DẠY VÀ HỌC. Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, bậc hào kiệt lỗi lạc, nhà chính trị kiệt xuất và danh nhân văn hóa. Dưới đây là 5 bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi và một bài bình ” Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục. Giáo sư Phan Huy Lê nhận xét trong bài “Nguyễn Trãi – 560 năm sau vụ án Lệ Chi Viên”: “Cho
đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với Nguyễn
Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những con
người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột ngột
của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án kết
liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa, liên
luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị chính
sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ chứng
cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với thời
gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử học, nhà
văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá…, lịch sử càng ngày càng làm sáng rõ
và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, về
những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông trong lịch sử
cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc”.
Trong tất cả những tư liệu lịch sử để lại thì tư liệu sáng giá nhất, rõ
rệt nhất, sâu sắc nhất để minh oan cho Người lại chính là Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi, “Họa phúc có nguồn đâu bổng chốc, Anh hùng để hận mãi nghìn năm” “Số khó lọt vành âu bởi mệnh.Văn chưa tàn lụi cũng do trời “.
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc
nay là huyện Thường Tín, Hà Nội. Ông sinh năm 1380, mất năm 1442, cha là
Nguyễn Phi Khanh, nguyên quán làng Chi Ngại , huyện Phương Sơn (Chí
Linh, Hải Dương) mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 1400, lúc 20 tuổi, cha
con đều từng làm quan dưới triều Hồ. Sau khi Việt Nam bị rơi vào sự cai
trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê
Lợi lãnh đạo. Ông trở thành mưu sĩ bày tính mưu kế về mọi mặt chính
trị, quân sự, ngoại giao của nghĩa quân Lam Sơn. Ông là quân sư kiệt
xuất, trù hoạch mưu kế, viết thư thảo hịch. Ông là khai quốc công thần
của nhà Hậu Lê, được ban quốc tính. Năm 1433 ông đã viết văn bia Vĩnh Lăng
nổi tiếng khi Lê Lợi mất. Tuy nhiên, năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn
Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh
Tông xuống chiếu giải oan cho ông: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo” (Lòng Ức Trai sáng như sao Khuê). Ở thế kỉ 20, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá: “Nguyễn
Trãi, người anh hùng của dân tộc, văn võ song toàn; văn là chính trị:
chính trị cứu nước, cứu dân, nội trị ngoại giao” mở nền thái bình muôn
thủa, rửa nỗi thẹn nghìn thu”; võ là quân sự : chiến lược và chiến
thuật, “yếu đánh mạnh, ít địch nhiều … thắng hung tàn bằng đại nghĩa”;
văn và võ đều là võ khí, mạnh như vũ bão, sắc như gươm đao… Thật là một
con người vĩ đại về nhiều mặt trong lịch sử nước ta. (Nguồn: Nguyễn Trãi – Wikipedia tiếng Việt).
Những cống hiến của Nguyễn Trãi về chính trị, quân sự, ngoại giao, tư
tưởng, văn chương, địa chí, văn hóa là đặc biệt to lớn. Tiếc rằng di
sản văn học của ông hầu hết đã bị triều đình ra lệnh tiêu hủy, nay chỉ
một phần nhỏ thơ văn còn sót lại trong toàn bộ trước tác đồ sộ của ông.
Một số tác phẩm của Nguyễn Trãi còn lại như Bình Ngô đại cáo thiên cổ hùng văn viết năm 1428 lưu tryuền muôn đời và Quân trung từ mệnh tập gồm những thông điệp gửi cho bọn tướng giặc Minh là mẫu mực của văn chính luận sắc bén. Dư địa chí là
nguồn thông tin cương vực lãnh thổ quốc gia đặc biệt giá trị (trong
Tổng tập Dư Địa Chí Việt Nam 4 quyển, quyển 1 trang 537-680 Viện Đại học
Huế, Nhà Xuất bản Thanh Niên), Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục . Nhiều tác phẩm đã bị thất lạc như Ngọc đường di cảo, Thạch khánh đồ, Luật thư, Giao tự đại lễ , v.v…
Tôi chọn chép lại dưới đây năm bài thơ thần của Nguyễn Trãi “Yên Tử” , “Ngôn chí”, “Quan hải”, “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm” và “Oan thán” để góp phần tìm hiểu Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãi. Cháu Hoàng Lê hỏi: Ông
ơi, ông có thể cho cháu ý kiến về định hướng tìm hiểu bài thơ “Hải khẩu
dạ bạc hữu cảm” của Nguyễn Trãi được không ạ. Cháu có tìm hiểu nhưng có
thể phần chìm của tác phẩm cháu chưa hiểu hết được. Cháu cảm ơn ông ạ !
Tôi nhắn với cháu là: “1) Hãy tìm hiểu kỹ cuộc đời và thơ văn
Nguyễn Trãi, gắn thơ và đời, 2) Hiểu rõ hoàn cảnh ra đời tác phẩm và tư
tưởng, cốt cách, minh triết xử thế của Nguyễn Trãi; 3) Đối chiếu so sánh
nguyên tác với dịch nghĩa, và các bản dịch thơ, đặc biệt lưu ý các điển
cố và nơi năm sáng tác. Nguyễn Trãi là danh nho chính phái,
quan điểm làm thơ viết văn rất nghiêm cẩn như lời Khổng Minh: “nho cũng
có nho quân tử, nho tiểu nhân; nho quân tử thì trung quân ái quốc, giữ
chính ghét tà, chăm những sự ơn khắp đời, để tiếng về sau, nho tiểu nhân
thì chỉ chăm văn chương, nghiên bút, phú kinh, bút múa thì hay, ruột
thì rỗng tuếch, …” quan điểm văn chương tác động sâu sắc chất lượng sáng tác. Hiểu đúng Nguyễn Trãi mới có thể mới định hướng đúng, bình đúng khi tìm hiểu thơ Nguyễn Trãi. Mời đọc 5 bài thơ trong Những kiệt tác thơ văn Nguyễn Trãivà
một bài bình ” Trời ban tối biết về đâu?” của Vũ Bình Lục. Bài thơ nếu
đặt trong bối cảnh giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến thì sẽ khác xa bối cảnh giai đoạn cuối đời của ông. Để hiểu bài thơ “Hải khẩu dạ bạc hữu cảm” cháu cần lưu ý ba điểm lưu ý định hướng trên.
Hoan nghênh những ý kiến đóng góp trao đổi của mọi người tại đây và tại KimonFaceBook NGÔN CHÍ
Am trúc, hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến chốn yên hà
Cơm ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
Nước dưỡng cho thanh, trì thưởng nguyệt
Đất cày ngõ ải luống ương hoa
Trong khi hứng động bề đêm tuyết
Ngâm được câu thần dững dưng ca
Tà dương bóng ngả thuở giang lâu
Thế giới đông nên ngọc một bầu
Tuyết sóc treo cây điểm phấn
Cõi đông giãi nguyệt in câu.
Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng
Nhạn triện hư không gió thâu
Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ
Trời ban tối biết về đâu? QUAN HẢI
Nguyên văn chữ Hán 樁木重重海浪前 沉江鐵鎖亦徒然 覆舟始信民猶水 恃險難憑命在天 禍福有媒非一日 英雄遺恨幾千年 乾坤今古無窮意 卻在滄浪遠樹烟
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
Trầm giang thiết tỏa diệt đồ nhiên
Phúc chu thủy tín dân do thủy
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên.
Họa phúc hữu môi phi nhất nhật
Anh hùng[3] di hận kỷ thiên niên.
Càn khôn kim cổ vô cùng ý,
Khước tại thương lang viễn thụ yên.
Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN
Cọc gỗ lớp lớp trồng trước sóng biển
Xích sắt ngầm dưới sông cũng vậy thôi.
Thuyền bị lật mới tin rằng dân là như nước
Cậy đất hiểm cũng khó dựa, mệnh là ở trời.
Họa phúc có manh mối không phải một ngày
Anh hùng để mối hận mấy nghìn năm sau.
Lẽ của trời đất và xưa nay, thực là vô cùng
Vẫn là ở chỗ sắc nước bát ngát, cây khói xa vời CỬA BIỂN
Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi
Thêm ngầm dây sắt – uổng công thôi !
Lật thuyền, thấm thía dân như nước
Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời
Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc ?
Anh hùng để hận, dễ gì nguôi ?
Xưa nay trời đất vô cùng ý
Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời
(Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU) YÊN TỬ
Nguyên văn chữ Hán
題 安子山花煙寺 安山山上最高峰, 纔五更初日正紅。 宇宙眼窮滄海外, 笑談人在碧雲中。 擁門玉槊森千畝, 掛石珠流落半空。 仁廟當年遺跡在, 白毫光裏睹重瞳。 Ðề Yên Tử sơn Hoa Yên tự
Yên Sơn sơn thượng tối cao phong
Tài ngũ canh sơ nhật chính hồng
Vũ trụ nhãn cùng thương hải ngoại
Tiếu đàm nhân tại bích vân trung
Ủng môn ngọc sóc sâm thiên mẫu
Quải thạch châu lưu lạc bán không
Nhân miếu đương niên di tích tại
Bạch hào quang lý đổ trùng đồng.
YÊN TỬ
Đề chùa Hoa Yên, núi Yên Tử Nguyễn Trãi
Non thiêng Yên Tử đỉnh kỳ phong
Trời mới ban mai đã rạng hồng
Vũ trụ mắt soi ngoài biển cả
Nói cười lồng lộng giữa không trung
Giáo trúc quanh chùa giăng nghìn mẫu
Cỏ cây chen đá rũ tầng không
Nhân Tông bảo tháp còn lưu dấu
Mắt sáng hào quang tỏa ánh đồng
(Bản dịch của Hoàng Kim)
Trên dải Yên Sơn đỉnh tuyệt vời
Đầu canh năm đã sáng trưng rồi
Mắt ngoài biển cả ôm trời đất
Người giữa mây xanh vẵng nói cười
Giáo ngọc quanh nhà giăng vạn khoảnh
D4i châu treo đá rũ lưng trời
Nhân Tông còn miếu thời nao đó
Thấy rõ đôi ngươi giữa ánh ngời (1)
(1) Tương truyền vua Trần Nhân Tông mắt có hai con ngươi
(Bản dịch của Khương Hữu Dụng)
Trên núi Yên Tử chòm cao nhất
Vừa mới canh năm đã sáng trời
Tầm mắt bao trùm nơi biển tận
Từng mây nghe thoảng tiếng ai cười
Rừng vươn giáo dựng tre nghìn mẫu
Đá rũ rèm buông nhũ nửa vời
Miếu cổ Nhân Tông hằng để dấu
Mắt còn trắng tỏa ánh đôi ngươi.
(Bản dịch của Lê Cao Phan)
Trên non Yên Tử chòm cao nhất,
Trời mới canh năm đã sáng tinh.
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả,
Nói cười người ở giữa mây xanh.
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,
Bao dãi tua châu đá rủ mành.
Dấu cũ Nhân tôn còn vẫn đấy,
Trùng đồng thấy giữa áng quang minh.
(Bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976
Trên non Yên Tử ngọn cao nhất
Chỉ mới canh năm sáng đỏ trời!
Ngoài vũ trụ xanh màu biển thẳm
Giữa mây biếc rộn tiếng người cười.
Cửa cài ngọc dựng, ken nghìn mẫu
Đá rũ châu rơi, rớt nửa vời!
Miếu cổ Nhân Tông di tích đó
Đôi mày sáng trắng rực hai ngươi!
(Bản dịch của Lâm Trung Phú)
HẢI KHẨU DẠ BẠC HỮU CẢM (I)
Nguyên văn chữ Hán 一別江湖數十年, 海門今日繫吟船。 波心浩渺滄洲月, 樹影參差浦漵煙。 往事難尋時易過, 國恩未報老堪憐。 平生獨抱先憂念, 坐擁寒衾夜不眠。
Nhất biệt giang hồ sổ thập niên,
Hải môn kim nhật hệ ngâm thuyền.
Ba tâm hạo diểu thương châu nguyệt
Thụ ảnh sâm si phố tự yên .
Vãng sự nan tầm thời dị quá.
Quốc ân vị báo lão kham liên.
Bình sinh độc bão tiên ưu niệm,
Toạ ủng hàn khâm dạ bất miên.
Dịch nghĩa
Từ ra đi khoảng giang hồ đã mấy chục năm
Cửa biển tối nay mới buộc thuyền thơ
Lòng nước mênh mông, trăng chiếu trên bãi
Bóng cây so le, mặt vụng khói lồng
Việc xưa khó tìm, thời dễ qua mau lắm
Ơn nước chưa đền, mà đã già đáng thương
Bình sinh một mình ôm cái chí lo trước
Ngồi ôm chăn lạnh không ngủ suốt đêm Cảm hứng đêm đậu thuyền ở cửa biển (I)
Bao năm xa cách sông hồ,
Ðêm nay lại buộc thuyền thơ chốn này.
Mênh mông sóng bãi trăng đầy.
Khói lồng bến nước bóng cây im lìm.
Thời qua, việc cũ khó tìm
Chưa đền ơn nước buồn thêm tuổi già.
“Tiên ưu” ray rứt lòng ta,
Khoác chăn trằn trọc canh tà khôn khuây…
(bản dịch của Lê Cao Phan)
Bao năm hồ hải, hứng hoài sinh
Bước khắp đất trời dạ nhẹ thênh
Xuân sắc bày tranh, nhìn đắm đuối
Triều âm vỗ gối, mộng yên lành
Vô tình tuế nguyệt tô đầu bạc
Nhất niệm quân thân giữ tấc thành
Sự nghiệp đời ta, cười chí phải
Lãi chăng ôi! Một chút phù danh…
(bản dịch của Lê Cao Phan)
Hồ hải lâu nay hứng chửa tàn,
Đất trời đâu chẳng thấy lòng khoan.
Xuân bày trước mắt người say ngắm,
Sóng vỗ bên đầu mộng muốn tan.
Ngày tháng vô tình hai mái bạc,
Vua cha để dạ một niềm đan.
Suốt đời sự nghiệp nên cười thực,
Lãi được sống thừa giữa thế gian.
(bản dịch của nhóm Đào Duy Anh)
Nguồn: Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB Khoa học xã hội, 1976
Hồ biển ngao du hứng chứa chan,
Đất trời đâu cũng thoáng tâm can.
Sắc xuân quanh mắt, lòng ngây ngất,
Tiếng sóng hòa mơ lạnh dưới màn.
Năm tháng vô tình hai mái bạc,
Lòng son trọn vẹn nghĩa quân thân.
Đáng cười sự nghiệp đời ta nhỉ?
Được chút phù sinh giữa thế gian.
(bản dịch của Huy Cận)
Bao năm chưa thỏa hải hồ
Ðất trời, đâu cũng mến ưa trong lòng.
Sắc xuân say đắm não nùng,
Sóng nghe bên gối lạnh lùng mưa hoa.
Tháng năm buồn tóc sương pha
Vua tôi nghĩa nặng lòng ta há dời.
Cười thay, sự nghiệp một đời!
Chút hư danh, gửi miệng người thế gian…
(Bản dịch của Nguyễn Tấn Hưng) OAN THÁN
Nguyên văn chữ Hán 浮俗升沉五十年 故山泉石負情緣 虛名實禍殊堪笑 眾謗孤忠絕可憐 數有難逃知有命 大如未喪也關天 獄中牘背空遭辱 金闕何由達寸箋
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên ;
Cố sơn tuyền thạch phụ tình duyên.
Hư danh thực họa thù kham tiếu ;
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
Số hữu nan đào tri thị mệnh ;
Văn như vị táng dã quan thiên.
Ngục trung độc bối[1] không tao nhục ;
Kim khuyết hà do đạt thốn tiên ?
Dịch nghĩa THAN NỔI OAN
Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười ;
Lắm kẻ ghét một mình trung, rất đáng thương hại.
Khó trốn được số mình, biết là vì mệnh ;
Tư văn như chưa bỏ, cũng bởi ở trời.
Trong ngục viết ở lưng tờ, khi không bị nhục ;
Cửa khuyết vàng làm thế nào mà đạt được tờ giấy lên ?
Dịch Thơ: THAN NỔI OAN:
Biển tục thăng trầm nữa cuộc đời
Non xưa suối đá phụ duyên rồi
Trung côi , ghét lắm, bao đau xót
Họa thực, danh hư , khéo tức cười
Số khó lọt vành âu bởi mệnh
Văn chưa tàn lụi cũng do trời
Trong lao độc bối cam mang nhục
Cửa khuyết làm sao tỏ khúc nhôi?
Bản dịch của Thạch Cam
Năm mươi năm thế tục bình bồng
Khe núi lòng cam bội ước chung
Cười nạn hư danh, trò thực họa
Thương phường báng bổ kẻ cô trung
Mạng đà định số, làm sao thoát
Trời chửa mất văn, vẫn được dùng
Lao ngục đau nhìn lưng mảnh giấy
Oan tình khó đạt tới hoàng cung.
Bản dịch của Lê Cao Phan TRỜI BAN TỐI, BIẾT VỀ ĐÂU? Vũ Bình Lục
(Về bài thơ NGÔN CHÍ – SỐ 13 của Nguyễn Trãi) Tà dương bóng ngả thuở giang lâu Thế giới đông nên ngọc một bầu Tuyết sóc treo cây điểm phấn Cõi đông giãi nguyệt in câu. Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng Nhạn triện hư không gió thâu Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ Trời ban tối biết về đâu?
Nguyễn Trãi sống cách chúng ta khoảng sáu trăm năm. Riêng nói về thơ
Nôm, dẫu thất lạc sau thảm hoạ tru di năm 1442, cũng còn được hơn 250
bài. Có thể nói, Nguyễn Trãi đã dựng lên một tượng đài sừng sững bằng
thơ, mà trước hết là thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc-Thơ Nôm. Chùm thơ
“Ngôn chí” có rất nhiều bài hay, đọc kỹ, nghiền ngẫm kỹ mới thấy cái
hay, bởi chữ Nôm cách nay sáu trăm năm, rất nhiều từ nay không còn dùng
nữa, hoặc rất ít dùng. Phải tra cứu một số từ, một số điển tích, mới dần
sáng tỏ một hồn thơ lớn, lớn nhất, trong lịch sử thơ ca Việt Nam!
Đây là bài Ngôn chí số 13, do những người biên soạn sách Tuyển tập thơ văn Nguyễn Trãi sắp xếp.
Hai câu đầu: Tà dương bóng ngả thuở giang lâu Thế giới đông nên ngọc một bầu
Hai câu thơ đơn thuần chỉ là tả cảnh, đặc tả một buổi chiều, mà gam
màu chủ đạo là màu vàng thẫm rất quen mà huyễn hoặc. Bóng chiều tà đã
ngả, đang quấn lấy một ngôi lầu ở bên sông, hay đang trùm lên ngôi lầu
bên sông một màu vàng thẫm. Nhưng có điều cần lưu ý, đây là ngôi lầu
giành cho đàn bà con gái thuộc tầng lớp quý tộc giàu sang, trong một
không gian rộng lớn và yên tĩnh, rất yên tĩnh. Câu tiếp theo mới thật
diễm lệ: Thế giới đông nên ngọc một bầu. Vậy thế giới đông là gì? Theo
điển dẫn, đông chính là khí tốt, khí thiêng của thế giới, của vũ trụ
đông đặc lại mà thành phong cảnh đẹp như ngọc. Thế đấy! Còn như Bầu,
cũng theo điển sách Đạo gia, kể rằng Trương Thân thường treo một quả bầu
rất lớn, hoá làm trời đất, ở trong cũng có mặt trời mặt trăng, đêm chui
vào đó mà ngủ, gọi là trời bầu, hay bầu trời cũng vậy…Quả là một bức
tranh được vẽ bằng ngôn ngữ, rất xưa, tinh khiết và tráng lệ, dường như
đã đạt đến mức cổ điển!
Đấy là hai câu thất ngôn. Hai câu tiếp theo, lại là lục ngôn, vẫn tiếp tục tả cảnh: Tuyết sóc treo cây điểm phấn Cõi đông giải nguyệt in câu.
Tuyết sóc, nghĩa là tuyết ở phương bắc (sóc) chả biết gieo xuống từ
bao giờ, mà còn giăng mắc trên những cành cây như những bông hoa trắng
muốt, như điểm phấn cho cây, trang trí làm đẹp cho cây. Có người bảo
nước ta làm gì có tuyết, chỉ là ước lệ cho đẹp văn chương mà thôi. Nhưng
họ nhầm đấy! Các tỉnh phía Bắc nước ta như Lào Cai, Hà Giang và chắc là
còn một số nơi khác nữa ngày nay vẫn có tuyết, nhiều nữa kia. Vậy thì
sao thơ văn ngày xưa các cụ ta nói đến tuyết, con cháu lại hàm hồ bác
bỏ? Cách đây mấy trăm năm, sao lại không thể không có tuyết mà các cụ
phải đi mượn của người? Phía bắc là tuyết, là hoa tuyết điểm phấn cho
cây, thì Cõi đông giải nguyệt in câu. Phương đông in một giải lụa trăng
vàng óng. Thế là cả một không gian rực rỡ sắc màu. Màu trắng của tuyết
hoa tương ánh cùng màu vàng của ánh nguyệt in bóng nước, của chiều tà
vàng thẫm, tạo một bức tranh vừa rộng vừa sâu, gợi một khoảnh khắc giao
thoa hỗn mang rất nhiều tâm trạng.
Hai câu tiếp theo, vẫn cấu trúc bằng lục ngôn: Khói chìm thuỷ quốc quyên phẳng Nhạn triện hư không gió thâu
Bây giờ là sương khói trong chiều muộn. Cúi xuống nhìn dòng nước,
thấy khói chiều in xuống mặt nước trong veo phẳng lặng. Quyên, từ cổ là
mặt nước trong, do đó quyên phẳng nghĩa là mặt nước trong phẳng lặng,
như thể nhìn rõ khói chiều đang chìm dưới đáy nước. Rõ là nước lộn trời,
vàng gieo đáy nước, “Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc,
non phơi bóng vàng”. Có lẽ Nguyễn Du mấy trăm năm sau đã tiếp thu tinh
thần của câu thơ Nguyễn Trãi mà sáng tạo lại trong Truyện Kiều câu thơ
trên, khi mà tiếng Việt đã đạt đến độ nhuần nhuyễn và trang nhã chăng?
Còn trên trời thì đàn chim nhạn đang xếp hình chữ triện mà mỏi mệt bay
về rừng tìm chốn ngủ. Và gió nhẹ, thổi rỗng cả trời…
Cảnh chỉ là điểm xuyết, mà gợi nên bức tranh đủ sắc màu, rất sống
động, và tiếp đó, nó như thể đang chuyển động dần về phía đêm tối, về
phía lụi tàn.
Hai câu cuối, tác giả viết: Thuyền mọn còn chèo chẳng khứng đỗ Trời ban tối ước về đâu?
Con thuyền nhỏ nhoi (Thuyền mọn) của Tiên sinh, hay con thuyền của
một vị khách nào đó, vẫn còn đang mải miết chèo trên sông, như chẳng
muốn dừng lại. Trong nhập nhoạng bóng tà, con thuyền mọn như càng nhỏ bé
hơn, chưa muốn, hay chưa tìm được nơi đỗ lại mà nghỉ ngơi, hay bởi vì
Trời ban tối, ước về đâu, biết về đâu? Câu bảy thất ngôn, dàn trải thêm,
biểu hiện sự buông thả, lửng lơ, phân vân… Câu tám bỗng đột ngột thu
lại lục ngôn, như một sự dồn nén tâm sự.
Có bao nhiêu phần trăm sự thực trong bức tranh chiều tà bên sông lộng
lẫy mà buồn? Có lẽ cũng chẳng nên đặt vấn đề cân đong cụ thể, bởi thơ
nhìn chung là sản phẩm sáng tạo của trí tưởng tượng, thực và ảo hoà trộn
đan xen. Hai câu kết của bài thơ xem ra mới thật sự là tâm điểm của bài
thơ. Phải chăng, con thuyền mọn kia, chính là hình ảnh Ức Trai Tiên
sinh, như con thuyền nhỏ bé ấy, đang một mình đi tìm bến đỗ, mà chưa tìm
thấy nơi đâu là bến là bờ? Từ cái ngôn chí này, có thể ước đoán Ức Trai
viết bài thơ này vào thời điểm quân Minh đang đô hộ nước ta, Ức Trai
đang bị giam lỏng ở thành Đông Quan, chưa tìm được minh chủ mà đem tài
giúp nước? Cũng có thể đây là thời điểm Nguyễn Trãi bị thất sủng, về ở
ẩn tại Côn Sơn, trong hoàn cảnh chính sự trong nước đang rất đen tối,
nhất là ở nơi triều chính. Nguyễn Trãi từ tin tưởng, đến nghi ngờ và
thất vọng trước thực tại đau lòng: Biết bao trung thần bị hãm hại, còn
lũ gian thần hiểm ác nổi lên như ong, nhũng lọan cả triều đình. Làm sao
mà không bi quan cho được khi mà Trời ban tối, biết về đâu?
Nguyễn Trãi 阮廌 (1380-1442) hiệu Ức Trai 抑齋,
quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương), sau dời về Nhị Khê (Thường Tín,
Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái
học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy
tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời,
ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ
thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc
Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn
Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về,
nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm
chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.
Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở … Xem toàn bộ
Đăng bởi cỏ hoang vào 04/05/2007 16:43
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Vanachi vào 13/05/2007 22:23
Tác giả: Nhiều tác giả
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư 大越史記全書 - Quyển Bản Kỷ Toàn Thư 11: Thái Tông Văn Hoàng Đế Lê Nguyên Long - Sử thần Ngô Sĩ Liên chép:
Nhâm Tuất, [Đại Bảo] năm thứ 3 [1442], (Minh Chính Thống năm thứ 7). Mùa xuân, tháng giêng, làm cung điện mới.
...
Mùa thu, tháng 7, ngày 20, Hoàng tử Tư Thành sinh.
Ngày 27, vua đi tuần về miền đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn ở hương của Trãi
...
Tháng 8, ngày mồng 4, vua về đến vườn Vải huyện Gia Định, bỗng bị bạo bệnh rồi băng.
Trước đây, vua thích vợ của Thừa chỉ Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ,
người rất đẹp, văn chương rất hay, gọi vào cung phong làm Lễ nghi học
sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh. Đến khi đi tuần miền đông, xa giá về tới vườn
Vải, xã Đại Lại, ven sông Thiên Đức, vua thức suốt đêm với Nguyễn Thị
Lộ rồi băng, các quan bí mật đưa về.
Ngày mồng 6 về tới kinh, nửa đêm đem vào cung rồi mới phát táng. Mọi người đều nói là Nguyễn Thị Lộ giết vua.
...
Ngày 16, giết Hành khiển Nguyễn Trãi và vợ là Nguyên Thị Lộ, bắt tội đến ba họ.
Trước đây, Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy rất
ưa, liền cợt nhả với thị. Đến đây, vua đi tuần về miền đông, đến chơi
nhà Trãi rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy.
...
Vụ án Lệ Chi Viên (Vườn Vải): Thừa chỉ Nguyễn Trãi toàn bộ gia quyến bị tru di tam tộc (giết 3 họ: họ cha, họ mẹ và họ vợ).
Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới chính thức minh
oan cho Nguyễn Trãi, ca ngợi "Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm
lòng ức Trai sáng như sao Khuê), truy tặng tước Tán Trù bá, ban cho con
là Anh Vũ chức huyện quan, năm 1467 ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn
Nguyễn Trãi. Chưa rõ vì những uẩn khúc gì mà một vị vua được coi là anh
minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một
đại công thần sáng lập vương triều Lê, một người đã cùng với vợ là
Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan thủa hàn
vi, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban
phong. Còn Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ cũng không thấy nhắc đến. Và nỗi
oan bà đã kéo dài gần 600 năm.
Tông tích Nguyễn Thị Lộ (1390-1442)
Nguyễn Thị Lộ vốn là con nhà có học thức, quê làng Hải Triều, một
làng làm chiếu có tiếng, nay thuộc xã Phạm Lễ xưa thuộc huyện Ngự Thiên,
(Thái Bình).
Ả ở đâu mà bán chiếu gon
Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn
Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi
Đã có chồng chưa, được mấy con?
Thị Lộ cũng ứng khẩu đáp lại:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon
Can chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân thu phỏng độ trăng tròn lẻ
Chồng còn chưa có, có chi con!
Nguyễn Trãi yêu vì tài nên lấy làm thiếp. Thị Lộ không có con với
Nguyễn Trãi, xin cháu của Ngô Từ là Ngô Chi Lan làm con nuôi. Ngô Chi
Lan đổi tên là Nguyễn Hà Huệ, sau làm Lễ Nghi học sĩ trong cung Lê Thánh
Tông, chồng là Phù Thúc Hoành, làm Bác sĩ giảng kinh sử Quốc Tử Giám.
Nguyên nhân sâu xa vụ án Lệ Chi viên
Truyền thuyết kể rằng:
Trong số năm bà vợ của Thái Tông, có bà phi Nguyễn Thị Anh sinh ra
Băng Cơ được phong làm thái tử. Bà phi Ngô Thị Ngọc Dao (con gái của Ngô
Từ) đang có mang, chiêm bao thấy Ngọc Hoàng sai một vị tiên xuống đầu
thai vào mình. Thị Anh sợ rằng một khi bà Ngọc Dao sinh quí tử, sẽ chiếm
ngai thái tử của Băng Cơ, nên vu cho Ngọc Dao dính líu đến một việc bùa
ngãi, xui vua Thái Tông khép Ngọc Dao vào tội "bị voi dày".
Nguyễn Trãi bảo Thị Lộ khuyên Thái Tông đừng nghe lời xúc xiểm mà
làm việc thất đức. Vua đồng ý, cho phép Thị Lộ đem Ngọc Dao giấu ở chùa
Huy Văn. Vài tháng sau, bà Ngọc Dao sinh ra một người con trai, vua đặt
tên là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông sau này). Để tránh khỏi Nguyễn Thị
Anh mưu hại, Nguyễn Trãi đưa hai mẹ con bà Ngọc Dao ra An-bang
(Quảng-ninh ngày nay).
Từ đấy bà Nguyễn Thị Anh thâm thù Nguyễn Trãi và Thị Lộ. Vừa xảy ra
vụ Thái Tông đột ngột mất ở Lệ Chi viên, Băng Cơ mới 2 tuổi, nối ngôi
(tức là Lê Nhân Tông), Thị Anh được ngồi sau rèm nhiếp chính, liền hùa
với bọn gian thần ra lệnh tra tấn Thị Lộ cực kỳ dã man. Thị Lộ phải nhìn
nhận đã cùng Nguyễn Trãi âm mưu giết vua. Cả hai cùng thân thuộc bị
trảm quyết.
Vậy là vô tình Thừa chỉ Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ đã vô tình bị
vướng vào một âm mưu tranh quyền đoạt vị nơi hậu cung và trở thành vật
thí mạng.
là lá trên rừng, là cỏ dưới đất, là nước Biển Đông...
1. Nguyễn Trãi sinh năm 1380, lớn lên trong 20 năm cuối thế kỷ XIV
và dấn thân vào các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội trong gần nửa
đầu thế kỷ XV. Ðó là một thời kỳ đầy biến động và thử thách của đất
nước. Khởi nghĩa của nông nô, nông dân nghèo bùng nổ, triều Trần suy đồi
rồi sụp đổ. Triều Hồ thành lập đang tiến hành một loạt cải cách về
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hôị theo hướng tiến bộ nhằm đưa đất nước
ra khỏi tình trạng khủng hoảng cuối đời Trần, củng cố chế độ quân chủ
tập quyền. Giữa lúc đó, nhà Minh vào lúc cường thịnh dưới triều Minh
Thành Tổ (1403-1424), đang ráo riết thực hiện một kế hoạch bành trưởng
mở rộng ảnh hưởng xuống vùng Ðông Nam Á và Nam Á. Nhà hàng hải nổi tiếng
Trịnh Hoà (1371-1434) được lệnh chuẩn bị một hạm đội mạnh, tổ chức
những cuộc vượt biển xuống vùng này nhằm "chiêu dụ" các nước "thần phục"
và triều cống "Thiên triều" theo phương thức "tuyên chiếu Thiên tử, ban
cấp cho quân trưởng, không phục thì dùng vũ lực uy hiếp" (Minh sử, Q.
304, tờ 3a). Ðó là một phương thức bành trướng mà nhà Trung Quốc học
người Pháp nhận xét là "họ không tiến hành những cuộc chinh phục đơn
thuần nhằm bóc lột kinh tế mà buộc phải thừa nhận sức mạnh và đặc quyền
của đế chế Minh ở Ðông Nam Á và ấn Ðộ Dương" (Jacques Gernet: Le monde
chinois, Paris 1972, tr. 347). Hạm đội Trịnh Hoà đã qua các nước vùng
Ðông Nam á, sang ấn Ðộ, các nước Rập, xuống tận Somalie ở Ðông Phi. Sau 7
lần vượt biển trong 28 năm (1405-1433), Trịnh Hoà đã chiêu dụ được,
theo Minh sử, 30 nước về thần phục triều Minh. Ðiều đáng lưu ý là nước
Ðại Việt ở sát Ðại Minh lại không nằm trong phạm vi hoạt động của hạm
đội Trịnh Hoà. Do vị trí chiến lược trọng yếu của nước ta đối với khu
vực Ðông Nam á, nhà Minh đã trù hoạch một kế hoạch riêng nhằm khuất phục
và xâm lược Ðại Việt. Sau nhiều lần phái sứ sang đe doạ dụ dỗ không có
hiệu quả, nhà Minh đã sắp đặt một cuộc vũ trang xâm lược đại qui mô.
Cuối năm 1406 nhà Minh huy động 80 vạn quân, trong đó có 21 vạn quân chủ
lực tinh nhuệ. Sau nửa năm chiến đấu, cuộc kháng chiến chống Minh do
triều Hồ lãnh đạo bị thất bại và đất nước bị nhà Minh đô hộ trong 20 năm
(1407-1427). Chiến thắng này của nhà Minh đã gây chấn động khắp Ðông
Nam á, hỗ trợ nhiều cho kế hoạch của Trịnh Hoà như Minh sử nhận xét: "
Lúc bấy giờ Giao Chỉ đã bị phá và bị diệt, chia đất làm quận huyện, các
nước bị chấn động nhiều nên đến triều cống ngày càng đông" (Minh sử Q.
304, tờ 3b)
Nguyễn Trãi đỗ Tiến sĩ trong khoa thi hội đầu tiên của triều Hồ
(1400) và hai cha con cùng tham gia chính quyền nhà Hồ. Cha là Nguyễn
Phi Khanh giữ chức Hàn lâm viện học sĩ kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám,
Nguyễn Trãi làm Ngự sử đài chánh chưởng. Tuy là cháu ngoại của một đại
quý tộc Trần, nhưng Nguyễn Trãi không giữ thái độ chống đối mà còn hợp
tác với chính quyền mới, hẳn ông hi vọng ở triều Hồ có thể mở ra một
hướng phát triển mới cho đất nước. Nhưng rồi quân Minh xâm lược, nhà Hồ
thất bại, đất nước lâm vào hoạ diệt vong trước nguy cơ đồng hoá mà nhà
sử học đương thời là Ngô Sĩ Liên đã nhận xét: "Xét những cuộc loạn trong
cõi nước Việt ta, chưa bao giờ tột cùng như lúc này...Hơn 20 năm, thay
đổi phong tục nước ta theo tóc dài, răng trắng, biến người nước ta thành
người Ngô cả. Than ôi, hoạ loạn tột cùng đến thế ư!" (Ðại Việt sử ký
toàn thư, Q.10, tờ 53a). Gia đình Nguyễn Trãi cũng tan nát, cha bị đày
sang Trung Quốc, bản thân ông bị giam lỏng trong thành Ðông Quan.
Tất cả những biến cố đó đã tác động sâu sắc vào nhận thức, tư tưởng
của Nguyễn Trãi, thôi thúc ông suy tư ngẫm nghĩ, tìm ra những lý do sâu
xa của những sự kiện mang tính nghịch lý của lịch sử và rút ra những bài
học bổ ích cho công cuộc cứu nước. Nhà Hồ là một vương triều tiến bộ,
Hồ Quý Ly và những người đứng đầu đất nước lúc đó đều là những người yêu
nước, có tinh thần dân tộc, trước sau chủ trương kiên quyết đánh giặc
và có gần 6 năm để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến. Nhà Hồ lại có quân đội
đông, vũ khí tốt và một hệ thống phong tuyến xây dựng công phu. Thế mà
chỉ nửa năm, cuộc kháng chiến thất bại đau xót, cơ nghiệp nhà Hồ tan vỡ.
Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật,
Anh hùng di hận kỷ thiên niên.
(Hoạ phúc gây mầm không một chốc,
Anh hùng để hận mấy nghìn năm)
Với một tri thức uyên bác, một phương pháp tư duy sắc sảo, Nguyễn Trãi đã tìm ra câu trả lời
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền,
Trầm gian thiết toả diệc đồ nhiên.
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ.
(Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,
Khóa sông xích sắt cũng vầy thôi,
Lật thuyền mới rõ dân như nước)
Và do "trải nhiều biến thì mưu kế sâu, tính việc xa thì thành công
lạ" (Phú núi Chí Linh) và "ngẫm nay suy trước xét cùng mọi lẽ hưng vong"
(Bình Ngô đại cáo), Nguyễn Trãi đã đúc rút các bài học thành bại của
lịch sử, cố tìm ra con đường và phương thức cứu nước cho dân tộc. Sau
khi thoát khỏi thành Ðông Quan, ông đã ẩn náu ở Côn Sơn rồi bôn ba qua
nhiều nơi của đất nước trong cảnh "thập niên phiêu chuyển thán bồng
bình" (mười năm xiêu dạt thân như cánh bèo, cỏ bồng) và theo một số bài
thơ còn lưu lại trong ức Trai di tập thì hình như ông sang cả Trung
Quốc, từ Quảng Ðông, Quảng Tây, lên Giang Tây, An Huy rồi trở về nước.
Ðáng lưu ý là lúc bấy giờ khắp nơi trong nước đang bùng lên nhiều cuộc
khởi nghĩa chống Minh, lớn nhất là khởi nghĩa của Giản Ðịnh đế Trần Ngỗi
(1407-1409), Trùng Quang đế Trần Quý Khoáng (1409-1413) do những quý
tộc Trần lãnh đạo mà thư tịch cổ gọi là nhà Hậu Trần, nhưng Nguyễn Trãi
không tham gia.
Người minh chủ mà Nguyễn Trãi tìm kiếm và gửi gắm niềm tin của mình
là Lê Lợi, một hào trưởng đất Lam Sơn, một người yêu nứớc xuất thân thứ
dân, không có bằng cấp, quan tước, nhưng có tài cao chí cả và uy tín,
ảnh hưởng rộng lớn khắp vùng. Những tài liệu phát hiện càng ngày càng
xác nhận Nguyễn Trãi đã có mặt trong Hội thề Lũng Nhai năm 1416 khi Lê
Lợi cùng 18 người bạn tâm huyết nhất nguyện sống chết có nhau mưu cầu sự
nghiệp cứu nước cứu dân. Sau hội thề, Nguyễn Trãi lại tiếp tục chu du
qua nhiều nơi rồi mới trở lại Lam Sơn. Trong lần gặp ở Lỗi Giang, Nguyễn
Trãi đã dâng lên Lê Lợi tập Bình Ngô sách vạch ra "ba kế sách dẹp giặc
Ngô" (Lê Quý Ðôn: Toàn Việt thi lục, Q.7) mà tư tưởng chủ yếu là "tâm
công" có nghĩa là đánh vào lòng người bao hàm cả vận động đòan kết toàn
dân đánh giặc và kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao,
chính trị, địch vận. Từ đó, Nguyễn Trãi luôn luôn có mặt bên cạnh Bình
Ðịnh Vương Lê Lợi từ khi cuộc khởi nghĩa bùng nổ ở Lam Sơn cho đến khi
kết thúc thắng lợi bằng Hội thề Ðông Quan. Nguyễn Trãi tìm thấy ở Lê Lợi
một vị minh chủ có dủ tài đức đưa sự nghiệp giải phong đất nước đến
thắng lợi, và Lê Lợi cũng coi Nguyễn Trãi như một "mưu sĩ" (Quân trung
từ mệnh tập), "nói tất nghe mà kế tất theo" (Biểu tạ ơn). Lê Tháng Tông
cũng nhìn nhận Nguyễn Trãi là người "giúp việc trù hoạch mưu lược ở nơi
màn trướng" (Quỳnh uyển cửu ca).
Trong sự nghiệp bình Ngô, Nguyễn Trãi giữ vai trò quan trọng và có
nhiều cống hiến lớn lao trong việc đề ra đường lới cứu nước, khắc phục
những sai lầm của triều Hồ và các cuộc khởi nghĩa khác, phò tá Lê Lợi
trong trù hoạch mưu lược đưa cuộc khởi nghĩa phát triển thành một cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc mang tính nhân dân sâu rộng trên qui mô
cả nước. Nguyễn Trãi còn được Lê Lợi giao cho trọng trách tổ chức và chỉ
đạo cuộc đấu tranh địch vận "ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự
khuất" (ta đánh bằng mưu nên đánh vào lòng người khiến không đánh mà
chúng phải khuất phục). Vào giai đoạn kết thúc chiến tranh, Nguyễn Trãi
là người đảm đương cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao
nhằm phát huy những thắng lợi quân sự để sớm chấm dứt chiến tranh "sửa
hoà hiếu cho hai nước, tắt muôn đời chiến tranh" và có lúc "miệng hổ lăn
minh, quyết nghị hoà để hai nước can qua đều khỏi". Ông là người soạn
thảo Văn hội thề Ðông Quan và viết bài Bình Ngô đại cáo, một bản tuyên
ngôn độc lập bất hủ, một tổng kết tuyệt vời về cuộc chiến tranh bình Ngô
và toàn bộ lịch sử Việt Nam cho đến lúc đó.
Với vai trò và những cống hiến lớn lao trong khởi nghĩa Lam Sơn,
Nguyễn Trãi đã trở thành một anh hùng cứư nước. Ông hoàn toàn toại
nguyện khi thấy nước Ðại Việt lại hổi sinh trong độc lập và thanh bình
với biết bao ước vọng "để mở nền muôn thuở thái bình", " bốn bể phẳng
lặng, sạch hết đục nhơ, tuyên bố mệnh duy tân khắp nước" (Bình Ngô đại
cáo).
2. Dưới triều Lê mà vị vua khai sáng là anh hùng Lam Sơn Lê Lợi tức
Lê Thái Tổ (1428-1433), Nguyễn Trãi lại hăm hở mong đem tài sức ra phò
vua, giúp dân, dựng nước. Nhưng từ đây, lý tưởng xây dựng đất nước của
ông gặp rất nhiều khó khăn. Triều Lê thành lập sau thắng lợi của một
cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, nên buổi đầu trọng võ hơn văn.
Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, giữ chức Nhập nội hành khiển,
Thượng thư bộ Lại, kiêm coi công việc Viện khu mật, có lúc giữ chức
Trung thư, coi việc Môn hạ sảnh và Tam quán. Trong hàng ngũ văn quan,
cương vị của ông khá cao, nhưng triều Lê bị các võ quan chi phối và ông
không thể thi thố hết tài năng. Giữa các võ quan cũng hình thành các thế
lực theo quan hệ địa phương hoặc thân thuộc. Vua Lê Thái Tổ có nhiều cố
gắng trong xây dựng triều chính và phục hưng đất nước, nhưng bản thân
nhà vua cũng không khống chế được các thế lực võ quan, lại nghi kỵ một
số công thần khai quốc có uy tín lớn. Năm 1429 nhà vua ra lệnh bắt Trần
Nguyên Hãn khiến ông phải tự sát. Năm 1430 lại giết hại Phạm Văn Xảo.
Nguyễn Trãi cũng bị nghi ngờ và bị hạ ngục. Sau đó,ông được tha và trong
bài thơ Oan thán, ông đã thổ lộ nỗi u uất của mình:
Hư danh thực hoạ thù kham tiếu,
Chúng báng cô trung tuyệt khả liên.
(Danh hư thực họa nên cười quá,
Bao kẻ dèm pha xót người trung)
Cũng do thái độ nghi kỵ và hành động sát hại công thần của Lê Thái
Tổ, một số đại thần cương trực đã từ quan xin về quê ẩn dật trong đó có
Nguyễn Tuấn Thiện vốn là người em kết nghĩa của Bình Ðịnh Vương thời
khởi nghĩa, đã từng giữ chức Ðô tổng quản, Thái bảo quận công và Bế Khắc
Thiệu là người tham gia phái bộ Bình Ðịnh Vương trong Hội thề Ðông Quan
cuối năm 1427. Nguyễn Trãi chứng kiến tất cả những bi kịch cung đình
đó, nhưng hoàn toàn bất lực và gần như bị vô hiệu hoá.
Khi Lê Thái Tông(1433-1442) lên nối ngôi mới 10 tuổi. Trong cương vị
giúp rập nhà vua trẻ tuổi, Nguyễn Trãi tận dụng mọi cơ hội để hướng nhà
vua vào mục tiêu xây dựng một đất nước cường thịnh, chăm lo đến cuộc
sống của muôn dân.
Nhân bàn về soạn lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên nhà vua: "Nguyện xin bệ
hạ yêu thương và nuôi dưỡng dân chúng để nơi thôn cùng xóm vắng không
có tiếng oán hận sầu than" (Ðại Việt sử ký toàn thư, Q. 11, tờ 36a). Năm
1335, ông soạn Dư địa chí để vua xem nhằm nâng cao sự hiểu biết, niềm
tự hào và ý thức trách nhiệm của nhà vua đối với non sông đất nước. Vua
Lê Thái Tông mới 12 tuổi mà đã phê vào sách: "Than ôi, đức Thánh Tổ ta
(Lê Lợi) kinh dinh bốn phương, dấu chân đi khắp thiên hạ, quạt gió uống
mưa, nằm tròng gối giáo, thật cũng gian nan thay! Thu góp non sông để
giao phó cho ta, thật cũng lớn lao thay! Tiên sinh giúp đức Thần khảo ta
thay trời làm việc, sánh được với Thượng đế. Ðến sách này lại muốn bắt
chước như đời Ngu, đời hạ. Khuyên chớ bỏ ta, dẫn ta tiến đến như Nghiêu,
Thuấn, thật cũng lớn lao kỳ vĩ thay!". Nguyễn Trãi cảm động và phấn
khởi tâu: " Nhà vua nói như thế, thật là sự may mắn cho nước nhà vậy."
(Dư địa chí trong Nguyễn Trãi toàn tập, Hà Nội 1976, tr. 245). Nhưng lợi
dụng nhà vua còn ít tuổi, bọn quyền thần càng lũng đoạn triều chính,
bọn quan lại xu nịnh, tham nhũng càng ra sức hoành hành. Nguyễn Trãi đã
đấu tranh quyết liệt với bọn chúng, nhưng điều trớ trêu, đau đớn là
trong cuộc đấu tranh đó, chân lý thuộc về Nguyễn Trãi nhưng quyền lực
lại trong tay bọn quyền thần và ông hoàn toàn bị cô lập. Ðây là những
năm tháng đau buồn nhất của Nguyễn Trãi mà nhiều lúc đã bộc lộ trong
những câu thơ nôm chua chát:
Ðã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc,
Cho hay đường lợi cực quuanh co.
Hay:
Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,
Bui (chỉ) một lòng người cực hiểm thay.
Chán nản đến thất vọng, Nguyễn Trãi đành phải từ quan về sống ẩn dật
tại Côn Sơn, giữa núi non hùng vĩ của đất trời với biết bao kỷ niệm của
thời thơ ấu khi sống với ông ngoại Trần Nguyên Ðán, nơi náu mình trên
đường cứu nước thời Minh thuộc. Nguyễn Trãi cố gắng vui với thơ ca, với
non nước, với cuộc sống thanh bạch, an nhàn. Nhưng với một con người
nặng lòng yêu nước thương dân tha thiết, nuôi lý tưởng đuổi giặc cứu
nước để xây dựng một quốc gia độc lập và giàu mạnh, để thực thi tư tưởng
nhân nghĩa đưa lại thanh bình và yên vui cho mọi người, một con người
giàu nghị lực và ý chí như Nguyễn Trãi thì ẩn dật đâu phải lẽ sống của
ông. Vì vậy khi nhà vua trưởng thành, bắt đầu nắm triều chính, trừng
phạt một số quyền thần, năm 1439 mời Nguyễn Trãi trở lại giữ chức vụ
trong triều. Tuy đã tuổi 60, ông vẫn hăm hở đem tài sức ra cống hiến cho
đất nước với niềm hi vọng:
Thương thần như ngựa đến tuổi già, còn kham rong ruổi,
Cho thần như qua năm rét, càng dạn tuyết sương.
Quần môn mặc kệ dèm pha,
Thánh ý cư bền tín nhiệm
(Biểu tạ ơn)
Nguyễn Trãi lại đảm nhiệm chức vụ cũ, kiêm thêm chức Hàn lâm viện
Thừa chỉ và trông coi việc quân dân hai đạo Ðông, Bắc (cả nước chia làm 5
đạo). Ðó là những chức vụ quan trọng mở ra khả năng cho phép Nguyễn
Trãi thực hiện hoài bão dựng nứơc của mình. Nhưng chỉ 3 năm sau, một tai
hoạ khủng khiếp xẩy ra dẫn đến cái chết bi thảm của Nguyễn Trãi. Nhân
vua Lê Thái Tông sau khi duyệt binh ở Chí Linh, ghé thăm Nguyễn Trãi ở
Côn Sơn và trên đường trở về kinh bị từ trần đột ngột ở Lệ Chi Viên, bọn
quyền thần dựng lên một vụ án kết tội ông cùng vợ là Nguyễn Thị Lộ đã
ám hại nhà vua. Ngày16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19-9-1442), Nguyễn Trãi
cùng Nguyễn Thị Lộ và nhiều người thân thuộc bị hành quyết tại pháp
trường Thăng Long.
3. 560 năm đã trôi qua kể từ thảm kịch đó. Chính sử triều Lê dĩ
nhiên chép theo quan điểm chính thống, kết tội Nguyễn Thị Lộ đã "giết
vua" và Nguyễn Trãi phải liên luỵ, kèm theo Lời bàn :"Nữ sắc làm hại
người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó
mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng
mà được ư?" (Ðại Việt sử ký toàn thư Q. XI, tờ 56a).
Sau đó không bao lâu, vua Lê Nhân Tông (1443-1459) đã khẳng định lại
công lao sự nghiệp của Nguyễn Trãi: "Nguyễn Trãi là người trung thành
giúp đức Thái Tổ dẹp yên giặc loạn, giúp đức Thái Tông sửa sang thái
bình. Văn chương và đức nghiệp của Nguyễn Trãi, các danh tướng của bản
triều không ai sánh bằng" (Nguyễn Trãi toàn tập, đd, tr. 246). Nhưng
không rõ vì lý do gì, nhà vua vẫn chưa minh oan cho ông.
Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông (1460-1497) mới chính thức minh
oan cho Nguyễn Trãi, ca ngợi "ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo" (tấm
lòng ức Trai sáng như sao Khuê), truy tặng tước Tán Trù bá, ban cho con
là Anh Vũ chức huyện quan, năm 1467 ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn
Nguyễn Trãi. Chưa rõ vì những uẩn khúc gì mà một vị vua được coi là anh
minh và quyết đoán như Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, một
đại công thần sáng lập vương triều Lê, một người đã cùng với vợ là
Nguyễn Thị Lộ ra sức che chở cho mẹ con nhà vua lúc gian nan thủa hàn
vi, mà chỉ truy tặng tước bá, thấp hơn tước hầu vốn được Lê Thái Tổ ban
phong. Còn nhiều điều bí ẩn bị che đẩy đằng sau vụ án oan khốc và bi
thảm này.
Trong mấy thế kỷ qua, nhiều nhà sử học, văn học đã dày công thu
thập những tác phẩm còn lại của Nguyễn Trãi và gần đây không ít người
đã cố gắng phá vụ án Lệ Chi Viên. Nhiều tình tiết nằm trong những bí ẩn
cung đình được phát hiện, nhiều giả thuyết được đưa ra, nhưng cũng chỉ
là tình tiết có liên quan, những giả thuyết chắp nối các sự kiện mang
tính suy đoán lô gích hay những giả thuyết được chứng minh một phần.
Cho đến nay, sử học còn mang một món nợ đối với lịch sử, đối với
Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là chưa khám phá và đưa ra ánh sáng những
con người cùng với những âm mưu và hành động lợi dụng việc từ trần đột
ngột của vua Lê Thái Tông ở Lệ Chi Viên để vu oan giá hoạ dựng nên vụ án
kết liễu thảm khốc cuộc đời của một anh hùng vĩ đại, một nữ sĩ tài hoa,
liên luỵ đến gia đình ba họ. Với tình trạng tư liệu quá ít ỏi lại bị
chính sử che đậy một cách có dụng ý, thì quả thật khó hi vọng tìm ra đủ
chứng cứ để phá vụ án bí hiểm này. Nhưng lịch sử cũng rất công bằng. Với
thời gian và những công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ các nhà sử
học, nhà văn học, nhà tư tưởng, nhà văn hoá..., lịch sử càng ngày càng
làm sáng rõ và nâng cao nhận thức về con người và sự nghiệp của Nguyễn
Trãi, về những công lao, cống hiến, những giá trị đích thực của ông
trong lịch sử cứu nước và dựng nước, lịch sử văn hoá của dân tộc.
Nguyễn Trãi đã đi vào lịch sử và lòng dân như một anh hùng cứu nước
vĩ đại, một danh nhân văn hoá kiệt xuất. Ông là một nhà tư tưởng, một
nhà chính trị, một nhà chiến lược quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà
thơ, nhà văn, nhà sử học, nhà địa lý... , biết bao tài năng đã chung đúc
nên người con ưu tú đó của dân tộc. Và ông đã đem tất cả tài năng đó
phục vụ công cuộc giải phóng dân tộc, cùng với Lê Lợi lập nên thắng lợi
của sự nghiệp bình Ngô. Trong cứu nước cứu dân khỏi hoạ đô hộ và đồng
hoá của ngoại bang, ông đã thành công rực rỡ. Trong sự nghiệp xây dựng
lại đất nước, ông cũng có nhiều cống hiến to lớn nhưng gặp rất nhiều
gian nan, khó khăn, không thể thi thố hết tài năng, thực hiện hoài bão
và lý tưởng cao đẹp của mình. Dù cuối cùng cuộc đời kết thúc bằng một bi
kịch đau xót, những Nguyễn Trãi đã để lại cho lịch sử và hậu thế một
tấm gương sáng về phẩm giá một người trí thức trọn đời vì nước vì dân,
đấu tranh không biết mệt mỏi cho độc lập dân tộc và hoà hiếu với lân
bang, cho một đất nước giàu mạnh có vua sáng tôi hiền, có cuộc sống ấm
no cho mọi người, và một sự nghiệp văn hoá đồ sộ với biết bao trước tác
trên nhiều lĩnh vực phản chiếu lẽ sống, nhân cách và tài năng sáng tạo
của ông.
Ngày nay, tên tuổi và sự nghiệp của Nguyễn Trãi còn toả sáng ra khỏi
biên giới quốc gia, được UNESCO công nhận là một Danh nhân văn hoá thế
giới. Nguyễn Trãi là một trong những con người tiêu biểu ở đỉnh cao nhất
tâm hồn và trí tuệ của dân tộc, tài năng và phẩm giá của con người Việt
Nam được nhân loại trân trọng. Tạp chí Nhịp Sống 2003
Đến nay, đa số các ý kiến cũng như các bộ sử lớn khi đề nói đến danh
sách 18 người cùng Lê Lợi cắt máu ăn thề tại hội thề Lũng Nhai năm 1416
thề quyết đánh đuổi giặc Minh giành lại độc lập cho đất nước đều nhắc
tới cái tên Nguyễn Trãi.
Theo sách Khởi nghĩa Lam Sơn của tác giả Phan Huy Lê và Phan Đại
Doãn, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Nhân văn, Hà Nội, 1998 và bản dịch
Lam Sơn thực lục của Mạc Bảo Thần, Nhà xuất bản Tân Việt, 1943 thì danh
sách 18 người có mặt trong hội thề Lũng Nhai cùng Lê Lợi cắt máu ăn thề
nguyện cùng sống chết đánh giặc cứu nước cũng có tên Nguyễn Trãi.
Tuy nhiên, theo danh sách ở cuốn Lam Sơn thực lục của Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội 2006, thì danh sách này không có cái tên Nguyễn
Trãi quen thuộc ta vẫn thường biết đến từ trước đến nay, mà thay vào đó
là cái tên Nguyễn Tiến “rất xa lạ” với chúng ta bây giờ.
Vậy, thực ra Nguyễn Trãi có tên trong danh sách hội thề Lũng Nhai năm 1416 hay không? Nguyễn Tiến là ai?
Trước hết tôi xin được đưa ra một vài lời dẫn và một số ý kiến nhỏ của cá nhân tôi như sau:
Sách: Truyền thuyết và cổ tích Lam Sơn của Ty Văn hoá Thanh Hoá xuất
bản năm 1973 và sách: Những mẫu chuyện lý thú về cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn của tác giả Trịnh Mạnh, Nhà xuất bản giáo dục, năm 2007 có mẫu
chuyện ghi việc Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đi tìm minh chủ và gia
nhập nghĩa quân Lam Sơn. Trong hai cuốn sách này đều ghi khi Nguyễn Trãi
đi tìm minh chủ và gia nhập nghĩa quân Lam Sơn thì ông đi cùng Trần
Nguyên Hãn.
Cũng theo hai cuốn sách này thì khi Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn
vào đất Lam Sơn, Trần Nguyên Hãn đã phải cải trang thành một người bán
dầu và Nguyễn Trãi cải trang thành một chàng thư sinh để che mắt giặc
Minh.
Như chúng ta đã biết, Trần Nguyên Hãn là người ở xã Sơn Đông, nay
thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, thuộc dòng tộc con cháu nhà hậu
Trần. Vì nhà Trần mất, ông bất mãn với việc giặc minh xâm lược đã đàn áp
và bóc lột nhân dân ta tàn bạo nên đã nuôi chí quyết chống giặc cứu
nước. Biết Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở đất Lam Sơn chống lại giặc Minh
nên ông đã cùng Nguyễn Trãi từ Đông Quan vào Lam Sơn tìm minh chủ và gia
nhập nghĩa quân.
Vậy, Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đã gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trong thời gian nào?
Có tài liệu cho rằng Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn gia nhập nghĩa
quân Lam Sơn vào năm 1420, cũng có tài liệu lại nói là năm 1423.
Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ và Nguyễn Án chép rằng
Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến gặp Lê Lợi hai lần. Lần thứ nhất hai
ông đến rồi bỏ về khi thấy Lê Lợi ngồi trong góc cửa, quần vén lên tận
đùi, một chân duỗi dọc, tay xách chiếc đùi lợn, tay kia cầm dao xẻo ăn
một cách thô lậu. Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi thấy vậy đều thở dài và
chê Lê Lợi là phường tầm thường, ham ăn ham uống nên sáng hôm sau cả
hai đến cáo từ Lê Lợi, nói dối là xin phép về thăm quê rồi bỏ đi (Cũng
có tài liệu cho rằng khi thấy Lê Lợi cầm cả cái đùi lợn xẻo ăn trong
ngày giỗ nên hai ông định bỏ về nhưng sau đó lại ở lại). Trên đường đi
hai người ghé nghỉ quán trọ vì trời đã tối và nghe được lời bàn của hai
tên lính Minh xem thiên văn đoán vận nước Nam thì nghe được một người
nói: Vua nước Nam là một viên hổ tướng đa sát, mà việc ăn uống thì có
phần sỗ sàng thô lậu. Nghe vậy Trần Nguyên Hãn giật mình, sáng mai bàn
với Nguyễn Trãi và hai người trở lại đất Lam Sơn. Trên đường đi hai
người thấy đâu cũng nghe người ta ca ngợi đức tính và lòng hào hiệp của
Lê Lợi. Lần này, sau khi ở lại xem xét kỹ và để ý thấy Lê Lợi thường đêm
khuya nghiền ngẫm binh thư, lương thực nhập xuất bất thường, binh khí
thì thường xuyên rèn rũa bổ sung, lại thấy thường lúc nửa đêm về sáng là
lúc Lê Lợi vắng nhà nên Nguyễn Trãi rắp tâm theo dõi thì bắt gặp Lê Lợi
đang bàn việc quân ở Du Sơn (núi Dầu). Khi Nguyễn Trãi nghe Lê Lợi dự
tính là sẽ khởi binh vào năm Hợi (1419) thì từ bên ngoài Nguyễn Trãi mới
cất lời: Chúa công tính nhầm rồi! Nguyễn Trãi bước vào trình bày rõ lai
lịch của mình và tính lại cho mọi người nghe rồi tất cả tôn Lê Lợi làm
chủ tướng. Như vậy thì ta có thể tạm khẳng định là Nguyễn Trãi và Trần
Nguyên Hãn gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trước khi khởi nghĩa Lam Sơn nổ
ra chứ không phải đến năm 1420 hoặc 1423 như một số tài liệu đã nói.
Đương nhiên nói như vậy không có nghĩa là Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn
gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trước sự kiện “Hội thề Lũng Nhai”.
Sự kiện, khi Nguyễn Trãi vào gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và tìm minh
chủ Lê Lợi nhưng chưa thực sự tin tưởng vào con người Lê Lợi có thể làm
một lãnh tụ qua việc ông và Trần Nguyên Hãn thấy Lê Lợi một tay cầm
dao, tay kia cầm chiếc đùi lợn, quần vén đến tận đùi, một chân duỗi dọc
ngồi trong góc nhà xẻo ăn một cách thô lậu trong ngày giỗ nên hai ông đã
lấy cớ để bỏ về. Trên đường về, tình cờ nghe được lời bàn tán của hai
tên lính Minh trong quán trọ về Thiên văn và nói đến việc thời vận có
nói rằng: Vua nước Nam là một viên hổ tướng đa sát, mà việc ăn uống thì
có phần sỗ sàng thô lậu nên hai ông đã quay trở lại Lam Sơn. Tuy nhiên,
lần này quay lại, Nguyễn Trãi đã để ý rất kỹ Lê Lợi và thường theo dõi
hành tung của ông. Trong một lần theo dõi Lê Lợi thì ông đã bắt gặp Lê
Lợi đang bàn việc quân ở Du sơn và lúc này Lê Lợi mới để ý đến Nguyễn
Trãi. Từ khi Nguyễn Trãi nghe Lê Lợi bàn với các tướng sĩ là dự định sẽ
khởi binh vào năm Hợi (1419) thì ông mới bắt đầu được tham dự bàn luận
việc quân cơ. Đặc biệt, khi Nguyễn Trãi dâng Bình Ngô sách thì ông mới
được trọng dụng vì lúc này Lê Lợi mới biết đến tài năng của ông. Điều
này chứng tỏ việc Lê Lợi biết đến Nguyễn Trãi và để ông tham dự việc
quân cơ đã là lúc Lê Lợi sắp khởi binh chứ không phải Nguyễn Trãi được
Lê Lợi biết đến và trọng dụng ông trước hoặc trong hội thề Lũng Nhai.
Theo gia phả họ Đinh Liệt thì vào mùa Xuân năm 1423, trong khi Lê
Lợi sai Phạm Văn Xảo đi tìm Nguyễn Trãi ở Đông Quan thì lúc này Nguyễn
Trãi và Trần Nguyên Hãn đã đi tìm đến với Lê Lợi rồi. Nguyễn Trãi lấy
tên là Trần Văn và Trần Nguyên Hãn lấy tên là Trần Võ. Tuy nhiên thì ban
đầu vì chưa rõ lai lịch nên Nguyễn Trãi chỉ được giao làm Ký lục quân
lương, Trần Nguyên Hãn thì chở thuyền do phía Lam Sơn. Sau này, khi
Nguyễn Trãi dâng “Bình Ngô sách” thì Lê Lợi mới nhận ra tài năng và học
vấn của hai ông và hai ông mới được trọng dụng.
Như vậy thì có lẽ Nguyễn Trãi phải gia nhập nghĩa quân Lam Sơn trước
năm 1418 nhưng điều đó không có nghĩa là Nguyễn Trãi gia nhập nghĩa
quân Lam Sơn trước khi hội thề Lũng Nhai diễn ra và Nguyễn Trãi cũng có
mặt trong hội thề Lũng Nhai.
Một vấn đề nữa là: vì Nguyễn Trãi khi vào Lam Sơn gia nhập nghĩa
quân đi cùng Trần Nguyên Hãn thì lẽ nào Nguyễn Trãi có mặt trong hội thề
Lũng Nhai mà Trần Nguyên Hãn lại không có mặt trong hội thề?
Như chúng ta đã biết thì đa số các tướng sĩ ban đầu của nghĩa quân
Lam Sơn là những người họ hàng thân thích cũng như bạn bè thân hữu xa
gần của Lê Lợi nên ta có thể khẳng định cái tên Nguyễn Tiến phải là một
trong số những người bà con thân thích hoặc bạn bè quanh vùng của Lê Lợi
chứ không thể là một người xa lạ được.
Theo sách Lam Sơn thực lục của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội
2006 thì đã có sự nhầm lẫn giữa chữ Trãi và chữ Tiến của dịch giả trong
khi dịch Lam Sơn thực lục.
Cũng theo sách này thì Nguyễn Tiến người lộ Khả Lam (nơi đây có lẽ
thuộc vùng đất thượng du của tỉnh Thanh Hoá ngày nay). Tuy nhiên, về
thân thế, sự nghiệp cụ thể hơn về Nguyễn Tiến thì cho đến nay vẫn chưa
tìm thấy được tài liệu nào.
Điều này tôi cho là phù hợp bởi lý do: lực lượng ban đầu của nghĩa
quân Lam Sơn là rất ít và lực lượng này là bạn bè thân hữu và người
trong gia tộc hoặc những người Lê Lợi đã quen biết từ trước. Vì ban đầu
để chuẩn bị cho việc khởi nghĩa chống giặc Lê Lợi chưa thể phát động
hưởng ứng rộng rãi trong toàn dân mà vẫn còn trong bí mật xây dựng lực
lượng. Chỉ đến khi lực lượng của nghĩa quân đủ đáp ứng được cho việc
khởi binh thì mới có thể công bố rộng rãi được.
Như vậy ở đây có thể trong khi dịch Lam Sơn thực lục đã xảy ra sự
nhầm lẫn trong khi dịch là rất lớn. Bởi trong chữ Hán thì chữ Trãi và
chữ Tiến có thể nói là gần giống nhau.
Trên đây là một số lời dẫn và ý kiến của cá nhân tôi về việc Nguyễn
Trãi có mặt trong hội thề Lũng Nhai hay không. Rất mong được sự quan tâm
bàn luận, góp ý và đánh giá của độc giả, các nhà chuyên môn, nhà nghiên
cứu...về vấn đề này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét