bất ngờ, cuốn gia phả có nói đến bà Nguyễn Thị Hoa Dung với những thông
tin đúng như giả thiết của chúng tôi”.
TS Cường tiếp tục làm tôi bất ngờ khi ông cho rằng ngôi
mộ cổ Linh Đường liên quan đến vua Quang Trung. Lịch sử để lại một câu
chuyện rằng sau khi Quang Trung mất, Quang Toản lên nối ngôi, sai sứ
thần sang Trung Quốc báo tang, và làm tờ biểu xin phong vương. Trong tờ
biểu có nói: Vâng lời dặn lại của vua cha, sau khi chết không đưa di hài
về quê, mà chôn cất ở làng Linh Đường để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết.
Vua Thanh khen ngợi, lập tức sai sứ thần sang lễ tế! Quang Toản bèn cho
làm ngôi mộ giả ở làng Linh Đường để nhà Thanh gửi lễ sang viếng.
Có thể cái chết của bà Hoa Dung xảy ra sớm hơn đôi chút
với cái chết của vua Quang Trung nên đã có người lập mưu chọn đúng ngôi
mộ của bà nguỵ trang lại như mộ vua để cho sứ đoàn nhà Thanh sang
viếng. Người bày ra mưu kế này rất có thể là Ngô Thì Nhậm vì ông là
người Tả Thanh Oai, am hiểu vùng đất này hơn ai hết. Dĩ nhiên, đó chỉ là
một giả thiết lịch sử, nhưng TS Nguyễn Mạnh Cường – Người nghiên cứu
sâu về vua Quang Trung - tin rằng mình đã đúng. Lịch sử luôn cần những
giả thiết, và luôn chứa đựng những bất ngờ. Trường hợp về mộ Lê Lợi ở
Thanh Hóa là một ví dụ...
Phùng Nguyên
Hé mở những bí ẩn của xác ướp cổ giữa lòng Sài Gòn
Hơn 200 năm “về với đất”, xác ướp bà vẫn vẹn nguyên bình thản đi vào giấc ngủ ngàn thu giữa lòng Sài Gòn nhộn nhịp.
Nhưng, cho dù thân phận của bà là hoàng thân quốc thích hay thường dân, thì trải khoảng hơn 200 năm “về với đất”, xác ướp bà vẫn vẹn nguyên bình thản đi vào giấc ngủ ngàn thu giữa lòng Sài Gòn nhộn nhịp. Ngôi mộ kỳ bí Bà là Nguyễn Thị Hiệu, có nhiều tài liệu sử học cho rằng bà là hoàng thân quốc thích của vua Gia Long (Nguyễn Ánh 1762 – 1820). Đầu năm 1994, khi di dời nghĩa trang, chỉnh trang phố thị khu vực xóm Cải, phường 8, quận 5, TP. HCM ngôi cổ mộ song táng kỳ bí chứa xác ướp của bà được phát hiện, hé lộ những bí ẩn mang tính lịch sử. Từ đó, thân phận của bà bắt đầu gắn với cái tên “xác ướp xóm Cải”. Gần 20 năm, kể từ ngày được khai quật, xác ướp xóm Cải được bảo quản đặc biệt tại Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (TP. HCM) ai đến thăm cũng trầm trồ nét mặt bình thản, an nhiên cùng bà an giấc ngàn thu. Ngược quá khứ, Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ghi chép rất tỉ mỉ về kết cấu ngôi cổ mộ. Khi mới phát hiện, ngôi cổ mộ nằm xen trong khu 15 ngôi mộ bình thường khác. Duy chỉ có cổ mộ đặc biệt bởi khuôn viên bề thế rộng hàng trăm mét vuông với kết cấu vững chắc như một ngôi đình.
Kết cấu gò mộ là một khối hợp chất lớn, chiều dài 3,6m, rộng 3m, cao 3,2m gồm 2 phần: phần trước gắn bia mộ chìm trong khối hợp chất, các chữ trên bia đã mòn chỉ còn đọc được 3 chữ Kỷ Tị Niên và phần sau có trang trí hoa văn, mỗi bên hông gò đều có vẽ hình mặt tròn lớn. Quách gò mộ vững chắc đến mức, muốn khảo nghiệm được quách, các nhà khảo cổ phải thuê tới 15 thanh niên lực lưỡng dùng đục sắt đục ròng rã trong 40 ngày, hàng trăm chiếc đục cùn vẹt mới chạm được đến phần đáy quách ở độ sâu gần 8m cho thấy khi xây mộ, người xưa đã dùng kỹ thuật nung vỏ sò biển thay vôi, dùng mật ong để thay mật đường mía và thêm than gỗ tốt trong hợp chất vôi, cát, mật xây quách. Tiếp tục khai quật, san gò mộ bằng bình địa, các nhà khảo cổ học phát hiện phía bên dưới gồm 2 huyệt mộ song táng, 1 huyệt mộ nam và 1 huyệt mộ nữ. Huyệt mộ nam dài 2,3m, rộng 0,8m, sâu 1,56m, từ miệng huyệt xuống đáy mộ được bao phủ nhiều lớp hợp chất. Quách gỗ được phủ 1 lớp cát mỏng và quan tài còn nguyên màu sơn đen, bên trong quan tài còn lại một ít xương cốt và hiện vật còn lại 7 chiếc nhẫn vàng có mặt đá, quạt giấy, lược, ống và cây ngoáy trầu bằng đồng, hộp bạc có dây xích hình cầu dẹt chạm dây lá, bút lông, nút áo mạ vàng.
Phía dưới 2 chiếc chiếu cói là lớp giấy bản dày khoảng 10cm, được trải đều. Một tấm lá triệu (có thể là lá phướn – PV) bằng lụa được phát hiện, trên bề mặt tấm lụa có nhiều Hán tự nhưng bị nhòe mặt chữ, chỉ đọc được 4 chữ mang nghĩa là “Hoàng gia cung liệm”. Hé mở những bí ẩn Với nhà khảo cổ Đỗ Đình Truật, buổi sáng đầu tháng giêng cách đây 19 năm đối với ông là 1 kỷ niệm không bao giờ quên. Ông kể, bọc ngoài quan tài là cái quách bằng gỗ rất dày, cao 0,5m dài 2,2m. Toàn bộ quách và quan tài được phủ một lớp sơn ta cổ, rất tốt và kín mịt tựa như lớp dầu hắc (hắc ín). Nhờ lớp sơn này, mà nước mưa thấm vào lòng đất không thể ngấm vào áo quan và dung dịch ướp xác cũng không tràn ra bên ngoài. Đó là lý do vì sao thi hài của bà Nguyễn Thị Hiệu hầu như còn vẹn nguyên, trong khi thi hài của ngôi mộ kế bên (khả năng là 1 người thân của bà Hiệu) dung dịch bị tràn ra ngoài nên chỉ còn xương cốt. Khi tiến hành mở nắp quan, thật kinh ngạc về trình độ, kỹ thuật ướp xác của người xưa. Cói khô có tác dụng hút ẩm tốt, người xưa đã che phủ áo quan bằng 2 lớp chiếu cói để chống ẩm. Ngoài ra, ngay dưới chiếu còn tiếp tục được phủ nhiều lớp giấy bản hút ẩm có độ dày lên đến hơn 5cm.
Mở tiếp chín lớp áo vải, lụa, gấm quý, tay tôi run run xúc động khi bắt đầu chạm tay vào xác ướp. Mùi dầu thông thơm nồng, bà nằm được bao phủ trong lớp nước dung dịch màu đỏ. Gỡ lớp mạng che mặt, mọi người ngỡ ngàng trước nét mặt bình thản giấc thiên thu của bà. Xác định bà tên Nguyễn Thị Hiệu, ước định khoảng 60 tuổi, mái tóc đen chớm vai chỉ có ít sợi bạc. Bà có làn da mịn màng, hơi có màu đỏ sậm, cũng dễ hiểu vì đã ngâm hàng trăm năm trong dầu thông” – ông Truật hồ hởi kể lại. Đặt bên cạnh chân của bà Hiệu là 1 đôi hài vàng được dục 7 lỗ theo chòm sao Đại Hùng tinh Bắc Đẩu rất giống với những ngôi mộ cổ của bậc cung phi, hoàng thân vua chúa từng được khai quật ở khu vực phía Bắc. Theo quan niệm của đạo Lão, Đại Hùng tinh Bắc Đẩu sẽ bảo vệ vong linh người đã chết thoát khỏi các tai ương của “đời sống dưới cõi âm”. Kiểm tra kỹ lưỡng thi hài tiền nhân, các chuyên gia khảo cổ và các chuyên gia giải phẫu trầm trồ trước các khớp xương trải hàng trăm năm vẫn vận động co duỗi rất linh hoạt, cơ thể bà chỉ bị teo lại chút ít, các bộ phận vẫn nguyên vẹn chưa có dấu hiệu phân hủy. Từ đôi bàn tay, bàn chân nhỏ nhắn, và cơ thể mềm mại của bà, các nhà khoa học nhận định lúc sinh thời bà sống cảnh an nhàn, chứ không phải lao động vất vả. Lại căn cứ vào những giấy tờ, đồ vật tùy táng của bà, và lần ngược lịch sử triều Nguyễn, nhiều ý kiến đồng tình cho rằng bà có xuất thân hoàng thân quốc thích với vị vua khai triều Gia Long. Nhà khảo cổ nhận định, hầu hết xác ướp ở nước ta, thậm chí cả vua Lê Dụ Tông, thường chỉ về thế giới bên kia với đồ tùy táng quần áo, vật dụng thông thường. Xác ướp bà Nguyễn Thị Hiệu là hiếm hoi trong số những xác ướp được tùy táng nhiều vàng bạc. Điều này khiến các nhà khoa học càng tin rằng bà có quan hệ huyết thống Hoàng tộc nhà Nguyễn.
Sau quá trình khai quật, xác ướp bà Nguyễn Thị Hiệu được đưa về nghiên cứu tại Đại học Y dược TP. HCM, dung dịch màu đỏ nâu ướp xác bà được phân tích bước đầu xác định có chất nhựa thông trong đó. Sau này, xác ướp của bà được coi như một “bảo vật” giữ gìn cho hậu thế được chiêm ngưỡng trước những kỳ tích nghệ thuật ướp xác của tiền nhân và những giá trị lịch sử ẩn tàng phía sau xác ướp hàng trăm năm tuổi, đối với mảnh đất Sài Gòn –Gia Định trên 300 năm thăng trầm lịch sử, người ta đã đưa xác ướp của bà về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (TP. HCM). Cứ khoảng 3 tháng một lần, chuyên gia Đại học Y dược lại sang kiểm tra tình trạng và lau thuốc chống nấm mốc, bảo vệ mô xác ướp. Phòng bà nằm cũng được gắn máy hút ẩm, máy thông gió hoạt động liên tục để gìn giữ xác ướp. Hiện nay, tại viện bảo tàng, xác của bà được đặt trong lồng kính uy nghiêm. Theo quan sát, thi thể của bà không còn mềm như khi còn được lớp dung dịch bao bọc, thân hình bà đã khô cứng, trên đầu tuy còn chỏm tóc dài màu đen, phất phơ nhưng mũi và hốc mắt của bà gần như bị phân hủy hoàn toàn. Và ngày ngày, từng đoàn đến Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vẫn kính cẩn nghiêng mình trầm trồ trước “vẻ đẹp” xác ướp kỳ bí, ẩn tàng phía sau đó không chỉ là những bí pháp giá trị nghệ thuật ướp xác đã thất truyền của tiền nhân mà còn là di sản vật chất và giá trị tinh thần quý báu của đất Sài Gòn – Gia Định xưa và nay. Theo Nam Phong (Báo Gia đình và Cuộc sống)
Việt Báo (Theo_VTC)
|
Nhận xét
Đăng nhận xét