Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2018

NỖI NIỀM OAN KHUẤT 36

-Cách mạng Việt Nam gồm hai cuộc cách mạng hợp thành: Cách mạng giải phóng dân tộc và Cách mạng vô sản
-Cách mạng giải phóng dân tộc đã hoàn thành một cách vẻ vang và đầy tự hào.
-Thực tế xã hội đã phơi bày: Cách mạng vô sản đã không những bên bờ thất bại không thể cứu vãn, mà còn có "thành tựu" làm hình thành tầng lớp "tư sản đỏ" từ những người cộng sản do chính cách mạng đào tạo, không những không tạo ra được những nét ưu việt nổi bật của hình thái kinh tế xã hội mới (chủ nghĩa cộng sản),mà còn phải duy trì hình thái kinh tế xã hội cũ (chủ nghĩa tư bản) để mưu cầu tồn tại.
-Phải có lửa thì mới có khói! Cây ngay thì không sợ chết đứng, nhưng cây đã ngay chưa?
-Tội lỗi lớn nhất của những kẻ cộng sản thoái hóa là không những không tin, mà còn phá vỡ không thể phục hồi được lòng tin phải tốn biết bao xương máu mới bồi đắp nên được của quần chúng cần lao đối với Đảng cộng sản. 
-Điều đó gợi ý cho những người cộng sản chân chính phải xét lại nền tảng lý luận của triết học Mác - Lênin và tìm con đường khác để đến với chủ nghĩa cộng sản.
-Muốn thế, điều trước tiên là phải để trí não thoáng đãng, tâm hồn rộng mở, suy tư trên tinh thần tất cả là của dân, do dân và vì dân.

----------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
                                 160 ha đất tại Thủ Thiêm đã bị “biển thủ” thế nào? | VTC1
 
Nữ Anh Hùng Thủ Thiêm kể lại giây phút đệ tử Lê Thanh Hải, Tất Thành Cang gài bẫy để bắt giam

Tư tưởng Hồ Chí Minh về "lấy dân làm gốc"

Phạm Bá Lượng(*)

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 2 (165), tháng 2 - 2005
“Lấy dân làm gốc” là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo Người, để thực sự “lấy dân làm gốc”,  chúng ta cần: Một là, tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; hai là, làm tốt công tác dân vận và ba là, nâng cao trách nhiệm của nhân dân đối với sự nghiệp cách mạng. Trong điều kiện hiện nay, phát huy quyền làm chủ của nhân dân được coi là một biểu hiện tập trung của tư tưởng “lấy dân làm gốc”, là một yếu tố bảo đảm sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Thực tiễn lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã cho thấy, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, hiếm có dân tộc nào trên thế giới phải trải qua nhiều cuộc kháng chiến trường kỳ để bảo vệ độc lập, chủ quyền như Việt Nam. Từ những phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, đến ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông - của nhà Trần, cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược thời nhà Lê, rồi phong trào Tây Sơn đánh bại quân Thanh và hơn 80 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược... đã thể hiện rõ điều đó. Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân ta lại tiếp tục bước vào cuộc kháng chiến ròng rã 9 năm chống thực dân Pháp và sau đó, 20 năm chống đế quốc Mỹ và tay sai. Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất và dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong toàn bộ quá trình lịch sử ấy, bài học "lấy dân làm gốc" vừa là nền tảng, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt.
Trong quan niệm truyền thống của người Việt Nam, vai trò của quần chúng nhân dân luôn được đề cao, thể hiện trong các tư tưởng "dĩ nông vi bản", "dĩ dân vi bản"; "dân như nước; chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân; thuyền bị lật mới biết sức dân mạnh như nước" v.v.. Mặc dù vậy, quan niệm về vai trò của "dân" ở đây mới chỉ dừng lại ở "dân bản" chứ chưa đạt tới trình độ "dân chủ", chưa mở rộng thành quyền làm chủ xã hội của dân. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin được Hồ Chí Minh du nhập và truyền bá vào Việt Nam, tư tưởng "dĩ nông vi bản", "dĩ dân vi bản" mới mang một hình thức hiện đại với nội dung toàn diện hơn, khoa học hơn, có tính phổ quát và hệ thống hơn. Sự phát triển mới về chất trong quan niệm về vai trò của dân không dừng lại ở giới hạn "dân bản", mà quan trọng hơn, nó được mở rộng thành "dân chủ"; dân không những là nền tảng, hơn thế, còn là người làm chủ đất nước. Toàn bộ di sản tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh luôn thể hiện rõ quan điểm "lấy dân làm gốc".
Hồ Chí Minh đã tiếp thu những quan điểm sâu sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, coi quần chúng nhân dân là lực lượng lao động cơ bản của xã hội, là chủ thể sáng tạo nên lịch sử; coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và không có quần chúng nhân dân thì cũng không có lịch sử; coi mọi biểu hiện phê phán hoặc lên án quần chúng nhân dân là hành vi phê phán và lên án lịch sử, bởi vì, lịch sử và quần chúng nhân dân không tách rời nhau. Quần chúng nhân dân đóng vai trò là lực lượng quyết định sự thành bại của mọi cuộc cách mạng trong lịch sử. Hoạt động lịch sử càng đi vào chiều sâu thì khối quần chúng lấy hoạt động đó làm sự nghiệp của mình cũng do đó mà trưởng thành lên. Vai trò của quần chúng nhân dân ngày càng tăng lên trong lịch sử; quy mô, tầm vóc của các sự kiện lịch sử tuỳ thuộc vào lực lượng quần chúng tham gia vào rộng hay hẹp, nhiều hay ít... Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quán triệt sâu sắc bài học "lấy dân làm gốc" và nêu cao tư tưởng cách mạng là của dân, do dân và vì dân. Người cho rằng, “… cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”(1) và xác định: lực lượng chính trong công cuộc kháng chiến kiến quốc là nhân dân.
Kế thừa và phát triển tư tưởng "dĩ dân vi bản" trong truyền thống lịch sử của dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định: Dân là "gốc của nước", gốc có vững thì cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Từ chỗ coi "Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó"(2), Người dạy cán bộ: "Quan tâm đến đời sống của quần chúng thì quần chúng sẽ theo ta, ta được lòng dân thì ta không sợ gì cả, nếu không được lòng dân thì ta không thể làm tốt công tác"(3).
Khi đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ"(4) và do vậy, "Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(5). Người còn giải thích rõ: dân chủ nghĩa là dân là chủdân làm chủ. Xác định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng, có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân tham gia vào sự nghiệp cách mạng và đưa sự nghiệp đó tiến lên. Rằng, trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn"(6). Do đó, Người yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người căn dặn cán bộ, đảng viên rằng, mỗi cán bộ trước hết là người "đầy tớ của dân" nên phải hết lòng phục vụ nhân dân, đồng thời là người lãnh đạo hướng dẫn nhân dân nên phải có trí tuệ hơn người, biết nhìn xa trông rộng và phải gần gũi nhân dân.
Không chỉ đề cao vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ, Hồ Chí Minh còn luôn nhấn mạnh đến trách nhiệm, nghĩa vụ làm chủ của mỗi người dân; gắn thực hiện dân chủ với xây dựng ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành kỷ cương, luật pháp của nhà nước dân chủ. Dân chủ là một trong những quyền lợi căn bản mà sự nghiệp đấu tranh cách mạng mang lại cho nhân dân lao động, bởi vậy, thành quả đó cần được giữ gìn, bảo vệ. Người viết: "Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân, chuyên chính là cái khoá, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khoá, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết… Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ"(7).
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, để thực sự "lấy dân làm gốc", cần phải:
Thứ nhất, luôn tôn trọng và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; phải lấy mục đích bảo vệ cho nhân dân sống yên vui, hạnh phúc làm đầu, phải vì lợi ích của nhân dân mà phục vụ; lấy niềm vui, hạnh phúc của nhân dân làm lẽ sống của mình. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về sự phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Đối với cán bộ, Người thường xuyên nhắc nhở rằng, việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh. Rằng, "Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta"(8); "Phải yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Tuyệt đối không được lên mặt "quan cách mạng" ra lệnh ra oai"(9). Đặc biệt, cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu hiện xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của dân, những thói mệnh lệnh, cửa quyền, ức hiếp nhân dân, không chú ý giải quyết những kiến nghị của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, bảo vệ lợi ích của nhân dân còn là tiêu chí để phân biệt bạn, thù. Người khẳng định: "… ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù"(10).
Thứ hai, làm tốt công tác dân vận. Điều đó có nghĩa là, phải "vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho"(11). Đối với công tác đặc biệt quan trọng này, Hồ Chí Minh thường căn dặn cán bộ: làm dân vận phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ; không được lãnh đạo chung chung. Người cán bộ phải thường xuyên đi xuống dân, gắn bó với dân; tăng cường đối thoại với nhân dân, trực tiếp gặp gỡ, hỏi han và bàn bạc với dân, để nghe dân nói, xem dân làm, thấy được cách sinh hoạt, làm việc, cuộc sống của dân, và quan trọng hơn là đi sâu tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, thắc mắc của họ, biết họ đang nghĩ gì, cần cái gì, muốn cái gì, lo cái gì v.v.. Từ đó, đề ra hoặc sửa đổi, bổ sung chủ trương, chính sách làm cho ý Đảng, lòng dân thống nhất, hoà quyện với nhau. Mục đích của các hoạt động đó là nhằm xây dựng, củng cố mối quan hệ đoàn kết, gắn bó giữa các giai cấp, tầng lớp để tạo ra phong trào cách mạng sâu rộng và phát huy sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân. Người khẳng định: khi đã được dân đồng tình, ủng hộ thì mọi việc sẽ thành công.
Thứ ba, phải nâng cao ý thức cảnh giác của nhân dân đối với những âm mưu phá hoại, những luận điệu xuyên tạc, chống phá mà các thế lực thù địch có thể tuyên truyền trong quần chúng nhân dân hòng hạ thấp uy tín của Đảng, làm cho nhân dân mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, kích động nhân dân chống lại chế độ, gây mất ổn định chính trị và chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
Kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của ông cha ta trong việc an dân, trị quốc cũng như kinh nghiệm của cuộc đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã cho thấy, việc giữ dân, giành dân, an dân và đặc biệt là lấy dân làm gốc có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng và sự bền vững của chế độ. Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối phát động cuộc chiến tranh nhân dân của Đảng ta đã tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, giành lại độc lập và thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ngày nay, Đảng ta tiếp tục khẳng định lấy dân làm gốc là bài học kinh nghiệm hàng đầu, là cơ sở cho việc hoạch định đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, một trong bốn bài học lớn được Đảng rút ra là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Bài học này tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng. Đánh giá quá trình đổi mới, Đại hội lần thứ IX của Đảng một lần nữa khẳng định: "đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo"(12).
Có thể khẳng định rằng, chủ trương phát huy quyền làm chủ của nhân dân là quan điểm có tính cách mạng và khoa học, là biện pháp tích cực của Đảng trong quá trình phát triển xã hội theo nguyên tắc "lấy dân làm gốc". Việc mở rộng dân chủ hoá đời sống xã hội, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở... đã và đang phát huy vai trò làm chủ, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tuy nhiên, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong những năm vừa qua cũng còn một số yếu kém, hạn chế nhất định. Chẳng hạn, cơ chế thực hiện còn lúng túng, vận hành kém hiệu quả; phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" còn chưa đi sâu vào cuộc sống của người dân ở nông thôn và dường như mới dừng lại ở "dân làm" mà thôi. Tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, ức hiếp, trù dập quần chúng, không quan tâm đến những nguyện vọng chính đáng của quần chúng, coi thường kỷ cương phép nước của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức quyền nhưng đã thoái hoá, biến chất… khiến cho quần chúng nhân dân bất bình, bức bối, giảm niềm tin vào Đảng và Nhà nước, làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Tại Đại hội lần thứ IX, Đảng ta nhận định: "tình trạng tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong nhân dân"(13). Hơn 80 năm trước đây, khi đề cập đến vấn đề này ở nước Nga Xôviết, V.I.Lênin đã từng cảnh báo những người cộng sản rằng: nguy cơ lớn nhất của một đảng cầm quyền là quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng... Một khi không tập hợp được quần chúng thành một khối thống nhất, vững chắc... thì mọi hoạt động của Đảng sẽ vô cùng khó khăn. Ở nước ta, trong những năm qua, tình hình mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tình trạng khiếu kiện vượt cấp của nhân dân có xu hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải có sự đổi mới trong công tác lãnh đạo, quản lý xã hội và đặc biệt, phải quán triệt bài học "lấy dân làm gốc".
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta phải phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả sức mạnh to lớn của lực lượng đông đảo này. Thực tế cho thấy, “Chỉ có phát huy sức mạnh làm chủ của nhân dân mới có thể chống tiêu cực, chống suy thoái, chống tham nhũng có hiệu quả, nhằm củng cố Đảng, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, lành mạnh hoá các quan hệ xã hội”(14). Những kỳ tích của ông cha ta trong các cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như những thành tựu to lớn mà chúng ta đạt được trong những giai đoạn cách mạng trước đây đều xuất phát từ đường lối “lấy dân làm gốc”. Trong giai đoạn cách mạng mới, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị. Song, vấn đề không phải chỉ nêu lên khẩu hiệu “lấy dân làm gốc”, hay thực hiện nó một cách hời hợt, hình thức, thiếu triệt để. Điều quan trọng nhất là phải biến tư tưởng đó trở thành hiện thực, nó phải được thể hiện một cách sinh động, nhất quán trong hành động thực tiễn hàng ngày, hàng giờ của mỗi cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thực sự là “người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”; phải tôn trọng nhân dân, vừa lãnh đạo vừa phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa giáo dục vừa không ngừng học hỏi nhân dân; phải làm cho dân tin, dân yêu, dân ủng hộ; phải sống chan hoà với nhân dân, quan tâm đến đời sống của nhân dân, biết chia xẻ niềm vui, nỗi buồn cùng nhân dân, phải xây dựng cho mình tác phong, thái độ và hành động đúng với vị trí, vai trò của mình, xứng đáng là người mà nhân dân đặt trọn niềm tin cũng như giao phó trách nhiệm. Có như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ góp phần tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực và tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn và kiên trì thực hiện.


(*) Thạc sĩ, Phó chủ nhiệm Khoa Mác - Lênin và Khoa học xã hội nhân văn, Học viện An ninh nhân dân.
(1) Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.261, 262.
(2) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.20.
(3) Viện Khoa học Công an. Chủ tịch Hồ Chí Minh với Công an nhân dân. 1980, tr.63.
(4) Hồ Chí Minh. Sđd., t.6, tr.515.
(5) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.698.
(6) Hồ Chí Minh. Sđd., t.12, tr.249.
(7) Hồ Chí Minh. Sđd., t.8, tr.279 - 280.
(8) Hồ Chí Minh. Sđd., t.4, tr.57.
(9) Hồ Chí Minh. Sđd., t.10, tr.311.
(10) Hồ Chí Minh. Sđd., t.7, tr.454.
(11) Hồ Chí Minh. Sđd., t.5, tr.698.
(12) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.81.
(13) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.15.
 
Ông Tất Thành Cang gặp nạn: Dân Thủ Thiêm quay lợn ăn mừng

Lòng dân, ý Đảng và vận nước

NAM SƠN
 
Lệ nhòa đôi mắt người dân Thủ Thiêm

Lòng dân với ý Đảng đã giao hòa, mang lại niềm tin mới, khí thế mới. Ảnh: Song Anh

Xưa nay, cho dù phương Đông hay phương Tây, phương Nam hay phương Bắc, ở đâu cũng vậy, dân là gốc của nước. Dân làm nên nước bởi nước là do dân khai thác lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi, giữ gìn phên dậu, đánh đuổi ngoại xâm mà thành. Dân làm nên nước bởi dân lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất, dựng xây nên làng mạc, thành phố, sáng tạo nên nền văn hóa dân tộc, tạo nên hình hài và hồn cốt của nước. Dân có yên thì nước mới vững, dân có giàu thì nước mới mạnh, dân có trí thì nước mới thịnh. Bởi thế, lấy dân làm gốc là kế sách sâu rễ, bền gốc, giúp cho thái bình thịnh trị. Nên sau khi đánh thắng giặc ngoại xâm nhà Minh, Nguyễn Trãi mới nói lời gan ruột rằng “Phúc do thủy tín dân do thủy” (Lật thuyền mới biết sức dân là sức nước).

