AN CHI GIẢI ĐÁP 2
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hóc búa, hắc búa và hắc xì dầu
21:02 | 28/02/2015
Bạn đọc: Xin ông cho biết nghĩa và từ nguyên của “hóc búa”, “hắc búa” và “hắc xì dầu”? Cảm ơn ông. Nguyễn Đức Phú (Hải Phòng)
Năng lượng Mới số 400
Học giả An Chi: Từ điển tiếng Việt của Vietlex (Trung tâm Từ điển học) do Hoàng Phê chủ biên giảng:
“hắc búa” là “như hóc búa”;
“hóc búa” là “có nhiều yếu tố rắc rối, phức tạp, rất khó trả lời, rất khó giải quyết”.
“hắc xì dầu” là “nghiêm khắc đến mức khắt khe, tỏ ra oai (hàm ý đùa, hài hước)”.
Việt Nam tự điển của Khai trí Tiến đức không có “hắc búa” và giảng khác
từ điển Vietlex, rằng “hóc búa” là “nói người bướng bỉnh”. Thế là hai
quyển này đã khác nhau. Với Khai trí Tiến đức thì “hóc búa” nói về người
còn với Vietlex thì hai tiếng này thiên về các khái niệm trừu tượng nên
đã cho thí dụ: “vấn đề hóc búa - một bài toán hóc búa”. Sự khác nhau
giữ hai cách giảng này chứng tỏ đây là một vấn đề “hóc búa”, xuất phát
từ sự tồn tại khả nghi của hai tiếng “hắc búa”.
Thực ra thì “hóc búa” và “hắc búa” có nghĩa và nguồn gốc hoàn toàn khác
nhau mà theo chúng tôi thì “hóc búa” có trước “hắc búa”. “Hóc búa” vốn
là một lối nói của những người đốn gỗ. Ngày xưa chẳng làm gì có cưa máy
cá nhân thuận tiện và mau lẹ như bây giờ. Cũng chẳng phải hễ ai đi rừng
thì đều “kéo cưa lừa xẻ”. Dụng cụ gọn nhẹ và cơ động nhất lúc bấy giờ
chỉ là cái búa, biết rằng “rìu” là nghĩa xưa của “búa”. Và hóc búa là
một sự cố trong quá trình lao động của những người đốn gỗ. Dù có dày
kinh nghiệm và cẩn thận đến mấy thì cũng có lúc họ - không người này thì
người khác - phải bất lực mà nhìn chiếc búa của mình bị kẹt cứng trong
thân cây đang đẵn dở mà không rút nó ra được hoặc phải khó khăn lắm mới
rút được nó ra. Đó chính là hiện tượng “hóc búa”. Vậy hóc búa là kẹt búa
trong thân cây hoặc súc gỗ mà không rút ra được. Đây là nghĩa gốc đã
cho ra nghĩa phái sinh là rắc rối, nan giải, cũng là nghĩa thông dụng
hiện nay. Còn chính cái nghĩa gốc kia thì đã tuyệt tích giang hồ, nghĩa
là không còn lưu thông trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của dân chúng
nữa nên mới sinh ra cái “giai thoại” đại phi lý là người đi ngủ trọ ăn
cắp búa của chủ nhà trọ mà lại may mắn khỏi bị “hóc búa” (!), nghĩa là
khỏi bị búa kẹt trong cuống họng vì chưa kịp ăn (?) thì đã bị phát giác!
Về vấn đề này, chúng tôi đã phân tích kỹ tại chuyên mục Chuyện Đông
chuyện Tây của Kiến thức Ngày nay số 228 (20-11-1996).
Về từ nguyên của “hóc” thì đây là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ
ghi bằng chữ [曲] mà âm Hán Việt hiện hành là “khúc”, có nghĩa là “cong”,
“quanh co”, như có thể thấy trong cấu trúc đôi “hiểm khúc” [險曲], đã trở
thành một từ tổ có thể hoạt động tự do trong tiếng Việt với dạng ngữ âm
“hiểm hóc”. Về mối quan hệ phụ âm đầu H ↔ KH giữa “hóc” và “khúc”, ta
còn có những dẫn chứng khác: - “han” trong “hỏi han”, “(lơi lả) han
chào” là điệp thức của (lđtc) “khán [看], cũng đọc “khan”, có nghĩa là
đối xử; - “hơi” trong “hơi thở” lđtc “khí” [氣] trong “không khí”; -
“hiếm” trong “hiếm hoi” lđtc “khiếm” [欠], có nghĩa là thiếu, ít; -
“hoác” trong “toang hoác” lđtc “khuếch” [擴] là mở rộng; bản thân
“khuếch” còn là đồng nguyên tự của “khoắc” [彍] là giương cung; - “hỏng”
trong “hư hỏng” lđtc “không” [空], là hết, chẳng có gì; - “hổng” trong
“lỗ hổng” lđtc “khổng” [孔] là… lỗ hổng; - “hởi” trong “hởi lòng hởi dạ”
lđtc “khởi” [起] trong “phấn khởi”; - “hút” trong “mất hút” lđtc “khuất”
[屈] trong “khuất khúc”; - “hút” trong “hút hàng” (vốn là hiếm hàng để
cung cấp cho người mua) lđtc “khuyết” [缺] là thiếu (mà “hụt” trong
“thiếu hụt” cũng lđtc “hút”); - “hủi” trong “hắt hủi” lđtc “khử” [去] là
trừ bỏ. Còn về vần giữa OC ↔ UC thì ta cũng có “chóc” trong “chóc mòng”
lđtc “chúc” trong “chúc vọng” [矚望] là trông đợi; - “mọc” trong “mời mọc”
lđtc “mục” [睦] là kính yêu nhau, hòa hợp với nhau; - làng “Mọc” có tên
chữ là“(Nhân) Mục”; - “nhọc” lđtc “nhục”; - “sóc” trong “chăm sóc” lđtc
“súc” [畜] là nuôi dưỡng; “thóc” trong “thóc lúa” lđtc “túc” [粟] là hạt
lúa.
Vậy “hóc” ↔ “khúc” là chuyện thực sự bình thường. Từ nghĩa gốc là quanh
co, gãy gập, mới phái sinh cái nghĩa “kẹt”, “nghẽn” của chữ “hóc” trong
“hóc xương”, “hóc búa”, ‘hỏng hóc”, “ổ khóa bị hóc”, v.v... Còn “búa”
là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [斧] mà âm Hán Việt
hiện hành là “phủ”, có nghĩa là “rìu”, như có thể thấy trong từ tổ động
từ “phủ chính” [斧正] mà nghĩa đen là “dùng rìu đẽo sửa gỗ cho thẳng”, còn
nghĩa bóng thông dụng là “ sửa chữa (văn chương)”. Mối quan hệ B ↔ PH
thì đã được chúng tôi trình bày một số lần.
Còn “hắc búa” thì lại là một từ tổ do “sự cố” mà ra chứ ban đầu chỉ có
“hắc” mà thôi. Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội 1967) giảng “hắc” là “nghiệt, khắt khe (nghĩa 2)” và “khó
quá” (nghĩa 3). Còn từ điển của Vietlex thì giảng là “tỏ ra nghiêm, đến
mức có thể cứng nhắc trong việc giữ nguyên tắc, làm người dưới quyền
phải nể sợ một cách khó chịu” (nghĩa 1) và “có vẻ oai” (nghĩa 2). Lời
giảng của hai quyển từ điển này giúp cho ta thấy từ “hắc” rất gần nghĩa
với từ “hách”, một từ Hán Việt mà chữ Hán là [赫] và có nghĩa là “giận
dữ”, “khiến người khác phải sợ”, như có thể thấy trong hai tiếng “hách
dịch” quen thuộc. Về thực chất thì “hắc” là một điệp thức của “hách” chứ
không phải là gì khác còn bản thân “hách” thì cũng là một từ độc lập
trong tiếng Việt.
Cứ như trên thì nghĩa gốc của “hóc búa” thuộc về sự việc vật lý, cụ thể
còn nghĩa phái sinh hiện hành của nó thì chỉ liên quan đến những hiện
tượng tinh thần, trừu tượng, như đã thấy ở hai thí dụ của từ điển
Vietlex. Và thực chất thì “hắc” và “hóc” đã trộn lẫn nghĩa với nhau nên
“hắc” vốn chỉ tính khí con người lại có thêm nghĩa “khó quá” (nghĩa 3
trong từ điển Văn Tân) còn “hóc” vốn chỉ sự khó khăn, nan giải lại “nói
người bướng bỉnh” (trong từ điển Khai trí Tiến đức). Nghĩa là ở đây ta
có một sự lây nghĩa nên xuất phát từ cấu trúc “hóc búa”, tiếng Việt mới
có thêm “hắc búa” (là cấu trúc có sau, như đã nói ở trên). Thực ra thì
tuy sự lây nghĩa đã xảy ra nhưng các từ điển gia hoàn toàn có thể “giải
lây” nếu họ chịu phân định cho rạch ròi nghĩa của “hóc búa” và “hắc
búa”.
Còn “hắc xì dầu” chẳng qua nhại âm Quảng Đông của ba tiếng “hắc xì yầu”
[黑豉油] mà âm Hán Việt là “hắc thị du”, có nghĩa là “nước tương đen”.
Trong tiếng Việt, nước tương nhiều khi còn được gọi theo âm Quảng Đông
“xì yầu” thành “xì dầu”. Ở Hongkong, có “Xì yầu cái” [豉油街], đọc theo âm
Hán Việt là “Thị du nhai”, nghĩa là “Phố Nước tương”, dân Hongkong dịch
sang tiếng Anh là “Soy Street”. Ngay trong tiếng Việt, có người còn gọi
xì yầu (dầu) là “tầu xì” [豆豉] vì trong tiếng Quảng Đông thì “tầu xì”
[豆豉] cũng đồng nghĩa với “xì yầu (dầu)” [豉油]. Và “hắc xì yầu” chỉ đơn
giản có nghĩa là xì dầu (nước tương) đen. Xì dầu thì không đen hẳn vì
hơi ngã về màu nâu thật đậm còn hắc xì dầu thì thực sự đen và sánh hơn
xì dầu thường. Vậy “hắc xì yầu [dầu]” chẳng qua vốn chỉ là một thứ nước
chấm không hơn không kém. Nhưng tại sao từ điển Vietlex lại giảng “hắc
xì dầu” là “nghiêm khắc đến mức khắt khe, tỏ ra oai (hàm ý đùa, hài
hước)”. Ấy là vì trong khẩu ngữ của tiếng Việt thì “hắc xì dầu” đã được
pha chế theo một cách chơi chữ đặc thù - và bình dân - trong tiếng Việt
mà chúng tôi cũng đã có nhiều lần nói đến. Đó là sự lợi dụng tính đồng
âm của từ ngữ để tạo ra một lối nói khôi hài, dí dỏm, thường là nhằm phủ
nhận hoặc phê phán tính chất của từ ngữ gốc (đã bị thay thế bằng từ,
ngữ đồng âm) , có khi chỉ là để đùa cợt. Như đã thấy, trong “hắc xì dầu”
thì “hắc” (sẽ ghi là “hắc2”) có nghĩa là “đen” còn “hắc”, điệp thức của
“hách” [赫] (sẽ ghi là “hắc1”) thì có nghĩa là “nghiêm khắc đến khắt
khe” nhưng trong “hắc xì dầu” thì người sử dụng ngôn ngữ đã cố ý thay
“hắc2” bằng “hắc1” để biến tên của một thứ nước chấm thành một quán ngữ
chỉ tính gắt gao của con người. Hệ quả là, ở đây, “hắc1” là một từ tiếm
vị còn “xì dầu” chỉ là hai hình vị ký sinh vô nghĩa mà sự tồn tại không
có tác dụng gì ngoài việc tạo cho quán ngữ “hắc xì dầu” một sắc thái đùa
cợt, châm biếm.
A.C
Đâu là từ nguyên của "Mồ côi"?
08:00 | 15/12/2014
Bạn đọc: Nhân chuyện “bù nhìn // mù nhìn” trên Báo
Năng lượng Mới số 374 và 380, tôi xin nêu thắc mắc của tôi về một trường
hợp được nhắc đến là “mồ côi // bồ côi”. Xin ông An Chi cho biết đâu là
từ nguyên của hai tiếng “mồ côi”? (Tôi cho đây mới là từ chuẩn). Và của
“cút” trong “côi cút”. Xin cảm ơn ông. Nguyễn Tấn Trọng (Hoàn Kiếm, Hà
Nội)
Năng lượng Mới số 382
Học giả An Chi: Cách đây ngoài 60 năm, có một tác giả
đã giảng rằng “mồ côi” là “(trẻ) đã mất mẹ” còn “bồ côi” là “(trẻ) đã
mất cha”. Thực ra thì vào thời điểm đó (giữa thập niên 50 của thế kỷ
trước), người ta cũng phải phân biệt hình thức chuẩn với hình thức không
chuẩn, cũng như tiếng toàn dân với tiếng địa phương. Và hình thức
chuẩn, dùng một cách phổ biến là “mồ côi”. Ngay từ năm 1887, trong Petit dictionnaire français - annamite, Trương-Vĩnh-Ký cũng đã đối dịch “orphelin” là “mồ côi”. Sau đó ít lâu, trong Đại Nam quấc âm tự vị
(Sài Gòn, 1895-1896), Huình-Tịnh Paulus Của cũng chỉ gi nhận “mồ côi”
và cho thí dụ “ Mồ côi cha, níu chân chú; mồ côi mẹ, tríu vú dì”. Trước
đó hơn một thế kỷ, trong Tự vị Annam Latinh (Dictionarium Anamitico Latinum
[1772-1773]), Pierre Pigneaux de Béhaine cũng chỉ ghi nhận “mồ côi”.
Không có “bồ côi”. Lý do: Đây chỉ là một biến thể địa phương, thậm chí
thổ ngữ nữa. Vậy hình thức chuẩn và phổ biến chính và chỉ là “mồ côi”.
Và nếu lời giảng của tác giả kia mà đúng thì ta chỉ có trẻ… mồ côi mẹ mà
thôi. Rất tiếc rằng Việt Nam tự điển của Khai trí Tiến Đức (Hà
Nội, 1932) lại lấy “bồ côi” làm hình thức chính. Thực ra thì ngay từ
giữa thế kỷ XVII, người Đàng Ngoài (nửa phía bắc của Đại Việt) cũng chỉ
nói “mồ côi”. Bằng chứng là Từ điển Việt Bồ La của A.
de Rhodes (Roma, 1651) cũng chỉ ghi nhận “mồ côi” (mà không có “bồ
côi”). “Bồ côi” có lẽ chỉ là một đơn vị từ vựng của thổ ngữ đã được từ
điển Khai trí Tiến đức nâng cấp thành hình thức chính do áp lực và loại
suy từ nhiều đơn vị song tiết mà âm tiết đầu là “bồ”. Đây là một điều
bất hợp lý. Về phương diện chuẩn hóa từ ngữ, đây thực chất là một sự đi
ngược trào lưu. Từ lâu, chính người Hà Nội cũng đã bỏ “bồ côi” mà dùng
“mồ côi”.
“Mồ côi” là một từ tổ bắt nguồn ở hai tiếng Hán ghi bằng hai chữ [無辜],
mà âm Hán Việt thông dụng hiện nay là “vô cô”, nghĩa là “không phạm tội”
(Chữ “cô” [辜] có nghĩa là tội). Ở đây, “mồ” là âm xưa của “vô”, như đã
có bàn đến trong bài “Trở lại với từ nguyên của BÙ NHÌN” (Năng lượng Mới số 374) và bài “Từ nguyên của BÙ NHÌN là chuyện còn dài” (Năng lượng Mới
số 380&381). Còn “cút” trong “côi cút” cũng là một từ Việt gốc Hán,
bắt nguồn ở từ ghi bằng chữ [孑], mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là
“kiết”, có nghĩa là một minh, cô đơn. (Đây không phải chữ “tử” [子] vì
nét thứ ba là nét “hất” chứ không phải nét “ngang”). “Côi cút” cũng là
một cấu trúc đẳng lập, bắt nguồn ở hai từ ghi bằng hai chữ [孤孑], mà âm
Hán Việt hiện đại là “cô kiết”, có nghĩa là cô độc, cô đơn. Thơ Bạch Cư
Dị (bài “Cô phụ khổ”) có câu: “Phụ nhân nhất táng phu - Chung thân thủ
cô kiết” (Đàn bà hễ mất chồng - Đành suốt đời cô quạnh).
Nhưng tại sao xuất phát từ nghĩa gốc là “không phạm tội” mà bây giờ “mồ
côi” (< “vô cô”) lại có nghĩa là “(trẻ) mất cha, hoặc mẹ hoặc cả
hai”? Thì cũng là xuất phát từ hiện tượng đan xen hình thức và lây nghĩa
do từ nguyên dân gian gây ra, mà chúng tôi từng nói đến tại chuyên mục
này, đặc biệt là trong bài “Lại nói về sự đan xen hình thức và sự lây
nghĩa” (Năng lượng mới số 370). Trong tiếng Việt thì, với nghĩa
“tội”, “côi” (< “cô” [辜]) là một từ không thông dụng bằng chính chữ
“tội” nên nó dần dần mờ nghĩa rồi mất nghĩa. Trong khi đó thì “côi”
trong “côi cút” lại là một chữ thường dùng hơn nên từ nguyên dân gian
mới đưa nó vào “mồ côi” mà trám cho chữ “côi” là “tội”. Và ta có một cấu
trúc mới là “mồ [côi] + côi [cút]” và sự đan xen này đã làm cho “mồ
côi” vốn có nghĩa là “không phạm tội” bị “côi” của “côi cút” lây nghĩa.
Chữ “mồ” vốn có nghĩa là “không” cũng dần dần trở thành một từ cổ mà
nghĩa không còn được biết đến và bị thay thế bằng “vô” là âm xuất hiện
sau nó. Thế là, vô hình trung, trong cấu trúc “mồ côi” mới “pha chế”
này, ta có chữ “mồ” vô nghĩa và chữ “côi” là cô đơn. Thành ra, cứ theo
cấu tạo thì từ tổ “mồ côi” mới này chỉ một khái niệm mơ hồ về sự cô đơn,
hiu quạnh trong tâm thức của người sử dụng ngôn ngữ rồi dần dần nó được
đặc dụng để chỉ sự cô đơn của những trẻ mất cha và/hoặc mẹ để được
dùng cho đến tận ngày nay. Tóm lại, nghĩa hiện hành của “mồ côi” chỉ là
nghĩa sự cố.
A.C
Út nam - Út nữ
15:35 | 21/12/2014
Bạn đọc: Chung quanh mấy tiếng “út nam - út nữ”, mới
đây đã có một cuộc thảo luận nhẹ nhàng và thú vị trên Facebook mà chắc
ông An Chi cũng đã biết. Xin ông cho nhận xét về những ý kiến đã được
phát biểu. Xin cảm ơn ông. Nguyễn Công Trực (Cao Lãnh, Đồng Tháp)
Năng lượng Mới số 384
Học giả An Chi: Bạn Quy La đặt vấn đề: “Trong các
thiệp cưới, người ta thường gặp những cách ghi “út nam”, “út nữ”.
“Trưởng nam”, “thứ nữ” thì đúng rồi. Còn “út nam”, “út nữ” nghe kỳ kỳ
làm sao! (…) Dễ hiễu thôi: “Nam” và “nữ” là Hán Việt; còn “út” là tiếng
Việt rặt ròng, làm sao mà ghép chúng thành đôi cho được?!”.
Theo chúng tôi thì trong trường hợp này vấn đề không phải ở chỗ “Hán
Việt” hay “Việt rặt ròng” mà ở chỗ yếu tố được nói đến là từ Hán Việt
độc lập hay hình vị Hán Việt không độc lập. “Tuyết” [雪] là một yếu tố
Hán Việt còn “đầy” là một từ Việt rặt nhưng ta vẫn nói được “đầy tuyết”.
“Sách” [册] là một yếu tố Hán Việt còn “ít” là một từ Việt rặt nhưng ta
vẫn nói được “ít sách”. “Bộ” [部] là một yếu tố Hán Việt còn “trọn” là
Việt rặt (ít nhất cũng là theo quan niệm của đại đa số) nhưng ta vẫn nói
được “trọn bộ”. Sở dĩ có được những sự kết hợp trên đây là vì các yếu
tố Hán Việt “tuyết”, “sách”, “bộ” là những từ độc lập. Cũng vậy, sở dĩ
người ta vẫn nói “út nam”, “út nữ” là vì “nam”, “nữ” là những từ Hán
Việt độc lập. Thí dụ: - Công nhân phân xưởng này chỉ có nữ, không có nam. - Học sinh lớp 8C gồm có 25 nam và 15 nữ. - Dãy nhà nam và dãy nhà nữ
của khu tập thể này cách nhau khá xa. V.v... Vậy “út nam”, “út nữ” là
những cách diễn đạt bình thường. Nhưng trong những văn bản có tính trang
trọng như thiệp cưới mà dùng “út nam”, “út nữ” thì nghe hơi… bình dân.
Vậy ta có thể thay thế bằng cách nào? Bạn Quy La có nhận xét là trong
thiệp cưới có liên quan đến người gốc Hoa thì thấy ghi là “ấu nam”, “ấu
nữ”. Nhưng đây chỉ là những danh ngữ được đặt ra theo tập quán ngôn ngữ
riêng của người Hoa (và người Trung Quốc) chứ riêng chữ “ấu” [幼] thì
lại không có nghĩa là “út”. Bằng chứng là ta không thể tìm thấy nó trong
5 nghĩa của chữ “ấu” mà chính bạn đã nêu: - 1. trẻ em, trẻ con; - 2.
nhỏ tuổi; - 3. non, mới sinh; - 4. nông cạn, chưa thành thục; - 5. yêu
thương, che chở. Vả lại đây chỉ là cách nói cận đại và hiện đại của họ
mà ta cũng chẳng nên theo.
Vậy có nên thay “út nữ” bằng “quý nữ”, chẳng hạn? Nhưng bạn Quy La đã
hoài nghi một cách có lý: “Quý nữ [季女] là con gái út. Có lẽ đây là từ cổ
chăng? Vì thế nên ngày nay chỉ thấy chữ “ấu” [幼] được dùng tràn đầy
trong các thiệp cưới”. Bạn đã có lý. Nghĩa “con gái út” của hai chữ “quý
nữ” quả có được dùng vào thời xưa. Hán ngữ từ điển
(cidian.xpcha.com) đã cho nghĩa 2 của “quý nữ” [季女] là “tiểu nữ nhi”
[小女儿], tức là “con gái út”, như có thể thấy trong lời một bài văn bia do
Hàn Dũ (đời Đường) thảo ra. Với nghĩa này, Tuyến thượng từ điển
(ichacha.net) đã dịch câu “Tha đích tiểu nữ nhi thị tha đích chưởng
thượng minh châu” [他的小女儿是他的掌上明珠] thành “His youngest daughter is the
apple of his eye.” “Youngest daughter” dĩ nhiên là con gái út. Còn nói
chung thì đúng như bạn Quy La đã viết: “Ngày xưa, thứ tự anh em từ lớn
tới nhỏ xếp theo: bá, trọng, thúc, quý [伯,仲,叔,季]. Tuổi nhỏ nhất gọi là quý”.
Bạn Cá Vàng nêu vấn đề: “Hình như “quý nam” [季男] là con trai út và “quý nữ”[季女] là con gái út (?)”.
Nhưng chúng tôi xin lưu ý rằng tiếng Hán lại không dùng “quý nam” theo
nghĩa này còn nghĩa “con gái út” của “quý nữ” thì, như đã nêu, lại là
một cái nghĩa rất xưa, nay không dùng nữa (nên mới thay bằng “ấu nữ”).
Có lẽ do cũng thấy như thế nên chính bạn Cá Vàng mới bổ sung:
“Do “quý nữ” [季女] có nghĩa là con gái út (theo ghi nhận trong vài từ
điển Hán Việt) nên tôi tạm suy ra “quý nam” [季男] là con trai út. Nói là
tạm suy (ở trên tôi viết là “hình như”) vì tôi chẳng tìm được tài liệu
nào giảng nghĩa như vậy.
Nhiều trang mạng tiếng Trung giảng “quý nữ” [季女] là: 1. Thiếu nữ 少女; 2.
Tiểu nữ nhi 小女兒. Theo trang http://baike.baidu.com/view/12090781.htm
thì chữ “quý” [季] trong câu “Thùy kỳ thi chi, hữu Tề quý nữ” 誰其尸之,有齊季女 (Thi Kinh) có nghĩa là “thiếu” 少, “tiểu” 小 (tức “quý nữ” [季女] là “thiếu nữ” 少女, “tiểu nữ” 小女); còn Hán Việt tự điển của Thiều Chửu và Hán Việt Từ Điển Trích Dẫn thì dịch hai chữ “quý nữ” 季女 trong câu thơ trên là “con gái út”.”
Nhưng chúng tôi lại xin lưu ý rằng “thiếu nữ” không đồng nghĩa với
“tiểu nữ”. “Thiếu nữ” [少女] là những cô gái trẻ chưa chồng, thường là
tuổi từ 12-18 còn theo phụ khoa (của Tàu) thì tuổi đó là từ 13-17 (Xin
x. http://www.baike.com/wiki/少女). Còn “tiểu nữ” [小女] thì mới là con gái út (Xin x. http://xh.5156edu.com/html5/74925.html, nghĩa 1).
Tóm lại, “con gái út” chỉ là nghĩa xưa (nay không dùng nữa) của “quý
nữ” [季女] còn riêng chữ “ấu” thì không có nghĩa là “út”. Nhưng nhân
chuyện này, bạn Bùi Quốc Huy có nêu vấn đề: “Không chừng “út” là biến âm
của “ấu”.” Bạn Quy La đã trả lời: “Điều này rất khó có thể xảy ra vì
chưa thấy trường hợp nào tương tự”. Bạn Bùi Quốc Huy nói thêm: “Thì
“thúc” thành “chú”, “cữu” thành “cậu”, “bá” thành “bác” ... vậy mà”.
Còn chúng tôi thì xin nói thêm như sau. Trước nhất, “thúc” [叔] thành
“chú” không phải là một hiện tượng biến âm có quy luật chặt chẽ từ tiếng
Hán đời Đường sang tiếng Việt, như có thể thấy trong rất nhiều trường
hợp khác mà chúng tôi đã từng nêu ra. Chúng tôi cho rằng xuất phát điểm ở
đây là âm tiếng Hán cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV mà Nguyễn Tài Cẩn đã
gợi ý (Xin x. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1979, tr.79, cũng như cả Chương thứ ba).
Còn “cữu” ↔ “cậu” là chuyện bình thường (từ âm Hán đời Đường sang âm
Việt) và ta có nhiều dẫn chứng về mối quan hệ ƯU ↔ ÂU : “ưu” trong “ưu
phiền” ↔ “âu” trong “lo âu”; “Ngưu” trong “Ngưu lang” ↔ “Ngâu” trong “vợ
chồng Ngâu”; “sưu” trong “sưu thuế” ↔ “xâu” [có thể là < “sâu”]
trong “làm xâu”; “tựu” [僦] là thuê mướn ↔ “tậu” trong “tậu nhà”.
Trường hợp thứ ba mà bạn Bùi Quốc Huy đã nêu thì lại không phải là “bá”
[伯] thành “bác”, mà ngược lại. “Bác” có trước “bá”. Đây là một chữ thuộc vận bộ “mạch” [陌] và thiết âm của nó trong Quảng vận là “bác mạch thiết” [博陌切]. Vậy âm Hán Việt đời Đường của nó phải là “bách”. Nhưng nếu “bá” là hàng con cháu thì “bách” cũng chỉ là hàng cha chú chứ “bác” mới là hàng ông bà. Thật vậy, trong mối quan hệ giữa những âm cùng gốc thì -AC xưa hơn (xh) -ACH: “bạc” trong “bạc phếch” xh “bạch” [白] trong “bạch phiến”; “khạc” trong “khạc đờm” xh “khách” [咯] là ho hoặc tiếng khạc; “khác” trong “khác lạ” xh “khách” [客] trong “chủ khách” ( khách = không phải chủ → [người] lạ → [người] khác); “tác” trong “tan tác” xh “tách” [析] (↔ tích) trong “phân tách”; “trác” trong “tổ trác” xh “trách” [責] trong “trách phạt”; v.v.. Vậy thì “bác” là hàng ông bà; “bách” (tiếng Việt không dùng) là hàng cha, chú còn “bá” thì chỉ là hàng con cháu. Nhưng hàng con cháu này do đâu mà ra? Với chúng tôi thì đây là cách đọc theo âm của tiếng Hán cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, tức là âm cuối đời Nguyên đầu đời Minh.
[伯] thành “bác”, mà ngược lại. “Bác” có trước “bá”. Đây là một chữ thuộc vận bộ “mạch” [陌] và thiết âm của nó trong Quảng vận là “bác mạch thiết” [博陌切]. Vậy âm Hán Việt đời Đường của nó phải là “bách”. Nhưng nếu “bá” là hàng con cháu thì “bách” cũng chỉ là hàng cha chú chứ “bác” mới là hàng ông bà. Thật vậy, trong mối quan hệ giữa những âm cùng gốc thì -AC xưa hơn (xh) -ACH: “bạc” trong “bạc phếch” xh “bạch” [白] trong “bạch phiến”; “khạc” trong “khạc đờm” xh “khách” [咯] là ho hoặc tiếng khạc; “khác” trong “khác lạ” xh “khách” [客] trong “chủ khách” ( khách = không phải chủ → [người] lạ → [người] khác); “tác” trong “tan tác” xh “tách” [析] (↔ tích) trong “phân tách”; “trác” trong “tổ trác” xh “trách” [責] trong “trách phạt”; v.v.. Vậy thì “bác” là hàng ông bà; “bách” (tiếng Việt không dùng) là hàng cha, chú còn “bá” thì chỉ là hàng con cháu. Nhưng hàng con cháu này do đâu mà ra? Với chúng tôi thì đây là cách đọc theo âm của tiếng Hán cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, tức là âm cuối đời Nguyên đầu đời Minh.
Riêng chữ “ấu” [幼] thì bản thân nó không có nghĩa là “út”. Đó là điểm
thứ nhất. Thứ hai, “ấu nữ” là một lối nói cận đại và hiện đại chưa bao
giờ đi vào từ vựng của tiếng Việt. Thứ ba, trong lịch sử ngữ âm Hán
Việt, không có mối quan hệ giữa hai vần ÂU và UT. Vì vậy nên bạn Quy La
mới viết: “Điều này rất khó có thể xảy ra vì chưa thấy trường hợp nào
tương tự.” Thực ra thì cái lý do dễ thấy nhất là sự xuất hiện của T
(trong “út”) từ âm cuối U (của “ấu”). Đây là chuyện tuyệt đối không thể
xảy ra. Xin nói thêm rằng hiện nay, trong một số thiệp cưới (dĩ nhiên là
của Tàu), người ta còn dùng chữ “yêu” [幺] thay cho chữ “ấu” [幼] nữa. Và
“yêu nữ” được giảng là “Yêu tại yêu nữ trung vi tiểu; bài hàng tối mạt
đích ý tứ, cố yêu nữ chỉ tiểu nữ nhi”. [幺在幺女中为小、排行最末的意思,故幺女指小女儿], nghĩa
là “ chữ “yêu” trong “yêu nữ” [nghĩa] là nhỏ; hàm ý là đứng cuối [khi]
xếp hàng, do đó “yêu nữ” chỉ con gái út”. (Xin x. http://baike.baidu.com/view/1749051.htm).
Liên quan đến vấn đề này, bạn Trần Mã Thượng băn khoăn:
“Nếu ta muốn bỏ từ ghép Út (“út nam”, “út nữ” - AC) thì lấy từ gì thay
thế; rồi từ Trưởng (nam) và từ Thứ (nữ) có phải bỏ luôn không? (…) Vậy
là người Việt sáng tạo (“út nam”, “út nữ” - AC) để bổ sung thêm từ mà
chữ Hán Việt còn thiếu rồi. Nếu để chữ Ấu thì e bị nhầm lẫn nên xài chữ
Út cho dễ hiểu hơn”.
Ở đây, ta không nên nhân chuyện “út nam - út nữ” mà bỏ đi những cách
nói “trưởng nam”, “trưởng nữ”, “thứ nam”, “thứ nữ”, là những cách diễn
đạt thuận lý, hoàn toàn không có vấn đề gì về mặt ngôn ngữ, đã trở nên
thực sự quen thuộc và thông dụng từ lâu trên thiệp cưới. Khái niệm mà
bạn gọi là “chữ Hán Việt” thực chất là những chữ Hán mà người Việt đọc
theo hoặc âm Hán đời Đường (là chủ yếu) hoặc âm Hán trước đời Đường,
hoặc âm Hán sau đời Đường. Mà chữ Hán thì vẫn có những danh ngữ chỉ con
trai út, con gái út. Gái thì có “quý nữ” và “ấu nữ”. Trai thì có “thiếu
nam” [少男], “tiểu nhi tử” [小兒子], “ấu nam”. Vấn đề là có thể hoặc vì không
biết đến những lối nói này của tiếng Hán, hoặc tuy có biết đến nhưng
lại thấy nó không hợp với cái “lỗ tai” nên người ta không dùng và buộc
phải tạo ra những cách diễn đạt bình dân là “út nam”, “út nữ”. Nhưng đâu
có phải bình dân lúc nào cũng hay ho! Chúng tôi chủ trương thay “út
nam”, “út nữ” bằng “quý nam”, “quý nữ”. “Quý nữ” là một lối nói xuất
hiện muộn nhất cũng là vào thời Kinh Thi; song song với nó là
“quý nam” mà ta “tự tạo” nhưng lại rất cân đối. “Vu quy” [于歸] là hai
tiếng Hán xuất hiện muộn nhất cũng là vào thời Kinh Thi, được
dùng “đều trời” bên nhà gái trong các đám cưới ở nước ta hiện nay. Nếu
ta phản đối “quý nam”, “quý nữ” vì nó là Tàu thì có lẽ ta cũng nên thay
hai tiếng “vu quy” bằng cụm từ “lễ tiễn đưa con gái về nhà chồng” cho nó
có vẻ “ta” chăng?
A.C
Nhận xét
Đăng nhận xét