THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 9
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
____________________________
(Còn tiếp)
ĐẠI CHÚNG
____________________________
CHƯƠNG VII: VÔ TỰ ĐẠI THƯ
“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng
Đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng Đế. Không
nên tin một đấng thần linh nào khác… Chúng ta cần một tôn giáo tạo những con người
cho ra người… Bạn nên bỏ những tôn giáo thần bí làm cho bạn suy nhược đi, và bạn
nên cương cường… Chỉ có mỗi một đấng Thượng Đế có ý thức, là nòi giống của ta, đâu
đâu cũng có bàn tay của Ngài, bàn chân của Ngài, cặp tai của Ngài; Ngài bao trùm
hết thảy… Sự sùng bái chính đáng nhất là sự sùng bái vạn vật chung quanh ta… Chỉ
người nào giúp đỡ vạn vật mới thực sự là thờ phụng Thượng Đế.”
(Vivekananda)
Chúng ta đã “xả
hơi” hết nhọc mệt và lại bừng bừng khí thế lên đường. Nhưng lên đường để lang bạt
đến đâu? Đi đến đâu thì cũng chẳng quan trọng gì vì đối với chúng ta; điều quan
trọng bậc nhất là được đi, được thấy và may tay nhặt được thêm những viên ngọc
mà lịch sử đã đánh rơi, lẫn ở đâu đó trong cỏ cây, sỏi đá.
Có người cho rằng
lịch sử không đánh rơi ngọc mà lịch sử để đó, và kết tội chúng ta là những kẻ ăn
cắp. Kể cũng đúng, nhưng phải nói thêm là những kẻ ăn cắp có tài. Vì suốt bao
nhiêu ngàn năm trôi qua, kẻ trộm nhiều vô kể mà chẳng phát hiện ra sự quí giá của
những viên lăn lóc ấy.
Nhưng tài gì mà
tài đến thế? Có thể sự thực đơn giản hơn nhiều: Chúng ta đã nhặt được toàn thứ
mà lịch sử “vứt đi” nhưng trong hoang tưởng chúng ta hý hửng tưởng đó là những
viên ngọc. Đúng thế chăng?
Mặc lòng, chúng
ta cứ lang thang giữa mênh mông không gian, giữa biền biệt thời gian và ngoài…
thực tại!
Không dứt lòng được,
hình bóng Quỉ Cốc tiên sinh vĩnh viễn hiển hiện trong tâm khảm cùng với cái quá
khứ đầy bi hùng của một đất nước đã từng có biết bao nhiêu văn hào, võ kiệt. Đâu
đó, từ ngàn năm vọng về tiếng ngựa hí gươm khua, vang tiếng quân reo, gầm gừ chiến
trận và rền rĩ âm hồn.
Thôi, không lưỡng
lự nữa, chúng ta đi, và đi về phía ấy: thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
***
Tất cả mọi hiện
thực, hiện hữu đều là sự tạo dựng. Do đó, con người không thể bỗng nhiên xuất
hiện trên Trái Đất này, và nền văn minh nhân loại không thể đột khởi rực rỡ từ
mông muội được, mà phải là những quá trình liên tục và hết sức dài lâu.
Những di chỉ khảo
cổ học về đồ đá cũ và đồ đá mới được phát hiện hầu như khắp nơi trên thế giới,
cùng với sự tương đồng nhau về hình dáng và kỹ năng chế tạo của chúng đã cho thấy
rằng tổ tiên loài người thuở hồng hoang, về cơ bản là thiên di và những bộ phận,
những bầy người thiên di ấy trong một chừng mực nhất định có mối liên hệ qua lại
với nhau (trao đổi kinh nghiệm chế tác công cụ chẳng hạn). Những khai quật còn
cho thấy rằng có mức độ ít nhiều tập trung về số lượng các hiện vật tại cùng một
chỗ, và cùng một chỗ đôi khi có mặt cả đồ đá cũ lẫn đồ đá mới… Điều đó chứng tỏ
trong quá trình thiên di vĩ đại đó còn có những quá trình ngụ cư dài ngắn về thời
gian mà so với quá trình thiên di thì được gọi là tạm thời.
Ngày nay chúng
ta vẫn thấy được những tập tính thiên di và ngụ cư ở các loài chim, động vật trên
cạn cũng như ở dưới nước, thậm chí là ở không ít loài thực vật nữa. Thiên di và
ngụ cư là hai quá trình đan xen nhau của một quá trình thống nhất, có nguyên nhân
từ sự biến động của môi trường (thiên tai, thời tiết, nguồn thức ăn theo mùa…),
có mục đích sinh tồn và thuộc về quá trình đấu tranh sinh tồn. Gần đây tương đối
phổ biến hiện tượng một số người dân từ các nước nghèo đói, kém phát triển tìm
cách nhập cư vào các nước phát triển, để mong kiếm sống tốt hơn cũng là một dạng của thiên
di.
Tùy theo sự biến
đổi có tính chu kỳ của thời tiết, khí hậu (tạo ra những nguồn thức ăn biến đổi
theo mùa) mà cũng có những cuộc thiên di, theo chu kì, nghĩa là có đi có về, dần
dần làm cho mối tương quan giữa ngụ cư và thiên di biến đổi theo hướng ngụ cư tăng
lên. Lúc này, chúng ta có thể gọi khác đi: Thiên di được gọi là du cư, ngụ cư được
gọi là (tạm) định cư. Gọi chung là quá trình du cư. Chính quá trình (tạm) định cư dần dà, đã
cho con người phát hiện một phương thức kiếm ăn mới, tác động rất mạnh đến tốc độ
phát triển lên văn minh của họ sau này, đó là trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt
và chăn nuôi cần có đất và nước và đặc biệt thuận lợi là ở những lưu vực sông,
nơi có sẵn nguồn nước tưới tiêu và đất đai màu mỡ, phì nhiêu và luôn được bù đắp
bởi phù sa.
Khi trồng trọt
và chăn nuôi đã đủ ăn và đủ tích lũy thì sự định cư lâu dài xuất hiện. Định cư được ưu
tiên ở những lưu vực sông, nơi có điều kiện sống thuận lợi, do đó mà xuất hiện hiện tượng qui tụ dân cư làm cho số lượng cá thể định cư dần đông đúc, trở thành quần cư.
Điều đương nhiên, quần cư cũng là nơi tập trung được những kinh nghiệm, những sáng
kiến trước đó, ở khắp nơi trong việc chế tạo công cụ, săn bắt, chăn nuôi và trồng
trọt cũng như những hiểu biết nhất định về tự nhiên.
Đó là những yếu
tố cần nhưng chưa đủ để một quần cư trở thành một trung tâm văn minh…
Điều kiện để một
quần cư phát triển rực rỡ lên thành trung tâm văn minh là điều kiện tự nhiên của
khu vực phải đảm bảo được sự định cư ổn định tương đối lâu dài, đủ rộng lớn để
thỏa mãn được sự phát triển về qui mô của quần cư (số lượng người).
Tất cả những điều
đó nói lên rằng không phải ngẫu nhiên mà vào buổi bình minh của lịch sử loài người,
bốn trung tâm văn minh, hay thường gọi là bốn nền văn minh cổ đại đều xuất hiện
ở bốn lưu vực sông. Văn minh Ai Cập cổ đại ở lưu vực sông Nin, văn minh Lưỡng Hà
ở giữa sông Tigrơ (Tigre) và sông Ơphơrát (Euphrate), văn minh Ấn Độ cổ đại ở lưu
vực sông Ấn (kế tiếp là sông Hằng), văn minh Trung Hoa cổ đại ở giữa hai con sông
là Hoàng Hà và Dương Tử.
Việc xuất hiện
hầu như cùng một lúc cả bốn nền văn minh cổ đại nêu trên và giữa chúng phảng phất
những nét tương đồng nào đó (nét chung) quả là một điều lạ lùng.
Có thể thấy rằng
tất cả những khái niệm tạm cư, du cư hay định cư, du mục đều mang tính tương đối.
Đó là những hiện tượng luôn tồn tại đồng thời, đan xen nhau, tùy điều kiện, hoàn
cảnh sống của con người, ở từng khu vực, từng giai đoạn lịch sử mà “kiểu đi - ở”
này nổi trội hơn “kiểu đi - ở” kia. Vì vậy khi nói loài người bước vào thời kỳ định
cư, trồng trọt và chăn nuôi, thì chỉ có nghĩa đó là phương thức sống nổi trội,
chứ không phải không còn du cư, du mục, không còn săn bắt, hái lượm.
Ở thời kỳ xa xôi
ấy, dân số loài người tăng dần theo chất lượng cuộc sống. Do đó có thể phán đoán
rằng phương thức sống định cư, trồng trọt chăn nuôi làm cho điều kiện sống được
cải thiện vượt bậc cùng với lương thực thực phẩm trở nên dồi dào và từ đó dân số
phát triển có tính chất bùng phát. Và có thể đó cũng là một nguyên nhân làm cho
một bộ phận dân cư tham gia vào “đội quân lang thang” (chúng ta lang thang vì
chuyện khác!).
Nhờ có đội quân
lang thang ấy mà mối liên hệ vốn có giữa các bầy người thời tiền sử không những
được duy trì mà còn phát triển sâu rộng hơn giữa các khu vực quần cư với nhau
(không phải chỉ có bốn quần cư!) về mọi mặt như kiến thức mới, kinh nghiệm mới,
công cụ mới, giao lưu văn hóa…
Trong suốt quá
trình lịch sử của mình, lòai người vừa học hỏi tự nhiên, vừa tự học hỏi lẫn nhau
để cùng tiến tới văn minh.
Tuy vậy cũng phải
thừa nhận tính độc lập tương đối, tính đặc thù, tính riêng của mỗi nền văn minh
do tính khác biệt tương đối về điều kiện địa lý, môi trường sống của mỗi khu vực
cũng như do sự hạn chế của mối quan hệ (xa xôi, cách trở…) đem lại.
***
Nền văn minh
Trung Hoa cổ đại thuộc hàng cổ nhất thế giới. Theo cuốn “Lịch sử thế giới cổ đại”
(NXB Giáo dục, 2006) thì: “Trên lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc, giới khảo cổ
học đã phát hiện được rất nhiều hiện vật thuộc các thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá giữa,
đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt. Tiêu biểu cho nền văn hóa hậu kỳ đồ đá mới là văn hóa
Ngưỡng Triều, được phát hiện trước tiên năm 1920 tại thôn Ngưỡng Triều thuộc tỉnh
Hà Nam. Sau đó, tại các tỉnh Sơn Tây, Cam Túc, Thanh Hải.v..v… Cũng phát hiện được
những di chỉ thuộc văn hóa Ngưỡng Triều. Về niên đại, văn hóa Ngưỡng Triều kéo
dài từ khoảng năm 4500 – 2500 TCN. Tiếp theo văn hóa Ngưỡng Triều là văn hóa
Long Sơn, phát hiện được năm 1928 ở trấn Long Sơn, gần Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Văn
hóa Long Sơn phân bố trên một phạm vi rất rộng, đông từ Sơn Đông, tây đến Thiểm
Tây, bắc đến nam Liêu Đông, nam đến Chiết Giang. Về mặt niên đại, văn hóa Long
Sơn kéo dài từ khoảng năm 2100 – 1800 TCN”.
Từ lâu lắm, người
thuộc giống Mông Cổ đã tới lưu vực sông Hoàng Hà, đánh thổ dân ở đó là người Miêu,
chiếm đất. Có lẽ họ trước đó là dân du mục, xa biển, khi bắt đầu chuyển sang sống
định cư, chuyên trồng trọt chăn nuôi nên họ không giỏi về hàng hải, buôn bán. Có
sách nói rằng hai tộc người hình thành sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà là tộc
hạ ở trung lưu sông Hoàng Hà và tộc Thượng ở hạ lưu sông Hoàng Hà. Sự đồng hóa
giữa hai tộc đó thành một bộ tộc thống nhất gọi là Hoa Hạ (Hoa Hạ cũng là tên gọi
nước Trung Hoa thời xưa), là tiền thân của dân tộc Hán sau này.
Theo truyền
thuyết, ông tổ của dân tộc Trung Hoa là Bàn Cổ. “Bàn Cổ có sáu trai, sáu gái… tự
lấy nhau thành chồng vợ. Vì vậy con cái chỉ biết mẹ chứ không biết cha”. Rồi đến
các đời gọi là Tam Hoàng (Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng): Hữu Sào dạy dân
chặt cây làm nhà; Toại Nhân dạy dân cách làm ra lửa, ăn thức ăn nấu chín; Phục
Hi dạy dân làm lưới bắt cá, đặt ra chữ viết để thay cái tục lấy dây thắt nút (điều
này thật lạ!), dạy dân phép cưới vợ gả chồng; Thần Nông dạy dân cày ruộng, lập
chợ, nếm cây cỏ để làm thuốc chữa bệnh.
Theo nhiều nhà
nghiên cứu lịch sử Trung Hoa thì tới đời Phục Hi, Thần Nông, dân tộc Trung Hoa đã
bước vào thời đại đồ đá mới, còn các đời trước vẫn là thời đại đồ đá cũ.
Sau Thần Nông là
Hoàng Đế. Ông thu phục, thống nhất các bộ lạc thành liên minh các bộ lạc, cai
quản hết thảy, truyền ngôi được năm đời (Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc,
Đế Chí, người đời sau gọi là thời Ngũ Đế). Lúc này, người Trung Hoa đã biết dùng
bánh xe.
Nối tiếp Ngũ Đế
là hai đời Nghiêu, Thuấn. Người đời sau ca tụng là hai ông vua hiền, là những bậc
minh quân tài đức vẹn toàn. Nghiêu định phép đo lường tính âm dương, sai ông Cổn
đắp đê ngăn nước Hoàng Hà nhưng công việc trị thủy ấy thất bại. Thuấn sai Hạ Vũ
trị thủy, đào kinh thoát nước lụt thành công.
Vì tài năng và
có công lớn, đến khi Thuấn già, Hạ Vũ được bầu làm người đứng đầu liên minh bộ
lạc (Thời kỳ này vẫn đang còn chế độ thị tộc, chưa có chuyện vua truyền ngôi
cho con. Như vậy, Ngũ Đế cũng chỉ là năm thủ lĩnh của liên minh bộ lạc).
Theo cuốn “Lịch
sử thế giới” của Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang (NXB Văn hóa, 1997) thì: “Sách cổ
nhất chép chuyện các vua đó là cuốn “Thượng thư” (có hai thiên: Nghiêu điển và
Vũ công) viết vào đầu đời Xuân Thu (thế kỷ VIII trCN), nghĩa là trên ngàn rưỡi
năm sau khi vua Thuấn chết. Vậy, việc các vua đó đã truyền khẩu 1500 năm rồi mới
chép lại, tất nhiên không sao hoàn toàn đúng sự thực được”.
Nói về tình hình
xã hội thời thị tộc của Trung Hoa cổ đại, thiên Lễ vận trong sách Lễ kí chép:
“Thi hành đạo lớn thiên hạ là chung, chọn người hiền tài, chú trọng tín nghĩa và
sự hòa mục. Do vậy, người ta không chỉ thân với người thân của mình, không chỉ
yêu con của mình. Làm cho người già có chỗ dưỡng lão, trai tráng có chỗ dùng,
trẻ nhỏ có chỗ nuôi nấng, những kẻ quan quả cô độc tàn tật đều có chỗ nuôi.
Trai có nghề nghiệp cho riêng mình, sức lực đều dốc hết nhưng không phải vì mình.
Vì vậy, mưu mô xảo quyệt không dùng, trộm cướp giặc giã không có, do đó cửa ngoài
không cần đóng, gọi là Xã Hội Đại Đồng”.
Sau khi Hạ Vũ
chết, con của ông là Khải lên thay, nghiễm nhiên trở thành ông vua được truyền
ngôi, sự kiện đó đánh dấu sự kết thúc của chế độ thị tộc và mở đầu cho việc coi
cha truyền con nối ngôi vua là lẽ đương nhiên, hợp đạo lý. Cũng thiên Lễ vận,
chép: “Nay đạo lớn đã mất, thiên hạ thành riêng, người ta chỉ thân với người thân
của mình, chỉ yêu con của mình, của cải là của riêng mình, cha truyền con nối là
hợp với lễ, lấy thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ nghĩa là kỷ cương, để xác
định địa vị của vua tôi… để đặt ra các chế độ, để phân định cương giới ruộng đất,
để bồi dưỡng tài năng cho những người dũng cảm và những người thông thái… vì vậy
mưu mô được sử dụng và việc binh đao từ đó nổi lên…
Nhà Hạ (khoảng
thế kỷ XXI-XVI trCN), bắt đầu từ vua Khải, và cũng là ông vua đầu tiên của
Trung Quốc. Trong thời gian trị vì, Khải đã phải đương đầu với nhiều cuộc chống
đối trong liên minh bộ lạc như Bá Ích thuộc bộ lạc Đông Di hay Hữu Hổ thuộc bộ
lạc Hạ.
Con Khải là Thái
Khang làm vua, bị Hậu Nghệ cũng thuộc bộ lạc Đông Di khởi binh đánh, phải bỏ chạy.
Giành được chính quyền nhưng chỉ ham săn bắn, không chú ý củng cố quyền lực, bị
bộ hạ là Hàn Trạc giết, cướp ngôi. Được ít lâu, một người dòng dõi nhà Hạ là
Thiếu Khang, được sự ủng hộ của các bộ tộc thân cận giết được Hàn Trạc, khôi phục
nhà Hạ.
Cuối đời nhà Hạ,
vua Kiệt là một hôn quân tàn ác, áp bức thậm tệ, bị dân oán hờn. Hạ suy yếu.
Trong khi đó tộc
thượng ở hạ lưu Hoàng Hà không ngừng lớn mạnh. Tục truyền rằng thủy tổ của tộc
Thượng là Khế, người cùng thời với Hạ Vũ. Thành Thang, tộc trưởng lúc đó, là cháu
mười bốn đời của Khế. Nhân cơ hội Hạ suy yếu, Thang hội chư hầu, đem quân đánh
Hạ. Sử chép hồi đó có tới ba ngàn chư hầu, số dân mỗi chư hầu chắc không đáng
bao nhiêu.
Kiệt thua, chạy
đến đất Nam Sào (An Huy), chết ở đó. Nhà Hạ bị diệt vong sau 500 năm tồn tại.
Thành Thang lập
nên nhà Thương (khoảng 1783-1066 trCN).
Lúc đầu nhà Thương
đóng đô ở đất Bạc, phía nam Hoàng Hà, thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Sau dời đô đến đất Ân,
ở phía Bắc Hoàng Hà, cũng thuộc tỉnh Hà Nam, nên nhà Thượng còn được gọi là Ân
Thương hay Ân.
Nhà Thương thịnh
một thời, đã có những phát triển bước đầu về mọi mặt. Nhưng về sau, các vua thường
bạo ngược, dâm loạn, trác táng vô độ nên đoản thọ, thời gian ở ngôi chỉ “hoặc mười
năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm”. Trong số đó, nổi tiếng
tàn bạo nhất là vua Trụ. Trụ mê nàng Đát Kỷ, dâm ngược, tăng phu phen lao dịch
xây cất cung điện nguy nga, mở rộng kinh đô đến tận Triều Ca (huyện Kỳ, tỉnh Hà
Nam); đặt thuế má nặng nề, dùng hình phạt thảm khốc đối với những người phản kháng,
giết bề tôi trung thành. Không những thế còn luôn gây chiến tranh với các bộ lạc
xung quanh, gây biết bao thống khổ lầm than cho dân chúng.
Chế độ tàn bạo
và hủ bại làm cho cả xã hội lung lay.
Lúc đó có họ Cơ,
tộc Chu cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà (vùng Thiểm
Tây, Cam Túc ngày nay). Tổ của tộc Chu la Khí,
vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tắc và được tôn là Thần nông nghiệp. Bị
người Nhung lấn chiếm, cháu đời thứ mười hai của Khí là Cổ Công Đản Phụ phải dẫn
bộ lạc mình từ đất Mân đến đất Kỳ (Thiểm Tây) định cư, làm nhà cửa, xây thành
quách, tổ chức lại nhân sự. Những cuộc chiến tranh với bộ lạc xung quanh đem lại
cho tộc Chu nhiều chiến lợi phẩm, nô lệ và do đó
càng đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp trong bộ lạc. Đến đời cháu của Cổ Đông Đản
Phụ tên là Xương thì nước Chu thành lập. Xương
thành... Chu Văn Vương.
Văn Vương tích
cực củng cố và phát triển thế lực, mở rộng phạm vi cai trị đến vùng Trường
Giang, chờ cơ hội đánh nhà Thương đang ngày càng suy yếu. Chưa kịp thực hiện mưu
đồ thì Văn Vương chết, con của ông là Phát lên nối ngôi, gọi là Chu Vũ Vương.
Tháng giêng năm
1066 trCN, Chu Vũ Vương hội 800 chư hầu, thống lĩnh hơn ba trăm binh xa, ba ngàn
dũng sĩ, bốn vạn năm ngàn giáp sĩ, tổng cộng hơn sáu vạn người, vượt sông Diễn
Hà, tiến về Triều Ca.
Vua Trụ hoảng hốt
đối phó. Nhưng quân chủ lực đang chinh phạt ở miền đông nam xa xôi, Trụ đành miễn
cưỡng tập hợp mười bảy vạn nô lệ và tù binh ra ứng chiến.
Quân Thương tuy
đông gấp bội, nhưng vốn căm hận vua Trụ nên vừa thấy quân Chu
đã bỏ chạy, nhiều người còn quay giáo đánh lại chủ nô.
Vua Trụ đại bại,
hết đường trốn, phải tự tử trên giàn hỏa thiêu ở Triều Ca. Sau 600 năm tồn tại,
nhà Thương tiêu vong.
Nhằm thu phục
nhân tâm, Vũ Vương phong cho Vũ Canh (con của vua Trụ) một vùng đất cũ của nhà
Thương và phong cho ba con mình là Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc vùng đất bên
cạnh để giám sát. Sau đó Vũ Vương rút về Cảo Kinh ở phía tây, vì vậy, thời kỳ
nhà Chu đóng đô ở đây được gọi là thời Tây Chu. Triều Tây Chu tồn tại ngót 300
năm (khoảng 1066 – 770 trCN).
Hai năm sau, Vũ
Vương chết, con nối ngôi là Thành Vương còn nhỏ, nên em của Vũ Vương là Chu Công
nắm quyền nhiếp chính. Lợi dụng tình hình đó, Vũ Canh lôi kéo Quản Thúc, Thái
Thúc và một số nước nhỏ ở phía đông nổi dậy. Chu Công đem quân đi đánh, sau ba năm
thì dẹp được. Vũ Canh, Quản Thúc bị giết, Thái Thúc bị đày. Về sau, Thành Vương
chinh phục nốt các bộ tộc Tứ và Hoài ở phía đông nam. Bản đồ nhà Chu được mở rộng tới tận biển Đông.
Chu Công có tài
tổ chức, điều hành việc nước, thi hành chính sách phân phong đất đai cho người
trong họ để làm phên dậu bảo vệ nhà Chu; bày
ra lễ nhạc theo phép “tỉnh điền”. Tỉnh điền là phép chia đất cho nông dân ở đời
Chu: một khoảng đất rộng khoảng năm, sáu trăm
mẫu chia làm chín khu theo hình chữ tỉnh. Tám gia đình chia nhau tám khu ở
chung quanh và phải chung sức cấy cày khu ở giữa để nộp cho vua. Tại khu đó có đào
giếng chung cho mọi gia đình, (tỉnh có nghĩa là giếng).
Nhà Chu bước vào
thời kỳ cực thịnh.
Điều thú vị nói
thêm: Sử có chép rằng lúc đó, nước ta, được gọi là Việt Thường, sai sứ sang cống
chim bạch trĩ, nhà Chu dùng xe chỉ nam để đưa
sứ ta về nước.
Đến thế kỷ IX
TCN, Lệ Vương thi hành chính sách giữ độc quyền rừng núi, ao hồ làm mất lòng dân.
Không những thế, ông ta còn thẳng tay trừng trị những ai dám bàn tán, kêu ca, làm
mọi người căm phẫn.
Thấy vậy, cận
thần là Thiệu Công can:
- Bịt miệng dân
còn nguy hiểm hơn chặn dòng nước. Nước chặn mà bị vỡ thì nhất định sẽ gây tai họa.
Kẻ làm việc trị thủy là phải khơi cho nó chảy, kẻ làm việc trị dân là để cho họ
được nói.
Lời đó rất đúng
nhưng Lệ Vương bỏ ngoài tai.
Năm 841 TCN, dân
vùng kinh kỳ nổi dậy chống đối. Lệ Vương hốt hoảng bỏ kinh thành chạy đến đất
Trệ (Sơn Tây ngày nay) rồi chết ở đó. Con trai của Lệ Vương là Tĩnh trốn vào nhà
Thiệu Công. Thiệu Công đưa con trai mình ra mạo xưng để quân khởi nghĩa giết.
Mười bốn năm tiếp
theo là giai đoạn kỳ lạ, không vua, gọi là “Cộng hòa hành chính”.
Đến năm 827
TCN, Tĩnh được lên làm vua, hiệu là Tuyên Vương. Nhà Chu lại được khôi phục và
tương đối ổn định.
Tuyên Vương chết,
U Vương nối ngôi. U vương là kẻ ăn chơi, xa xỉ, say đắm tửu sắc. Vì quá mê nàng
Bao Tự mà phế truất hoàng hậu họ Thân và thái tử Nghi Cữu, lập Bao Tự làm hoàng
hậu và con trai Bao Tự là Bá Phục làm thái tử. Tây Chu suy yếu.
Năm 771 TCN,
cha của hoàng hậu họ Thân là Thân Hầu, liên kết với người Khuyển Nhung (tộc
Nhung, từ thời Chiến Quốc trở về sau được gọi là Hung Nô) dấy binh đánh U Vương.
U Vương thua, bị người Nhung giết. Thái tử Nghi Cữu được lập làm vua, hiệu là Bình
Vương, dời đô sang Lạc Ấp ở phía đông. Từ đó gọi nhà Chu thời kỳ này là Đông Chu (khoảng 771 – 221 TCN).
Đông Chu, về mặt thời gian tồn tại, được chia làm hai thời kỳ:
thời kỳ đầu gọi là Xuân Thu (770 – 475 TCN), thời kỳ sau gọi là Chiến Quốc (475
– 221 TCN). Do vậy thời Đông Chu cũng được gọi
là thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Ở đây có một chú
ý nhỏ: 221 TCN là năm nước Tề bị nước Tần diệt và thống nhất Trung Quốc. Nhà
Chu đã bị diệt vong trước đó bởi Tần, năm 249 TCN.
***
Lê lết một hồi
rồi chúng ta cũng đến được đây, thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Nói thế chắc
nhiều người sẽ tủm tỉm cười: tự vác ách chứ có ai bắt đâu? Muốn đến, cứ thẳng một
lèo là đến thôi, việc gì phải vòng vo đi tuốt lên thượng nguồn rồi từ thượng
nguồn “luồn lách” qua hết cuộc xung đột này đến cuộc chém giết khác để đến đây, vừa
mệt xác, vừa… nguy hiểm nữa?
Đâu phải vậy!
Chúng ta chưa thấy ai đọc sách sử (và cũng có thể là mọi cuốn sách) lần lượt từ
trang cuối cùng đến trang đầu tiên cả.
Làm sao ăn được
múi cam nếu không cho bóc vỏ? Chúng ta vẫn có thể đến thẳng Xuân Thu - Chiến Quốc,
nhưng rồi chúng ta cũng vẫn cứ phải “lội” ngược lên gặp ông Bàn Cổ để từ đó đi
lần nữa về Xuân Thu - Chiến Quốc. Đi như vậy, hóa ra là mệt xác hơn và nguy hiểm
hơn bội phần, ít ra là hai lần.
Vui thế thôi chứ
cũng chẳng mệt mỏi, lê lết gì! Không mệt mỏi vì chẳng qua chúng ta chỉ là những
kẻ “xào đi xào lại” mấy quyển sách mà thôi. Còn lê lết thì làm gì đến nỗi chậm
thế, thậm chí là… quá nhanh nữa là khác.
Trong vật lý học,
chúng ta biết vận tốc “đi” trong không gian được tính là tỷ lệ giữa khoảng
cách và thời gian. Nhưng nếu chúng ta đi trong thời gian thì tính như thế nào?
Không thấy vật lý học nói tới điều đó. Nhưng có đấy!
Đọc sử cổ đại
Trung Quốc từ ông Bàn Cổ đến Đông Chu, chậm lắm,
chúng ta mất hai tiếng đồng hồ. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã đi qua ngót nghét
4000 năm trong hai tiếng, vậy vận tốc đi trong thời gian của chúng ta là 2000 năm
trong một giờ. Đi như thế đâu thể gọi là lê lết được?
Cần phải đính
chính lại thế này: Từ thế kỷ XXI, chúng ta “vụt” đến thời Bàn Cổ, rồi “phi nước
đại” đến đây và trước mắt chúng ta là toàn cảnh sinh động của thời Xuân Thu -
Chiến Quốc, thời đã làm xao xuyến biết bao nhiêu tâm hồn con người hậu thế về nhiều mặt
của nó.
Và chúng ta “thấy”:
Đầu nhà Chu, chư hầu lớn nhỏ có cả ngàn. Các chư hầu thôn tính lẫn
nhau, rốt cuộc còn khoảng một trăm. Nhưng đến đầu Xuân Thu, chỉ còn các nước
sau là mạnh: Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống.
Sau khi Bình Vương
dời đô sang Lạc Ấp không lâu, trong cung đình đã xảy ra việc cha con tranh nhau
ngôi vua, làm nhà Chu vốn suy yếu lại ngày càng
suy yếu. Nhiều nước chư hầu không chịu triều cống cho vua Chu
nữa. Không những thế, một số chư hầu còn lấn chiếm đất đai mà nhà vua không làm
gì được.
Tuy về danh nghĩa
vẫn là vua chung của các nước chư hầu, nhưng do suy yếu nhiều cả về chính trị lẫn
kinh tế, nên thực tế là bất lực, không điều khiển nổi ai cả.
Nhà Chu suy vi
nhưng các chư hầu dù không còn tuân lệnh vua nhưng cũng không dám dẹp bỏ (sợ thất
thố về chính trị) mà tìm cách mượn danh Thiên Tử để lên làm bá chủ các chư hầu.
Có năm chư hầu kế tiếp nhau làm minh chủ, gọi là Ngũ Bá: Tề Hoàn Công, Tấn Văn
Công, Tống Tương Công, Sở Trang Công, Tần Mục Công.
Tề Hoàn Công có
tướng giỏi là Quản Trọng, tu chỉnh võ bị, khai mỏ đúc tiền, lấy nước biển làm
muối, nhờ thương mại mà giàu. Với khẩu hiệu “Tôn vua Trừ Di” (“Man”, “Di” là các
tộc luôn quấy rối, đe dọa từ phía nam và phía đông), Tề ngăn chặn được sự xâm lấn,
quấy phá của người Nhung Địch. Năm 656 TCN, Tề cùng một số nước khác đem quân tấn
công nước Sở vì nước này không chịu triều cống cho nhà Chu. Nước Sở cầu hòa. Tề
Hoàn Công họp hội nghị chư hầu và được công nhận làm bá chủ miền hạ lưu Hoàng Hà.
Tấn cũng là một
nước lớn. Năm 636 TCN, công tử Trùng Nhĩ, sau khi lưu lạc ở nước ngoài 19 năm, được
về làm vua, hiệu là Tấn Văn Công. Từ đó, tranh chấp nội bộ chấm dứt, nước Tấn
trở nên hùng mạnh. Năm 632 TCN, Văn Công thống lĩnh liên quân Tấn, Tần, Tề, Tống
đánh bại liên quân Sở, Trần, Thái ở Thành Bốc. Tiếng tăm nước Tấn vì thế mà lừng
lẫy, được công nhận là bá chủ.
Sở ở lưu vực sông
Dương Tử (Trường Giang), vốn là một nước nhỏ, được thành lập từ đời Thương. Nhờ
khuất phục được nhiều bộ tộc xung quanh và thôn tính được một số nước chư hầu
nhỏ của nhà Chu mà Sở trở nên lớn mạnh. Đến đầu thời Xuân Thu, vua Sở xưng vương,
không thừa nhận địa vị Thiên Tử của vua Chu. Đến
thời Trang Vương (691 – 613 TCN), thế nước Sở càng mạnh. Năm 597 TCN, Sở đánh
Trịnh. Tấn đem quân đến cứu cũng bị đánh bại nốt. Nước Sở lên ngôi bá chủ.
Nước Tần ở vùng
Tây bắc thành lập tương đối muộn. Khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, nhờ có công
hộ tống vua mà Tần mới được nhà Chu phong làm
chư hầu. Đến đời Tần Mục Công (659 – 621 TCN), Tần nhiều lần đánh nhau với Tấn;
tiếp đó bành trướng sang phía tây, tiêu diệt được nhiều nước chư hầu nhỏ của nhà
Chu, chiếm được đất đai của người Nhung Địch, trở thành nước lớn.
Tấn và Sở tranh
hùng nhau lâu dài nhất để giành ngôi bá chủ ở vùng Hoàng Hà. Năm 546 TCN, hai nước
giảng hòa và đều được công nhận là bá chủ. Các nước chư hầu khác đều phải cống
nạp cho cả hai nước.
Trong Ngũ Bá, Tống
Văn Công chỉ mới có mưu đồ chứ chưa bao giờ thực sự là bá chủ.
Cuối thời Xuân Thu, Ngô ở vùng Giang Tô và Việt ở vùng Chiết Giang là hai nước phát triển.
Trong thời gian Tấn, Sở tranh hùng, Ngô là đồng minh của Tấn, Việt là đồng minh
của Sở. Vì vậy chiến tranh giữa Sở và Ngô xảy ra nhiều lần. Năm 506 TCN, Ngô đem
quân đánh Sở, chiếm được Kinh đô. Sở phải nhờ viện binh của Tần mới đánh đuổi được.
Nhân khi quân
Ngô kéo đi đánh Sở, vua Việt là Câu Tiễn tấn công nước Ngô. Năm 496 TCN, Ngô,
Việt đánh nhau, vua Ngô là Hạp Lư bị thương rồi chết. Năm 494 TCN, con Hạp Lư là
Phù Sai đánh bại quân Việt. Câu Tiễn đầu hàng, chịu mọi nhục nhã để toàn mạng.
Sau đó Câu Tiễn nằm gai nếm mật. Nhờ Phạm Lãi, một người đa mưu phò giúp trong
mười năm, Câu Tiễn lại mạnh lên, dùng nàng Tây Thi để mê hoặc Phù Sai.
Sau khi đánh bại
nước Việt, Phù Sai đem toàn bộ lực lượng lên phía bắc để tranh quyền bá chủ.
Sau hai lần đánh bại quân Tề, năm 482 TCN, Phù Sai họp các chư hầu, đòi làm bá
chủ. Nhân cơ hội ấy, Câu Tiễn tấn công kinh đô nước Ngô. Phù Sai vội kéo quân về
xin hòa nhưng đến năm 473 TCN thì bị nước Việt tiêu diệt. Nước Việt trở thành bá
chủ, thanh thế vang lừng một thời gian.
Thời Xuân Thu kết
thúc, thời Chiến Quốc bắt đầu với mức độ chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bầu
trời vốn mù mịt khói lửa càng thêm mù mịt khói lửa. Cuộc “đấm bốc” nảy lửa vừa
“tay bo” vừa “hội đồng” để giành “đai vô địch” thời kỳ này là của bảy “võ
sĩ” có máu mặt gồm: Tề, Hán, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên.
Trong số đó, ba
nước Triệu, Ngụy, Hán được thành lập trên cơ sở phân chia nước Tấn và được nhà Chu công nhận làm chư hầu năm 403 TCN. Nước Việt đầu thời
Chiến quốc là một nước lớn, nhưng đến năm 306 TCN, vì có nội loạn nên bị Sở tiêu
diệt. Ngoài ra lúc bấy giờ còn có một số nước nhỏ như Lỗ, Vệ, Tống, Trịnh, Tiết…
Đến thế kỷ IV
TCN, sự xung đột nhằm thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước nói trên bùng lên ngày một
khốc liệt.
Ban đầu, Ngụy là
nước mạnh nhất. Với ý đồ muốn thống nhất lại nước Tấn cũ, năm 354 TCN, Ngụy tấn
công nước Triệu ở phía Bắc, năm 342 TCN, lại tấn công nước Hán ở phía nam, nhưng
cả hai cuộc chiến tranh đó đều bị viện binh Tề đánh bại. Ít lâu sau, Ngụy bị Tần
và Sở lần lượt tấn công ở phía tây và phía nam, bị hai nước này chiếm mất nhiều
đất đai, nên Ngụy suy yếu.
Ở phía đông, cuộc
xung đột diễn ra chủ yếu giữa Tề và Yên. Tiếp đó, Tề liên minh với Sở để đánh Tần,
Ngụy, Hán, rồi lại liên minh với Ngụy, Hán để đánh Tần, Sở. Trước sự lớn mạnh của
Tề, năm 284 TCN, nước Yên liên minh với Tần, Ngụy, Triệu, Hán để đánh Tề. Phần
lớn đất đai của Tề bị Yên chiếm làm quận, huyện. Năm năm sau, tuy Tề lấy lại được
đất đai nhưng thế lực vẫn ngày một yếu.
Tần thời đầu
Chiến quốc còn là một nước lạc hậu. Vua Tần là Hiếu Công tìm kẻ hiền tài, may gặp
Thương Ưởng. Thương Ưởng là công tử dòng thứ nước Vệ, ông tên Ưởng, họ Công Tôn,
tổ phụ ông vốn là họ Cơ.
Thương Ưởng lúc
nhỏ rất thích học thành danh (?), thờ Ngụy tướng là Công Thúc Tỏa. Công Thúc Tỏa
biết ông giỏi, nhưng chưa có dịp tiến cử…
Gặp lúc Thúc Tỏa
bệnh, Ngụy Huệ Vương thân đến thăm, hỏi:
- Công Thúc bệnh…
Nếu không có gì kiêng kỵ, xin hỏi, sắp tới phải tế xã tắc như thế nào?
Công Thúc Tỏa
thưa:
- Đứa thứ tử của
tôi là Công Tôn Ưởng, tuổi tuy còn nhỏ nhưng có kỳ tài, xin vua hãy chú ý đến
những lời nói của nó…
Huệ Vương lặng
thinh không nói gì… lại sắp sửa ra đi.
Bảo người trong
nhà tránh mặt, Thúc Tỏa thưa:
- Nếu vua không
nghe lời khuyên nên dùng Thương Ưởng, vậy thì phải giết ngay, không cho nó rời
khỏi nơi này!
Huệ Vương đồng ý
rồi ra về.
Công Thúc Tỏa gọi
Thương Ưởng vào từ tạ:
- Hôm nay, vua
có hỏi ta, ai có thể làm tướng quốc, ta tiến cử ngươi… nhưng thái độ của vua là
không dùng. Ý riêng của ta là lo cho vua trước, mà bầy tôi thì sau, vì thế mới
bảo vua “Nếu không dùng Ưởng thì nên giết nó…”. Vua đã đồng ý, vậy ngươi phải
mau trốn đi.
Thương Ưởng đáp:
- Nếu vua không
nghe lời tướng công để dùng tôi, thì đâu có thể nghe lời tướng công mà giết tôi?
Thương Ưởng liền
không đi.
Huệ Vương ra về,
bảo kẻ tả hữu:
- Công Thúc bệnh
nhiều, thật đáng buồn, nhưng lại muốn quả nhân dùng Công Tôn Ưởng để trị nước,
thật là trái lễ.
Sau này khi bị
Thương Ưởng (đã là tướng nước Tần) đại phá quân của công tử Cung (tướng nước Ngụy,
bị bắt làm tù binh) và nước Ngụy mất đất phía tây cho Tần. Huệ Vương đã than:
- Ta hối hận đã
không nghe lời Công Thúc Tỏa!
Công Thúc Tỏa
chết, Thương Ưởng liền nhờ sủng thần của Hiếu Công là Cảnh Giám xin đến ra mắt.
Qua bốn lần gặp,
Hiếu Công mới chịu Thương Ưởng. Sau này, Thương Ưởng có cho Cảnh Giám biết:
- Ban đầu tôi nói
với nhà vua về Đế đạo, nhưng vua không nhận được. Kế đó tôi nói với vua về Vương
đạo, mà không thể vào được. Sau đó tôi nói về Bá đạo, vua khen hay mà không dùng,
tôi bèn nói cái đạo làm cho nước mạnh, vua rất thích.
Thương Ưởng nói
về thuật cai trị và đề ra sách lược “Biến pháp” cho Hiếu Công nghe. Hiếu Công
liền triệu tập quần thần bàn bạc về chuyện ấy.
Cam Long và Đỗ
Chí đều phản đối biến pháp.
Thương Ưởng nói:
- Cai trị đời
không phải chỉ có một đạo; làm lợi cho nước không nhất thiết phải theo xưa, cho
nên vua Thang, vua Vũ không theo phép xưa mà làm nên nghiệp Vương, nhà Hạ, nhà Ân
không đổi Lễ mà mất; thế nên làm trái với đạo xưa chưa chắc là đã sai, và theo
Lễ cũ, cũng chưa chắc là đầy đủ…
Hiếu Công quyết
định thực hiện biến pháp của Thương Ưởng. Năm 359 TCN, Hiếu Công bắt đầu ban hành
các luật cải cách và năm 350 TCN, tiếp tục đề ra một số chủ trương mới nữa.
Sau một thời
gian tương đối ngắn, nước Tần trở nên hùng mạnh vượt bậc.
Sự hùng mạnh ấy
làm cho sáu nước phía đông lo sợ. Vì vậy năm 333 TCN, theo sáng kiến của Tô Tần
(lúc này là tướng quốc nước Yên) một liên minh gồm Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hán, Sở
gọi là “Hợp tung” được hình thành. Nhưng giữa các nước này vốn có nhiều mâu thuẫn
nên sự liên minh về quân sự này chỉ tồn tại ba năm thì vỡ. Sau đó sáu nước còn
tổ chức hợp tung mấy lần nữa, nhưng cũng không bền chặt.
Để phá hợp
tung; gây chia rẽ nhằm dễ bề thôn tính, năm 328 TCN, tướng quốc của Tần là Trương
Nghi đề xướng kế sách “liên hoành”. Dưới chiêu bài ấy, và thực hiện chiến thuật
“viễn giao cận công” (Hòa nước ở xa, đánh nước ở gần), Tần liên tiếp tấn công các
nước láng giềng Triệu, Ngụy, Hán, Sở và nhiều lần thu được chiến quả to lớn; trở
thành một lực lượng vô địch. Năm 249 TCN, Tần xóa sổ nhà Chu,
rồi liên tiếp diệt Hán (năm 230 TCN), Triệu (năm 228 TCN), Ngụy (năm 225 TCN),
Sở (năm 223 TCN), Yên (năm 222 TCN), Tề (năm 221 TCN).
Thời Chiến quốc
kết thúc, Trung Quốc hoàn toàn thống nhất.
Tần Vương tên là
Doanh Chính, sau khi thống nhất thiên hạ, xưng là Hoàng Đế, nên sử quen gọi là
Tần Thủy Hoàng.
Tần Thủy Hoàng
là ông vua đầu tiên của Trung Quốc thống nhất. Ông cai trị theo sách của Hàn
Phi, “mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức,
ân nghĩa” (Sử ký). Là một ông vua tàn bạo nên pháp luật nhà Tần vô cùng khắc
nghiệt.
Tương tự như Lệ
Vương xưa kia, thẳng tay trừng trị những ai dám bàn tán, kêu ca mình, Tần Thủy
Hoàng cấm mọi người phê phán đường lối thống trị của mình, thẳng tay đàn áp các
nhà Nho, “nếu hai người dám bàn với nhau về Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ,
lấy đời xưa để chê đời nay thì giết cả họ” (Sử ký); ra lệnh tịch thu tất cả các
sách (trừ sách sử nước Tần, sách thuốc, sách bói và sách trồng cây) đem đốt đi.
Hành động đốt sách
ấy đã gây bao nhiêu tiếc nuối cho hậu thế, cho các nhà nghiên cứu lịch sử, tư tưởng
văn hóa sau này.
***
Chấm dứt thời
Xuân Thu - Chiến Quốc cũng đồng thời chấm dứt giai đoạn cổ đại của lịch sử
Trung Quốc.
Xét ở góc độ
chung nhất về mặt hình thái xã hội và những vấn đề về đấu tranh vũ trang thì lịch
sử Trung Quốc cổ đại chính là qui mô thu nhỏ của lịch sử văn minh nhân loại. Những
mối quan hệ cơ bản, những hình thức tồn tại cơ bản của một xã hội đều có thể tìm
thấy ở đó. Chẳng hạn như: nhà nước - phi nhà nước, giai cấp – phi giai cấp, quyền
lợi kinh tế, đấu tranh vũ trang, sở hữu công cộng, tư hữu, mâu thuẫn về quyền lợi
kinh tế - chính trị dẫn đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh phi nghĩa và chính
nghĩa, áp bức và nổi dậy…; nếu gọi vua là tổng thống thì có thể gọi tướng quốc
là thủ tướng…
So sánh như vậy
để thấy rằng lịch sử Trung Quốc cổ đại là một sự vật - hiện tượng bộ phận vừa góp
phần làm nên, vừa nằm trong tổng thể của lịch sử văn minh nhân loại nên nó phải
mang những nét chung nhất của lịch sử văn minh nhân loại và đồng thời, vì là bộ
phận nên nó cũng mang những nét đặc thù, nét riêng, nét Trung Quốc.
Nhìn lịch sử
Trung Quốc cổ đại, chúng ta có cảm nhận rằng đó là lịch sử của những cuộc chiến
tranh. Những cuộc chiến tranh đan xen nhau, kế tiếp nhau, hết cuộc này đến cuộc
kia như không bao giờ dứt.
Thật ra đó là cái
nhìn bị sai lạc, không toàn diện. Chúng ta đã cố tình nhìn như thế để nêu bật ý
này: hình như chiến tranh là bạn đồng hành và nếu thế, phải chăng nó là biểu hiện
một đặc tính nào đó của lịch sử văn minh nhân loại nói chung và lịch sử Trung
Quốc cổ đại nói riêng? Đặc tính đó có thể nào là sự phân định giai cấp, phân định
giàu nghèo trong xã hội? Nhưng trước khi có giai cấp, trước khi có giàu nghèo
thì có xảy ra chiến tranh không? Giữa những bầy người thiên di thời tối cổ có
bao giờ xảy ra xung đột và giữa những bộ lạc nguyên thủy có xảy ra đấu tranh vũ
trang chưa? Nhìn xa hơn nữa, chúng ta thấy rằng loài vật, thú rừng vẫn thường dọa
dẫm, xâu xé nhau để tranh giành thức ăn, tranh giành lãnh thổ, thậm chí là
tranh giành quyền được giao phối. Và chúng hành động như vậy với mục đích là để
sinh tồn. Nếu vậy cần khẳng định xung đột giữa những bầy người thiên di thời tối
cổ là có xảy ra và đấu tranh vũ trang (ở mức độ thô sơ) ở những bộ lạc nguyên
thủy cũng vậy. Thậm chí còn có thể nói rằng đó là hiện tượng “thường thấy”.
Chiến tranh là
phải có tạo dựng, có nguyên nhân làm xuất hiện nó. Nguyên nhân nào? Vì ý thích
vô tội vạ của một cá nhân? Cũng có thể (tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại cho phép
điều này!) nhưng nếu có thì rất hãn hữu và là ngoại lệ?
Nhiều nhà nghiên
cứu lịch sử quân sự cho rằng Napôlêông, một thiên tài quân sự người Pháp, là người
mê say chiến tranh, có thể là thế thật, nhưng ngay từ những ngày đầu khởi nghiệp,
mục đích của ông ta là tìm việc làm để sống và thể hiện tài năng quân sự của mình.
Ông “thích” chiến tranh nhưng cuộc chiến dài lâu mà ông tiến hành không phải vì
sự “thích” ấy mà chỉ “nhân tiện” thỏa mãn cái “thích” ấy mà thôi.
Chiến tranh là
hình thức cao nhất của xung đột, là máu chảy đầu rời, là một mất một còn, là khốc
liệt và tàn bạo; cho nên nguyên nhân của nó cũng phải rất “ghê gớm”, động chạm đến
cuộc sống. Mà động chạm đến cuộc sống, nói thô mộc ra chỉ có thể là “miếng ăn”.
Nếu ở thú vật, “chiến tranh” là đấu tranh sinh tồn bằng bạo lực xảy ra hãn hữu và hầu như không gây chết chóc trong nội bộ loài mà chủ yếu xảy ra giữa loài này với loài khác nhằm duy trì sự sống sót, thì ở loài
người có ý thức, chiến tranh là đấu tranh vũ trang đạt đến mức độ tột cùng có thể về sử dụng bạo lực nhằm phuất phục nhau bằng hãm hại, giết chóc nhau giữa người với người
vì danh lợi.
Không có bất cứ hoạt động nào của con người lại
không vì danh lợi. Chỉ có điều danh lợi ấy như thế nào, được nhận thức ra sao,
có mối quan hệ, mối tương quan như thế nào với cộng đồng xã hội mà hành động được
gọi là hợp tình hợp lý hay không hợp tình hợp lý, là thiện hay ác. Hành động
giết người hàng loạt xét cho cùng cũng vì danh lợi nhưng là tội ác vì giết người
vô tội (nó mang tính hợp lý đối với suy nghĩ cá nhân của kẻ thủ ác trong trạng
thái bị kích động, nhưng là bất hợp lý với một suy nghĩ được coi là bình thường,
bất hợp lý với suy nghĩ của cộng đồng và được cộng đồng coi là ghê tởm). Xử bắn
một kẻ giết người dã man, không thể cải hóa được, bản thân hành động ấy là ác,
nhưng giết một người để cứu muôn người lại là một điều cần thiết, hợp đạo lý nên
nó mang tính thiện, tính nhân văn, được đông đảo cộng đồng ủng hộ.
Danh lợi là
nguyên nhân và cũng là mục đích của bất cứ cuộc chiến tranh nào xét ở cả hai phía
trong xã hội loài người. Nó có nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Bản thân chiến
tranh không đúng mà cũng chẳng sai. Trước nhận thức, nó thể hiện tính nước đôi:
tùy theo quan niệm về đạo lý, về tình cảm, tâm lý của cá nhân - cộng đồng – toàn
xã hội mà nó thành có nghĩa hay vô nghĩa, chính nghĩa hay phi nghĩa. Việc động
viên, dụ dỗ, hay ép buộc, cưỡng bức một thanh niên ra mặt trận để hứng làn tên
mũi đạn, bản thân nó là ác, phi nhân tính. Nhưng nếu làm như thế để chống xâm lược,
để bảo vệ tổ quốc, quê hương khỏi bị chà đạp, cướp bóc, bảo vệ quyền lợi của dân
tộc, trong đó có quyền lợi của mỗi người dân và nhất là người bị động viên ra
trận cũng đồng lòng “đền nợ nước” thì đó là hành động có ý nghĩa, mang tính chính
nghĩa, vì cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lúc này là chính nghĩa, là ý chí
chung của toàn dân tộc, vì quyền lợi sống còn của chính dân tộc ấy, phù hợp với
qui luật sinh tồn.
Chính nghĩa và
phi nghĩa là hai khái niệm tương phản mà ý nghĩa tột cùng của chúng là đối kháng
nhau một mất một còn. Nhưng trong hiện thực chúng lại chỉ mang tính tương đối
thôi. Nếu chính nghĩa và phi nghĩa là nhận thức tuyệt đối, không bị lũng đoạn bởi ý chí chủ quan đầy thị phi mê lầm của người đời, và chỉ có thế thôi,
thì nhất quyết, chiến tranh không bao giờ xảy ra. Lúc này chính nghĩa và phi
nghĩa mất hết ý nghĩa và không biết chúng tồn tại ở trên đời để làm gì nữa, tương
phản với nhau một cách “cứng đờ” như vậy để cho vui chăng ?!
Chiến tranh là đầu
rơi máu chảy, là đau thương tang tóc. Không lẽ nó cứ mãi đồng hành với sự tồn tại
của nhân loại như một định mệnh cay nghiệt sao? Biết rằng nguyên nhân và cũng là
mục đích của chiến tranh là danh lợi, vậy thì có thể nào loại trừ cái gì đó gọi
là danh lợi ra khỏi đời sống, ra khỏi nhận thức của con người để chiến tranh không
còn động lực xuất hiện nữa được không?
Đọc sách “Quỉ Cốc
Tử”, chúng ta nhận ra được điều nêu trên cũng chính là nỗi trăn trở đau đáu trước
nạn binh đao, trước cảnh quần chúng thống khổ, lầm than của Quỉ Cốc tiên sinh.
Có lẽ ông đã nhìn thấy bản chất đích thực của chiến tranh nên cơ sở cốt lõi xây
dựng nên lý luận quyền mưu của ông chỉ là một chữ Phù (phù hợp). Muốn quyền mưu
thành công thì nguyên nhân, hành động và mục đích phải phù hợp; phù hợp với thời
cuộc, với hoàn cảnh, điều kiện và đối tượng cụ thể của quyền mưu, phù hợp với
qui luật xã hội - tự nhiên, phù hợp với ý chí nguyện vọng của cộng đồng, của đại
đa số chúng dân và như vậy là quyền mưu phải có tính chính nghĩa, phục vụ cho
cuộc chiến tranh chính nghĩa thắng phi nghĩa; lấy chiến tranh chính nghĩa hủy
diệt chiến tranh.
Lòng trắc ẩn của
Quỉ Cốc Tiên sinh thể hiện rất rõ ở hai thiên “Quyết sách chi thuật” và “Phù ngôn
chi thuật”. Đối với một nước, việc thực hiện năm phương pháp trị dân (dùng đạo đức,
dùng pháp luật, dùng tín nghĩa, dùng tâm sáng, dùng sự liêm khiết) thực chất để
tạo sự hòa hợp danh lợi vua, tôi và chúng dân, giảm được cái mâu thuẫn phát
sinh từ danh lợi, thậm chí đạt đến sự loại bỏ khái niệm danh lợi vì quyền lợi của
vua, tôi, chúng dân trở thành một khối thống nhất, gắn kết keo sơn, nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, cùng được đảm bảo. Được như
vậy, nước sẽ toàn thịnh và trở nên hùng cường nhờ lúc đó ý chí của vua đã "trùng khít" với ý chí toàn dân, tai mắt của vua là
tai mắt nhân dân, tay chân của vua là tay chân của nhân dân, hành động của vua
là hành động của nhân dân. Ở mức độ tuyệt đích, nội tình đất nước cứ thế mà tự
vận hành như một lẽ đương nhiên, giống như tự nhiên chính là tự nhiên vậy!!!...
Và đó cũng chính
là tư tưởng “vô vi” của Đạo gia: vô vi vô bất vi, không làm nhưng không phải là
không làm, không làm mà thực ra là làm tất cả; cũng chính là tôn chỉ làm nên
thuyết “vị ngã” (như cách gọi hiện nay) của Dương Chu: “mất một cái lông mà lợi
cả thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự riêng cho mình cũng không
nhận, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ
tự nhiên thái bình”, nghĩa là biết sống vượt qua vòng danh lợi, bất vụ lợi.
Tự Nhiên là vậy,
Vũ Trụ là vậy, chẳng vì nguyên nhân gì, cũng chẳng vì mục đích gì mà cứ tồn tại,
tồn tại một cách tự nhiên, hiển nhiên mà chẳng biết để làm gì, do đó nó chẳng làm
gì, nhưng hóa ra lại làm tất cả để “có” tất cả. Đó là cái Đạo lớn nhất.
Một ông vua muốn
trị dân theo đúng được năm điều ấy thì phải thấy được cái Đạo lớn vừa nói, thấy
được cái lẽ tự nhiên của Đất Trời. Như vậy, con đường duy nhất để "chứng ngộ" được cái Đạo lớn ấy đối với mọi ông vua cần
phải đi là trước hết phải “tu thân, luyện tâm”.
Nhưng đã là vua
chúa thì… than ôi… !!! “Than ôi” ấy cũng chính là nỗi bất lực của Quỉ Cốc tiên
sinh, của Dương Chu, của Lão Tử. Trong cái thời loạn binh, đao rối ấy, cách sống
tốt nhất để toàn mạng, hợp Đạo là “xuất thế vô vi”, nhưng như thế không có nghĩa
là họ không làm gì. Họ xuất thế nhưng vẫn giảng đạo, truyền đạo và có được những
Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi… cũng như những “Quỉ Cốc Tử”, “Đạo Đức
Kinh” gửi gắm cho hậu thế, thì thực ra là “làm tất cả”.
Thử hỏi: Khổng
Tử với chủ trương “nhập thế hữu vi” thì đã làm được cái gì ích lợi cho đương thời
ấy, hay cũng chỉ lang thang tìm danh lợi gần hết một đời, mà không ở đâu nhận, để rồi
than thân trách phận, cuối cùng về quê dạy học trò và làm sách, và như vậy, thật ra cũng là
hành động xuất thế bất đắc dĩ mà thôi?
Có câu chuyện
liên quan đến vấn đề danh lợi như thế này:
Khuất Nguyên, tên
Bình, làm quan đại phu nước Sở, thời Chiến Quốc. Ông là người có tài, học rộng,
nhớ lâu, tác giả của “Ly tao” bất hủ. Ông cũng là người hết mực yêu nước và tận
lòng với nước. Bị bọn gian thần (đại phu Thượng Quan và lệnh doãn Tử Lan) dèm
pha, vua Sở bỏ, đày ông.
Khuất Nguyên, đến
bờ sông, xõa tóc đi, sắc mặt tiều tụy, hình dung khô héo.
Có ông cụ đánh
cá, thấy vậy, hỏi:
- Ông là quan
tam sử đại phu đó chăng? Sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên nói:
- Tất cả đời đều
đục, chỉ mình ta trong, tất cả mọi người đều say, chỉ mình ta tỉnh, cho nên ta
bị đày.
Cụ đánh cá nói:
- Bậc thánh nhân
không khư khư ở một vật, mà biết theo đời. Tất cả đều đục, sao ông không xuôi theo
dòng làm cho sóng lên cao? Tất cả đều say sao ông không húp rượu, nhai cả rượu
cùng say luôn thể? Việc gì cứ phải khư khư ôm ngọc cẩn, giữ ngọc chi trong người
cho phải bị đọa đày?
Khuất Nguyên nói:
- Khi vua gội đầu
xong thì người ta phủi mũ, khi vua tắm xong thì người ta giũ áo, lẽ nào để cái
thân trong trắng bị vật làm nhơ bẩn đi. Ta thà gieo mình xuống sông Tương, chôn
mình trong bụng cá, lẽ nào để cái bản chất trắng ngần của ta chịu bụi bặm của đời?
Đoạn, ôm đá
gieo mình xuống sông Mịch La chết.
Lạm bàn:
Vua
Sở là ám và ác
Khuất Nguyên đâu
có trong, tỉnh, vẫn đục, say nên mới hành động vô nghĩa như vậy.
Yêu nước là một
chuyện, phò vua là chuyện khác. Nếu Khuất Nguyên là trong và tỉnh thì ông đã vượt
được ra ngoài cái vòng danh lợi ấy, noi gương tiền bối mà xuất thế, biết đâu chừng,
hậu thế sẽ có thêm vài “Ly tao” nữa.
Và một chuyện
khác:
Thời
thượng cổ có ông Hứa Do, ẩn dật trong chằm Bái Trạch
Vua Nghiêu nghe
tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ; ông nói:
- Khi mặt trời,
mặt trăng đã mọc mà cứ cầm đóm đuốc soi sáng như thế, chẳng cũng khổ lắm ru!
Khi đang mong mưa, trời đã mưa mà cứ còn dội nước, tẩm tưới như thế, chẳng cũng
nhọc lắm ru! Nay có ông ra đời, đức thịnh tài cao, thiên hạ tự khắc cảm hóa bình
trị, thế mà tôi cứ giữ lấy thiên hạ, thì tôi tự nghĩ lấy làm kém lắm. Xin nhường
thiên hạ cho ông.
Hứa Do nói:
- Ông trị thiên
hạ đã được bình trị, mà tôi còn thay ông như thế hóa ra tôi không có cái “thực”
làm cho thiên hạ bình trị mà lại nhận lấy cái “danh” bình trị thiên hạ ư? Vả cái
“danh” là người khách của cái “thực”, nếu không có thực mà lại lấy danh, thì bỗng
dưng tôi làm người khách không có chủ ư? Con chim làm tổ ở rừng chẳng qua chỉ một
cành cây, con chuột uống nước ở sông chẳng qua chỉ đến no bụng. Thôi, xin ông cứ
về mà trị lấy thiên hạ, tôi có dùng thiên hạ làm gì! Người nhà bếp mà chẳng trông
nom việc bếp, thì người giữ việc tế tự cũng chẳng có thể bỏ đèn hương, mà làm
thay cho được.
Hứa Do bỏ đi, đến
ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
Sau, vua Nghiêu
lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chín Châu (tổng trưởng là chức
đứng đầu các quan, thay vua hành chính, tương tự như thủ tướng bây giờ; Trung
Quốc thượng cổ chia ra làm chín khu để quản lý, gọi là chín Châu).
Hứa Do nghe vậy
bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai.
Ngay lúc đó, có
ông Sào Phủ (bậc cao sĩ và cũng là ẩn sĩ) dắt trâu xuống bờ sông, thấy vậy, hỏi:
- Việc gì mà bác
phải rửa tai thế?
Hứa Do thuật lại
chuyện. Sáo Phủ nghe xong liền gò cổ trâu lại mà rằng:
- Tôi toan cho
trâu uống nước ở đây, lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt
trâu lên quãng sông phía trên cho trâu uống nước.
Lạm bàn:
“Sặc mùi” Đạo gia!
Thời nay các quan bỗng dưng nhường “ghế” là
chuyện quái dị.
Hứa Do chắc đã đủ
“cái ăn” rồi nên chẳng “thèm” thiên hạ. Hoặc giả thời đó làm vua khổ nhọc hơn cả
làm dân nữa! Vua Nghiêu bỏ sức làm cho thiên hạ bình trị xong thì… đuối sức. Không
nhường thiên hạ cho bất kỳ ai mà cố tìm bậc hiền tài để gửi gắm thì rõ là ông
vua hiền.
Đời nay làm gì
còn người như Hứa Do. Uy quyền của tổng thống kém xa vua ngày xưa nhưng bây giờ
có vị tổng thống của một nước giàu có nào đó có “nhã ý” mời chúng ta thế chỗ,
chắc chúng ta sẽ rú lên vì sung sướng và… nhận liền!
Có lẽ khái niệm
danh lợi không bao giờ mất được trong tâm trí loài người. Con người từ đâu sinh
ra? Từ loài vật chứ đâu! Con người đi về đâu? Về cái chết chứ đâu nữa! Thế thì
con người đến đây để làm gì, có nghĩa vụ và quyền lợi gì?
Động lực nào mà
từ vô sinh xuất hiện ra hữu sinh? Đó chung qui lại cũng chỉ là chữ “Phù”. Khi bị
nấu thì nước phải sôi và bốc hơi, khi bị nung thì sắt phải chảy, cho vào tủ lạnh
thì nước đông thành nước đá, tích tụ và phân tán, phát triển và suy tàn, tất cả
đều là lẽ tự nhiên. Trong một hoàn cảnh điều kiện nào đó mà trong một môi trường
phải xuất hiện những sự vật - hiện tượng phù hợp với mục đích duy nhất là làm
cho môi trường được cân bằng, ổn định. Có một môi trường mà một trong những sự
vật - hiện tượng phù hợp là giới hữu sinh. Ở mức độ nào đó, giới hữu sinh tác động
(rõ rệt) trở lại môi trường, làm biến đổi môi trường cho phù hợp với nó. Đó là
một quá trình tương hỗ. Nhờ có quá trình tương hỗ mà xuất hiện loài người và sự
sinh sản của loài người cũng có nguyên nhân sâu xa từ quá trình ấy. Vậy thì cá
thể con người sinh ra và chết đi cũng chỉ vì một chữ “Phù”: tự nhiên được sinh
ra và tự nhiên phải chết đi. Cái khoảng giữa sinh ra và chết đi của một con người
được gọi là cuộc sống hay đời người. Đời người là kết quả của quá trình tương hỗ,
ở trong quá trình ấy và là bộ phận tham gia vào quá trình ấy. Cho nên có thể nói
đời người là được tạo dựng và “đi” tạo dựng. Tạo dựng, như chúng ta đã nói ở đâu
đó (hay chưa nói?) chính là quá trình làm mất đi (những) sự vật - hiện tượng đang
có (đã lạc hậu, không còn phù hợp?) để xuất hiện (những) sự vật - hiện tượng mới
(tiên tiến hơn, phù hợp hơn), là quá trình thống nhất của hai quá trình tương
phản tạo ra và hủy đi xảy ra đồng thời và cũng chính là nội dung của qui luật
nhân - quả.
Tương hỗ là quá
trình vận động nội tại không có hồi kết thúc trong suốt quá trình tồn tại của một
cá thể nói riêng và cả môi trường nói chung. Đó là quá trình đi đến cân bằng tĩnh
tại nhưng không bao giờ cân bằng được; là sự chuyển hóa giữa các lực lượng tương
phản xoay quanh trạng thái cân bằng động nào đấy, làm dịch chuyển trạng thái đó
sang trạng thái cân bằng mới, đến lượt trạng thái này đòi hỏi phải xuất hiện mối
tương quan mới giữa các lực lượng ở trình độ nhất định, sự duy trì và phát triển
lực lượng chính là sự sinh sản, sinh sôi nảy nở của giống loài. Sinh - Tử là quá
trình chuyển hóa tương phản nhằm đảm bảo mối tương quan phù hợp của một lực lượng
đối với môi trường mà ở trường hợp cực đoan có thể dẫn tới sự tuyệt chủng của một
giống loài nào đó và xuất hiện giống loài mới.
Con vật được
sinh ra là để sống, muốn sống thì phải tạo dựng. Tạo dựng ở con vật là hành động
tự phát đi kiếm ăn, giành giật miếng ăn, làm tổ đào hang để bảo toàn sự sống và
sinh con đẻ cái duy trì lực lượng giống loài. Con người cũng vậy, nhưng vì là
con vật biết suy nghĩ (có chiều sâu?) nên ngoài hành động mang tính bản năng
ra, con người còn tự giác tạo dựng, nghĩa là tạo dựng một cách tích cực, có ý chí.
Để tự phát tạo
dựng được, Tiến Hóa đã trang bị cho loài vật những cảm nhận để phản ứng bản năng
như: biết đói khát, thích ngon ngọt (vì ngon ngọt có nghĩa là bổ khỏe hơn, thỏa
mãn sự sống hơn), chê đắng cay, nuôi nấng che chở con cái, gần gũi với bầy đàn
và xa lánh, trốn tránh những giống loài tiềm ẩn sự hiểm họa...
Con người, trước
hết, cũng có đầy đủ những bản tính ấy của con vật. Nhưng vì có suy nghĩ (nhớ
dai, nhìn xa thấy rộng, thấm thía được nhiều điều) nên đi đôi với những bản tính
ấy, xuất phát từ những bản tính ấy, là một hệ thống các trạng thái được gọi là
“tình cảm" mà (xét về mức độ nổi trội thì coi như) chỉ con người mới có như yêu - ghét, buồn - vui, sướng - khổ, và ở
cao độ là đắm đuối - hận thù, sầu não - phởn chí, hạnh phúc - bất hạnh… Chúng
ta luôn miệng nói đến biện chứng, nhưng mấy ai nhìn nhận sự suy nghĩ một cách
biện chứng. Thường thì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt được cho là ưu việt, “chúa tể”
của nó, để ca ngợi nó hết lời mà đâu chú ý đến cái mặt tương phản, mặt “thấp hèn”,
“ngu muội” của nó. Con vật không lo đói khát còn con người quá lo lắng về đói
khát, con vật ít thích ngon ngọt thì con người thèm muốn ngon ngọt; con vật nói
chung là bằng lòng với thực tại thì con người nói chung lại không bao giờ thực
sự thỏa mãn cái mình hiện có, luôn muốn tích lũy càng nhiều càng tốt để tránh
xa đói khát và được hưởng thụ thừa mứa ngon ngọt. Nhà văn Giăc London đã đề cập rất hay về
vấn đề này trong tác phẩm “Tình yêu cuộc sống” của ông.
Người ta cứ chê
bai con vật là dã man nhưng làm sao có thể dã man hơn con người được khi mà những
bản tính của loài vật đã thể hiện đến mức độ cực đoan, tột độ ở con người? Sự ích
kỷ đến mức đê tiện và sự tham lam thèm muốn đến vô độ (mà căn nguyên sâu xa đã
nâng sự tìm kiếm, tranh giành thức ăn một cách tự phát, đáp ứng vừa đủ cho cuộc
sống sinh lý ở loài vật lên thành hành động tự giác khai thác triệt để môi trường
thiên nhiên, tranh đoạt, cướp bóc, xâm lược, giết chóc, tiêu diệt lẫn nhau giữa
người với người để không những đáp ứng những đòi hỏi ngày một quá đáng, những
nhu cầu nhân tạo càng ngày càng phi nghĩa của sinh lý con người và hơn nữa, còn phải thỏa
mãn lòng tham lam, tính háo danh, thèm khát quyền lực đến mù quáng của tâm lý
con người. Nếu hỏi bất cứ người nào rằng có thích làm vua không, thì ở trạng thái
bình thường nhất, ở mức độ thành thật nhất, có mấy người trả lời là không thích
trong số một ngàn người chẳng hạn? Có lẽ không có người nào!.
Loài vật và loài
người xuất hiện là từ quá trình vận động của tự nhiên, hợp lẽ với tự nhiên. Con
vật được sinh ra, hành động để duy trì cuộc sống bản thân nó và sinh con đẻ cái
duy trì nòi giống của nó là lẽ tự nhiên, thiếu ước mơ nên cũng thiếu mục đích
(hay cũng có mục đích nhưng không phải là mục đích tự thân mà là mục đích bản năng?).
Một con người nói chung được sinh ra là một tất yếu nhưng một con người cụ thể
nào đó được sinh ra lại là sự vô tình. Vì là loài vật nên con người đến đây cũng
như loài vật, chẳng có mục đích gì. Vì biết suy nghĩ nên nó có tình cảm (hoặc tình
cảm sâu sắc hơn nhiều so với loài vật?) và từ đó mà xuất hiện mục đích và nghĩa
vụ tự thân đối với bản thân và đối với cộng đồng. Do đó con người biết nỗ lực
phấn đấu trong cuộc sống, biết tìm cách vươn lên (chính đáng hay không chính đáng,
đàng hoàng hay quỉ quyệt!) để thực hiện ước muốn, để vượt qua cái gọi là “số phận”
để thành đạt, để hơn người… Rốt cuộc, nói gọn lại, con người luôn hành động, phấn đấu một cách duy nhất
vì danh lợi, vì quyền lợi (vì lợi!) của bản thân và có thể vì cộng đồng, trong đó
có mình. Không thể khác được!
Một biến tướng
của phấn đấu nỗ lực vì danh lợi là tranh giành, gây xung đột vì danh lợi mà ở mức cực
độ, tột cùng của nó là chiến tranh, là xung đột vũ trang giữa những bộ phận người,
giữa những tập đoàn người, giữa các nước (cướp phá lẫn nhau hoặc giữa kẻ đi ăn
cướp với những người bảo vệ, tự vệ).
Có cách nào loại
bỏ chiến tranh khỏi đời sống nhân loại một khi trong trí não con người không gột
rửa được khái niệm danh lợi?
Có một cách, đó
là hướng tất cả mọi cuộc tìm kiếm danh lợi vào… Tự Nhiên, vào thế giới khách
quan, khách thể của loài người. Loài người đồng tâm hiệp lực gặt hái danh lợi từ
thế giới khách quan và phân chia kết quả thu hoạch được cho nhau một cách hợp lý.
Nghe thì cũng bùi
tai đấy! Nhưng phân chia như thế nào gọi là hợp lý khi mặt trái của sự suy nghĩ
luôn tồn tại như một lẽ tự nhiên, thậm chí trở thành bản chất của con người? Lịch
sử cổ đại Trung Quốc cũng đã từng có một thời kỳ như thế, được gọi là “Xã hội đại
đồng” (chế độ cộng sản nguyên thủy) nhưng lại vì những nguyên nhân có thể đoán được
(dồi dào về thức ăn, đơn giản về nhu cầu, thuần phác về tình cảm). Giai đoạn còn
nặng tính tự phát nhưng có lẽ là tươi đẹp nhất của thời thượng cổ ấy cũng chỉ tồn
tại trong khoảng thời gian không dài, đánh dấu bước chuyển tiếp từ mông muội
sang văn minh.
Sự hồi tưởng làm
cho không ít người hối tiếc cái quá khứ xưa vời ấy: Trong đêm tối mịt mùng, bầy
người hoang dã, sau một ngày săn bắt hái lượm giữa mưa nắng thiên nhiên, quây
quần bên đống lửa, hài lòng chia nhau những miếng thịt nướng thơm ngậy, sung sướng
nhồm nhoàm nhai nuốt, cùng nhau vui vẻ nhảy nhót, rú gào, chẳng chút bận tâm đến
ngày mai (thỏa thuê và tưng bừng hơn yến tiệc của vua chúa nhiều!). Ngày nay, sự
nuối tiếc ấy vẫn ẩn dấu trong tiềm thức, cho nên nhiều người tổ chức đi du lịch
về với thiên nhiên, cố dựng lên quang cảnh hoang dã, cũng đốt lửa trại, cũng quây
quần nướng thịt, hát ca. Nhưng than ôi, có cố gắng đến mấy thì cũng chỉ là gượng
gạo. Cũng rừng đấy thôi , cũng củi lửa đấy thôi, cũng thịt đấy thôi, cũng những
con người đấy thôi mà không bao giờ đạt tới được cái phấn khích hồn nhiên đích
thực được nữa. Quá trình văn minh hóa đã làm cho tâm hồn của mỗi con người trĩu nặng nỗi lo âu và sự tham muốn đầy vị kỷ mất
rồi!
Chúng ta thừa
nhận, từ mông muội lên văn minh và ngày càng văn minh là xu thế không thể đảo
ngược được trong quá trình tồn tại của loài người. Văn minh hơn thì con người được
hiểu biết nhiều hơn, có điều kiện hưởng thụ phong phú hơn và tiện nghi hơn… Điều
đó dẫn tới nhu cầu về mọi mặt của đời sống ngày một tăng đòi hỏi sự nỗ lực cao độ
của mỗi người trong cuộc tranh đua mưu cầu danh lợi ngày một gay gắt, căng thẳng
hơn. Chung qui lại, càng văn minh thì con người càng được nhưng cũng càng mất,
càng thừa thãi bao nhiêu thì càng thiếu thốn bấy nhiêu, bởi vì một lẽ đơn giản: lòng
tham muốn của con người là vô độ lượng. Lịch sử nhân loại cho chúng ta thấy một
điều rằng càng văn minh, chiến tranh càng khốc liệt, qui mô chiến tranh càng mở
rộng và càng trở nên tàn bạo bởi sự giết chóc hàng loạt của những loại vũ khí có
tính sát thương ngày một ghê gớm (được chế tạo bởi văn minh!). Hiện nay các loại
vũ khí, súng đạn, bom mìn có sức công phá cực lớn, kể cả vũ khí hạt nhân đã đầy
ứ, chực chờ khắp nơi trên Trái Đất. Quái tượng cuộc chiến tranh tự hủy diệt mình
một cách tàn khốc nhất; triệt để nhất của loài người đã ló dạng ở chân trời thế
giới!
Tương lai loài người rồi sẽ ra sao? Thế hệ chúng
ta không thể trả lời được câu hỏi đó. Chỉ biết rằng cái tương lai ấy sẽ là một
hiện thực hợp lẽ tự nhiên, là kết quả của những tạo dựng ở quá khứ, có phần đóng
góp của những tạo dựng hôm nay.
Chúng ta nhấn mạnh
đến mặt trái của suy nghĩ nhưng không nên quên cái mặt phải đầy lý trí, minh tuệ
và thánh thiện của nó.
Loài vật sống mù
quáng thụ động, “trôi” theo chiều của tự nhiên. Ở chúng thiếu hẳn trí nhớ tự giác
nên nếu có chút cảm giác nào đó về không gian và thời gian thì cũng hết sức mờ
nhạt (cảm giác về không gian rõ rệt hơn là cảm giác về thời gian, theo sự phản ứng
nội sinh học một cách tự nhiên trong bản thân chúng). Do đó chúng hầu như thiếu
hẳn “cái tôi” của mình, không có quá khứ, không hiểu hiện tại và không biết tương tai. Cuộc sống của loài vật thiếu
hẳn mục đích (có thể nó hơn được vật vô sinh, hơn được thực vật ở chỗ đã có mầm
mống của tính mục đích, hay gọi là mục đích bản năng. Khi thấy con mồi thì nó rình
rập, tìm cách vồ, đó là hành động nhằm mục đích của cả cuộc đời, có tính lý trí,
dài lâu). Vì không có trí nhớ tự giác (không nhớ lâu được), không nhận thức được
cuộc đời nên chúng cũng chẳng có tình cảm lý trí: đánh nhau dành miếng ăn,
xong rồi thôi, không “để bụng”, hận thù; sinh sản nuôi lớn rồi thôi, không như
con người, mẹ yêu thương con suốt đời. Tất cả những hành vi của con vật như cắn
xé nhau, nhường nhịn nhau, bảo vệ bầy đàn và tấn công, giết chết đối tượng đều
mang tính tự nhiên, vô tình. Nhưng qua nhận thức của con người thì chúng được
phân thành hai lọai: tính “thiện” và tính “ác”.
Sự suy nghĩ chính
là sự biểu hiện con vật đã “người hóa”. Hai mặt của suy nghĩ làm nên hai động lực
chi phối hành vi có mục đích của đời người: mặt trái là chủ của sự tàn ác và mặt
phải là chủ của sự nhân từ.
Sinh ra từ tự nhiên
và là bộ phận của Tự Nhiên, loài người không thể là vô lý, phi tự nhiên được. Loài
người cũng là một sự vật- hiện tượng mà vận động nội tại của nó là một quá trình
thống nhất của các lực lượng tương phản tác động tương hỗ lẫn nhau, chuyển hóa
nhau, tuân theo những qui luật của tự nhiên - xã hội (qui luật xã hội về thực
chất cũng là qui luật của tự nhiên vì xã hội loài người không thể là hiện tượng
phi tự nhiên được).
Lịch sử loài người
là lịch sử tạo dựng: là lịch sử của những cuộc chiến tranh tàn phá sát sinh nhưng
cũng là lịch sử của những thời hòa bình, kiến thiết, dưỡng sinh. Chiến tranh và
hòa bình là hai mặt tương phản mà trong thực tiễn loài người là hai hiện tượng tương
phản nhau, chuyển biến lẫn nhau, tạo nên những mối tương quan
nhất định trong điều kiện hoàn cảnh nhất định, tham gia và là bộ phận làm nên
xu thế tiến triển của xã hội loài người.
Chúng ta sẽ thấy
yên lòng khi hiểu rằng: mang trong tiềm thức trọn vẹn bản năng sống của loài vật,
nhờ có suy nghĩ mà bản năng ấy thăng hoa lên thành khát vọng sống, tình yêu cuộc
sống trong mỗi con người. Chính sự khát vọng và tình yêu ấy cùng với những trải
nghiệm đau thương và tang tóc bởi hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh
khác mà trong đại chúng đã hình thành và phát triển rộng rãi tình cảm yêu thương
hòa bình, chán ghét và ghê sợ chiến tranh. Từ đó mà xuất hiện lực lượng ngày càng
đông đảo và mạnh mẽ, đại diện cho ước mong được sống cuộc đời thanh thản, yên ổn
trong hòa bình của đại chúng, tích cực ngăn chặn chiến tranh, phá vỡ những âm mưu
gây chiến của những thế lực hiếu chiến, của những kẻ ích kỷ, tham lam và cường
bạo.
Thế hệ chúng ta
có thể văn minh hơn, hiểu biết nhiều hơn thế hệ của những Aristote, Khổng Tử, Lão
Tử, hiền triết Upanishad, nhưng bộ não của chúng ta chắc gì đã tiến hóa hơn của
họ, chắc gì đã sáng suốt, thông minh hơn của họ, thậm chí do lệ thuộc sâu sắc vào
các dụng cụ thiết bị hỗ trợ mà còn thoái hóa đi. (một vị có học hàm tiến sĩ hiện
nay chắc gì đã tính nhẩm nhanh hơn một bà ít học, bán cá ở chợ?!)
Rồi đây, như một
lẽ tự nhiên, theo bước đường tạo dựng không ít đau thương nhưng cũng không kém
hào hùng, hy vọng rằng bộ não con người sẽ tiến hóa hơn nữa, tính thiện át dần tính ác; mọi
người của đại chúng, ai ai cũng thấy được cái Đạo lớn của Tự Nhiên, thấy được cái
nhỏ nhoi, mong manh nhưng thiêng liêng của cuộc sống, thấy được cái phi lý, vô
nghĩa và tai hại của cuộc đời phải mang trong mình nó một lòng tham vô độ, một
mưu cầu danh lợi quá đáng, một mối hận thù đè nén tâm can. Chắc rằng vào thời đại đó, các nước trên thế giới không còn tàng trữ binh lực, vũ khí nữa, không còn hiện tượng nước lớn, mạnh diễu võ giương oai dọa nạt, lăm le xâm lược nước nhỏ, yếu nữa, vì không còn tồn tại những thế lực mang tư tưởng dân tộc ích kỷ, hẹp hòi!
Hướng tiến hóa ấy
của não người không phải là ngẫu nhiên mà có nguồn gốc từ nhận thức đúng đắn về
Tự Nhiên Tồn Tại, từ khát vọng truyền qua ngàn đời của đại chúng muốn được tự
do yên ổn làm ăn, được sống trọn đời trong hòa bình. Mầm mống của sự tiến hóa ấy
giờ đây đã thể hiện ra trong hiện thực dưới dạng các tổ chức, lực lượng phi chính phủ yêu chuộng hòa bình, gìn giữ thiên nhiên, chống chiến tranh trên toàn thế giới.
Chúng ta hy vọng
trong tương lai, loài người sẽ tránh được cuộc chiến tranh hủy diệt bằng vũ khí
hạt nhân của đồng loại gây ra. Không những thế, quá trình tồn tại của loài người
lúc đó sẽ bước lên tầm cao mới: vắng sạch bóng chiến tranh trong tạo dựng ở Trái
Đất và lên đường đi tạo dựng trong Vũ Trụ, ngày một xa rộng.
Vâng, chúng ta
hãy hy vọng và không chỉ hy vọng một cách thụ động!
***
Chúng ta đến thời
Xuân Thu - Chiến Quốc đâu phải vì chiến tranh! Nếu không vì chiến tranh mà lại
bỗng nhiên đứng đó “hùng biện” sùi bọt mép về những vấn đề chiến tranh thì chúng
ta cũng là những kẻ “rất thích” chiến tranh đấy chứ?
Thật ra, chúng
ta đến đây với mục đích tìm hiểu quan niệm của đương thời về nhân tình thế thái, "cái"
không thể bỗng dưng xuất hiện được mà phải có xuất phát điểm, phải là kết quả của
quan sát và nhận định thời cuộc. Nét nổi bật thời Xuân Thu - Chiến Quốc có gì
khác hơn là chiến tranh. Mọi nỗ lực của các nước về kinh tế - xã hội đều nhằm mục
đích chiến tranh bởi không tiêu diệt người thì cũng bị người tiêu diệt; chính
nghĩa và quyền lực thuộc về tay nước bá chủ. Vậy thì nếu không nói đến diễn tiến
của lịch sử, nếu không nói đến chiến tranh thì làm sao hiểu được sự phân chia tư
tưởng thành hai trường phái lớn, tương phản nhau, mang nét rất riêng và độc đáo,
trở thành đề tài tranh biện nổi bật trên nền tảng của văn hóa - tư tưởng Trung Quốc suốt thời kỳ sau này, đó là
“Xuất thế vô vi” và “Nhập thế hữu vi”?
Sự nở rộ về tư
tưởng - văn hóa ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc không phải là điều lạ. Vì cũng khoảng
thời gian ấy, hiện tượng tương tự cũng được thấy ở Hi Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ
đại. Một trong số không nhiều nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng rất có thể là sự phát triển về mặt kinh tế của
đời sống xã hội và sự hoàn thiện của chữ viết, tạo điều kiện cho tư duy phát
triển cả bề rộng lẫn bề sâu.
Có thể đoán định rằng, trong khoảng giao hòa giữa chế độ chiếm hữu nô lệ và
phong kiến, mức sống ở những nơi đó (lúc đầu) được nâng cao, lao động trí óc (văn hóa, nghệ thuật,
chép sử, nghiên cứu khoa học…) nhờ thế đã tồn tại như một lực lượng tương đối độc lập, tự
nuôi sống được bằng công việc sáng tạo của mình họăc nhận được sự bảo trợ thường
xuyên của “mạnh thường quân”. Xuất phát từ tình hình phát triển của thực tiễn hoạt
động kinh tế - xã hội và sự đòi hỏi của thực tiễn ấy mà chữ viết cũng được cải
tiến, ngày càng tiện dụng, phong phú, có đủ khả năng lưu giữ, chuyển tải chính
xác những kinh nghiệm đã tích lũy được, những ý tưởng, những nội dung lớn về
quan niệm, nhận thức mà trước đó chỉ có thể truyền khẩu và lưu giữ bằng trí nhớ
(dễ sai lạc!). Việc hoàn thiện chữ viết và nở rộ các tác phẩm thơ, ca, sử, triết…
chắc chắn có sự góp phần đắc lực trong việc sáng tạo ra những phương tiện viết đạt
đến mức độ thuận tiện nhất định.
Ở Trung Quốc cổ đại, các học giả thời Chiến Quốc cho rằng Sương Hiệt là người đầu tiên đặt ra văn tự. Nhưng Sương Hiệt ở thời
nào thì không ai biết. Theo truyền thuyết thì Phục Hy đặt ra chữ viết, dùng khá
phổ biến ở thời Hoàng Đế. Theo Khổng Tử thì đời nhà Hạ đã có lịch. Nhưng tất cả
những điều đó đều chưa có bằng chứng. Chữ viết sớm nhất được khảo cổ phát hiện
là chữ viết đời nhà Thương. Ở Ân Khư (Hà Nam), người ta đã khai quật được
nhiều mai rùa, xương động vật, đồ đồng… được người nhà Thương khắc chữ trên đó
(gọi là chữ giáp cốt). Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện khoảng 5000 chữ, đoạn
văn dài nhất cỡ 100 chữ. Đến thời Tây Chu thì số lượng chữ khắc đã tăng lên nhiều
và cách viết chữ cũng đã đơn giản hơn. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chữ viết
càng phong phú về số lượng, càng được đơn giản hóa, dễ viết.
Ở thời kỳ này, vật liệu dùng để lưu chữ
viết là thẻ tre nhưng ở cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc, người ta cũng đã bắt đầu
viết chữ lên lụa (muốn viết lên lụa thì người thời đó chắc phải chế ra cái gọi
là “bút” và cái gọi là “mực”). Tương truyền rằng người nước Tề là Tiết Tắc, chế
ra mực, người nước Tần là Mông Điềm chế ra bút. Cả hai đều ở thời Chiến Quốc).
Việc dùng vải lụa đã tạo thuận lợi hơn để ghi chép, dễ cất, dễ đem đi. Nhưng có
lẽ chất lượng “mực” thời đó chưa tốt, chóng phai nên việc lưu giữ chủ yếu vẫn là
thẻ tre.
Kể thêm: theo sử chép thì nghề trồng dâu,
nuôi tằm dệt lụa có từ đời Phục Hi, đến đời Tần, lụa đó đem bán qua La Mã đắt
ngang với vàng vì vận chuyển khó khăn, đường xá xa xôi, nguy hiểm. Con đường bộ
duy nhất để giao thương giữa Đông và Tây thời đó sau này được gọi là Con đường
tơ lụa. Còn giấy thì mãi 100 năm sau Công nguyên mới xuất hiện ở Trung Quốc. Vào
khoảng năm 2000 TCN, ở Ai Cập có một loại cây mọc ven hai bờ sông Nil được gọi
là Cyperus Papyrus (sau này người Pháp gọi giấy là papier, người Anh gọi là paper). Đây là loại cây hình dạng giống cây lác ở Việt Nam, cao từ 2,5 mét đến
3 mét, gốc mập, cong nhiều và trơn, ít lá, lớn bằng cổ tay, phía trên ngọn, hoa
nở từng chùm màu trắng giống hoa cây lau. Người Ai Cập lúc đầu dùng rễ để đốt,
ruột làm tim đèn. Thấy ruột của nó dài và bền, họ mới tước ra thành từng sớ mỏng,
đoạn dùng dao cắt đều đặn ra từng miếng, rửa sạch, phơi khô, cán mỏng và dùng mực
(?) vẽ hình lên đấy. Đó là thứ giấy đầu tiên của loài người. Kỹ thuật làm giấy
này được người Ai Cập duy trì mãi. Người đầu tiên cải tiến kỹ thuật làm giấy là
người Trung Hoa, tên là Sái Luân, làm quan dưới triều vua Hòa Đế (89 – 106). Ông
nhận thấy các thanh tre và gỗ dùng để ghi chép quá cồng kềnh và bất tiện, thêm
nữa phí tổn lại cao, nên nảy ra sáng kiến dùng vỏ cây dâu tằm, tước ra thành sợi,
giã nhuyễn, cán mỏng phơi khô thành giấy. Từ đó giấy trở nên thông dụng, phổ biến
trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Đến năm 114, Sái Luân được phong tước Hầu nhờ công
lao đó. Sau Sái Luân là Vương Du, rồi theo bước Vương Du, nhiều người khác luôn
tìm cách cải tiến, tìm kiếm thêm những loại cây khác làm nguyên liệu trong việc
sản xuất giấy. Từ Trung Quốc, nghề làm giấy chu du đi khắp thế giới. Năm 593 giấy
chính thức du nhập vào Triều Tiên. Năm 610, giấy tràn vào Nhật Bản. Năm 751 nghề
giấy bắt đầu hình thành ở Ba Tư. Năm 795, từ Ba Tư, nghề giấy truyền sang Trung
Đông. Năm 800, xưởng giấy đầu tiên của Ai Cập hình thành tại La Mecque. Nhờ có
cuộc thập tự chinh, châu Âu học được nghề làm giấy. Năm 1154 xưởng giấy xuất hiện
ở Ý, tiếp đó là ở Đức (1288), ở Anh (1309), ở Hà Lan (1320), ở Pháp (1348)… Theo
bước chân chinh phục Anh, nghề giấy vươn đến châu Mỹ. Nhà máy giấy đầu tiên được
xây dựng trên đất Mỹ là vào năm 1690…
Trong lịch sử tư tưởng - văn hóa Trung Quốc
thì thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Đó là
thời kỳ phát triển đặc biệt phong phú về học thuật . Sách “Tùy thư”, mục “Kinh
tịnh chí” liệt kê được 14 học phái. Trong “Sử ký”, Tư Mã Thiên nhấn mạnh sáu học
phái quan trọng là: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia và Âm dương
gia. Chúng ta có thể coi sáu học phái ấy là sáu trường phái triết học đầu tiên
của Trung Quốc và là nền tảng cơ bản của tất cả các học thuyết triết học Trung
Quốc sau này. Nội dung của các triết thuyết sau này ở Trung Quốc hầu như chẳng
có gì mới, chỉ là sự quan niệm lại, giải thích thêm, kết hợp các ý tưởng của sáu
trường phái đó.
Có kết quả thì phải có nguyên nhân, có tạo
dựng thì phải có bắt đầu, vì vậy một quan niệm triết học không thể từ hư vô
sinh ra hay từ trên trời rơi xuống được mà phải xuất phát từ một nguồn cội nào đó.
Nguồn cội nào nếu không phải là những nhận thức có trước đó về tự nhiên - xã hội,
kết hợp với những quan sát, suy ngẫm chủ quan trong hiện tại? Sáu học phái gọi
là triết học kể trên chắc chắn phải là sản phẩm của một sự kế thừa, dù trực tiếp
hay gián tiếp.
Nhận thức về vũ trụ tự nhiên - nhân sinh
của người Trung Quốc trước thời Bách gia Chư tử
phản ánh chủ yếu trong ba bộ kinh là Kinh Thư, Kinh Thi và Kinh Dịch. Cả ba bộ
kinh ấy, thời chưa thịnh hành chữ viết, tương tự như Kinh Vêđa ở Ấn Độ được lưu
truyền trong dân gian qua truyền khẩu, sau này mới được các học giả sưu tầm, san
định lại thành sách và càng về sau càng được bổ sung, giải nghĩa, thêm thắt những
quan niệm đương thời theo ý chủ quan của từng học giả nên có phần xa vời, sai lệch
so với ý nghĩa gốc ban đầu). Ngay nguồn gốc xuất xứ của chúng cũng không rõ ràng,
phần nhiều là suy luận, phỏng đoán.
Kinh Thi là tác phẩm đầu tiên của văn học
Trung Quốc, ra đời cách nay đã hơn 2500 năm; ghi chép lại những tư tưởng về
nghi lễ tôn giáo, phản ánh tâm tư tình cảm, phong tục tập quán trong lao động, đời
sống xã hội bằng thơ ca, tục ngữ, bằng ngôn ngữ đại chúng, mộc mạc nhưng cũng rất
trữ tình.
Kinh Thư là bộ sách ghi chép những điều các
vua và bầy tôi giải bày, khuyên răn nhau về phép trị nước an dân, từ thời Nghiêu
Thuấn đến Đông Chu; giúp người đời sau hiểu được pháp chế và quan niệm đạo lý ở
những triều đại trước, qua đó thấy được sự phát triển văn minh ở từng thời kỳ lịch
sử.
Kinh Dịch là bộ sách nói về nhận thức Vũ Trụ truyền thống của Trung Quốc cổ đại. Theo
truyền thuyết, vua Phục Hy (4477 – 4363 TCN) thấy con Long Mã nổi trên sông Hoàng
Hà, trên lưng có 55 vết đen trắng mà lập ra Hà Đồ, từ đó mà nhận ra được lẽ
sinh hóa của vạn vật.
Trong buổi bình minh của nền văn minh
Trung Quốc cổ đại, giống như mọi nền văn minh cổ đại khác trên thế giới, con người
mới thoát thai từ mông muội, chưa hiểu biết nhiều về thiên nhiên, chưa thấy được
mối liên hệ giữa các sự vật - hiện tượng,
do đó trước mắt họ, những hiện tượng lớn lao, kỳ vĩ như núi lửa, sóng thần, mưa
bão, gió lốc… đều là hành động của những “siêu nhân” độc lập nhau tạo ra sức mạnh
của “siêu nhân” là gấp bội phần sức người nên mới có khái niệm “thần”. Nhưng chẳng
thấy thần đâu cả, nên họ phải tưởng tượng ra và sự tưởng tượng ấy không thể vượt
qua tầm nhận thức được nên chỉ có thể là mang tính cách, hình hài giống như con
người mà thôi. Ngày nay, chúng ta gọi quan niệm đó là tín ngưỡng đa thần.
Theo thời gian,
con người tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, quan sát ngày càng sắc sảo hơn nên nhận
thức ngày càng sâu rộng hơn về thiên nhiên. Dần dần rồi họ cũng thấy những hiện
tượng thiên nhiên trước đây tưởng là rời rạc, độc lập, thật ra là có mối liên hệ
với nhau, phụ thuộc nhau, xảy ra, hình như tuân theo một ông thần chung nào đó,
đứng cao hơn tất cả, là thần của các vị thần. Đó chính là bước tiếp theo của nhận
thức thiên nhiên: quan niệm tín ngưỡng nhất thần.
Theo sách “Quốc
ngữ” thì:
“Ngày xưa dân với
thần không tạp loạn, lẫn lộn. Trong dân chúng có người sáng suốt không hài lòng.
Họ có thể nhất tâm, kính cẩn, thành thật và ngay thẳng. Trí của họ đạt tới trên
dưới, có thể đạt tới chính nghĩa. Thánh đức của họ có thể sáng tỏ từ đằng xa. Đức
sáng suốt của họ có thể soi chiếu mọi vật. Như vậy, thì thần linh giáng xuống ở
họ, ở đàn ông thì gọi là Nghiễn, ở đàn bà thì gọi là Vu.
Nhờ qua những bậc
ấy mà chỗ ở của thần được đặt, địa vị của thần được bày, và thứ tự trên dưới của
thần được xếp (…)
(…)
(…)
Kịp đến đời Thiếu
Hiệu suy đồi, chín họ Lê rối loạn đất tốt. Dân thần trở nên hỗn độn và phương vật
khó lòng có thể phân biệt. Thường thì dân làm lễ, và mỗi nhà có riêng thầy cúng,
không cần phải có đức tính chính đáng vào việc ấy. Dân kiệt sức về cúng lễ mà
không thấy có hạnh phúc. Tế lễ không có trật tự và dân thần đồng vị. Dân không
coi trọng lời nguyện, không cần nghiêm uy, kính sợ thần theo thói lệ của dân, và
hành vi dơ bẩn (…)
Khi Chuyên Húc
nối ngôi, ông ta bèn ra lệnh cho Nam Chính Trọng lấy Trời làm nơi thuộc về thần,
cho Hỏa, Chính Lê lấy Đất để thuộc về dân. Họ phục hồi lại kỷ luật cũ, không còn
để cho có sự xâm lấn lẫn nhau, lăng loàn giữa thần dân và trời đất nữa”
Phùng Hữu Lan,
tác giả của “Trung Quốc triết học sử” nói:
“Theo lời nói ấy
chứng tỏ cho ta thấy các hình thức tính ngưỡng ở xã hôi Trung Hoa thời cổ. Xét
cái sự có những Vu Nghiễn, thầy cúng thầy mo cần thiết để xét xếp đặt vị trí trật
tự của các thần trong việc cúng bái thì chúng ta biết bấy giờ ngưới ta tin vào
nhiều thần vô kể. Lại việc thần có thể giáng phúc, hưởng lễ, và trà trộn vào các
công việc nhân sự đủ tỏ là các thần đều có nhân cách tính. Những sự “nhân thần
tạp hữu”, “thần liệp dân tắc”, “dân thần đồng vị” đủ tỏ người ta coi hành vi của
thần với hành vi của người không khác nhau mấy. Dân Trung Hoa ở thời ấy mê tín
và chưa mở mang về trí thức. Họ có tư tuởng tôn giáo nhưng chưa có tư tưởng triết
học, cho nên tôn giáo và thần tiên họ tin sùng thì chẳng khác gì như Hy Lạp cổ đại.
Kịp đến nhà Hạ và nhà Thượng thì quan niệm Thiên và Đế xuất hiện. Dần dần hình
như quan niệm nhất thần nảy nở và được truyền bá, nhưng đồng thời tư tưởng mê tín
đa thần cổ xưa cũng vẫn còn tồn tại, chưa suy giảm”
Không có phản ứng
thì không có quan sát, không có quan sát thì không có trí nhớ, không có trí nhớ
thì không thể nhận biết. Nhận biết và trí nhớ là tiền đề của tư duy bậc cao,
suy nghĩ “kiểu” con người: suy luận và phán đoán. Suy luận và phán đoán (suy
nghĩ lý tính) làm nên lý trí con người. Con người hành động theo lý trí nhưng
luôn bị chi phối bởi sự “nghĩ” bản năng, vì phần xác của nó vẫn mãi là xác phàm,
xác con vật! Ông tổ ngành phân tâm học, bác sĩ Freud đã nói rất hay về điều này:
“Con người đã làm được một điều vô cùng khó khăn là vừa có thể sống như một con
vật đi tìm khóai lạc, vừa phải sống như một con người có đủ lý trí”.
Nhờ có lý trí mà
con người biết nhận thức. Quá trình dài lâu của suy nghĩ và hành động có lý trí
để sinh tồn đã làm cho nhận thức của con người ngày càng đúng đắn hơn về thiên
nhiên, phân hóa thành hai quan niệm tương phản nhau: hữu thần và vô thần. Hai
quan niệm này luôn bài trừ nhau nhưng lại cần đến nhau, tác động chuyển hóa lẫn
nhau và tạo tiền đề cho nhau cùng phát triển. Và đó chính là triết học, là “yêu
mến sự thông thái”, là con đường đi đến nhận thức đúng đắn, cuối cùng (được vật
lý học chứng thực). Hay có thể nói, triết học là quan niệm duy lý của con người
về tự nhiên tồn tại, là quá trình nhận thức và nhận thức lại để đạt đến chân lý
tuyệt đối; vừa là sự gợi ý mở đường cho khoa học (thực chứng), vừa dựa vào thành
quả của khoa học để tiến lên.
Nếu cho rằng học
thuyết triết học là một (hay những) quan niệm cơ bản về tự nhiên - xã hội (vũ
trụ quan, nhân sinh quan) cùng với hệ thống lý luận dẫn đến (những) quan niệm cơ
bản ấy thì trước thời nhà Chu, chưa có học thuyết triết học (đúng nghĩa theo qui ước!) nào ở Trung Quốc.
Những quan niệm triết học được thể hiện từ ba bộ Kinh: Thư, Thi, Dịch một cách
rời rạc, như là những phán đoán cảm tính từ trực quan sinh động (chú ý rằng cả
ba bộ kinh mãi đến thời Chiến Quốc mới định hình và được gọi là Kinh, với sự thêm
thắt ít nhiều!)
Trước thời Bách
gia Chư tử, trong nhận thức thế giới của người
Trung Quốc đã xuất hiện hai quan niệm lớn là Âm Dương và Ngũ Hành. Quan niệm Âm Dương không biết có từ thời nào, nhưng chắc là không thể sau đời Ân được. Có thể
là từ đầu nhà Chu, người Trung Hoa đã cho âm,
dương là hai căn nguyên của Vũ Trụ. Đời U Vương (781 – 771 TCN), quan chép sử là
Bá Dương Phủ nói: “Khí dương nếu không thoát ra được, khí âm bị nén không bốc
ra được, thế là sinh ra động đất”. Ông cho rằng trong Vũ Trụ có hai lực lượng là
âm và dương đối ứng, tác động lẫn nhau mà sinh ra biến đổi, biến động của vạn vật.
Theo Lê Văn Quán,
tác giả cuốn “Chu dịch vũ trụ quan” (NXB giáo
dục, 1995) thì:
“Từ trong hiện
tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội phức tạp, “Dịch truyện” đã nêu ra hai phạm
trù (khái niệm) cơ bản của âm và dương. Dương đại biểu tính dương và sự vật có
những đặc tính: tích cực, tiến thủ, kiên cường, mặt trời, giống đực… Âm đại biểu
tính âm và những sự vật có đặc tính: Tiêu cực, lui nhường, mềm yếu, mặt trăng,
giống cái,…
Thế giới phát
triển trong điều kiện ảnh hưởng lẫn nhau, vận động không ngừng của hai yếu tố có
đặc tính khác nhau ấy. “Dịch truyện” giải thích hết thảy các hiện tượng của Vũ
Trụ vạn vật bằng hiện tượng âm dương biến đổi.
Điều đó càng chứng
minh tư tuởng âm dương không phải bắt nguồn từ “Dịch kinh”. Trong thực tế dùng
quan niệm âm dương để giải thích “Dịch kinh” vẫn là do Dịch học sau này phát
triển”.
Nếu đúng như thế
thì phải chăng Bá Dương Phủ không phải là người đề xướng ra hai khái niệm âm và
dương để đặt tên cho “vạch liền” và “vạch đứt” trong kinh dịch, mà chỉ là người
khởi đầu cho thuyết âm dương sau này?
Thuyết Ngũ Hành
cũng là một sáng tạo độc đáo của nhân dân Trung Quốc: Thuyết đó cho rằng thế giới
do năm loại vật chất cơ bản là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo thành. Sự phát
sinh, phát triển, biến hóa, tiêu vong của các sự vật - hiện tượng (kể cả con người)
đều là kết quả của sự tác động lẫn nhau không ngừng (tương sinh tương khắc) của
năm loại vật chất mang tính nguyên tố đó.
Sự ra đời của học
thuyết Ngũ Hành vẫn còn “lờ mờ”. Dịch học phái cho rằng nó ra đời đồng thời với
thuyết Âm Dương. Theo “Chu dịch vũ trụ quan”
thì:
“Qua các tài liệu
“Tả truyện”, “Quốc ngữ”, ở thời đại Xuân Thu, ngũ hành chỉ năm loại vật chất không
thể thiếu trong sinh hoạt. Tư tưởng ngũ hành đầu tiên lưu hành ở hai nơi Yên, Tề
miền biển phía đông Trung Quốc, thời đại nảy sinh sớm nhất không trước Trân Diễn
một thế kỷ, vào thế kỷ thứ V, TCN. Nếu như ông ta không phải là người duy nhất
khai sáng ra thuyết ngũ hành thì ít nhất cũng là người hệ thống hóa và cố định
thêm những tư tưởng có liên quan đến loại này.
Trong sách “Thượng
thư”, thiên “Hồng phạm” cũng đề cập đến ngũ hành, nhưng không thể ra đời sớm hơn
thời đại Trân Diễn. (Tương truuyền đó là sách ở những năm đầu thời Tây Chu.
Theo nghiên cứu ngày nay, có thể đó là tác phẩm đời Chiến Quốc _ NV). Sách “Thượng
thư”, thiên “Hồng phạm” viết:
“Ngũ hành: nhất
viết hỏa, nhị viết thủy, tam viết mộc, tứ viết kim, ngũ viết thổ. Thủy viết nhuận
hạ, hỏa viết viêm thương, mộc viết khúc trực, kim viết tòng cách, thổ viết giá
sắc. Nhuận hạ tác hàm, viêm thương tác thổ, khúc trực tác toan, tòng cách tác tân,
giá sắc tác cam”.
(Ngũ hành: một
là nước, hai là lửa, ba là gỗ, bốn là kim loại, năm là đất. (Nói về tính). Nước
thấm xuống dưới, lửa bốc lên trên, gỗ có cong có thẳng, đồ kim khí tùy tay người
thợ mà đổi hình, đất để cấy lúa và gặt lúa. Nước thấm xuống dưới làm vị mặn; lửa
bốc lên trên là vị đắng; gỗ cong hay thẳng là vị chua; đồ kim khí tùy tay người
thợ đổi hình, vị cay; lúa cấy gặt vị ngọt”).
Quan niệm về ngũ
hành mà sách “Hồng phạm” đề cập không thuần túy dừng lại ở năm loại vật chất cơ
bản”.
Trong “Lịch sử
thế giới cổ đại” (NXB Giáo dục, 2006) nói rõ: “Đến đời Chu Tuyên Vương (827 –
782, TCN), một viên quan chép sử tên là Bá (được gọi là Sử Bá) lại cho rằng vạn
vật do năm yếu tố là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo nên. Đó là thuyết ngũ hành”
Qua đó, chúng
ta có thể đi đến phán đoán: Sử Bá là người chính thức đề xướng ra khái niệm ngũ
hành với ý nghĩa là năm loại vật chất cơ bản tạo nên vạn vật, và quan niệm ngũ
hành của ông ta là manh nha của thuyết ngũ hành sau này, được Trâu Diễn bổ
sung, phát triển đến hoàn chỉnh. Có thể xuất phát điểm của khái niệm ngũ hành bắt
nguồn từ quan niệm cơ thể học của con người trong y học thời đó (con người có
ngũ tạng, ngũ quan, ngũ khí) và xa hơn nữa là sự chiêm nghiệm Hà Đồ, Lạc Thư
(con số 5 ở trung tâm) chăng? Con số năm như là tiền định của người Trung Hoa vậy.
Thật lạ lùng!
Tóm lại, trong
xã hội thời Tây Chu bên cạnh những quan niệm thần bí về thế giới khách quan, đã
xuất hiện và song hành tồn tại những quan niệm duy vật sơ khai, rời rạc, được đúc
kết trực tiếp từ trực quan cuộc sống (của quá khứ và hiện tại).
Như lịch sử đã
mô tả, thời Xuân Thu là thời nhà Chu bước vào
giai đoạn suy vi, chiến tranh dành quyền bá chủ giữa các nước chư hầu bắt đầu nổ
ra và ngày càng liên miên, khốc liệt. “Chiến tranh kéo dài, hết chống nhau với
Tây Nhung lại đến chiến tranh giữa các nước chư hầu với nhau, biết bao nhiêu nước
mắt, biết bao nhiêu nhà tan. Các chư hầu mỗi ngày một cường thịnh, coi nhờn,
hay lăm le, cạnh tranh với thế lực trung ương của nhà Chu.
Do đấy mà dân gian đau khổ, phiêu bạt tứ phương thốt ra những lời ta thán”
(trong “Trung Hoa triết học sử đại cương” của Hồ Thích).
Trước cảnh hỗn
loạn, li tan, tàn khốc đau thương ấy, quan niệm thần bí về thế giới trở nên bất
lực, không thể giải thích được hiện tượng. Thần thánh xa vời chẳng chở che, giúp
đỡ gì được cho quần chúng vô tội cả, cứ để họ bị cuốn hút vào những cuộc chém
giết nhau với qui mô hàng loạt, hàng khối người một cách vô nghĩa.
Quan niệm âm dương,
ngũ hành về thế giới dù còn là duy vật biện chứng ở mức thô sơ (ngày nay gọi là
ấu trĩ) nhưng đã mở ra cách nhìn hết sức đúng đắn về nguyên tắc: tất cả các sự
vật - hiện tượng đều do những yếu tố cơ bản tạo nên, chúng có mối quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau, sinh - diệt nhau, tạo nên bức tranh biến đổi
không ngừng, đầy biến động của tự nhiên - xã hội.
Các bậc trí giả
đã lĩnh hội được cái tư tưởng vốn dĩ đúng đắn ấy, đồng thời phát triển mở rộng
làm cho quan niệm âm dương, ngũ hành thêm sâu sắc.
Dưới đây là một
số sử liệu (sưu tầm từ bộ “Lịch sử triết học Phương Đông, của Nguyễn Đăng Thục):
“Quý Lương nước
Tùy nói: Này nhân dân là chủ của thần vậy. Cho nên vua Thánh xưa trước hết lập
dân rồi sau mới nhờ đến sức của Thần”
(Tả
truyện, Hoài Công năm thứ 6)
“Nước
Chu, nội sử Thúc Hưng nói: Điềm lành, điềm dữ là tự ở người”
(Hy
Công năm thứ 5 - tả truyện)
“Nước Lỗ, Mẫn Tử
Mã nói: Họa phúc không có riêng cửa nào, chỉ là người ta vời đến mà thôi”
(Tương
Công, năm 23)
“Cái
điều dân mong muốn, Trời ắt hẳn phải theo”
(Tương
Công, năm 31 - Tả truyện)
“Triệu Giản Tử
nước Tấn hỏi Sử Mặc: “Họ Quý đuổi vua mình ra ngoài cõi, mà dân chịu phục tùng?”.
Sử Mặc đáp: “Dòng vua Lỗ đi theo sự mất, giòng họ Quý tu sửa cần lao, dân quên
vua đi vậy, dù vua có chết ở ngòai cõi thì cũng không có ai thương xót. Xã tắc
không có được phụng thờ mãi, vua tôi không có địa vị mãi, xưa nay vẫn thế. Cho
nên Kinh thi nói: bờ cao là hang, hang sâu là gò, dòng họ của tam hậu, Ngu, Hạ,
Thương ngày nay là bình dân, nhà vua đều biết đấy”.
(Tả
truyện, Định Công, Nguyên niên)
Trên cơ sở nhận
thức duy vật (biện chứng)
ấy, bức xúc trước cảnh bị tàn phá, tang tóc bởi chiến tranh triền miên, trước
nguyện vọng tha thiết muốn chấm dứt chiến tranh để được vui sống trong hòa bình
của đại chúng, nhiều bậc trí giả tâm huyết đã suy tư, nghiền ngẫm về thời cuộc để
mong tìm ra giải pháp khả dĩ thực hiện được mục đích đó.
Có thể rằng khoảng giữa thời Xuân Thu, mọi
nhân tố tiền đề đã đạt đến độ chín muồi cho giai đoạn Bách gia Chư tử bùng phát. Nhưng trước hết, cần phải có một triết
thuyết hoàn chỉnh, làm đột phá khẩu. Triết thuyết ấy phải hàm chứa được những
khái niệm cơ bản nhất của Bách gia chư tử và phải xuất hiện trong khoảng cuối
Xuân Thu, đầu Chiến Quốc.
***
Đối với chúng ta thì không còn lời để ca
ngợi cuốn sách “Quỉ Cốc tử”. Như đã từng đề cập nhiều về nó, cuốn “Quỉ Cốc tử”
tuyệt diệu ở chỗ dùng từ ngữ bình thường, dân dụng nhưng như thế lại hóa ra chính
xác, vừa như nói về những chuyện hàng ngày vừa toát được những hàm ý quá cao sâu.
Vì thế mà làm cho những học giả đời sau khen thì cũng hết lời mà chê thì cũng
ghê gớm, đủ kiểu. Nhưng có lẽ chưa có ai thấy hết được tầm vóc vời vợi trong cái
xác có phần “dân dã”, chất phác của cuốn sách được vinh danh là “thiên cổ kỳ thư”.
Đó là cuốn sách
dành cho mọi người. Người bình thường học được ở nó cách đối nhân xử thế, người
có chí hướng thì thấy ở nó những lời khuyên chí tình chí lý, kẻ mưu đồ thì nó
chính là kim chỉ nam để có được quyền lực, kế mưu thượng thừa; nó là sách giáo
khoa dạy người ta “biết sống” và cuối cùng, dưới mắt một triết gia, nó là cả một
nhận thức toàn diện hợp lý về thế giới.
Để có một nhận
thức được cho là toàn diện và hợp lý như vậy thì tác giả của cuốn “Quỉ Cốc tử”
phải là một triết gia và triết gia ấy phải có một triết thuyết đúng đắn hoặc được
truyền thụ từ một ai đó siêu quần, đã xây dựng được một học thuyết đúng đắn một
cách đại thể về Tự Nhiên Tồn Tại.
Chúng ta, vì
nhiều lý do, chọn hướng phán đoán: tác giả của cuốn “Quỉ Cốc tử” là một trong
những học trò xuất sắc nhất của Quỷ Cốc tiên sinh và Quỷ Cốc tiên sinh chính là
tác giả của cái học thuyết triết học mở đường cho sự xuất hiện các học phái triết
học trong bách gia chư tử. Hay nói cách khác, Quỉ Cốc tiên sinh là người khởi đầu
của bách gia.
Dù không có mặt
trong chính sử như một hiền triết sánh vai với những Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử…
nhưng chúng ta vẫn cứ bầu cho ông vào vị trí đó vì theo chúng ta (những kẻ chuyên
sống theo hoang tưởng!) không ai xứng đáng hơn ông xét về tài năng, về sự phù hợp
đối với tính kế thừa, về sự phù hợp thời gian và về mức độ yêu mến riêng tư của
chúng ta nữa,
Sẽ không bao giờ
biết được chính xác học thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh như thế nào, nhưng
thông qua cuốn sách “Quỉ Cốc tử”, chúng ta có thể thấy được những quan niệm cơ
bản, quan trọng, xuyên suốt làm nên học thuyết ấy cũng như tư tưởng triết học của
ông.
Quỉ Cốc tiên
sinh là người theo thuyết âm dương (thể hiện trong thiên bãi hạp chi thuật và tương
truyền rằng ông rất giỏi thuật số học: “nhật nguyệt tượng vĩ đều thu ở bàn tay,
xem việc trước, đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm”); coi mọi vận động biến
đổi của toàn thể thế giới các sự vật - hiện tượng đều có nguyên nhân từ sự tác động,
chuyển hóa lẫn nhau giữa hai thế lực âm và dương, được coi như là hai linh khí
căn nguyên của Vũ Trụ vạn vật. Nói như chúng ta thì Quỉ Cốc tiên sinh đã thấy được
bản chất tương phản của thế giới các sự vật - hiện tượng. Sự tương phản làm nên
động lực vận động biến đổi và chuyển hóa nhau của vạn vật.
Quỉ Cốc tiên
sinh quan niệm rằng âm dương vận hành không phải tùy tiện hỗn loạn mà theo một
mệnh lệnh nào đó ngoài vòng nhận biết của con người, vốn dĩ thế rồi, và không
thể gọi tên được. Muốn “đóng” cái gì đó thì trước đó nó phải là “mở”, không thế
đóng được khi trước đó là đóng. Một con hổ muốn phóng ra (duỗi) để vồ mồi thì
trước đó phải thu mình lại (co) chứ không thể duỗi ra rình mồi rồi co lại vồ mồi
được. Đó là sự đương nhiên là thế, là lẽ tư nhiên, là “qui luật” mà chúng ta ngày
nay gọi . Vũ Trụ vận hành, trường tồn theo nguyên lý nhất quán và có sẵn ấy,
thiên nhiên vạn vật vận động theo nguyên lý tự nhiên ấy, sinh sinh diệt diệt,
biến biến hóa hóa đến không ngừng mà hồn nhiên như không. Cái nguyên lý vĩ đại ấy
đã được Quỉ Cốc tiên sinh cảm nhận ra và chúng ta tạm gọi là Tự Nhiên (Lão Tử tạm
gọi là Đạo. Chúng ta đã từng gọi Cái Ấy là Tồn Tại, thực ra cũng chỉ là “tạm” để
phục vụ cho nhận thức, giãi bày mà thôi, vì Tồn Tại là Tồn Tại mà cũng không phải
Tồn Tại!!!). Điều đó giải thích vì sao mà nội dung của cuốn sách “Quỉ Cốc tử”,
xét cho đến cùng là nói về chữ “Phù”: Suy nghĩ, hành động và tạo dựng sao cho
phù hợp với Tự Nhiên, phù hợp với hoàn cảnh, tuân theo Tự Nhiên và như Tự Nhiên.
Quỉ Cốc tiên
sinh còn phát hiện ra được một đặc tính quan trọng nữa của thế giới, đó là sự
phân định khách quan ra chủ thể và khách thể. Điều này thể hiện rõ nét ở phần
“Trì Khu” và “Bản kinh âm phù”. Nhờ có sự phân định mới có sự quan sát. Nhờ có
quan sát mới có được nhận định, nhận thức thực tại. Chỉ có nhận thức được thực
tại đúng đắn mới có thể hành động phù hợp với thực tại, cũng có nghĩa là hành động
phù hợp với lẽ tự nhiên và như thế mới có thể đạt được điều mong muốn (và điều
mong muốn này cũng phù hợp với tự nhiên!). Muốn quan sát, suy nghĩ đúng thì cần
làm theo chỉ dẫn của “Bản kinh âm phù”. Chính ở “Bản kinh âm phù” này, chúng ta
thấy được hình bóng của “Ngũ hành” đã xâm nhập vào tư tưởng của Quỉ Cốc tiên
sinh.
Ngoài ra, thiên
“Phản ứng chi sách” còn cho chúng ta biết Quỉ Cốc tiên sinh có thể cũng đã thấy
mối quan hệ tác động - phản ứng giữa các sự vật - hiện tượng tương tác nhau.
Cuối cùng, điều
chúng ta muốn nói thêm là những vấn đề về cai trị, pháp trị hay nhân trị, danh,
lợi… đều đã manh nha trong cuốn “Quỉ Cốc tử”.
Không biết học
thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh ra sao, cấu trúc thế nào nhưng nó phải có
nội dung cơ bản như chúng ta nêu ra ở trên. Nếu nó là một trước tác thì có lẽ cũng
ngắn gọn “kiệm lời” do cản trở của trình độ chữ viết thời ấy, cũng như do những
nguyên nhân nào đó khác nữa mà chúng ta không biết. Tương tự như trường hợp Khổng
Tử: những tư tưởng của ông này phần lớn là do học trò sau này chép lại thành sách.
Điều đặc biệt thú vị là Quỉ Cốc tiên sinh còn được người đương thời đặt biệt
danh: “Vô tự đại thư”, pho sách lớn không chữ! Hay học thuyết của Quỉ Cốc tiên
sinh được trước tác bằng miệng, truyền thụ cho học trò và được học trò thể hiện
trong cuốn “Quỉ Cốc tử”?
Dù sao đi nữa học
thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh, theo như nhận định chúng ta, là học
thuyết giản dị, trong sáng và có lẽ là quan niệm đúng đắn nhất một cách đại thể
về Tự Nhiên Tồn Tại của nền triết học cổ đại thế giới.
Xét về mặt thời
gian thì chỉ có Khổng Tử và Dương Chu (đồng thời cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc)
là có thể “chiếm ngôi” người mở đầu cho Bách gia Chư tử.
Nhưng xét về tính
hoàn thiện của một học thuyết triết học và tính kế thừa thì học thuyết của Khổng
Tử không thể cạnh tranh được. Vũ Trụ là một. Một học thuyết hoàn chỉnh, theo lẽ
tự nhiên phải giải quyết được hai vấn đề tự nhiên và xã hội trên cùng một nền tảng
lý luận vì suy cho cùng, vấn đề xã hội cũng thuộc về vấn đề tự nhiên.
Chỉ còn có thể
là Dương Chu. Nhưng Dương Chu, đại diện cho phái Đạo gia lại không có “chiến tích”
lẫy lừng như Quỉ Cốc tiên sinh, người vừa được quần chúng mến mộ lưu truyền như
một huyền thoại, vừa có bốn học trò lừng danh thiên hạ, vừa có tài năng nhiều mặt,
thượng thừa. Cho nên Dương Chu cũng “không có cửa” nốt.
Như vậy, vì quá
yêu mến, yêu mến đến độ mù quáng Quỉ Cốc tiên sinh, chúng ta đã lặn lội đến đây
để bằng mọi cách, quyết dành lại ngôi vị cho ông và đã coi như...thành công (trong hoang tưởng!!!). Chúng ta đã toại nguyện và chắc là đã
đến lúc trở về.
Nhưng thôi, có
công đến được thời Xuân Thu - Chiến Quốc thì tội gì mà không lang thang đây đó
cho thỏa chí tang bồng. Chúng ta chẳng vội gì về, cứ “dông dài” một chập nữa
cho vui đời! Hãy bắt đầu từ Khổng Tử, nhà hiền triết cổ đại được nhiều người biết đến nhất ngày
nay, nhà hiền triết được tôn vinh nhất trong hàng ngũ các hiền triết của Trung
Hoa cổ đại.
***
Khổng Tử sống ở
cuối thời Xuân Thu, sinh năm 551, TCN và mất năm 479, TCN. Theo “Sử Ký” của Tư
Mã Thiên thì ông ra đời ở ấp Trâu, làng Xương Bình, thuộc nước Lỗ. Khi sinh ra đầu
ông có cái gồ nên được đặt tên là Khâu (cái gò), tự là Trọng Ni, họ Khổng.
Khi còn nhỏ, Khổng
Tử thích chơi trò bầy các khay để cúng và chơi trò tế lễ. Lớn lên có một lần họ
Quí mở tiệc thết đãi những kẻ sĩ. Khổng Tử cũng đến. Dương Hổ mắng Khổng Tử:
- Họ Quí thết kẻ
sĩ chứ không phải thết nhà ngươi đâu.
Khổng Tử bèn rút
lui.
Ở lứa tuổi vị
thành niên, một kẻ có lòng tự trọng và ý thức được dòng dõi quý tộc của mình sẽ
phải khắc vào lòng rất sâu trước lời nói có phần miệt thị ấy. Đó có thể là một
nung nấu, thúc đẩy Khổng Tử sớm chuyên cần, say sưa học tập.
Khi Khổng Tử mười
bảy tuổi, có quan đại phu nước Lỗ là Mạch Ly Tử ốm sắp chết, kêu người con cả là
Ý Tử đến, dặn dò:
- Khổng Khâu là
con cháu của bậc thánh nhân (chỉ Thành Thang, vua đầu tiên của nhà Ân), tổ tiên
bị giết ở Tống, người ông sáu đời là Phất Phu Hà lại được nối ngôi làm vua, nhưng
nhường ngôi cho Lệ Công. Đến đời Chinh Khảo Phụ giúp Đái Công, Vũ Công và Tuyên
Công, ba lần được làm thượng khanh (...) Ông ta là người cung kính như thế đấy.
Ta nghe nói con cháu bậc thánh nhân tuy không làm vua nhưng về sau, thế nào cũng
có người sáng suốt. Nay Khổng Khâu ít tuổi, thích lễ, có lẽ là con người sáng
suốt như người xưa nói. Khi ta chết rồi thế nào cũng phải thờ ông ta làm thầy.
Tuy có dòng dõi
quý tộc nhưng đến đời cha của Khổng Tử đã thuộc lớp bình dân. Cha mất sớm, mẹ mất lúc
Khổng Tử còn ở lứa tuổi thành niên nên cuộc sống của ông lúc đó có phần khó khăn,
nghèo hèn. Năm mười chín tuổi ông đã lập gia thất và đi làm Ủy Lại (quan coi
kho). Ông làm việc tốt, tính toán đong lường đúng đắn, sổ sách đàng hoàng nên được
cất nhắc làm Tư Lại, tức coi sóc việc chăn nuôi trâu bò, dê dùng vào việc cúng
tế. Sau này Mạnh Tử đã gọi “bậc thứ nhân đi làm quan” là vì thế.
Nhờ có tư chất
thông minh và có chí (những thân phận nghèo hèn thường có chí vươn lên trên bước
đường danh lợi) nên ở tuổi tráng niên, Khổng Tử đã có học vấn khá cao về Thi,
Thư (và có thể ngoài việc quan ra, ông còn nhận dạy học cho con cái nhà khá giả,
quyền quý (gia sư) để có thêm thu nhập chăng?). Sau này, có lần Khổng Tử thổ lộ:
“Ta mười lăm tuổi mà đã có chí với việc học, ba mươi tuổi mà lập thân”.
Khoảng thời
gian đó, chắc rằng ở Khổng Tử chưa có một chính kiến rõ ràng trong tư tưởng. Chí
tiến thủ của ông là sự cố gắng tự mở mang kiến thức, mong thành người tài giỏi để
mưu cầu danh lợi. Sẵn có lòng ham học nên dù đã đọc nhiều sách rồi mà ông vẫn
chưa thấy đủ, ước được đến đâu đó tìm thêm sách để học hỏi nữa. Có lẽ ông đã tâm
sự điều đó với học trò của mình là Tử Lộ (cũng là người nước Lỗ, nhỏ hơn Khổng
Tử chín tuổi). Tử Lộ mách nước:
- Lộ này nghe nói
nhà Chu có người giữ kho sách là Lão Đam… thầy
muốn thì đến đó thử xem.
Để đến được nhà
Chu, phải có khoản lộ phí đáng kể mà với hoàn
cảnh của Khổng Tử lúc đó là một vấn đề nan giải. Một học trò khác của Khổng Tử
là Nam Cung Kỉnh Thúc thấy vậy, tâu với vua Lỗ:
- Xin nhà vua
cho tôi cùng Khổng Tử đến đất Chu hỏi về lễ.
Vua nước Lỗ cho
ông ta một cỗ xe, hai con ngựa, một người đầy tớ. Ông ta cùng Khổng Tử ra đi.
Khổng Tử học hỏi
khá lâu ở Lạc Ấp, kinh sư nhà Chu. Ông tìm hiểu
mọi việc rất kỹ càng, xem xét những nơi miếu đường cùng những nơi tế giao, tế xã;
yết kiến Lão Tử hỏi về lễ, gặp Tràng Hoành hỏi về nhạc.
Hình như trước
Lão Tử, Khổng Tử đã phô diễn học vấn và ước vọng của mình nên Lão Tử có nói:
- Những người
anh nói đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, người
quân tử gặp thời thì xe ngựa nghênh ngang, không gặp thời thì cỏ bồng xoay chuyển.
Ta nghe nói: người buôn giỏi thì biết giấu của báu, khiến người ta thấy như không
có gì, người quân tử có đầy đức tốt thì diện mạo như ngu si. Anh nên bỏ cái khí
kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái chí tham lam đi.
Những cái ấy đều không có ích gì cho anh đâu. Ta chỉ nói với anh có thế thôi.
Khi Khổng Tử cáo
từ ra về, Lão Tử tiễn Khổng Tử, nói:
- Ta nghe nói
người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn
nhau. Ta không thể là người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức,
xin nói lời này tiễn anh: “Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết vì họ khen
chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy đến
thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách gì để
giữ mình, kẻ làm tôi không có cách gì để giữ mình”.
(Nghe những lời
ấy, chúng ta có cảm giác như Lão Tử đang nói lý luận về quyền mưu. Và có lẽ Lão
Tử đã thấy được chân tướng bồng bột, hiếu thắng của tuổi trẻ, nhưng lại cũng yêu
mến cái chí lập thân của Khổng Tử nên khuyên bảo thế chăng?).
Sự kiện Khổng
Tử đến nhà Chu khảo Lễ xảy ra khoảng thời gian
nào và có gặp Lão Tử hay không vẫn là một nghi vấn. Theo ý kiến chúng ta (cũng
chẳng có cơ sở xác thực gì!) thì Khổng Tử đến Chu trên danh nghĩa là tìm hiểu lễ
nhà Chu (chính thống) cho Lỗ. Chỉ có vậy thì
việc vua Lỗ chu cấp kinh phí cho Khổng Tử (một người có sở học nhưng chưa có tiếng
tăm gì) nghe hợp lý hơn. Nếu lúc đó đúng thực Lão Tử là quan sử, giữ kho sách
nhà Chu thì Khổng Tử không thể không gặp Lão Tử
được.
Như đã nói, đầu
thời Xuân Thu đã xuất hiện khái niệm âm dương, ngũ hành rồi. Vạn vật, kể cả con
người đều là do sự tương hợp của năm yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà ra. Âm
dương là nguyên lý vận động của vạn vật. Những ý niệm ấy đều do các quan sử nhà
Chu đề xướng (Bá Dương Phụ đề xướng khái niệm âm
dương, Sử Bá đề xướng khái niệm ngũ hành: có thể hai người đó chỉ là một người.
Cũng có thể là do công sức của nhiều người và quan sử nhà Chu
đúc kết lại được). Như một lưu truyền mà Lão Tử, cũng là một quan sử nhà Đông Chu, đã tiếp thu được những quan niệm ấy. Vì lẽ đó có thể
cho rằng, trong giai đoạn làm quan sử nhà Chu, nếu chưa có được một nhận thức hoàn
chỉnh có tính hệ thống về Vũ Trụ - Nhân Sinh thì chí ít trong Lão Tử cũng đã hình
thành những ý tưởng cơ bản của học thuyết “Đạo đức” sau này.
Vậy có rất nhiều
khả năng là Khổng Tử đã ra mắt Lão Tử. Lão Tử không những giảng lễ mà còn truyền
bá tư tưởng của mình cho Khổng Tử nữa.
Trong bộ “Tiểu Đái
ký”, thiên “Tăng tử vân” có thuật lại việc Khổng Tử kể lại lời của Lão Tử về giữ
bài vị tổ tiên, chôn cất, để tang. Trong đó câu chuyện thế này: Một hôm Khổng
Tử theo Lão Tử làm trợ táng ở Hạng Đãng (?), giữa đường gặp nhật thực. Lão Tử bảo:
“Khâu! Ngừng lại, đặt quan tài ở lề đường bên phải, ngưng tiếng khóc để đợi sự
biến đổi”. Khi hết nhật thực, đám tang mới lại tiếp tục đi. Lão Tử bảo: “Như vậy
là lễ!”.
Một người đã gắn
bó với Thi, Thư và sùng tín lễ, lần đầu tiên tiếp xúc với những tư tưởng mới lạ
và quá xa vời, có vẻ phi thực tế ấy sẽ khó có thể mà hiểu ra được. Vì thế mà khi về nước
Lỗ, Khổng Tử đã bảo với học trò:
- Con chim, ta
biết nó bay, con cá, ta biết nó biết lội, con thú ta biết nó biết chạy. Đối với
loài chạy thì ta có thể dùng lưới để săn; đối với loài lội thì ta có thể dùng câu
để bắt; đối với loài bay thì ta có thể dùng tên để bắn (ý nói có khả năng hiểu được, nhận thức được), đến như con rồng cưỡi mây
cưỡi gió lên trời, ta không sao biết được! Nay gặp Lão Tử, ông ta có lẽ là con
rồng chăng?
Khi Khổng Tử từ
nhà Chu trở về, ông được vua Lỗ tin dùng; bắt đầu
có tiếng, học trò đến học ngày một nhiều.
Năm thứ 20 đời
Lỗ Chiêu Công, lúc đó Khổng Tử được ba mươi tuổi và có việc Tề Cảnh Công đến gặp
để hỏi về lễ.
Năm 516 TCN, Quí
Bính Tử và Hậu Chiêu Bá vì việc chọi gà mà có tội với Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu
Công đem binh đánh Quí Bính Tử. Cả ba họ Quí, Mạnh và Thúc hợp lực đánh trả. Lỗ
Chiêu Công thua chạy về nước Tề. Vua Tề cho Lỗ Chiêu Công ở ấp Can Hầu. Khổng Tử
theo qua Tề, ở nhà Cao Chiêu Tử để được yết kiến Tề Cảnh Công. Ở Tề, ông cùng
Thái sư nước Tề bàn về nhạc, say mê nghe nhạc Thiều của vua Thuấn, rồi học ba
tháng mà không biết đến mùi thịt, người nước Tề khen ngợi.
Khi được Tề
Cảnh Công vời hỏi về chính trị, Khổng Tử nói:
- Vua ra vua, tôi
ra tôi, cha ra cha, con ra con (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Có người
dịch là: Vua theo đúng đạo vua, bề tôi theo đúng đạo bề tôi, cha theo đúng đạo
cha, con theo đúng đạo con).
Rất nhiều người
cho rằng đó là câu nói bất hủ, nêu bật được nội dung cốt lõi của thuyết “Chính
danh”, thuyết có tính chất xương sống trong hệ thống lý luận triết học của Nho
gia.
Đối với chúng
ta thì cũng cần phải suy nghĩ lại một chút. Cái quan niệm đạo lý vua hiền, tôi
trung, cha hòa, con hiếu đã hòa vào máu huyết những người Á Đông như chúng ta từ
lâu rồi. Cho nên khi nói “vua cho ra vua” thì chúng ta hiểu ngay “vua phải là
vua hiền”. Chứ thực ra, công tâm mà nói thì câu trên của Khổng Tử là một câu tối
nghĩa, thậm chí có thể cho là “mù tịt”; hệt như “Tồn Tại là Tồn Tại”. Trong xã
hội ai cũng thấy rằng vua có năm bảy kiểu vua, tôi có năm bảy kiểu tôi, cha có
năm bảy kiểu cha, con có năm bảy kiểu con và không phải kiểu nào cũng tốt hoặc
cũng xấu. Ngay một kiểu cũng có thể xấu tốt tùy thời, tùy người nhận định (không
phải vì vậy mà chúng ta phủ nhận tính tuyệt đối của xấu, tốt. Có những nhân vật
được cho là tốt ở mọi thời đại. Tốt ở mọi thời đại chính là cái tốt được đánh
giá bởi đại chúng. Mà được đại chúng đánh giá như vậy thì có nghĩa là lúc sinh
thời, người đó đã sống và hành động phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại
chúng, ai cũng như ai đều được yên ổn làm ăn, đều được hưởng tự do, bình đẳng,
bác ái…)
Nếu “Quân quân,
thần thần, phụ phụ, tử tử” được thốt ra từ miệng vua Kiệt, Trụ thì hậu thế sẽ
chẳng hiểu gì hết, hoặc hiểu theo kiểu như: “quân xử thần tử, thần bất tử bất
trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” chăng?
Khổng Tử là một
nhân cách lớn, ước mơ về một xã hội tươi đẹp của ông cũng chính là ước mơ của đại
chúng. Do đó mà được các thế hệ trí thức đời sau kính trọng và câu nói đó của ông
được ngầm hiểu theo nghĩa đẹp đẽ nhất…Tuy nhiên, vì nhận thức thị phi trên cơ sở những biểu hiện được cho là tốt đẹp trong lịch sử, được rút ra từ những thời đại hưng thịnh rực rỡ (thời Nghiêu Thuấn, thời đầu Nhà Chu), thiếu tự nhiên, nên ông đã không thấy được cái nguồn gốc tự nhiên về quan niệm chính nghĩa, do đó cũng không thể biết được sự chính nghĩa đích thực và tối hậu "nằm" ở đâu trong đương thời mà ông đang sống.
Được một thời
gian, biết Tề Cảnh Công không dùng mình, Khổng Tử lại trở về Lỗ. Bấy giờ, ông đã
bốn mươi hai tuổi.
Vua Lỗ Chiêu
Công chết ở ấp Can Hầu, Lỗ Định Công lên ngôi. Năm thứ năm đời Lỗ Định Công (năm
506 TCN), Quí Bính Tử chết, Hoài Tử nối nghiệp; họ Quí vẫn chuyên quyền, lấn át
vua Lỗ. Oái ăm thay, chính Quí Hoài Tử lại bị một gian thần là Dương Hổ ức hiếp,
khinh thường. Nước Lỗ từ đại phu trở xuống đều lộng quyền, rời khỏi con đường
chính đạo; loạn từ trên xuống dưới.
Từ ngày về nước
Lỗ, Khổng Tử không còn ra làm quan mà ở nhà an định, biên soạn lại Thi, Thư, Lễ,
Nhạc đồng thời tiếp tục thu nhận học trò. Học trò ngày càng đông, có nhiều người
ở xa, nghe tiếng, cũng đến học. Có thể thời kì này nhân sinh quan của ông đã định
hình và tương đối hoàn chỉnh để được coi như một “đạo” (một hệ thống lý thuyết
mang tính triết học?).
Năm 502 TCN,
khi Khổng Tử được bốn mươi chín tuổi, Lỗ Định Công mới ra làm quan cai trị ấp
Trung Đô, kinh đô của Lỗ. Được một năm, cả bốn phương đều noi theo xem là mẫu mực.
Năm sau, ông được cất nhắc lên chức Tư Không (coi việc xây dựng), rồi làm Đại Tư
Khấu (coi về pháp luật).
Năm thứ 14 đời Lỗ
Định Công, Khổng Tử năm mươi sáu tuổi, rời chức Đại Tư Khấu, để giữ chức Á Tướng
(tướng quốc thứ hai, phó tướng quốc). Thấy Khổng Tử có vẻ mừng rỡ, một học trò
nói:
- Tôi nghe thầy
nói: “Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng”.
Khổng Tử nói:
- Câu nói ấy cũng
có đấy. Nhưng chẳng có câu : “Vui vì ở địa vị cao quí mà khiêm tốn đối với mọi
người” hay sao?
(Có thể cho đó
là một câu trả lời biện bác được không?)
Làm quan nước Lỗ
được sáu năm thì thất sủng, Khổng Tử bỏ sang nước Vệ ở tại nhà bà con của học trò
Tử Lộ. Lúc này ông đã năm mươi lăm tuổi. Tại sao ở độ tuổi đã luống ấy, ông không
quay về nghề dạy học trước đây có lẽ hợp lý hơn, mà lại ra đi? Hay ông tin rằng
cái đạo mà ông tâm niệm vẫn có thể giúp ông làm nên danh trạng?
Ở nước Vệ mười
tháng, nước Vệ không dùng, Khổng Tử cùng đám học trò đi về phía đông, định đến
nước Trần. Muốn đến nước Trần thì phải qua đất Khuông. Người Khuông tưởng Khổng
Tử là Dương Hổ (có lần xâm phạm đến họ) bèn giữ thầy trò Khổng Tử lại. Có người
can thiệp, người Khuông biết lầm thả ra. Khổng Tử qua đất Bồ, sau hơn một tháng
lại quay trở lại nước Vệ, ở trọ nhà Cao Bá Ngọc, một người bạn của ông. Được một
tháng, ông qua nước Tào rồi đến nước Tống, sau đó đến nước Trịnh và phiêu dạt
sang nước Trần, ở hơn một năm tại nhà Trịnh Tử, một viên quan giữ thành. Sau đó
Khổng Tử trở lại đất Bồ, bị người Bồ bắt giữ, lại thả ra. Ông về đất Vệ. Vệ
Linh Công không dùng Khổng Tử. Ông lại ra đi, định về phía tây yết kiến Triệu
Giản Tử. Nhưng khi tới bờ sông Hoàng Hà, hay tin Giản Tử đã chết, ông than:
“Dòng sông này đẹp thật. Nhưng số mệnh đã định, không cho ta qua con sông này”
và ông lại quay trở lại Vệ (lần thứ tư), ở nhà Cao Bá Ngọc. Lần này, Vệ Linh Công
cứ hỏi ông về chiến trận, ông đáp:
- Về việc tế tự,
lễ khí thì tôi đã từng được nghe, còn việc quân lữ thì tôi chưa học.
Sáng hôm sau, Khổng
Tử rời Vệ sang Trần. Được một thời gian thì qua Thái. Mấy năm này thầy trò Khổng
Tử rất long đong, lẩn quẩn ở Trần và Thái.
Rồi từ Thái, Khổng
Tử và học trò đến Sở, lại quay lại Vệ. Thời gian này là năm thứ năm đời Lỗ Ai Công,
Khổng Tử đã 63 tuổi.
Khi tới Vệ, Tử
Lộ hỏi Khổng Tử:
- Nếu vua Vệ giữ
thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc gì trước?
Khổng Tử đáp:
- Tất phải chính
danh trước hết chăng?
Tử Lộ nói:
- Vậy ư? Thầy
thật viển vông quá… Sao lại phải là chính danh?
Khổng Tử đáp:
- Do ơi, anh quê
mùa quá! Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì sự việc không
thành, việc không thành thì lễ, nhạc không hưng, lễ nhạc không hưng thì hình phạt
không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết làm sao cho phải. Là người
quân tử, đã làm điều gì thì phải biết tên việc đó, và nhất định làm đựơc việc đó.
Cho nên người quân tử chớ nên cẩu thả trong lời nói của mình.
Sau khoảng 12 năm
long đong, lận đận tìm đất hành đạo mà không thành, năm 484 TCN, Khổng Tử quay
về quê hương nước Lỗ. Lúc này ông đã là một ông già 67 tuổi.
Về già Khổng Tử
mới thích Kinh Dịch, đọc say mê, bìa da ba lần đứt. “Nếu ta còn sống vài năm nữa
thì ta sẽ sáng tỏ về Kinh Dịch”, Khổng Tử đã nói như vậy.
Tâm trạng Khổng
Tử về cuối đời có vẻ buồn (đối với chúng ta thì cả cuộc đời ông là một nỗi buồn
khôn tả!). Có lần ông thở than với Tử Cống (một học trò yêu của mình):
- Không ai hiểu
ta.
Tử Cống nói:
- Sao lại không
hiểu thầy?
Khổng Tử nói:
- Chẳng oán trời,
chẳng trách người. Học điều thấp mà biết được điều cao, hiểu ta chỉ có trời chăng?
Những kẻ không xuống chí, không nhục thân mình là Bá Di, Thúc Tế chăng? Liễu Hạ
Huệ, Thiếu Liên, thối chí và làm nhục thân mình chăng? Ngư Trọng, Di Dật ở ẩn,
lời nói phóng khoáng, thân trong sạch, bỏ làm quan là hợp quyền nghi. Ta khác các
ông ấy: không thể làm được như thế nhưng cũng không phải không thể làm được như
thế.
Có thể coi đó là
sự tự đánh giá ngắn gọn về cuộc đời mình của Khổng Tử. Nó bộc lộ cái mâu thuẫn
sâu thẳm trong ông, đó là sự bất nhất quán giữa đạo và hành.
Khổng Tử nói tiếp:
- Không, Không!
Người quân tử lo rằng mình chết rồi mà cái tên của mình không được nhắc đến. Nếu
đạo của ta không được dùng thì ta biết lấy gì để làm đời sau thấy ta?
Sau đó Khổng Tử
dốc lòng viết kinh Xuân Thu, chép từ thời Lỗ Ẩn Công (722-71?) đến năm thứ 14 đời
Lỗ Ai Công (481 TCN), bao gồm 12 đời vua; lời ngắn gọn nhưng ý rộng; để “Đời
sau biết Khâu này qua sách Xuân Thu, mà cũng bắt tội Khâu này qua sách Xuân
Thu” (lời Khổng Tử).
Năm 479 TCN, một
hôm Tử Cống tới thăm. Khổng Tử chống gậy, dạo bước ở trước cửa. Khổng Tử
nhìn ra, thấy Tử Công, nói:
- Tứ, sao anh tới
trễ vậy?
Ông rơi nước mắt
nói lời cuối cùng với Tử Cống:
- Thiên hạ loạn
từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây!
Bảy ngày sau, ông
mất ở Lỗ, vào tháng tư năm 16 đời Lỗ Ai Công, thọ 72 tuổi.
***
Tiểu sử của Khổng
Tử được ghi chép rõ ràng nhất trong số các hiền triết thuộc Bách gia Chư tử. Tuy vậy cũng còn rất nhiều khoảng mù mờ. Người đời
sau thêm bớt nhiều điều với mục đích đề cao Nho gia cũng có, chê bai Nho gia cũng
có. Do đó để nhận biết được con người Khổng Tử cùng với những tư tưởng đúng thực
của ông là một điều khó khăn.
Không thể đánh
giá chính xác một nhân vật lịch sử một khi chúng ta còn những định kiến chủ
quan (nhưng làm cách nào để không có định kiến được nhỉ?). Để thấy được gần đúng
nhất về Khổng Tử, theo chúng ta nghĩ, ngoài việc tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh xã
hội thời ông sống cũng như hoàn cảnh dòng tộc, gia đình đã sinh ra ông (biết đâu
chừng những tố chất tinh thần của ông chính là kết quả của sự khát vọng chưa đạt
được của ông cha ông. Có những điều hôm qua còn cho là mê tín, tâm linh thì hôm
nay đã là khoa học!), còn phải cố gắng tạm quên mặt “thánh nhân” của ông đi;
coi ông như một con người bình thường như chúng ta, với đầy đủ những yêu, ghét
và dục vọng đời thường.
Không còn bàn cãi
gì nữa, Khổng Tử là một người hiếu học nên có vốn kiến thức hơn người về thi, thư,
lễ, nhạc từ lúc còn rất trẻ. Là hậu duệ của một dòng tộc đã có thời rạng rỡ xưa
kia mà hiện tại mang thân phận nghèo hèn, bị coi thường (câu nói của họ Quý) tạo
nên một tâm lý mặc cảm, tự ái, đồng thời cũng hun đúc một khát vọng mãnh liệt về
công danh mà thực chất là mưu cầu danh lợi. (Mấy ai mà thoát được vòng danh lợi,
vả chăng bản thân việc mưu cầu danh lợi là không xấu xa mà cũng chẳng tốt. Đó là
tự nhiên! Chỉ có cách thức và mức độ mưu cầu danh lợi làm cho nó trở nên phù hợp
hay không phù hợp, chính nghĩa hay phi nghĩa, tốt hay xấu mà thôi!).
Học là để thành
tài, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, ai cũng thế cả, Nhưng học thi, thư, lễ,
nhạc để lập thân thì phải có khát vọng lớn, và muốn công thành danh toại thì chỉ
có ra làm quan, còn cách nào khác đâu?
Là một người
ham hiểu biết, si mê thi, thư, lễ, nhạc (nghe và học nhạc Thiều của vua Thuấn
miệt mài suốt ba tháng trời “không biết đến mùi thịt”, khen là “tận mỹ, tận thiện”)
nên Khổng Tử cũng là người hoài cổ, ngưỡng mộ, tôn sùng những thời hưng vượng đã
mất (thời Nghiêu Thuấn, Chu Công). Có lẽ vì thế mà ông coi chế độ quân chủ là cấu
trúc xã hội phải thế và bất biến, sự thịnh suy của một đất nước chỉ phụ thuộc vào
sự tốt xấu của vua chúa và nền lễ, nhạc của nước đó. Câu nói “Quân quân, thần
thần, phụ phụ, tử tử” là sự bộc lộ tư tưởng ấy của Khổng Tử và là sự khởi phát
ra thuyết chính danh sau này của Nho gia. Khổng Tử không thấy được mối quan hệ
gắn bó, tương hỗ giữa xã hội loài người và giới tự nhiên; sự không thể tách rời
được của hai bộ phận tự nhiên ấy (vì xã hội loài người cũng là một bộ phận của Tự
Nhiên!). Do đó ông cũng không thể tiếp thu được cái cốt lõi tư tưởng duy vật khách
quan hết sức đúng đắn của Lão Tử, dù rất nể phục. Khoảng cuối đời, ông từng nói:
“Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành” (Ta chỉ truyền
thuật mà không sáng tác, tin và thích thời xa xưa; ta trộm ví ta với Lão Bành).
Có người cho rằng Lão Bành là Lão Tử (có thể Lão Tử sống lâu nên Khổng Tử nói
vui là Lão Bành hoặc đời sau muốn đề cao Nho gia mà đổi chữ chăng?).
Khát vọng công
danh và tôn sùng thời tươi đẹp đã mất, đã thầm kín ám ảnh Khổng Tử suốt đời, biểu
hiện ra như một người đa sầu đa cảm và hành động nhiều khi mâu thuẫn với chính
mình, thiếu sáng suốt.
Chẳng hạn như Công
Sơn Phất Nhiễu, chống lại vua Lỗ (Hoài Tử), cho người mời Khổng Tử giúp mình. Ông
định nhận lời; nói với Tử Lộ:
- Nhà Chu, Văn,
Võ nổi lên ở Phong Sào mà làm vua, bây giờ đất Phí tuy nhỏ, nhưng có thể làm được
không?
Tử Lộ xẳng giọng cản:
- Không có nơi
nào để hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với họ Công Sơn?
Khổng Tử đáp:
- Người ta vời
ta, hẳn là có ý dùng ta. Nếu dùng ta thì ta sẽ phục hưng đạo nhà Chu ở phương đông (tức ở Lỗ) (?)
Nói vậy nhưng ông
không đi.
Lần khác, khi được
Lỗ Định Công giao cho chức quyền Tướng Quốc (Á tướng), Khổng Tử tỏ vẻ mừng rỡ.
Một học trò thấy vậy nói:
- Tôi nghe thầy
nói: “Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng.”
Khổng Tử nói:
- Câu nói ấy cũng
có đấy. Nhưng chẳng có câu: “Vui vì ở địa vị cao quý mà khiêm tốn đối với mọi
người” hay sao?
Hoặc khi Bật
Hật chiếm Trung Mâu, phản chủ, phái người mời Khổng Tử giúp mình. Ông cũng định
nhận lời, Tử Lộ ngăn:
- Trước kia tôi
nghe thầy dạy: “Người quân tử không vào đảng với kẻ nào gây điều bất thiện”. Bật
Hật chiếm đất Trung Mâu, làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ?
Khổng Tử đáp:
- Đúng, ta có nói
vậy. Nhưng ta chẳng từng nói rằng cái gì cứng rắn thì mãi cũng không mòn sao?
Ta chẳng từng nói rằng cái gì thực trắng thì nhuộm cũng không đen sao? Ta đâu
phải trái bầu khô người ta treo mà không ăn được ư?
Nói vậy nhưng ông
cũng không đi.
Nếu không có Tử
Lộ, không biết đời Khổng Tử sẽ ra sao?!
Thêm một câu
chuyện nữa. Khổng Tử gọi Tử Lộ đến hỏi:
- Kinh Thi nói:
“Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở đồng bằng”. Đạo
của ta sai chăng? Tại sao ta lại gặp phải cảnh này (thầy trò Khổng Tử bị vây,
tuyệt lương ở giữa cánh đồng thuộc khoảng giữa nước Trần và nước Thái).
Tử Lộ đáp:
- Theo ý tôi có
lẽ vì chúng ta chưa “nhân” chăng, nên người ta chưa tin chúng ta? Có lẽ chúng
ta chưa “trí” chăng nên người ta không theo đạo chúng ta?
Khổng Tử không đồng
ý. Ông hỏi Tử Cống đúng câu hỏi ấy, Tử Cống đáp:
- Đạo của thầy
cao quá cho nên thiên hạ không ai dung nạp được thầy. Thầy nên hạ thấp xuống một
chút.
Khổng Tử cũng
không bằng lòng, còn có ý trách. Ông kêu Nhan Hồi vào và hỏi đúng câu hỏi như
trước. Nhan Hồi thưa:
- Đạo của thầy
cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ thế mà làm. Người ta
không dung nạp được thầy thì có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được
thầy thì thầy mới là bậc quân tử. Đạo không được trau dồi, đó là điều chúng ta
lấy làm xấu hổ. Đạo đã trau dồi rồi mà người ta vẫn không dung nạp, thì đó là điều
xấu hổ của kẻ làm vua. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Về sau
người ta sẽ thấy thầy là bậc quân tử.
Khổng Tử hớn hở
cười:
- Đúng lắm! Hỡi
người con họ Nhan, nếu nhà ngươi giàu có thì ta sẽ là người quản lý của cải cho
nhà ngươi.
Mặt trái của
con người Khổng Tử chỉ có thế. Ngoài ra, ông là một người giàu lòng nhân ái, liêm
trực và uyên bác. Ông có nhiều câu tự nhận xét mình hết mực khiêm tốn, chân thành
như những câu sau đây (trích trong “Luận ngữ”):
“Trầm mặc suy
nghĩ rồi ghi vào lòng, học không chán, dạy người không mỏi, ngoài ra ta có cái
gì khác đâu?”
“Đạo đức không
sửa tiến, học vấn chẳng giảng tập, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi
mà không sửa đổi, đó là những mối lo của ta.”
“Ai dâng lễ để
xin học thì từ một bó nem trở lên, ta chưa từng (chê là ít) mà không dạy.”
“Phú quí mà có
thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người (công việc tầm thường), ta
cũng làm; phú quí mà không thể cầu được, thì ta cứ làm theo sở thích của ta.”
“Ăn gạo xấu, uống
nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất
nghĩa mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi.”
“Cho ta sống thêm
ít năm nữa để học Kinh Dịch thì có thể không lầm lỗi lớn.”
“Ta chẳng phải
trời sanh ra đã biết đạo lý, ta thích văn hóa cổ mà siêng năng tìm học.”
“Bậc thánh nhân,
ta chưa từng được thấy, thấy được bậc quân tử đã là khá rồi. Bậc thiện nhân ta
chưa được thấy; thấy được người tiết tháo không thay đổi là khá rồi: Không có mà
bảo là có, rỗng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư, như vậy khó bảo là tiết tháo
không thay đổi được.”
“Về học thuật,
sách vở thì họa chăng ta cũng bằng người; còn làm người quân tử thì ta chưa được.”
“Làm được bậc
thánh với nhân thì ta đâu dám. Bất quá ta học làm (thánh, nhân) mà không chán,
dạy người mà không mệt, chỉ có thể gọi được như vậy mà thôi.”
Khổng Tử là tấm
gương sáng ngời về tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ, và cách sống nhân văn.
Thuở đầu dạy học có thể chỉ là mưu sinh nhưng về sau trở thành niềm say mê truyền
bá cái hay cái đẹp trong thi, thư, lễ, nhạc; chỉ bảo học trò cái lẽ sống sao
cho cao thượng, nhân ái; thành những người tốt ở đời. Ông được kính phục chính
là vì “học không chán, dạy không mệt”. Sự nghiệp chính trị của ông là một thất
bại vì “đạo” của ông phi thực tế, nhưng sự nghiệp giáo dục của ông là vĩ đại vì
nó đề cao lương tri con người. Trong cuốn “Khổng Tử” Nguyễn Hiến Lê có viết:
“Người Trung Hoa đời sau tôn ông là một ông thánh, vì ông đã tặng cho họ một
triết lý rất nhân bản, đào tạo cho họ biết bao nhiêu thế hệ kẻ sĩ quân tử. Danh
hiệu đó rất xứng đáng.”
Khổng Tử là một
nhà giáo lớn. Nội dung giảng dạy chính yếu của ông là thi, thư, lễ, nhạc, nghĩa
là những giá trị văn hóa truyền thống, thông qua đó mà giáo huấn học trò biết
hiếu học, tu thân, sửa mình, yêu người. Là một người hiếu cổ, hoài cổ, không thấy
được nguồn gốc sâu xa của tồn tại xã hội là tự nhiên, (mà một trong những biểu
hiện chủ yếu của nó là ước nguyện của đại chúng, đẩy thuyền cũng là dân mà làm
lật thuyền cũng là dân), nên đạo của ông mang tính triết lý nửa vời, hình thức, nặng cảm tính, thiếu khoa học,
hầu như là những đúc kết rút ra từ lịch sử (từ kinh nghiệm đầy tính chủ quan) mà chưa thực sự dựa trên cơ sở có tính qui luật
của sự vận động xã hội-nhân sinh.
Từ những suy
nghĩ ấy, chúng ta cho rằng Đạo Nho thuở ban đầu (thời Khổng Tử) chưa phải là một
học thuyết triết học có hệ thống, đúng nghĩa về tự nhiên-xã hội. Chỉ sau này, khi những người của phái Nho gia đã
bổ sung thêm những triết lý về tự nhiên (thể hiện nhiều trong Kinh Dịch), thì mới
có thể tạm coi nó là một học thuyết triết học. Điều lạ lùng đáng nghi ngờ ở đây là:
hai bộ phận triết lý xã hội và triết lý tự nhiên không có mối liên hệ chặt chẽ
, biện chứng nào cả. Những gì được người đời nay cho là đạo Khổng nói về tự nhiên (trong Kinh Dịch) lại hầu
như cũng là những diễn giải đã được xác minh đích thực là của Đạo Lão. Lịch sử xa xưa thật nhiều mịt mù nhưng có những mịt mù chỉ vì hậu thế chưa...sáng tỏ!
Có thể tin được
rằng, Khổng Tử thuở sinh thời, đã “thấy” được quan niệm triết học của Lão Tử; có
thể cũng tin phần nào, nhưng chỉ ở mức hời hợt hình thức, chỉ mới thấy được cái thể hiện bên ngoài mà chưa hiểu được cái
sâu sắc bên trong. Đã có lần Khổng Tử đứng tư lự bên dòng sông, trước câu hỏi lớn:
“Thệ giả như tư
phù, bất xá chứ dạ?” (Trôi chảy mãi thế ư, ngày đêm không ngừng trôi?!)
Hay cũng có lần
ông thốt lên:
“Dư mục vô ngôn…
Thiên hà ngôn tại, tứ thời hành yên, bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tại!” (Ta
muốn không nói… Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ thế vận hành, mà sao vạn vật cứ
thế sinh tồn. Trời có nói gì đâu!). Cái lẽ tự nhiên ấy đã làm ông băn khoăn để rút cuộc ông lại hiểu thuần túy là thiên mệnh huyền bí!?.
Về cuối đời, Khổng
Tử mới chuyên tâm nghiên cứu Kinh Dịch và có lẽ cũng đã phần nào nhận thức được
mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng của sự vật, luật nhân quả:
“Nhà nào tích điều
thiện, sẽ có thừa điều lành, nhà nào tích điều ác, sẽ có thừa điều dở. Tôi giết
vua, con giết cha, không phải nguyên nhân một tối một sớm gây nên. Nguyên nhân
do lai của chúng dần dần ở bên trong vậy. Chỉ vì không sớm biện chứng ra đó thôi.
Cho nên Kinh Dịch nói: “Đi trong sương mà băng giá tới” là nói thuận với lẽ biến
hóa của Vũ Trụ vậy.”
(Dịch
- Quẻ Khôn)
Như vậy, cái nội
dung mà Khổng Tử gọi là “đạo” của ông, thực chất là bài giảng lớn về luân thường,
đạo lý trên cơ sở suy lý, lập luận được rút ra còn "nặng" tính kinh nghiệm từ những xã hội tươi đẹp đã qua mà ông tôn sùng nhằm hướng con người đến một nhân sinh quan cao thượng, độ lượng, biết yêu
thương mình và yêu thương người. Về sau này nó mới được phát triển thêm và được
mọi người coi như một học thuyết triết học, làm đối trọng với trường phái triết
học của Đạo gia, một trường phái (mà chúng ta cho là) “thuần” triết học, xuất hiện trước Nho gia và
Lão Tử là người đi tiên phong.
Tóm lại, nếu chỉ xét trên phương diện giải thích những hiện tượng xã hội nhân sinh thì có thể coi Nho gia và Đạo đức
gia là hai học thuyết tương phản nhau, và các trường phái triết học xuất hiện sau này đều có nguồn gốc xuất phát
từ hai “gia” này, mà nói cho cùng là từ học thuyết của… Quỉ Cốc tiên sinh (chúng
ta không bao giờ thoát được nỗi ám ảnh này!!!)
***
Cũng chính vì nỗi
ám ảnh về Quỉ Cốc tiên sinh nên cứ cố gắng tìm đủ mọi cách, giở đủ “quyền mưu” để
đưa ông lên hàng đầu của Bách gia chư tử; nghĩa là Quỉ Cốc tiên sinh phải đứng
trước cả Lão Tử, người sinh trước, cùng thời với Khổng Tử: thời cuối Xuân Thu, đầu
Chiến Quốc.
Nhưng sự suy đoán
“ẩu tả” ấy đã đưa đến một vô lý đáng cho mọi người cười “hô hố”. Chúng ta biết
Tôn Tẫn giết Bàng Quyên vào khoảng năm 342 TCN, rồi sau đó một thời gian, theo
Quỉ Cốc tiên sinh tu tiên. Thế thì làm sao Quỉ Cốc tiên sinh lại có thể sinh cùng
thời với Lão Tử được trong khi Khổng Tử sinh vào năm 551 TCN và còn nhỏ tuổi hơn
Lão Tử nữa? Cái “thông tin” cho rằng Quỉ Cốc tiên sinh vừa là bạn của Mặc Tử, vừa
du sơn ngoạn thủy với Lão Tử thật đáng ngờ!
Thôi, có lẽ để
ngôi vị người mở đầu Bách gia chư tử cho Lão Tử là hợp lý hơn; vừa đúng với Sử
Ký của Tư Mã Thiên, vừa giữ cho Quỉ Cốc tiên sinh vẫn là thầy của bốn nhân vật
lừng lẫy: Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi.
Vẫn chưa ổn! Nếu
Lão Tử là tiến bối của Khổng Tử thì sao không thấy Mạnh Tử, nhà tư tưởng lớn của
Nho gia, nhắc đến, mà chỉ thấy có Dương Chu, Mặc Tử. Mạnh Tử nói về thời đại trước
ông: “Thiên hạ bàn về học thuật tư tưởng, chẳng theo chủ trương của họ Dương thì
theo chủ trương của họ Mặc”. Mà Mặc Tử, Dương Chu (và kể cả những người theo quan niệm
của Đạo gia đương thời đó) cũng không thấy nhắc đến Lão Tử. Nhưng nếu Dương Chu có một thời ảnh
hưởng sâu rộng như vậy, sao không thấy Trang Tử, người phát triển đạo Lão lên bước
cao hơn, đề cập tới? Hơn nữa sách Đạo Đức Kinh, được cho là trước tác của Lão Tử,
đến thời Trang Tử hoặc sau ít lâu mới xuất hiện và có lối văn thịnh hành của thời
Chiến quốc?
Quả là một tồn nghi không dễ gì giải quyết được
đối với các nhà nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc. Có lẽ các ẩn sĩ của Đạo
gia đã ở ẩn… thành công, đến độ hơn 2500 năm sau, những người tò mò tọc mạch nhất
cũng chẳng biết ất giáp gì về họ, hoặc nếu có biết thì cũng chỉ biết họ chính là
họ mà cũng chưa chắc đã là họ!
Nhưng đối với
chúng ta thì không, vì chúng ta đang ngược xuôi khắp mọi miền ngay trong hiện thực
Xuân Thu - Chiến Quốc (như là những Paparazi thứ thiệt, những nhà báo chuyên săn
lùng chuyện đời tư của các nhân vật có tiếng thời hiện đại!). Chúng ta đã thấy
họ, rõ ràng từng người một, trong chiều sâu của sự… hoang tưởng vô lối!.
Là quan sử nhà
Chu, tiếp thu được những tư tưởng triết học duy vật, khách quan sâu sắc của các bậc tiền
bối (cũng là những sử quan nhà Chu), cùng với những suy ngẫm, chiêm nghiệm của
bản thân, về xã hội đương thời, Lão Đam đã xây dựng được một học thuyết thuần
triết học, giải thích toàn bộ thế giới một cách nhất quán từ Vũ Trụ đến nhân
sinh. Ông cho rằng từ con người đến muôn vật, đến trời đất đều nằm trong một chỉnh
thể thống nhất, đều được vận hành tuân theo một nguyên lý chung nhất, duy nhất
là nguyên lý âm - dương (âm, dương chuyển hóa nhau một cách hồn nhiên, âm thịnh
thì dương suy và ngược lại âm suy thì dương thịnh, cực điểm của dương thì hóa âm,
cực điểm của âm thì hóa dương…). Học thuyết ấy (có thể tạm gọi là thuyết “Hồn
nhiên biến đổi”) tuy còn sơ khai, mộc mạc nhưng nội dung của nó đã trở nên cốt
lõi, chính yếu cho sách “Đạo đức kinh” sau này, và đồng thời là tiền đề cơ bản
hình thành nên trường phái triết học Đạo gia. Trên cơ sở học thuyết ấy mà Lão
Đam cho rằng trong xã hội, con người hành động phù hợp với lẽ tự nhiên, chính là
hành động hợp đạo lý, mới đúng đắn. Mà hành động phù hợp, theo lẽ tự nhiên chính
là “vô vi” (theo chúng ta hiểu thì “vô vi” là một khái niệm có ý nghĩa rất lớn,
rất hay của Lão Tử: tự nhiên làm ra tất cả nhưng “thấy” như chẳng làm gì; từ khái
niệm này mà hình thành nên khái niệm xuất thế, dấy nên cao trào “ẩn sĩ”).
Thấy nhà Chu
suy vi, bạc nhược, mất đi tính chính nghĩa của nó, ông không “tòng Chu” nữa. Trung ương hoàng đế đã không còn chính nghĩa thì
ở đâu còn chính nghĩa nữa trong số các nước chư hầu? Đã bỏ “tòng Chu” thì tòng ai để vẫn giữ được chính nhân? Bước đi duy
nhất hợp lý là rời bỏ thế cuộc, về dân, nghĩa là xuất thế, ẩn danh. Lão Đam đã hành động
như thế và từ đó, biệt vô âm tích...
Trước thời Lão
Đam chắc là đã có hiện tượng từ quan, bỏ việc chính sự trở về ở ẩn nhưng chỉ
mang tính tự phát mà động cơ có khi chỉ là vì chán nản cảnh quan trường, “đấu đá
nội bộ”… Nếu lúc đó đã có khái niệm “xuất thế” thì nghĩa của nó cũng hạn hẹp, bình
thường như khái niệm “về nhà”, “về vườn”… vậy thôi. Chỉ bắt đầu từ Lão Đam, khái
niệm “xuất thế”, “vô vi” mới mang ý nghĩa sâu rộng, như một quan niệm lớn làm xuất hiện cả một trào lưu trong xã hội về phương châm sống của những bậc tài trí trước thời cuộc rối beng,
lẫn lộn thau vàng.
“Xuất thế, vô
vi” và “nhập thế, hữu vi” là hai quan niệm tương phản nhau mà quan niệm “xuất
thế, vô vi” là quan niệm xuất hiện trước, rồi từ đó mà cũng hình thành nên một hiện tượng xã hội (có vẻ)
bất thường. Còn bình thường thì đã là người có học, ai lại không tham gia xã hội,
không tìm kiếm công danh và như thế cũng trực tiếp góp phần cá nhân vào sự vận động của thời cuộc. Một hiện tượng bình
thường, tự nhiên như thế không đủ lý do làm xuất hiện khái niệm “nhập thế, hữu
vi” như là một tương phản của khái niệm lớn “xuất thế, vô vi”.
Một người trước
đó không “nhập thế, hữu vi” thì làm sao mà “xuất thế, vô vi” được? Vì lẽ đó hầu
hết những ẩn sĩ, đều là những người đã từng lăn lộn trong chốn chính trường, thấm
thía thời cuộc, đến một độ tuổi “chín muồi” nào đó mới “xuất thế, vô vi” và như
đã nói, họ thường là những người tài giỏi. Một kẻ chưa có tiếng tăm gì trong
thiên hạ mà “xuất thế, vô vi” làm ẩn sĩ thì thật buồn cười. Kẻ đó hoặc là ngớ
ngẩn, hoặc là cầu danh. Do đó “xuất thế, vô vi” là đi liền với “vô danh”. Làm
cho mình vô danh cũng chính là theo đạo tự nhiên. Vô danh, vô vi nhưng lại hữu
danh và làm tất cả , đó chính là đạo, là lẽ tự nhiên. Lão Đam đi ở ẩn trên tinh
thần đó và những thế hệ ẩn sĩ sau ông cũng vậy. Khổng Tử từng cho rằng mục đích
của ông với các ẩn sĩ không hề khác nhau, chỉ là không cùng con đường mà thôi
(nhưng các nhà Nho sau Khổng Tử lại kiên quyết phản đối tư tưởng ẩn sĩ).
Theo quyển “Quyền
mưu thần bí” (tác giả: Triệu Quốc Hoa – Lưu Kiến Quốc, NXB văn hóa thông tin, năm
1996) thì ẩn sĩ không cứ phải là ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc, không duyên nợ gì
với đời sống xã hội nữa mà ngược lại, họ tuy siêu mà không thoát, xa nhưng không
rời, thường gián tiếp tham dự vào thời cuộc thông qua “người phát ngôn” của mình.
Họ thường khi ẩn, khi hiện cùng với sự hưng suy của xã hội, chơi vơi bất định,
cho nên nhuốm màu thần bí. Ẩn là che lấp. Ẩn rồi lại hiện, bỗng chốc vứt bỏ tính
mạng, đâu còn là ẩn? Ẩn sĩ chân chính thì không mang danh “ẩn sĩ”; vì đã mang danh
“ẩn sĩ” thì chỉ là bán ẩn sĩ, ẩn sĩ nửa vời như Y Doãn, Khương Thượng, Gia Cát
Lượng… Hầu hết ẩn sĩ đều có tu dưỡng đạo đức và học vấn khá cao, có tài kinh
bang tế thế, không làm quan nhưng gián tiếp can dự vào thời cuộc. Họ trở thành
một tầng lớp đặc biệt, đôi khi làm khuynh đảo cả thiên hạ. Họ là những nhân vật
chủ yếu theo Đạo gia. Trong khi Nho gia lấy “cột trụ kiên cường”, “biết không làm
được vẫn làm” làm nguyên tắc xử thế, thì Đạo gia chú trọng dựa theo tình huống
khách quan mà đi lên, đặt nó vào chỗ vô hình. Cho nên nguyên tắc xử thế của ẩn
sĩ Đạo gia là “Dựa theo tình thế”. Từ đó trong lịch sử Trung Quốc, hình thành nên
một hiện tượng thú vị: phàm là thời kỳ dựng nước mở nghiệp hoặc dẹp loạn khôi
phục tình trạng bình thường, những ẩn sĩ Đạo gia nào đó xông ra gánh vác, dũng
cảm đương đầu với hiểm nguy, phụ tá chúa thánh minh mở ra thời kỳ lịch sử mới;
một khi sự nghiệp thành công, thiên hạ thái bình, họ lại đem thành quả của thắng
lợi này cảm khái giao cho Nho gia chú trọng “tu tề trị bình”, còn bản thân cao
chạy xa bay, mất dạng, biệt tích. Cũng vì vậy mà các ẩn sĩ luôn được dư luận quần
chúng đánh giá cao, luôn yêu quí, mến mộ. Thấu hiểu Đạo gia sẽ thấu hiểu hành vi kỳ lạ đó của họ!
Có một câu chuyện
về vấn đề ẩn sĩ thế này: Nghiêm Tử Lăng là bạn tốt thời niên thiếu của Lưu Tú Hán
Quang Vũ Đế. Khi Lưu Tú lên làm vua, không quên chuyện cũ, cho tìm kiếm Nghiêm
Tử Lăng khắp nơi, nhưng họ Nghiêm đi ẩn, không ra. Có người phát hiện trên sông
Tú Xuân ở Triết Giang có một người mặc ngược áo da ngồi câu cá. Hán Vũ Đế được
tin cho rằng đó chính là Nghiêm Tử Lăng; mới rước về kinh thành. Hai người tương
kiến, bạn bè tình sâu nghĩa nặng, nhưng Nghiêm Tử Lăng kiên quyết chối từ, không
chịu làm quan. Đời sau, ở chỗ Nghiêm Tử Lăng ngồi câu cá có dựng lên một miếu thờ
để kỷ niệm vị ẩn sĩ không chạy theo thế tục này. Có người học trò đi thi ngang
qua đấy, đứng trước miếu thờ, lấy làm hổ thẹn, bèn ngẫu hứng đề một bài thơ:
“Ông vì danh lợi
mà đi ở ẩn
Ta
vì danh lợi mà đi thi
Hổ
thẹn gặp tiên sinh
Nửa
đêm qua điếu đài”
Đời Thanh, có
người không nghĩ vậy, làm thơ chê Nghiêm Tử Lăng
“Một lòng với bộ
áo da
Hư
danh còn truyền mãi đến ngày nay
Bấy
giờ nếu bỏ áo đi
Mênh
mang sông nước biết đâu mà tìm”
Ông ta cho rằng
vị ẩn sĩ này vẫn muốn lưu danh; nếu thực sự muốn làm ẩn sĩ, hà tất mặc áo trái
cho người ta để ý.
***
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét