AN CHI GIẢI ĐÁP 1
(ĐC sưu tầm trên NET)
Cao Tự Thanh phủ nhận lệ kiêng húy
14:08 | 14/03/2015
Bạn đọc: Tôi nghe nói tác giả Cao Tự Thanh phủ nhận lệ
kiêng húy trong lịch sử nước nhà. Tôi nghĩ là trước đây ta có kiêng
chứ. Nhờ ông An Chi cho biết thực hư ra sao? Xin cảm ơn. Nguyễn Hữu Dũng
(Hoàn Kiếm, Hà Nội)
Năng lượng Mới số 404
Học giả An Chi: Mở đầu đầu bài “Hoàng - Huỳnh, Phúc -
Phước, Vũ - Võ … với vấn đề kiêng húy” (trucnhatphi.wordpress.com), tác
giả Cao Tự Thanh đã khẳng định:
“Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm
đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như
Hoàng - Huỳnh, Phúc - Phước, Vũ - Võ… là kết quả của việc kiêng húy các
vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được
nhiều trí thức, trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa
nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước
khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua
chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương - Cang, Cảnh -
Kiểng, Chính - Chánh hay Uy - Oai, Tiến - Tấn, Tùng - Tòng…”.
Với 135 chữ trên đây, Cao Tự Thanh đã phủ nhận một sự thực lịch sử hiển
nhiên từ bao đời nay và là đối tượng nghiên cứu cho công trình song ngữ
Việt - Pháp của Ngô Đức Thọ nhan đề Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại
dày 445 trang, chưa kể các trang phụ lục (NXB Văn hóa, 1997). Ông Thanh
đã cả quyết một cách cực kỳ bất ngờ rằng “cần phải có một sự đính chính
trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của
các vua chúa”. Nhưng không biết Ngô Đức Thọ có cái vinh dự được đọc bài
trên đây của Cao Tự Thanh (1993) hay chưa mà sau đó 4 năm thì, trong
công trình đã nêu, tác giả này đã ghi nhận cho ta 531 trường hợp kiêng
húy qua các triều đại sau khi đã sưu tầm và phân tích các lệnh kiêng húy
của nhiều đời vua trong lịch sử nước nhà tại “Phụ lục 4” của quyển
sách. Cứ theo phụ lục này thì ông Thanh đã sai ngay từ đầu với ba cặp
“Hoàng - Huỳnh, Phúc - Phước, Vũ - Võ”. Ông Thanh đã thực sự chí lý khi
viết:
“Đã gọi là “quốc húy” thì phải có thông báo bằng văn bản cụ thể theo
đúng thủ tục hành chính và có hiệu lực pháp lý hẳn hoi cho dân biết dân
làm, không phải chuyện bí mật quốc gia hay hoạt động bí mật để thông báo
nội bộ hay rỉ tai nhau trong giới quan lại mà kiêng húy”.
Về ý kiến này thì Cao Tự Thanh đã chí lý! Thì đây, liên quan đến chữ
“hoàng” của ông, trang 132 trong công trình của Ngô Đức Thọ đã ghi rõ:
“Lệnh kiêng húy lần thứ 2: Tháng 7 năm Minh Mệnh thứ 6 [1825] (…) Kiêng
âm, không được dùng để đặt tên người, 11 chữ: Kim 淦, Hoàng 潢, Nguyên 源,
Lan 瀾 (…)”.
Hiển nhiên là lệnh mà Ngô Đức Thọ ghi nhận đã đáp ứng yêu cầu nghiêm
cẩn mà Cao Tự Thanh đã nêu. Nhưng liền tiếp theo ngay ý kiến trên đây
của mình thì ông Thanh lại thách thức:
“Và riêng dân Nam Bộ thì đến năm 1861 có nhận được chỉ dụ cuối cùng của
Tự Đức phổ biến về 47 chữ “quốc húy” (1862-1867 Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm
làm thuộc địa rồi), trong đó có 20 chữ đã được Minh Mạng thông báo
trong chỉ dụ kiêng húy vào loại đầu tiên của triều Nguyễn năm 1825. Ai
muốn biết rõ về 47 chữ ấy xin cứ tìm bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử
quán triều Nguyễn mà đọc, xem có những Hoàng (vàng), Phúc, Vũ, Cảnh,
Cương, Chính… và hàng trăm chữ khác mà các nhà Kiêng Húy học trước nay
vẫn gán bừa cho tổ tiên ta không”.
Xin thưa với ông Thanh rằng, chữ “hoàng” [黄] là (màu) vàng đâu có mắc
mớ gì đến tên húy của Chúa Tiên là chữ “hoàng” [潢] bộ “thủy” mà ông đòi
cho nó có mặt trong chỉ dụ của Tự Đức về 47 chữ quốc húy. Ở đây, người
ta kiêng là kiêng âm mà ông. Đây, xin mời ông đọc:
“Lệnh kiêng húy lần thứ tư: Tháng 12 năm Tự Đức thứ 14 (1861).
Xuống dụ ban bố lệnh cấm đặt tên người đồng âm với chữ húy của bản triều.
Sở dĩ có lệnh kiêng húy này là do một lần vua xem tờ tâu của bộ binh,
trong đó có một người là Lê Tiến Hoàng 黎進黄 (đây chánh cống là chữ
“hoàng” = vàng - AC) trùng âm húy của Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế (là chữ
“hoàng” [潢] - AC), vua bèn bắt đổi tên là Lê Tiến Bình 黎進平. Nhân đó, vua
truyền cho các cơ quan ở Quốc tử giám cùng với người của Nội các và bộ
Lễ sai lục tất cả các chữ húy đã chép trong sách Hoàng triều ngọc điệp, kể thêm cả tên húy của hoàng hậu, ban bố cho trong ngoài đều biết” (Ngô Đức Thọ, sđd, tr.156).
Vấn đề rất rõ ràng nên dĩ nhiên là ông Thanh chỉ có thể tiếp tục khẳng
định ý kiến của mình nếu ông có đủ phép mầu để xóa bỏ các lệnh kiêng húy
hữu quan của triều Nguyễn mà Ngô Đức Thọ đã có công sưu tầm và ghi
nhận. Nhưng có lẽ điều làm cho ông phải sửng sốt là chuyện chính chữ
“Hoàng” [潢], tên cúng cơm của Chúa Tiên, cũng đọc là “huỳnh”, dĩ nhiên
là do kiêng âm, hoàn toàn đúng với quy định của lệnh kiêng húy đã thấy ở
trên. Thì đây, cứ mở Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel (Saigon, 1898), trang 323, cột 1, ta sẽ thấy mục sau:
“潢 Huình. (Bàu), Étang. Ngân huình, Voie lactée”.
Với mục từ này, ta biết được rằng “huỳnh” là “bàu” (trong “bàu sen”),
mà Génibrel đối dịch là “étang” và ta còn có thêm “Ngân huỳnh”, có nghĩa
là “Ngân hà” (Voie lactée). Đây hiển nhiên đích thị là chữ [潢] dùng để
ghi tên của Nguyễn Hoàng. Dù ông Thanh có vùng vẫy quyết liệt đến cỡ nào
thì ông cũng dứt khoát không thể nào tự cởi trói được khỏi những sự
thật mà chúng tôi đã nêu. Đến như những chữ “Cảnh”, “Cương”, “Chính” mà
ông cũng đòi cho chúng phải có mặt trong lệnh kiêng húy của Tự Đức thì
đây là một điều cực kỳ phi lý và lố bịch vì chúng đâu có phải là những
chữ húy của nhà Nguyễn. Nhưng về lý thì không phải húy của nhà Nguyễn
lại không có nghĩa là không phải húy của nhà khác. Huống chi, đâu phải
chỉ có sự kiêng húy mới tạo ra “các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn
không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp”.
Trong bài đại luận của mình ông Cao Tự Thanh còn sai ở những điểm khác nữa. Ông viết:
“Nếu thống kê chi tiết toàn bộ những An - Yên, Bách - Bá, Càn - Kiền,
Chân - Chơn, Dũng - Dõng, Đương - Đang, Giới - Giái, Hợp - Hiệp, Khỉ -
Khởi, Lã - Lữ, Mệnh - Mạng, Nhật - Nhựt, Trường - Tràng, Thịnh - Thạnh,
Súy - Soái, Vũ - Võ… thì con số các từ Việt Hán bị đọc chệch âm nói trên
sẽ vượt xa tất cả đồng thời chẳng có gì ăn khớp với những cái tên vua
chúa Việt Nam”.
Thật ra, những “cặp đôi” trên đây là do ông Thanh cao hứng hạ bút liệt
kê trong cơn phấn khích chứ chẳng có tác giả chín chắn nào lại ngớ ngẩn
mà khẳng định rằng, tất cả các cặp đó đều chỉ do có một tục kiêng húy mà
ra. Nhưng liền sau đó, ông Thanh còn viết tiếp trong ngoặc đơn:
“Chẳng hạn gần đây có người cho rằng vì kiêng húy các chúa Trịnh Tùng,
Trịnh Cương nên dân Việt ở miền Bắc đọc Tùng, Cương ra Tòng, Cang như
tam tòng, tam cang, song người ta không hiểu vì sao hai ông chúa ấy lại
cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là Kiểm không có chút
gì là kiêng húy…”.
Ông Thanh đã mặc nhiên nghe theo ý kiến của người đó chứ thực ra thì
chính người miền Bắc mới nói “cương”, nói “tùng”, như có thể thấy trong Việt Nam tự điển
của Khai trí Tiến đức là một quyển từ điển lấy phương ngữ miền Bắc làm
nền tảng. Trong Nam mới nói “tòng”, nói “cang”. Trong Nam mà nói “Võ
Tòng đả hổ” thì nhiều người biết chứ nói “Vũ Tùng đả hổ” thì người ta sẽ
lõ con mắt mà ngó. Trong Nam chỉ nói “gia cang”, không nói “gia cương”;
thậm chí “dây cương” trước đây người ta cũng nói thành “ dây cang”,
v.v... Dĩ nhiên là riêng tại đoạn này ta chỉ xác định miền nào nói
“tùng”, “cương”, miền nào nói “tòng”, “cang”, chứ không đề cập đến
chuyện kiêng húy. Cũng xin nói thêm rằng, húy của Trịnh Cương thì lại
viết với bộ “mộc” [木] thành [棡], là một chữ không thông dụng bằng hai
chữ [剛], [綱].
Còn về chuyện “cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là
Kiểm” thì xin mời ông Thanh đọc Chương IV (Chữ húy đời Lê trung hưng -
Tây Sơn) trong công trình của Ngô Đức Thọ (tr.78-112) để có thể biết
được rằng, thời đó vẫn có kiêng húy tuy không chặt chẽ bằng những thời
khác. Tại trang 91, ta có thể thấy tên các chúa Trịnh: Kiểm, Tùng, Căn,
Doanh, Sâm cũng được viết kiêng húy ít nhất là trong một tài liệu (so
với nhiều tài liệu không kiêng húy khác).
Cũng trong bài đại luận của mình, ở một phần dưới nữa, Cao Tự Thanh khẳng định:
“Vào khoảng cuối Minh đầu Thanh, ngôn ngữ Trung Quốc đã bắt đầu mất phụ
âm đầu D khiến Dân (nhân dân), Diểu (xa) chuyển thành Mín, Miểu (…)”.
Chúng tôi đã chỉ ra và phân tích cái sai căn bản này của ông Thanh trong bài “Em [M] không đến từ Dê [D]” trên Năng lượng Mới
số 395 (30/1/2015). Cũng liên quan đến chuyện kiêng húy, trong bài
“Nghĩ về phương ngữ Nam Bộ” (trucnhatphi.wordpress.com), Cao Tự Thanh
viết:
“Ngoài ra, việc tiếp nhận mảng từ vựng gốc Hoa theo lối đọc Minh âm,
Thanh âm trên địa bàn phía nam đèo Hải Vân từ thế kỷ XVII còn dẫn tới
cách đọc Việt Hán khác với Đường âm, ví dụ võ (vũ), huỳnh (hoàng), soái
(súy), trúc (trước) [lẽ ra phải là “trước (trúc)” - AC], cách đọc trong
một thời gian dài đã bị ngộ nhận là do kiêng húy các vua chúa”.
Không biết ông Thanh căn cứ vào đâu - hay chỉ phát ngôn không hóa đơn? -
mà nói rằng “soái (súy), trước (trúc) là cách đọc trong một thời gian
dài đã bị ngộ nhận là do kiêng húy các vua chúa”. Chúng tôi không thấy
ai nói như thế cả, có lẽ do đọc ít chăng. Vậy xin nhờ ông Thanh chỉ ra
cho biết. Còn việc ông khẳng định rằng, “võ (vũ), huỳnh (hoàng), soái
(súy), trước (trúc)” là do việc tiếp nhận mảng từ vựng gốc Hoa theo lối
đọc Minh âm, Thanh âm” thì chỉ là chuyện hoàn toàn vô căn cứ.
Trong bài “Cao Tự thanh, dịch giả tự cao” (An ninh thế giới
giữa & cuối tháng, 17/2/2011), tác giả Phạm Phú Lữ đã ghi lại lời
hay ý đẹp của Cao Tự Thanh: “Tôi chỉ nói cái gì tôi biết, nhưng có vài
người cứ lên mặt nói những cái họ không biết”. An Chi xin tặng ông 34
chữ: “Có người không biết mà cứ tự cho là mình biết. Tốt nhất, để cho
đúng đạo lý, ta nên theo phương châm: Biết thì thưa thốt; không biết thì
dựa cột mà nghe”.
A.C» Học giả An Chi giải đáp » Bản in E-mail
Mèo mả gà đồng
15:01 | 09/03/2015
Bạn đọc: Xin được hỏi ông An Chi câu “Mèo mả, gà đồng”
có ý nghĩa gì? Tôi đã tìm thông tin nhưng không thấy đâu giải thích.
Rất mong ông giải thích để tôi được hiểu thấu đáo. Xin chân thành cảm
ơn! Nguyễn Thành Tâm
Năng lượng Mới số 402
Học giả An Chi: Trước nhất, xin nói về danh ngữ “mèo
mả”. Tại bài “Chuyện mèo, chuyện chó” (mục “Từ chữ đến nghĩa”) trên
Đương Thời số 26-27 (1/2011), chúng tôi đã viết về một khái niệm hữu
quan như sau:
“Mèo đàng là “mèo đường”. Đây là một danh ngữ tương ứng với street cat
trong tiếng Anh, chat des rues trong tiếng Pháp và nhai miêu 街貓 trong
tiếng Hán. Mèo đàng là mèo vô chủ hoặc tuy có chủ nhưng đã bỏ nhà chủ mà
đi lang thang ngoài đường để kiếm cái ăn. Ta có câu ca dao:
Mèo đàng lại gặp chó hoang;
Anh đi ăn trộm gặp nàng xoi khoai.
Tiếng Việt còn có một danh ngữ đồng nghĩa với “mèo đàng” là “mèo mả”
trong câu “mèo mả, gà đồng”. Mèo mả là mèo hoang, sống ở bãi tha ma. Thì
cũng “đồng hạng” với “mèo đàng” là “mèo vô chủ hoặc tuy có chủ nhưng đã
bỏ nhà chủ mà đi lang thang ngoài đường để kiếm cái ăn”. Cách hiểu về
hai tiếng “mèo mả” dù sau cũng thống nhất giữa các nhà chú giải. Nhưng
“gà đồng” thì có phần rắc rối hơn. Trên Kiến thức Ngày nay số Xuân Quý
Dậu, 1993 (bài “Con gà trong ngôn ngữ dân gian”, tr. 24-27), với bút
hiệu Huệ Thiên, chúng tôi đã viết:
“Là một vật nuôi, con gà dù có đi kiếm ăn khắp bờ kia bụi nọ, lúc sắp
tối cũng trở về chuồng mà ngủ: Chó quen nhà, gà quen chuồng. Nếp sống
này làm phát sinh ở chúng một sự ỷ thế: Chó cậy gần nhà, gà cậy gần
chuồng. Nhưng cá biệt vẫn có những con gà xé rào. Không biết do nguyên
nhân tâm linh hay sinh lý nào mà nó lại bỏ nhà chủ ra đi để trở thành gà
hoang sống ở ngoài gò, ngoài đồng. Bởi thế mới có câu mèo mả, gà đồng
(xin đừng nhầm với gà đồng là con ếch, cùng một kiểu nói với hươu thềm
là con chó, v.v…)”.
Tuy chúng tôi đã nói rõ sự khác nhau giữa khái niệm “gà đồng” đang xét
với “gà đồng” là ếch nhưng có một độc giả vẫn gửi thư đến để phản đối
cách hiểu của chúng tôi. Vị này nói rằng năm ông ấy học trung học trước
giải phóng, thầy dạy Quốc văn có giải thích thành ngữ mèo mả, gà đồng
như sau: “Nghĩa đen: Đến mùa động dục, họ hàng nhà mèo tìm nơi thanh
vắng để làm tình, chẳng hạn như nơi gò mả hoang vắng. Còn họ nhà ếch (gà
đồng) bắt từng cặp với nhau ngoài đồng ruộng khi những cơn mưa đầu mùa
trút xuống. Nghĩa bóng: Ở đây chỉ bọn thanh niên lêu lổng có tình cảm
lăng nhăng bậy bạ”. Và vị độc giả này kết luận: “Vậy gà đồng trong thành
ngữ nói trên là ếch chứ không phải “gà hoang” như Huệ Thiên đã nói”.
Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (chủ biên) và Lê Ngọc Trụ (hiệu đính)
cũng giảng như thầy giáo của độc giả đó. Nhưng soạn giả của quyển từ
điển này và vị thầy giáo nọ đã nhầm một cách căn bản mặc dù cách hiểu
chính xác đã được ghi nhận trong hầu hết những quyển sách hoặc từ điển.
Đào Văn Tập giảng rằng mèo mả, gà đồng đồng nghĩa với mèo đàng, chó
điếm, dùng để chỉ “những kẻ điếm đàng, du thủ du thực” (Từ điển Việt Nam
phổ thông, Nhà sách Vĩnh - Bảo, Sài Gòn, 1951). Đây cũng là cách giảng
của Đào Duy Anh: “Mèo ở mả, gà ở đồng, không ở nhà, chỉ những hạng người
không có căn cứ, vô lại, ví như những kẻ trốn chúa lộn chồng” (Từ điển
Truyện Kiều, NXB Khoa học Xã hội, 1954, tr.245). Nguyễn Thạch Giang cũng
giảng: “Mèo hoang sống kiếm cái ăn nơi nghĩa địa, gà hoang sống ở đồng
nội, ví như hạng người vô lại, không có sở cứ nhất định” (Truyện Kiều,
khảo đính và chú thích, Hà Nội, 1972, tr.438, câu 1731). Còn sau đây là
lời của Nguyễn Quảng Tuân: “Giảng “gà đồng” là con ếch thì chẳng có
nghĩa gì. Mèo mả gà đồng ở đây được đặt đối nhau: Mèo ở mả, gà ở đồng.
Mèo ở mả là mèo hoang, sống ở tha ma. Gà ở đồng là gà hoang, sống ở đồng
nội. Người ta ví hạng vô lại, không có chỗ ở nhất định với loại mèo
hoang sống lang thang ngoài nghĩa địa và với loài gà hoang sống lang
thang ở ngoài đồng nội. Gà đồng đâu có phải chữ nói lóng mà giảng là con
ếch!” (Chữ nghĩa Truyện Kiều, Hà Nội, 1990, tr.58).
Trên đây là cách hiểu của các nhà từ điển và nhà chú giải. Bây giờ, nếu
đặt thành ngữ đang xét vào câu Kiều thứ 1.731 và ngôn cảnh cụ thể của
đoạn Kiều 1.725-1.736 là lời mắng mỏ của Hoạn Bà thì ta sẽ thấy nó chẳng
có liên quan gì đến chuyện “trên Bộc trong dâu”, nghĩa là đến chuyện
“bắt cặp”, “làm tình”giữa nam và nữ cả. Mụ ta chỉ mắng Kiều là hạng đàn
bà con gái bỏ nhà đi hoang mà thôi. Sau khi “điều tra lý lịch” của Kiều,
Hoạn Bà chỉ hạ cho nàng sáu chữ, ba tính cách: Bơ thờ, trốn chúa, lộn
chồng. Ta hãy xét xem đây là ba tính cách như thế nào. Bơ thờ là lơ là,
không quan tâm đến, không thiết gì đến công việc. Trốn chúa (chúa (từ
cũ) = chủ) là bỏ nhà chủ mà trốn đi. Còn lộn chồng là bỏ chồng mà đi lấy
gã đàn ông khác. Mụ ta nêu lên ba tính cách đó để chứng minh cho kết
luận của mình về Kiều rằng “con này chẳng phải thiện nhân”. Thiện nhân
là gì? Là người lương thiện, nói nôm na, là người đàng hoàng. Tiếng là
“nôm na” nhưng đàng hoàng lại bao quát nhiều tính cách tốt đẹp: Không
dâm đãng, không ăn chơi, không trộm cướp, không du thủ du thực, không
lừa đảo, v.v… Đâu có phải chỉ là… không dâm đãng để từ đó suy ra mà
giảng gà đồng thành chuyện “ếch bắt cặp”, “làm tình” giữa nam và nữ. Nếu
không tự đặt mình vào sự ràng buộc chặt chẽ của từ ngữ, văn cảnh và cốt
truyện mà cứ “bung” cách hiểu của mình ra theo hứng thú chủ quan thì
không khéo có người sẽ giảng rằng mẹ của Hoạn Thư còn “làm tình” giữa
ban ngày ban mặt ngay trên giường thất bảo nữa ấy chứ. Thì đây:
Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà mà lại
Bất tình nổi trận mây mưa.
Mây mưa là gì? Sau đây là lời giảng của Đào Duy Anh: “Bài tựa” Cao -
đường phú của Tống Ngọc nói rằng tiên vương nước Sở nằm mộng thấy
thần-nữ ở núi Vu - giáp (sic), thần - nữ nói: “Thiếp thường làm mây buổi
sáng, mưa buổi chiều. Người sau nhân đó dùng từ “vân vũ” tức mây mưa để
chỉ sự nam nữ giao hợp”. Nhưng, may quá, Đào Duy Anh còn đưa ra nghĩa
thứ hai cho hai tiếng mây mưa là “chỉ cơn giận dữ” (Sđd, tr.243).
Trở lại với danh ngữ gà đồng, chúng tôi xin đưa ra luận cứ cuối cùng để
bác bỏ cái nghĩa “ếch” mà khẳng định nghĩa “gà hoang” của nó. Ta nên
nhớ rằng “mèo mả - gà đồng” là hai danh ngữ nằm trong thế tiểu đối ở câu
Kiều thứ 1.731. Chỉ có hiểu “gà đồng” ở đây là “gà hoang” thì cái sự
tiểu đối của Nguyễn Du mới đạt được mức độ viên mãn mà thôi. Tại sao?
Hoàn toàn đơn giản là vì trong “mèo mả” thì “mèo” là mèo nên trong “gà
đồng” thì “gà” cũng phải là gà chứ không thể là “ếch” một cách tréo ngoe
được. Trong một thế đối thật sự chặt chẽ thì chữ đối lại ở vế sau phải
theo sát mọi đặc điểm của chữ được đối ở câu trước chứ dứt khoát không
thể thoát ly quỹ đạo ngữ pháp và ngữ nghĩa của nó được. Cứ tùy hứng mà
hiểu rằng “gà đồng” ở đây thuộc họ ếch nhái thì vô hình trung người ta
đã biến Nguyễn Du thành một anh thợ xài chữ tùy tiện, vụng về. Không,
“gà đồng” ở đây vẫn là một loài động vật thuộc bộ gà của lớp chim.
A.C
Nhận xét
Đăng nhận xét