Nước ta xưa, trong đêm trường nô lệ 80 năm dưới sự áp bức của thực dân Pháp, biết bao nhiêu cuộc khởi nghĩa đều bị dìm trong bể máu, bao nhiêu phong trào đấu tranh đều bị thất bại, nhân dân vẫn chịu kiếp tôi đòi, đất nước vẫn chưa có tên trên bản đồ thế giới. Các cuộc khởi nghĩa hay các phong trào vận động đều thất bại chính bởi không tạo được niềm tin của dân, không tập hợp được lực lượng của nhân dân. Chỉ đến khi lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận học thuyết cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Đảng Cộng sản ra đời, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mới thật sự trở thành một phong trào cách mạng sục sôi trong cả nước, lôi cuốn nhân dân các dân tộc khắp mọi miền đứng lên. Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhân lên sức mạnh của nhân dân vĩ đại, tạo thành dòng thác lũ, băng qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác đến bến bờ thắng lợi cuối cùng, làm nên một Đại thắng mùa xuân 1975, quét sạch bóng quân thù trên toàn cõi, thu giang sơn về một mối, đưa cả nước đi lên con đường xây dựng CNXH.
Hơn 90 năm trước, khi chỉ ra “Đường cách mệnh” cho dân tộc, Bác Hồ đã nhấn mạnh: “muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền”. Chính là thấm nhuần bài học lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của dân làm mục tiêu đấu tranh, lấy hạnh phúc của dân làm mục đích phấn đấu, nên Đảng đã trở thành Đảng ta, Đảng của dân, nhất hô vạn ứng, đưa đường, dẫn lối nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Dân tin và theo Đảng đến cùng bởi ý Đảng hợp với lòng dân. Cho dù khó khăn hay gian khổ, tù đày hay hy sinh, lớp lớp người vẫn nối bước chân nhau, người trước ngã, người sau tiến lên, chiến đấu vì lý tưởng Đảng đã vạch ra. Đó cũng chính là ta đã có một đảng vững bền để “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Nước ta nay, đường lối Đổi mới của Đảng đã mở ra một thời kỳ phát triển mới, mang lại những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Từ một đất nước bị tàn phá kiệt quệ bởi 30 năm chiến tranh khốc liệt, ta đã vượt qua nghèo đói, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, xây dựng đất nước ngày càng to đẹp, đàng hoàng. Từ một quốc gia bị bao vây cấm vận, tưởng như không có đường ra, ta đã mở rộng vòng tay, kết nối bạn bè, làm ăn với các đối tác, giao lưu với các dân tộc, quốc gia, các nền văn hóa trên khắp năm châu, bốn biển, nâng cao vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Đất nước đang từng ngày, từng giờ thay da, đổi thịt. Nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn xưa. Bạn bè thế giới ngày càng trân trọng, đối tác quốc tế ngày càng tin cậy. Những thành tựu ấy đáng tự hào lắm chứ! Đó chính là kết quả của sự gặp gỡ giữa lòng dân với ý Đảng, là biểu hiện sức mạnh, trí sáng tạo của nhân dân được Đảng khai mở, phát huy trong xây dựng, phát triển!
Trong lúc toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang phấn khởi, hồ hởi trước những thành tựu của công cuộc Đổi mới, mang sức lực và trí tuệ thi đua lao động sáng tạo tiếp tục phấn đấu xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc thân yêu, thì ở đây đó, trong bóng tối của chủ nghĩa cá nhân, không ít kẻ đã lợi dụng quyền lực của Đảng và dân trao cho để mưu cầu thăng quan, phát tài, lách luật, vơ vét của dân, làm giàu hưởng lợi. Tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đã trở thành “giặc bên trong”, không chỉ làm suy kiệt nguồn lực, làm trầm trọng thêm những khó khăn của đất nước, mà nguy hại hơn, nó còn phá vỡ niềm tin của dân với Đảng. Lòng dân không tin, sức Đảng không vững, ấy là nguy cơ cho sự tồn vong của chế độ.
Nhưng, trong cái khó, ló cái khôn, trong tình huống thử thách phức tạp, Đảng càng thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, càng lắng nghe, thấu hiểu lòng dân. Đại hội XII của Đảng đã đặt một dấu mốc lịch sử trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chặn đứng nguy cơ làm suy yếu Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào sự nghiệp Đổi mới. Đảng khẳng định quyết tâm sắt đá thực hiện triệt để Nghị quyết T.Ư 4 khóa XI, về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, trong đó cấp bách nhất là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Trên diễn đàn Hội nghị T.Ư 6, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định một quy luật tồn tại của Đảng, một bài học lịch sử của cách mạng Việt Nam: “ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Các nghị quyết của Đảng nói tiếng nói của dân, thể hiện mong muốn của dân, vì lợi ích của dân. Lòng dân với ý Đảng đã giao hòa, mang lại niềm tin mới, khí thế mới. Niềm tin và khí thế mới của dân được nhân lên gấp bội khi Đảng thực hiện đúng lời dạy của Bác Hồ, “lời nói đi đôi với việc làm”.
Kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước được thực thi nghiêm khắc, không chừa bất cứ một vùng cấm nào, cho dù là đối với những người đã chui sâu, leo cao, giữ những vị trí quyền lực lớn hay đã về hưu, tưởng như theo lối nghĩ cũ đã “hạ cánh an toàn”.
Tại Hội nghị T.Ư 6, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt câu hỏi: “Vì sao việc xử lý một số vụ án, xử lý kỷ luật một số cán bộ, kể cả cán bộ cao cấp trong thời gian gần đây lại được đông đảo cán bộ, đảng viên, các đồng chí lão thành, cán bộ hưu trí và nhân dân đồng tình, ủng hộ đến như thế?”.
Câu hỏi đó cũng chính là sự khẳng định: Ý Đảng đang hợp lòng dân và lòng dân đã thể hiện niềm tin sắt son với Đảng. Ý Đảng với lòng dân gặp nhau và giao hòa ấy là vận nước đang lên, là nền tảng vững bền cho chế độ được củng cố, là cơ sở chắc chắn cho thắng lợi của sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
 
Dân mạng nói gì về vụ ném dép vào bà Quyết Tâm ở Thủ Thiêm?

Sáng mãi “Tư cách người Công an cách mệnh” theo Sáu điều Bác Hồ dạy

Thứ Bảy, 10/03/2018, 21:38:24
 Font Size:     |        Print
Trong di sản đồ sộ, hết sức quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng của Người về Công an nhân dân (CAND), về “Tư cách người Công an cách mệnh”, với cốt lõi là Sáu điều Bác Hồ dạy CAND có vị trí, vai trò hết sức quan trọng.
Ngày 11-3-1948, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn rất gay go, quyết liệt; từ chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ đã viết thư trả lời đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Công an Khu XII (1), cùng việc góp ý với Báo Bạn Dân (Nội san của Công an Khu XII) và động viên, khen ngợi, khích lệ tinh thần cán bộ, chiến sĩ, trong thư Bác đã căn dặn: “Công an của ta là Công an nhân dân, vì dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc. Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong”. Đặc biệt, Người chỉ dạy: “Tư cách người Công an cách mệnh là:
Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo.
Nói tóm lại là những đạo đức và tư cách mà người công an cách mệnh phải có, phải giữ cho đúng” (2).
Sáu điều Bác Hồ dạy CAND là sự tổng hợp biện chứng của nhiều yếu tố, nhiều phẩm chất của người công an cách mạng, đặt trong ba mối quan hệ cơ bản nhất của mỗi cán bộ, chiến sĩ công an, đó là quan hệ nội tâm, nội tại bên trong (đối với tự mình); quan hệ bên ngoài (đối với đồng sự, đối với Chính phủ, đối với nhân dân, đối với địch); quan hệ công việc (những việc mình cần làm, được làm, phải làm theo bổn phận, trách nhiệm theo phân công...). Tư cách người công an được xác định trong Sáu điều dạy của Bác tạo thành phẩm chất của người công an cách mạng, thống nhất về bản chất với tư cách của một người cách mạng, người đảng viên cộng sản; đồng thời, có những điểm riêng, xuất phát từ đặc thù của công tác công an và người làm công tác công an. Tư cách đó còn là sự thống nhất, kết hợp nhuần nhuyễn, không tách rời giữa đức và tài - những biểu hiện rõ nét về phẩm chất chính trị, tư cách đạo đức, năng lực phải có của người công an cách mạng; trong đó “đức” là gốc, là cơ sở, “tài” là trình độ, năng lực để hoàn thành nhiệm vụ một cách tốt nhất, có hiệu quả nhất.
Sáu điều Bác Hồ dạy CAND có nội dung hết sức sâu sắc, nhưng thật khái quát, súc tích, thâu tóm được những gì là tinh hoa, cốt yếu nhất trong tiếng nói của quần chúng để có cách truyền đạt gần gũi và hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ, chiến sĩ công an tiếp nhận, hình thành tư duy, cách ứng xử phù hợp trong công tác, chiến đấu. Trong đó, mỗi lời dạy là một sự gợi mở, kích thích ý thức tự giác, tinh thần cách mạng, đồng thời cũng là sự răn dạy đối với cán bộ, chiến sĩ công an.
Không chỉ kết hợp giữa yếu tố truyền thống dân tộc với yếu tố thời đại, Sáu điều Bác Hồ dạy CAND còn hàm chứa, hình thành, giữ gìn, khẳng định tính Đảng, tính giai cấp, tính nhân dân của CAND Việt Nam, góp phần quan trọng hình thành nên phong cách, bản lĩnh, văn hóa của người công an cách mạng. Chính vì lẽ đó, trong suốt 70 năm qua, kể từ khi bức thư lịch sử này của Bác Hồ đến với Công an Khu XII, Sáu điều dạy của Người đã lan tỏa nhanh chóng, sâu rộng, trở thành định hướng chỉ đạo công tác, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của lực lượng CAND. Học tập, làm theo Sáu điều dạy của Bác, CAND Việt Nam đã góp phần cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta lập nên những chiến công hiển hách trong đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đã xuất hiện nhiều tấm gương sáng của cán bộ, chiến sĩ CAND phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì bình yên cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân, trở thành biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh.
Thực tiễn thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy CAND cho thấy, quán triệt, làm theo những chỉ dạy của Người luôn là điều kiện bảo đảm có tính tiên quyết cho thành công trong công tác, chiến đấu và xây dựng lực lượng CAND. Đây chính là minh chứng, là lời khẳng định đặc biệt sâu sắc cho chân lý: Sáu điều Bác Hồ dạy CAND đã, đang và sẽ mãi là di sản tinh thần quý báu, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, công tác, chiến đấu và chiến thắng của lực lượng CAND anh hùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả to lớn đã đạt được, khi soi chiếu vào Sáu điều Bác Hồ dạy CAND, có thể thấy, hiện nay lực lượng CAND cũng còn những vấn đề cần phải quan tâm, chấn chỉnh, khắc phục. Đó là, công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng CAND ở một số đơn vị địa phương còn bộc lộ hạn chế, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Một bộ phận cán bộ, chiến sĩ có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, né tránh, ngại khó, ngại khổ, chưa thực sự trọng dân, gần dân, vì nhân dân phục vụ, kén việc, chọn vị trí công tác, ý thức tổ chức kỷ luật kém, đạo đức, lối sống sa sút, thoái hóa, biến chất, thái độ cửa quyền, hách dịch, gây phiền hà cho nhân dân; có những cá nhân vi phạm pháp luật phải xử lý kỷ luật, thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự, ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, hình ảnh và truyền thống của CAND, đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là do Công an các đơn vị, địa phương, nơi có vụ, việc xảy ra chưa nhận thức, quan tâm đầy đủ đến công tác xây dựng Đảng, xây dựng lực lượng; các cán bộ, chiến sĩ có khuyết điểm chưa thật sự thường xuyên tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống theo Sáu điều Bác Hồ dạy, chưa khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của Đảng, của lực lượng, chưa thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, thiếu tự trọng, tự tôn nghề nghiệp. Như vậy, nhanh chóng khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm nêu trên đang là một yêu cầu có tính cấp bách đặt ra cho lực lượng CAND.
Trong giai đoạn mới, công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, bên cạnh những thời cơ, vận hội, phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới, khu vực có xu hướng chủ đạo là hợp tác, phát triển nhưng cũng đan xen nhiều diễn biến phức tạp về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, chủ quyền, lãnh thổ. Ở trong nước, các thế lực thù địch luôn tận dụng những điều kiện khách quan, những sơ hở, thiếu sót của các cơ quan quản lý, vi phạm pháp luật và sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức để kích động, chống phá bằng những thủ đoạn mới, tinh vi, xảo quyệt, nhưng cũng rất manh động, nguy hiểm. Bên cạnh đó, tác động khắc nghiệt từ mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã làm cho một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân và thanh niên hình thành lối sống thực dụng, vị kỷ, phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ảnh hưởng tới sức mạnh và hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó có LLVT nhân dân.
Trong bối cảnh tình hình đó, để hoàn thành trọng trách mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, lực lượng CAND cần phối hợp chặt chẽ với Quân đội nhân dân (QĐND), với các ban, bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp, gắn bó mật thiết với nhân dân, có bước chuyển mình hơn nữa; phát huy truyền thống anh hùng cách mạng vẻ vang, không ngừng xây dựng lực lượng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, chính quy, hiện đại. Mỗi cấp ủy Đảng, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương và mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND phải tiếp tục tiên phong, gương mẫu đi đầu trong quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng LLVT nhân dân, trong đó có CAND; đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Sáu điều Bác Hồ dạy CAND. Cán bộ, chiến sĩ CAND phải là hình mẫu tiêu biểu về lòng trung thành vô hạn với Đảng, Nhà nước, Tổ quốc và nhân dân; về đạo đức, lối sống trong xã hội; về ý thức thượng tôn pháp luật; là hạt nhân xây dựng xã hội an ninh, an toàn, lành mạnh, “là đội quân tiên phong, gương mẫu, trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân; không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực công tác, ra sức giữ gìn, bảo vệ uy tín, sức mạnh của Đảng, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân” (3).
Lực lượng CAND vô cùng biết ơn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện để CAND thực sự là một trong những LLVT cách mạng, trưởng thành lớn mạnh như hôm nay. CAND vinh dự và tự hào có Sáu điều Bác Hồ dạy. Những lời chỉ dạy đó của Người cùng với sự quan tâm lãnh đạo của Đảng, quản lý, chỉ đạo của Nhà nước, sự yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, sự phối hợp chặt chẽ của các ban, ngành, chính quyền các cấp, sự phối hợp, hiệp đồng chiến đấu của các LLVT nhân dân, đặc biệt là QĐND, sự giúp đỡ chí tình của bạn bè quốc tế đã giúp cho CAND Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng, trong mọi hoàn cảnh, luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác, chiến đấu, thực sự là đội ngũ của những người chỉ biết còn Đảng thì còn mình.
Kỷ niệm 70 năm CAND thực hiện học tập, làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy (11-3-1948 - 11-3-2018) và hướng tới kỷ niệm 70 năm Ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi thi đua ái quốc (11-6-1948 - 11-6-2018), lực lượng CAND hôm nay càng nhận thức sâu sắc hơn bao giờ hết, việc học tập, làm theo Sáu lời dạy của Bác vừa là động lực, vừa là phương châm, điều kiện để CAND giữ vững bản chất giai cấp, cách mạng, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ nòng cốt bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong tình hình mới. Theo đó, Công an các đơn vị, địa phương và mỗi cán bộ, chiến sĩ công an cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về giá trị thời đại, tính chân lý, cách mạng, tính tất yếu của Sáu điều Bác Hồ dạy CAND trong giai đoạn hiện nay; quán triệt và thực hiện Sáu điều dạy của Bác đáp ứng cả yêu cầu tự bảo vệ và bảo vệ của CAND. Trên cơ sở đó hình thành trong cán bộ, chiến sĩ CAND - ngay từ khi bắt đầu tham gia lực lượng và trong suốt sự nghiệp - nhu cầu, ý thức tự giác, thường xuyên nghiên cứu, học tập, làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy CAND từ trong tâm thức, tình cảm, với động cơ trong sáng, không ngừng hoàn thiện mình để phụng sự Đảng, Nhà nước được nhiều hơn, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin yêu, phục vụ nhân dân tốt hơn; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác, chiến đấu trên mặt trận bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Không chỉ tổ chức quán triệt, nêu gương việc thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy trong toàn lực lượng CAND mà còn cần có thêm các hình thức, biện pháp tuyên truyền phù hợp, để động viên cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đồng thời, tăng cường khả năng giám sát của xã hội, của dư luận, nhân dân và các cơ quan, tổ chức đối với lực lượng CAND trong việc thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy.
Cấp ủy, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương, các tổ chức quần chúng trong CAND cần đặc biệt chú trọng việc học tập, thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy CAND gắn với quán triệt, học tập, thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, cùng Chỉ thị số 05/CT-TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Xây dựng phong cách người CAND bản lĩnh, nhân văn vì nhân dân phục vụ”. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý có hiệu quả những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, vô cảm với nhân dân. Xây dựng môi trường công tác, chiến đấu kỷ cương, kỷ luật, văn hóa, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, chiến sĩ tự tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao kiến thức lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, pháp luật, đối ngoại, xây dựng người Công an Việt Nam phát triển toàn diện, đẹp trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế.
Để việc quán triệt, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND, về “Tư cách người Công an cách mệnh”, Sáu điều Bác Hồ dạy CAND có hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà trường CAND cần tích cực, chủ động phối hợp các nhà khoa học trong và ngoài lực lượng CAND, cơ quan quản lý giáo dục thực hiện biên soạn giáo trình, tài liệu học tập, đưa vào chương trình giảng dạy cho các loại hình đào tạo, bồi dưỡng trong CAND cũng như cho việc bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh nói chung, một học phần, môn học: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND” với cốt lõi là Tư cách người Công an cách mạng, Sáu điều Bác Hồ dạy CAND. Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận tư tưởng Hồ Chí Minh về CAND trong tình hình hiện nay, coi đây là một hướng ưu tiên trong nghiên cứu lý luận chính trị CAND. Cùng với đó, mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND cần thật sự xứng đáng là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, dân vận của Đảng, tăng cường công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, luận điệu xuyên tạc, bảo vệ nền tảng học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
(1) Trụ sở Công an khu XII đặt tại Chùa Tứ Giáp ở xã Nhã Nam thuộc huyện Yên Thế (nay là huyện Tân Yên), tỉnh Bắc Giang.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, H. 1995; tr. 406-407.
(3) Phát biểu chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 73, Hà Nội ngày 15, 16-1-2018.
Thượng tướng, GS, TS TÔ LÂM
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ trưởng Công an
 
ĐỐI THOẠI BÍ THƯ TP HCM KHÓC CẢ NGÀN DÂN THỦ THIÊM XÚC ĐỘNG

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân*

10:29, 20/04/2015

I- NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA HỒ CHÍ MINH
1. Quá trình lựa chọn kiểu nhà nước ở Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Quá trình hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với những nhận thức, tìm kiếm, lựa chọn một hình thức, chế độ nhà nước thích hợp, thúc đẩy dân tộc Việt Nam phát triển theo đúng quỹ đạo tiến bộ xã hội. Ngay ở tuổi trưởng thành, trên quê hương mình, Hồ Chí Minh đã thấy rõ bộ mặt phản nhân tính của nhà nước thực dân phong kiến. Đó là hình thức nhà nước xấu xa, tồi tệ nhất mà nhân loại từng biết đến, nhưng lại là một sản phẩm tất yếu của hệ thống tư bản chủ nghĩa thế giới. Toàn bộ bản chất thật sự của nhà nước đó được Hồ Chí Minh bóc trần, lên án gay gắt trong nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết, trước hết là tác phẩm  Bản án chế độ thực dân Pháp.  Từ đó, Hồ Chí Minh đặt vấn đề về sự cần thiết phải lật đổ nhà nước thối nát đó, nhưng bằng cách nào, con đường nào, lấy gì để thay thế nó thì Người chưa có sẵn một câu trả lời.
Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác – Lênin, là lý luận cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Được soi sáng bởi phương pháp luận biện chứng mácxít, thông qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh đã phát hiện vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận hành, trên cơ sở phân tích, so sánh và đặt chúng trong dòng chảy liền mạch của tiến bộ lịch sử. Trong quá trình khảo cứu, Hồ Chí Minh chú ý tìm hiểu hai loại hình nhà nước hiện thời: Nhà nước dân chủ tư sản mà những đại diện tiêu biểu là Mỹ, Pháp và nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời từ Cách mạng Tháng Mười 1917.
Trong nhận thức của Hồ Chí Minh, nhà nước tư sản dù ở Mỹ hay ở Pháp, mặc dầu đã xác lập được một hệ thống giá trị theo các chuẩn mực dân chủ và nhân đạo, nhưng về thực chất vẫn là công cụ thống trị của một số người, vì lợi ích của thiểu số; đại bộ phận dân chúng vẫn bị bóc lột, nô dịch cả ở chính quốc lẫn ở các nước thuộc địa. Tính chất phiến diện nửa vời, không triệt để của nhà nước dân chủ tư sản, ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những đối kháng không thể điều hòa và chắc chắn sẽ là nguyên nhân làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai. Cái gọi là “thiên đường của dân chủ, tự do”, lý tưởng bình đẳng, bác ái chỉ còn là những ngôn từ sáo rỗng, không có nội dung xã hội xác thực. Vì vậy, mục đích giải phóng và phát triển của xã hội Việt Nam không thể lựa chọn và đi theo kiểu nhà nước đó. Những nhận xét và khảo nghiệm của Hồ Chí Minh về nhà nước tư sản mang tính cách mạng, khoa học, có ý nghĩa phương pháp luận to lớn và ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Đối lập với nhà nước tư sản là nhà nước Xôviết còn non trẻ, nhưng đã bộc lộ sức sống và những ưu thế nổi trội của mình, hướng vào phục vụ quần chúng công - nông - binh, thật sự vì lợi ích của họ. Đây chính là loại hình nhà nước của chế độ xã hội mới mà cách mạng Việt Nam phải đi theo. Như vậy, bằng những khảo nghiệm thực tiễn, với tư duy chính trị nhạy cảm, sắc sảo, vào những năm 20 của thế kỷ trước, Hồ Chí Minh đã quyết định lựa chọn con đường Cách mạng Tháng Mười, kiểu nhà nước theo học thuyết Mác - Lênin. Câu hỏi về con đường xóa bỏ nhà nước thực dân phong kiến và lấy gì để thay thế đã tìm được lời giải xác đáng. Để lựa chọn kiểu nhà nước theo xu thế vận động của lịch sử, Hồ Chí Minh dựa trên hai cơ sở chính. Đó là tính chất nhân dân và khả năng của nhà nước trong việc bảo đảm cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, thoả mãn các “nhu cầu trần thế” của nhân dân và con người. Ở Hồ Chí Minh, việc lựa chọn kiểu nhà nước gắn bó chặt chẽ với mục tiêu giải phóng con người và phát triển xã hội.
Tính chất sáng tạo độc đáo của Hồ Chí Minh là việc vận dụng kinh nghiệm Xô viết để kiến tạo, xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Về mục đích, nguyên tắc, Người trung thành với “mô hình Xôviết”, nhưng lại có bước đi, cách làm độc lập, không giáo điều, rập khuôn. Có thể nói, Hồ Chí Minh chỉ lĩnh hội cái “tinh thần Xôviết” để định hình “mô hình Nhà nước Việt Nam”. Chính vì thế, năm 1941, khi về nước, trong quá trình xây dựng căn cứ địa cách mạng, Hồ Chí Minh không chủ trương xây dựng các Xôviết đã từng xuất hiện trong phong trào Xôviết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931) mà thành lập Ủy ban Việt minh, Ủy ban giải phóng và Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh, liên tỉnh. Giữa năm 1945, khu giải phóng Việt Bắc đã hình thành chính quyền hoàn chỉnh. Đồng bào toàn khu được hít thở không khí tự do, tự tổ chức đời sống của mình, từ sản xuất, đánh giặc, quản lý mọi mặt đời sống xã hội đến bảo vệ chính quyền. Bằng công tác thực tiễn chu đáo, thiết thực, các ủy ban nhân dân, chính quyền kiểu mới cắm rễ trong lòng quần chúng, tạo nên uy tín và sức mạnh. Chính phủ lâm thời (Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam) do Đại hội quốc dân Tân Trào bầu ra (16-8-1945) và Nhà nước hình thành theo quy định của Hiến pháp 1946 đều tiếp tục truyền thống này, thực sự là một nhà nước dân chủ nhân dân.
2. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - những nét khái quát về sự ra đời và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đưa đến sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh, đứng đầu và là linh hồn của nhà nước đó.
Sau khi đọc bản  Tuyên ngôn độc lập  lịch sử ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh công bố danh sách Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nội các quốc gia thống nhất do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, đồng thời kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao.
Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 3-9-1945, Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó nhiệm vụ thứ ba là “tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu” làm cho Nhà nước ta trở thành nhà nước dân chủ, hợp hiến. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, ngay từ những ngày đầu tiên, chính quyền mới đã hướng vào giải quyết và thỏa mãn các nhu cầu tối cần thiết của nhân dân.
Cuộc tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã được tổ chức thắng lợi vào ngày 6-1-1946, trong điều kiện cả nước đang chuẩn bị kháng chiến. Quốc hội khóa I có 333 đại biểu, sau bổ sung 70 đại biểu gồm 20 đại biểu thuộc Việt Nam cách mạng đồng minh hội và 50 đại biểu của Việt Nam quốc dân đảng. Đánh giá về Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong cuộc Toàn quốc đại biểu đại hội này, các đảng phái đều có đại biểu mà đại biểu không đảng phái cũng nhiều, đồng thời phụ nữ và đồng bào dân tộc thiểu số cũng đều có đại biểu. Vì thế cho nên, các đại biểu trong Quốc hội này không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại biểu cho toàn thể quốc dân Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lượng của toàn dân Việt Nam đã kết lại thành một khối” (1) .
Quốc hội cử ra Chính phủ chính thức của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, gồm 22 thành viên, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Đây là Chính phủ kháng chiến và kiến quốc. Để củng cố chính quyền và quản lý đất nước, Hồ Chí Minh ý thức rất rõ tầm quan trọng của Hiến pháp. Ngày 20-9-1945, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên, do Người làm Trưởng ban. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh, đến tháng 10-1946, bản Dự thảo hiến pháp đã hoàn thành. Quốc hội khóa I nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong phiên họp ngày 9-11-1946, đã chính thức thông qua bản dự thảo Hiến pháp. Đó là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Sau này, vào cuối những năm 50, cũng chính Hồ Chí Minh lãnh đạo và chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp 1959, làm cơ sở pháp lý cho đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, Nhà nước Việt Nam ngày càng được củng cố và hoàn thiện về các mặt: lập pháp, hành pháp và tư pháp, thật sự là công cụ quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích và nguyện vọng của toàn dân tộc. Trong xây dựng và lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh đã tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có phân công, phân nhiệm rõ ràng nhằm thực hiện mục tiêu dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Căn cứ vào các nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ, Người đã chỉ đạo tổ chức bộ máy nhà nước gọn, nhẹ, thích hợp, đủ năng lực và trí tuệ quản lý đất nước.
Hồ Chí Minh luôn luôn căn dặn cán bộ chính quyền, đoàn thể phải tin ở dân, vì khả năng của dân là to lớn, là vô tận. Trong toàn bộ hoạt động của mình với cương vị là người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định tư tưởng nước lấy dân làm gốc, lợi ích của nhân dân là trước hết và trên hết, nhiệm vụ của chính quyền và đoàn thể là phụng sự nhân dân.
Qua thực tiễn lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh nhìn thấy rất rõ những căn bệnh phát sinh làm hủy hoại và biến dạng Nhà nước. Người kiên quyết chống lại, cảnh báo nhiều nguy cơ, đề xuất các giải pháp thiết thực, trừng trị nghiêm khắc các cán bộ thoái hóa, biến chất, đảm bảo cho Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh.
Trong 24 năm đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng các thiết chế, thể chế và cơ chế dân chủ, khơi nguồn truyền thống dân chủ ở Việt Nam. Đặc biệt, Người đã để lại một tấm gương sáng về đạo đức liêm khiết, trong sạch, hết lòng phục vụ nhân dân, vì dân, vì nước và một phong cách lãnh đạo đặc sắc - phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh.
II- NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
1. Nhà nước do nhân dân làm chủ
Xây dựng một nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là tư tưởng nhất quán trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Đây cũng là một kết luận mà Người rút ra khi khảo sát các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nga. Nhà nước Việt Nam kiểu mới thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc trong đó công, nông là gốc và trí thức ngày càng có vị trí quan trọng đặc biệt khi đất nước bước vào thời kỳ xây dựng. Tất cả mọi người dân Việt Nam, không phân biệt gái trai, giàu nghèo, nòi giống, dân tộc, tôn giáo... đều là người chủ của Nhà nước, có trách nhiệm xây dựng Nhà nước. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, Hồ Chí Minh khẳng định: Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” (2) .
Tính chất dân chủ nhân dân là đặc trưng nổi bật của chính quyền nhà nước kiểu mới. Trong nước ta, nhân dân là người nắm giữ mọi quyền lực, còn các cơ quan nhà nước do nhân dân tổ chức ra, nhân viên nhà nước là người được ủy quyền, thực hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân, trở thành công bộc của nhân dân. Thể chế dân chủ cộng hòa đã làm thay đổi tận gốc quan hệ quyền lực chính trị và thực hiện quyền lực, nhân dân được đặt ở vị trí cao nhất, nhà nước không còn là công cụ thống trị, nô dịch dân như trong thời phong kiến, tư bản.
Nhà nước dân chủ nhân dân do nhân dân trực tiếp tổ chức, xây dựng thông qua tổng tuyển cử phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh nhận thức tổng tuyển cử là một quyền chính trị mà nhân dân giành được qua đấu tranh cách mạng, là hình thức dân chủ, thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử... Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là chính phủ của toàn dân” (3) . Thông qua việc bầu Quốc hội và Chính phủ, nhân dân thực hiện quyền lực của mình bằng hình thức dân chủ trực tiếp và đại diện.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, mà còn ở quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Cơ chế dân chủ này nhằm làm cho Quốc hội được trong sạch, giữ được phẩm chất, năng lực hoạt động. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (4) .
Với vai trò làm chủ nhà nước, thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, các đại biểu được bầu ra phải có trách nhiệm gần gũi, sâu sát để hiểu dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân với tinh thần trách nhiệm bàn và giải quyết những vấn đề thiết thực cho quốc kế dân sinh. Theo quan điểm Hồ Chí Minh, để thể hiện nhân dân lao động làm chủ Nhà nước thì đại biểu do dân bầu ra phải có mối liên hệ thường xuyên với nhân dân; thoát ly mối liên hệ này, Nhà nước rất dễ rơi vào quan liêu, trì trệ, đứng trên đầu nhân dân, trái với bản chất dân chủ đích thực vốn có của Nhà nước kiểu mới.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do nhân dân làm chủ còn bao hàm một nội dung quan trọng khác đó là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Chính phủ ta là chính phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là phụng sự cho lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân” (5) .
Là người làm chủ Nhà nước, nhân dân có quyền, thông qua cơ chế dân chủ thực thi quyền lực, nhưng đồng thời nhân dân phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Nhà nước, làm cho Nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một nước độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân gắn bó chặt chẽ với nhau.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân là Nhà nước dân chủ, thể hiện quyền lực của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là bảo đảm thực thi quyền lực của nhân dân lao động. Quan điểm này của Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các quá trình xây dựng Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Các bản Hiến Pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 đều thể hiện điều đó. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ là một nội dung trọng yếu của việc kiện toàn, đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta.
2. Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân
Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ trên thực tế và trong hành động. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chí Minh đã nêu bật sự khác nhau căn bản về chất giữa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa với các loại hình nhà nước trước đó: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh” (6) .
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”  (7) .
Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối” (8) . Chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập” (9) .
Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của nhà nước.
Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, vấn đề đặt ra là phải bằng mọi cách giữ cho được định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho bộ máy thật sự trong sạch. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thoái hóa, biến chất thì nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân chủ nhân dân, trở thành một thế lực đối lập với nhân dân. Bằng nhạy cảm chính trị, chiêm nghiệm thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã phát hiện và cảnh báo ngay từ rất sớm những căn bệnh có thể phát sinh làm biến dạng, tha hóa nhà nước. Quán triệt phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh ý thức rằng, quản lý đất nước, xã hội là một việc làm khó, cán bộ, công chức của ta lại ít kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, chắc chắn có thiếu sót, sai lầm, nhưng nếu biết thành thật, học hỏi, đặt lợi ích nhân dân lên trên hết, trước hết thì có thể khắc phục, sửa chữa được.
Theo Hồ Chí Minh, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền, một số cán bộ, công chức “đã vác mặt làm quan cách mạng”, kéo bè, kéo cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà trong bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã nảy sinh những “lỗi lầm rất nặng” làm biến dạng nhà nước. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Người chỉ ra thực chất, hình thức biểu hiện phong phú của các căn bệnh này, gọi đó là “giặc nội xâm” hết sức nguy hiểm và gây hậu họa nghiêm trọng, làm thất thoát tiền của nhà nước, chậm tốc độ phát triển, nhất là làm xói mòn niềm tin của dân, làm cho dân xa nhà nước.
Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, đảm bảo cho nhà nước thật sự là công bộc của dân. Nếu thấu hiểu và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, công chức có thể phòng tránh, ngăn ngừa, không phạm phải những lỗi lầm kể trên. Còn nếu “Ai đã phạm những lầm lỗi trên này thì phải hết sức sửa chữa; nếu không tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung” (10) .
Nhận thức và cảnh báo của Hồ Chí Minh về các nguy cơ, căn bệnh phát sinh trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước và cách phòng tránh, khắc phục chúng ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và có tính thời sự, soi đường chỉ lối cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt kết quả cao, đảm bảo cho Nhà nước ta thật sự phục vụ quyền lợi của nhân dân, trở thành công bộc, đầy tớ của dân.
3. Bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam
Quan niệm Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước Việt Nam kiểu mới là sự vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về nhà nước và nhà nước chuyên chính vô sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, sự xuất hiện nhà nước là một tất yếu kinh tế - chính trị. Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất kỳ ở đâu, hễ lúc nào xuất hiện những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà nước xuất hiện. Ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng, những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được. Nhà nước luôn luôn mang bản chất của một giai cấp, không có một nhà nước siêu giai cấp.
Quán triệt học thuyết Mác - Lênin về nhà nước, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh tới tính chất dân chủ của Nhà nước ta. Nhưng Hồ Chí Minh cũng xác định dứt khoát, rõ ràng bản chất giai cấp công nhân của nhà nước đó. Chúng ta gọi Nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, không có nghĩa là “nhà nước toàn dân”, nhà nước phi giai cấp. Từ nhận thức chung: “ Tính chất  của một nhà nước là: trong nhà nước ấy giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị thống trị. Nhà nước đó bảo vệ lợi ích của giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào” (11) , Hồ Chí Minh cho rằng: “Tính chất Nhà nước là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền”. Người khẳng định: “Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo” (12) . Quan điểm này được Hồ Chí Minh nhắc lại nhiều lần, cụ thể hóa thành Hiến pháp, pháp luật và là phương châm chỉ đạo tổ chức, xây dựng chính quyền từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay. Sự lãnh đạo của giai cấp công nhân quy định bản chất và nội dung giai cấp, đặt ra mục đích, định hướng hoạt động của Nhà nước ta. Điều này chứng tỏ bản lĩnh và tinh thần mácxít triệt để của tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Trong khi khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta, Hồ Chí Minh đã khéo xử lý, kết hợp tính giai cấp và tính dân tộc thành một thể thống nhất. Nhà nước dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo theo hệ tư tưởng Mác - Lênin là nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân. Mặt khác, Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam là một nhà nước thống nhất, của khối đại đoàn kết dân tộc. Cơ sở xã hội của Nhà nước ta không bó hẹp trong phạm vi một giai cấp, tầng lớp, mà là toàn thể dân tộc, cơ sở đó không hề thay đổi trong quá trình vận động đi lên của cách mạng. Quan điểm này phù hợp với truyền thống xây dựng tổ chức nhà nước trong lịch sử Việt Nam và cũng phù hợp với quan điểm mácxít. Sự thống nhất, gắn bó chặt chẽ giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc được quy định bởi bản chất xã hội và mục đích hoạt động sống của con người. Ở thời đại chúng ta, khi giai cấp công nhân nắm chính quyền, trở thành người đại diện chân chính của dân tộc thì nhà nước cũng trở thành nhà nước của các dân tộc trong một quốc gia. Đấy là điểm Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, cố gắng duy trì, xây dựng và củng cố trong quá trình lãnh đạo nhà nước.
Nhà nước ta là Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Bản chất công nhân quy định nội dung hoạt động của chính quyền. Cùng với sự phát triển kinh tế  -  xã hội, cơ cấu giai cấp, bản chất công nhân của nhà nước ngày càng được hoàn thiện, bộc lộ rõ nét. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước gắn liền với bảo vệ chế độ chính trị, con đường phát triển độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để đảm bảo và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, cần quán triệt những vấn đề có tính nguyên tắc sau.
Thứ nhất,   xây dựng, tổ chức và hoàn thiện chính quyền nhà nước phải trên cơ sở các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước, nhà nước chuyên chính vô sản, áp dụng vào điều kiện, đặc điểm nước ta để có hình thức và cơ chế vận hành thích hợp. Xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ làm biến dạng nhà nước, lu mờ bản chất giai cấp và chệch hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng lý luận để xây dựng mô hình nhà nước đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân lao động. Quan điểm có tính nguyên tắc này được Hồ Chí Minh khẳng định vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, được Người quán triệt trong lãnh đạo nhà nước suốt 24 năm và ngày nay vẫn là nguyên tắc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai,   xác lập và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà nước. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc số một bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước. Về mặt lịch sử, Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh giành chính quyền, sau đó trở thành Đảng cầm quyền. Chính quyền nhà nước ở Việt Nam xét đến cùng là kết quả phấn đấu bền bỉ của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở thực hiện ý nguyện của nhân dân và của toàn dân tộc. Sự lãnh đạo Nhà nước của Đảng được quy định bởi các nhân tố lịch sử nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc, đem đến cho nhân dân một cuộc sống “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước dân chủ nhân dân” (13) .
Ở Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử, tổ chức bộ máy nhà nước có nhiều biến động, nhưng trong tất cả các giai đoạn cách mạng từ 1945 trở lại đây, Chính quyền nhà nước bao giờ cũng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nói đúng hơn, là nhân dân đã ủy thác cho Đảng Cộng sản lãnh đạo xã hội, lãnh đạo Nhà nước trong bất cứ tình hình nào.
Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền có nội hàm rất rộng, nhưng cơ bản và cốt yếu nhất vẫn là lãnh đạo chính quyền nhà nước. Một khi Đảng Cộng sản không còn nắm quyền lãnh đạo nhà nước thì nhà nước đó cũng không còn mang bản chất giai cấp công nhân nữa. Thực tế ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu càng khẳng định quan điểm chỉ đạo có tính nguyên tắc này, phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò lãnh đạo chính quyền của Đảng Cộng sản là mơ hồ về chính trị, sai lầm về đường lối chỉ đạo chiến lược và xét lại về lý luận từ những nguyên lý căn bản nhất.
Thứ ba,   thiết chế, tổ chức và hoạt động của Nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc tổ chức đặc thù của nhà nước kiểu mới. Thực chất của nguyên tắc tập trung dân chủ được Hồ Chí Minh lý giải như sau: “Nhân dân là  ông chủ  nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là  dân chủ.
Các cơ quan chính quyền là thống nhất,  tập trung.
Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung.
Chế độ  dân chủ tập trung  khiến cho toàn thể nhân dân (công, nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc) đều trở nên chủ nhân chân chính của nước nhà, đều đoàn kết để kháng chiến kiến quốc” (14) . Trên thực tế, tổ chức và hoạt động của nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở, hơn nửa thế kỷ qua đều tuân thủ nguyên tắc này.
Thực hiện và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính nguyên tắc trên đây sẽ duy trì và bảo đảm bản chất giai cấp công nhân của nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, những nguyên tắc cơ bản đó vẫn chỉ đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
4. Sự thống nhất giữa quản lý bằng pháp luật với việc nâng cao giáo dục đạo đức trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Trước hết phải khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước không hề có quan điểm “trị nước” hay “trị dân”. Người dùng chữ “trị” đối với các phần tử tổ chức phản động hại dân, phản nước. Đối với dân, với nước. Người thường dùng từ lãnh đạo, quản lý, điều hành, phụng sự hay phục vụ khi dân đã có chính quyền.
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, phạm trù “đức trị” dùng chỉ sự quản lý, cai trị đất nước bằng đạo đức, còn “pháp trị” là chỉ sự quản lý, cai trị đất nước bằng pháp luật.
Tuy Hồ Chí Minh không dùng chữ “đức trị” hay “pháp trị” nhưng trong thực tế, Người đã kết hợp chặt chẽ việc quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật với việc tuyên truyền, giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao bản lĩnh công dân cho cán bộ và nhân dân. Pháp luật và đạo đức đều dùng để điều chỉnh hành vi của con người, nâng con người lên, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Nếu các điều luật cho phép con người được hay không được làm việc này hay việc khác thì đạo đức chỉ khuyên người ta nên hay không nên làm. Thông thường, một hành động vi phạm pháp luật cũng đồng thời vi phạm đạo đức. Cũng có trường hợp vi phạm đạo đức nhưng chưa tới mức vi phạm pháp luật, Hồ Chí Minh quan tâm đặc biệt tới cả hai lĩnh vực pháp luật và đạo đức. Người kết hợp hài hoà, gắn bó giữa đạo đức và pháp luật trong xử trí từng trường hợp. Theo Người, pháp luật cũng nhằm mục đích thực hiện mục tiêu lý tưởng của cách mạng, do đó phải giáo dục cho mọi người có ý thức tự giác, đạo đức cách mạng mới làm cho luật pháp được thực hiện.
Hồ Chí Minh quan tâm rất sớm đến vai trò của luật pháp trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, trong  Tám yêu sách của nhân dân An Nam  gửi tới Hội nghị Vécxây thì đã có bốn điểm liên quan đến vấn đề pháp quyền. Còn lại liên quan đến công lý và quyền con người. Sau này bản yêu sách của nhân dân An Nam được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành  Việt Nam yêu cầu ca,  trong đó điều bảy viết:
“Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”.
Đây là tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh, phản ánh cốt lõi của nhà nước dân chủ mới - nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Đồng thời đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động quản lý nhà nước của Người. Khi chưa xây dựng được hiến pháp mới và hình thành hệ thống pháp luật mới. Người đề nghị vận dụng những điều luật cũ còn tương đối phù hợp với tình hình mới, trừ bỏ những điều vi phạm hoặc trái với độc lập dân tộc, vì theo Người một xã hội có trật tự kỷ cương, một nhà nước mạnh, có hiệu lực nhất thiết không để một giờ, một phút thiếu pháp luật, coi thường pháp luật.
Trong những năm trực tiếp lãnh đạo nhà nước, Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngoài hai bản Hiến pháp 1946 và 1959 do Người làm Trưởng ban soạn thảo, Hồ Chí Minh đã công bố 16 đạo luật và 1300 văn bản dưới luật. Khối lượng văn bản luật đó luôn thể hiện và thực hiện việc đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến hợp pháp và hiệu lực thực tế của các điều luật. Trước khi ban hành lệnh hay sắc lệnh, Hồ Chí Minh hết sức lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của cán bộ nhân dân và nhất thiết tôn trọng nguyên tắc thông qua Thường trực Quốc hội. Bản thân Hồ Chí Minh đã từng phê phán gay gắt chế độ cai trị bằng sắc lệnh của thực dân Pháp ở Việt Nam. Song, Người  buộc phải  sử dụng chế độ sắc lệnh để điều hành công việc của đất nước vì hoàn cảnh kháng chiến, Quốc hội không họp được thường kỳ để thông qua các đạo luật.
Sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện ở quan điểm xử lý các hành vi phạm pháp. Nguyên tắc “có lý, có tình” chi phối mọi hành vi ứng xử của Người, tôn trọng cái lý, đề cao cái tình, tùy từng trường hợp và tình huống cụ thể mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh mặt này hay mặt khác. Xử lý các hành vi vi phạm pháp luật phải nghiêm túc, nghiêm minh. Pháp luật không loại trừ một ai nhằm ngăn cái xấu, cái ác, phát huy cái tốt, cái thiện chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe. Người căn dặn: “Không xử phạt là không đúng. Song chút gì cũng trừng phạt cũng là không đúng”. Hồ Chí Minh có tấm lòng độ lượng, bao dung nhưng không bao che, khoan hồng nhưng nghiêm khắc, luôn đấu tranh một cách chân thành, thẳng thắn với những khuyết điểm, sai lầm, với những hành vi phạm pháp.
5. Xây dựng bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
5.1. Xây dựng bộ máy nhà nước
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận lại có một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của nhân dân.
Nguyên tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm:
- Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc hội giải quyết những vấn đề chung cho toàn quốc, xây dựng hiến pháp, pháp luật, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài, biểu quyết ngân sách, danh sách Thủ tướng và các Bộ trưởng.
-   Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.
- Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh rất chú ý mối quan hệ giữa chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy thuộc ở việc xử lý mối quan hệ đó.
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng linh hoạt, phù hợp điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự xơ cứng, trì trệ, giáo điều, rập khuôn. Có thể xem đó là chuẩn mực, kiểu mẫu để tiếp tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, nền hành chính quốc gia giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
5.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Theo Người, “cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước”, là cái gốc của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại do cán bộ quyết định. Vì thế, chất lượng, năng lực, hiệu lực của Nhà nước phụ thuộc một phần lớn vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh đã đề cập đến những nội dung cốt lõi cơ bản.
- Hồ Chí Minh có một quan niệm nhất quán, chuẩn xác hiện đại về cán bộ công chức nhà nước. Ngay trong kháng chiến, vào những năm 1948, 1950, Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 188/SL và 76/SL quy định về thang lương và quy chế công chức, trong đó xác định rất rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức nhà nước. “Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà nước của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ.
Vậy, người công chức phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc.
Đi đôi với nhiệm vụ trên, công chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của mình”. Quan điểm của Hồ Chí Minh xác định rõ tính cách chuyên nghiệp của công chức theo chế độ chức nghiệp.
- Xây dựng hệ tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ công chức nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc. Người nhấn mạnh đến các tiêu chuẩn trung thành và hăng hái, liên lạc mật thiết với quần chúng nhân dân, thạo việc, dám phụ trách giải quyết những vấn đề trong lúc khó khăn, khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành nghị quyết thì gan góc, kiên quyết.
Cán bộ công chức nhà nước phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có tri thức và học thức, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế, có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và khoa học, chấp hành đúng pháp luật. Nắm vững pháp luật và vận dụng nhuần nhuyễn luật pháp để giải quyết đúng công việc hàng ngày là đòi hỏi không thể thiếu đối với cán bộ, công chức.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng người, tạo điều kiện cho nhân viên phát huy được tài năng và phẩm chất của mình.
Xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, công chức nhà nước.
Hồ Chí Minh có yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đội ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt mục tiêu đó, Người đã xây dựng một chế độ thi tuyển cán bộ, công chức vào các ngạch, bậc của ngành hành chính. Chế độ thi tuyển này rất chặt chẽ về cách làm, hình thức và nội dung. Các môn thi bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch sử, địa lý, ngoại ngữ. Nội dung từng môn thi phải căn cứ vào yêu cầu và thực tiễn cụ thể mà quy định nhằm mục đích tạo cho cán bộ, công chức một nền tảng tri thức ổn định, đủ sâu, rộng để giải quyết vấn đề có liên quan đến quản lý đất nước, xã hội. Kết quả kỳ thi phản ánh năng lực, trình độ chuyên môn của từng người, là căn cứ quan trọng để tuyển chọn, bổ nhiệm.
Chế độ thi tuyển cán bộ, công chức do Hồ Chí Minh khởi xướng thể hiện một cách rõ nét tư tưởng chính quy, hiện đại, dân chủ, công khai, công bằng, bình đẳng xã hội, không có đặc quyền đặc lợi. Đây là cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn quý giá để chúng ta xây dựng, thực hiện quy chế công chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
III. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước - cơ sở lý luận xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
Trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng lý luận xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng. Ngày nay, tư tưởng đó vẫn tiếp tục rọi sáng con đường xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sau gần 20 năm đổi mới, cùng với sự đổi mới hệ thống chính trị, Nhà nước ta tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy, một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được mở rộng, thực hiện. Đáng chú ý là hệ thống pháp luật được đổi mới, bổ sung và tăng cường, chất lượng các kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp được nâng cao; phương thức quản lý, điều hành của bộ máy nhà nước sâu sát, thực tế hơn, tạo ra nhiều chuyển biến tích cực trong xã hội, các hoạt động của ngành tư pháp, toà án, viện kiểm sát có nhiều tiến bộ... Việc đổi mới nhà nước đúng định hướng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, lành mạnh hoá các mặt văn hoá, xã hội, giữ vững sự ổn định lâu dài của đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đáng tự hào, Nhà nước ta đang bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thể hiện trên nhiều mặt, rõ nét nhất là cải cách nền hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, trùng lắp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, Trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội làm giảm động lực phát triển; ở nhiều địa phương quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm nghiêm trọng; hệ thống chính sách, pháp luật thiếu đồng bộ. Không ít cán bộ, công chức vừa kém về đạo đức, phẩm chất, vừa yếu về năng lực, trình độ chuyên môn và kỹ thuật nghiệp vụ; tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến. Đặc biệt nạn tham nhũng kéo dài trong bộ máy nhà nước là một nguy cơ lớn, đe doạ sự sống còn của chế độ ta.
Trong khi đó, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đang được đẩy mạnh, ngày càng đi vào chiều sâu, nền kinh tế mở cửa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang có những thách thức mới; nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đang được xây dựng với quy mô rộng lớn hơn, bối cảnh chính trị thế giới diễn biến phức tạp, có nhiều mặt khôn lường... Tất cả những điều đó đòi hỏi nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém, phát huy hơn nữa vai trò, năng lực điều hành của Nhà nước. Vì thế, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước càng trở thành một nhu cầu thực tế bức xúc.
2. Nội dung và phương hướng vận dụng
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định rất rõ phương hướng đổi mới Nhà nước hiện nay, đó là đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế. Phương hướng chung, khái quát này được cụ thể hoá thành các nội dung chính sau đây:
- Đảm bảo trên thực tế Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Đây là quan điểm chỉ đạo có tính nguyên tắc, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
- Tiến hành cải cách thể chế, phương thức hoạt động của Nhà nước một cách đồng bộ, bao gồm cả cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, đẩy mạnh việc thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh chống tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
- Xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, trong sạch, có đạo đức, phẩm chất, có năng lực.
- Giải quyết đúng đắn quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
- Củng cố, tăng cường cơ sở xã hội của Nhà nước là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức...
–––––––––––––––––––
Chú thích:
* Theo Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị - Hành chính, H.2011.
(1) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Nxb. Chính trị quốc gia, H.2000, t.4, tr.190.
(2) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.5, tr.698.
(3) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.4, tr.133.
(4) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.9, tr.591.
(5) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.7, 391-362.
(6) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.4, tr.56-57.
(7) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.4, tr.47-48.
(8) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.4, tr.56.
(9) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.4, tr.152.
(10) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd,, t.4, tr.58.
(11) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.7, tr.217.
(12) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.9, tr.586.
(13) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.9, tr.586.
(14) Hồ Chí Minh:  Toàn tập , Sđd, t.7, tr.218-219.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét