Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2018

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 160/2 (Giucốp)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Georgy Zhukov – Một Nguyên soái kiệt xuất, Một Số phận bi hùng | Tập 1

Việt Nam Thư Quán - Thư viện Online

Hồi Ký, Tuỳ Bút
NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Zhukov


Về tác giả

Georgi Konstantinovich Zhukov(1896-1974)
TRONG lịch sử chiến tranh thế giới, hiếm có vị tướng nào chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ biết có chiến thắng, hết trận này đến trận khác. Trong rất nhiều tướng lĩnh nổi danh trong Thế chiến thứ hai, G.K. Zhukov được xếp đầu bảng về số lượng trận thắng nhiều và quy mô lớn, chiếm bảng vàng về tài năng chỉ đạo chiến dịch,chiến lược. Những chiến tích sáng chói của ông trở thành tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hoá nhân loại. Nó không những có ảnh hưởng lớn về lý luận quân sự của Liên Xô mà cũng có ảnh hưởng rất lớn đối với sự phát triển của lý luận quân sự thế giới.
Georgi Konstantinovich Zhukov (tiếng Nga: Георгий Константинович Жуков) sinh ngày 1-12-1896 trong một gia đình nghèo tại làng Strenkovka, tỉnh Kluga, con ông Konstantin Zhukov và bà Uxtina Zhukova. Tuổi nhỏ sống rất cực khổ, nhưng học rất giỏi. Năm 12 tuổi, lên Moscow làm thợ học việc trong một cửa hàng đồ da. Năm 1915, ông nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia Thế chiến thứ nhất, và 2 lần được tặng Huân chương Thánh George vì lòng dũng cảm. Sau Cách mạng tháng Mười Nga, Zhukov gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. Ông chỉ huy đơn vị nghiêm minh, quản lý đúng phương pháp, đơn vị ông phụ trách bao giờ cũng là đơn vị tiên tiến, lập nhiều công tích xuất sắc trong thời kỳ nội chiến Nga. Năm 27 tuổi, ông giữ chức trung đoàn trưởng; đến năm 42 tuổi, đã là phó Tư lệnh đại quân khu Bélorusia. Tháng 5-1939, quân Nhật khiêu khích vũ trang tại vùng Khangin Khon (Mông Cổ). Zhukov được cử giữ chức vụ Tư lệnh chiến trường. Trong chiến dịch này, Zhukov đã sử dụng lực lượng xe tăng, cơ giới, máy bay và hỏa pháo mạnh để phản kích quân Nhật một cách kiên quyết; mạnh dạn đánh chia cắt và bao vây tập đoàn trang bị nặng của Nhật, gây cho tổn thất nặng nề cho quân Nhật. Qua đó, lần đầu tiên Zhukov thể hiện được tài năng về mặt chỉ huy và hiệp đồng tác chiến, gây sự chú ý của vị thống soái Stalin. Năm 1940, ông được phong hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh đại quân khu Kiev. Đến đầu năm 1941, ông giữ chức Tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô.Có thể nói Zhukov đã hội đủ mọi tố chất để trở thành một vị tướng tài ba: Giỏi quan sát và phán đoán địch tình; dự kiến tình huống phát triển một cách chính xác; biết xử trí linh hoạt, ứng phó hữu hiệu với sự thay đổi của tình hình; điều chỉnh bố trí binh lực một cách hợp lý, luôn giáng cho địch những đòn đích đáng. Ông bao giờ cũng chọn đúng điểm đột phá khẩu, biết sử dụng binh đoàn xe tăng, chia cắt và đánh vu hồi, nhanh chóng đập tan tập đoàn địch. Zhukov còn là một nhà chiến thuật tài năng, hiểu rõ tầm quan trọng của yếu tố địa hình và khí hậu. Trước khi nổ ra chiến dịch, bao giờ ông cũng tiến hành đo đạc địa hình, tính toán cân nhắc cẩn thận, so sánh lực lượng giữa hai bên, dựa vào sức mạnh của các quân binh chủng, nhằm bảo đảm về các mặt hàng không, pháo, công trình và thông tin. Ông không bao giờ chấp nhận một cuộc giao tranh không nắm chắc phần thắng.Với nhận xét tinh tường, Zhukov đã nhận định rằng chiến tranh Xô-Đức là rất không thể tránh khỏi, nên về mặt xây dựng quân đội, ông đã đề xuất thành lập các đơn vị xe bọc thép độc lập để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh. Tuy nhiên ý kiến đúng đắn của ông đã không được giới lãnh đạo Liên Xô coi trọng. Điều này chỉ được chứng thực vào tháng 6-1941, khi chiến tranh Xô-Đức nổ ra, thực tế chiến trường đã xác minh hầu hết các luận điểm của ông.Nhận ra được sai lầm của mình, Stalin thận trọng sử dụng Zhukov vào cương vị Phó Tổng tư lệnh Tối cao, sau đó tin cậy giao trách nhiệm cho Zhukov trên những mặt trận nóng bỏng nhất. Đến lúc này, tài năng của Zhukov được bộc lộ qua hàng loạt chiến dịch lớn. Bất cứ chiến trường nào đang gặp nguy hiểm, khi Zhukov đến chỉ huy, tình thế lập tức thay đổi. Báo chí phương Tây gọi ông với biệt danh “Fireman” – “lính cứu hỏa thiện nghệ”, nhân dân Liên Xô gọi ông với cái tên “vị Nguyên soái của Chiến thắng” (Zhukov được phong hàm Nguyên soái Liên Xô năm 1943, và là vị Nguyên soái Liên Xô đầu tiên được phong trong Thế chiến thứ hai). Hàng loạt chiến dịch lớn chấn động địa cầu trên mặt trận phía Đông như Léningrad, Moscow, Stalingrad, Kursk, Berlin... đều có dấu ấn của Zhukov. Hàng loạt danh tướng nước Đức như Von Leeb, Von Bock, Von Paulus, Von Kluge, Von Manstein, Von Keitel... phải chấp nhận thất bại trước Zhukov. Có thể nói, Zhukov là khắc tinh của quân đội Đức, một đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ. Chính Zhukov là thay mặt Hồng quân Liên Xô tiếp nhận sự đầu hàng của nước Đức.Sau chiến tranh, uy tín của Zhukov được cả thế giới khẳng định. Chính Zhukov là người đại điện cho Stalin duyệt binh mừng chiến thắng. Tuy nhiên, ông là một vị tướng của chiến trường, không phải là một nhà chính trị. Sau khi Stalin mất, ông được bổ nhiệm là Thứ trưởng Bộ quốc phòng, phụ trách nghiên cứu tác dụng của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh hiện đại. Từ 1955-1957, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Sau khi bị thất sủng, ông tập trung viết quyển hồi ký “Nhớ lại và suy nghĩ” (nguyên tác tiếng Nga: "Воспоминания и размышления", tiếng Anh: "Memories and thoughts") nổi tiếng. Quyển hồi ký này đã được xuất bản vào năm 1969. Ông qua đời năm 1974, thọ 78 tuổi. Các danh hiệu của G.K. Zhukov- 4 lần phong tặng Anh hùng Liên Xô (1939, 1944, 1945, 1956), - 2 Huân chương Chiến thắng, (1944, 1945)- 2 Huân chương Suvorov hạng I- Huân chương Vẻ vang của Hoa Kỳ- Huân chương Barna hạng I của Anh quốc.và nhiều huân huy chương, danh hiệu khác...
Thái Nhi

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại

Thứ Tư, ngày 01/02/2017 15:00 PM (GMT+7)

Nguyên soái đầu tiên trong Thế chiến II của Liên Xô được xem là người bất khả chiến bại, đã xuất quân là chiến thắng.

Chia sẻ trên Fanpage Chia sẻ bài viết này trên trên Facebook Chia sẻ bài viết này trên trên G+
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 1
Nguyên soái Georgi Zhukov, tại một Hội nghị quân sự ở Moscow năm 1942.
Thế chiến II sản sinh nhiều vị tướng lỗi lạc ở cả hai bên, phe Trục và Đồng minh. Cuộc đời họ với nhiều nét li kì, những thành công vang dội và cả những sai lầm đau đớn... sẽ được điểm lại trong loạt bài này.
Georgi Zhukov lớn lên trong một gia đình nghèo khó. Ngay từ năm 15 tuổi, Zhukov đã làm thợ cả và vẫn theo học trung cấp trong thành phố. Thế chiến I nổ ra, Zhukov nộp đơn xin tòng quân năm 1915. Ông vượt qua các kì thi dành cho cấp bậc hạ sĩ quan và nắm vững nhanh chóng mọi kĩ thuật chinh chiến, vũ khí và phương pháp rèn luyện binh lính trong quân đội. Tháng 8.1918, Zhukov chính thức phục vụ trong Hồng quân Liên Xô.
Nhờ có kiến thức từ các khóa huấn luyện quân sự, Zhukov nhanh chóng tiến xa trên con đường binh nghiệp. Thế chiến I và cuộc Nội chiến ở Liên Xô giúp ông có thêm nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý giá. Tháng 7.1939, ông được bổ nhiệm làm chỉ huy Tập đoàn quân số 1 của quân Liên Xô tại Mông Cổ. Giáo sư, tiến sĩ khoa học Yuri Rubstov từ đại học tổng hợp quân sự thuộc Bộ Quốc phòng Nga nhận xét: “Đây là lần đầu tiên Zhukov thể hiện năng lực thống lĩnh quân sự vượt trội của mình”.
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 2
Zhukov năm 1916.
Phong cách chỉ huy của Zhukov rất nghiêm minh, khoa học nên đơn vị ông phụ trách luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong thời kì Nội chiến Nga. Năm 42 tuổi ông đã là phó Tư lệnh đại đoàn quân khu Belorusia.
Tháng 5.1939, Nhật khiêu khích Liên Xô ở vùng Khangin Gol (Mông Cổ). Ngay lập tức, Zhukov dùng lực lượng xe tăng, cơ giới, máy bay, hỏa pháo tấn công quân Nhật không khoan nhượng. Kết quả, Nhật bị tổn thất nặng nề và Zhukov khiến thống soái Stalin để mắt vì tài năng hợp đồng binh chủng như thần của mình.  Năm 1940, ông được phong làm đại tướng và giữ chức Tư lệnh đại quân khu Kiev.
Zhukov hội đủ tố chất để trở thành vị tướng tài ba: giỏi quan sát, phán đoán tình hình; dự đoán thế trận chuẩn xác; xử trí nhanh gọn, linh hoạt; luôn tấn công và đáp trả một cách thích đáng.
Chiến tranh Xô-Đức
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 3
Sau chiến dịch Khalkhin Gol, Zhukov được phong quân hàm Đại tướng.
Ngày 22.6.1941, Đức quốc xã bất ngờ tấn công Liên Xô. Ngay lập tức, Zhukov có mặt ở phương diện quân Tây Nam theo lệnh của Stalin để nghênh đón địch. Stalin yêu cầu quân tấn công ngay nhưng Zhukov từ chối do chưa nắm rõ tình hình quân địch. Sau đó, Stalin vẫn bất chấp, chỉ huy quân tiến công và thất bại liên tiếp ở các phương diện quân Tây, Tây Bắc, Tây Nam và Nam. Nguyên nhân được cho là bởi thiếu không quân yểm trợ và hậu cần tiếp nhiên liệu sơ hở.
Trong vai trò là Tổng tư lệnh tối cao phương diện quân Tây Nam, tướng Zhukov cố gắng “gỡ gạc” tình hình bằng cách chỉ đạo tác chiến hiệu quả và thiết lập phòng thủ nhiều lớp nhằm ngăn chặn Cụm Tập đoàn quân Nam của Đức trong hoàn cảnh phương diện quân Tây và Tây Bắc của Nga thất bại thảm hại.
Zhukov nhìn lại thế trận và dự đoán rằng quân Đức sẽ tấn công vào phương diện quân trung tâm. Ông đề xuất rút quân khỏi Kiev và tăng cường quân cho phương diện quân trung tâm. Stalin gọi ý kiến này của Zhukov là “hồ đồ”. Đại tướng Zhukov cho rằng Stalin không coi trọng quyết định của người nhiều năm mưu lược nên xin rút xuống làm chỉ huy các đơn vị chiến đấu, từ bỏ chức Tổng tham mưu trưởng.
Zhukov rút về làm tư lệnh phương diện quân dự bị, chỉ huy phản kích vào Yelnya và xóa bỏ một bàn đạp quan trọng của Đức ở cửa ngõ Moscow. Đáng chú ý, 50.000 quân Đức bị tiêu diệt, trong đó có cả sư đoàn Đại Đức của đảng Đức quốc xã. Dù không trực tiếp chỉ huy mặt trận khác nhưng Zhukov vẫn nghiên cứu tình hình quân Đức. Ông dự báo quân Đức tấn công phương diện quân Tây Nam nhưng Stalin đưa ra quyết định quá muộn và sự kém cỏi của các tướng lĩnh phụ trách đơn vị này nên quân Liên Xô tiếp tục nếm mùi thất bại đau đớn.
Thế trận ở Leningrad
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 4
Đại tướng Zhukov khi giữ nhiệm vụ Tư lệnh Phương diện quân Tây.
Ngày 14.9.1941, Zhukov được giao chỉ huy phương diện quân Leningrad trong tình thế quân Đức vây chặt, cố chiếm lấy thành trì này. Ông củng cố phòng tuyến, ngăn chặn và đánh bại nhiều đợt tấn công của Đức. Ông ra lệnh bố trí trận địa pháo dày đặc vào các hướng tấn công chính và rải mìn ở khu vực nguy cơ cao, đồng thời bố trí hệ thống phòng không đề phòng Đức nhảy dù. Ông đích thân chỉ huy lực lượng 50.000 quân đánh vào mũi tấn công vươn xa nhất của Đức ở Leningrad và tiêu diệt được phân nửa sinh lực địch ở đây.
Zhukov nhận định rằng sau khi Hitler giành chiến thắng ở Kiev, chắc chắn phát xít Đức sẽ dồn quân vào Moscow nhằm kết thúc chiến tranh. Ngay lập tức, tập đoàn quân thiết giáp khu vực Leningrad được dồn tới chiến trường Moscow yểm trợ.
Mặt trận Moscow
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 5
Nguyên soái Zhukov kiểm tra xe tăng Tiger-I của Đức Quốc xã bị bắt giữ trong Chiến dịch Kursk, tháng 8.1943.
Ngày 15.11, Đức tấn công Moscow và tình hình rất nguy cấp khi quân Đức chỉ còn cách thủ đô 20km. Dưới áp lực nặng nề, Zhukov nhận ra do tập trung đánh hai cánh nên 6 quân đoàn Đức bố trí ở chính diện không làm gì. Do đó, ông đề xuất rút bớt quân ở lực lượng trung tâm và tăng cường cho hai cánh, “để dành” lực lượng dự bị cho đợt phản công tháng 12.
Nhờ dự liệu hết các phương án tấn công của quân Đức và cả việc chúng không nhận ra sai lầm trong việc dồn quân vào hai cánh, Liên Xô đã đứng vững trước các cuộc tấn công dồn dập. Đầu tháng 12, Zhukov quyết định cực kỳ táo bạo: đưa 3 phương diện quân phản công ở khu vực Moscow dù lực lượng thua xa quân Đức (1,1 triệu người so với 1,7 triệu). Khả năng dụng binh của Zhukov giúp Liên Xô tiêu diệt 581.000 lính Đức và đánh bật kẻ thù khỏi Moscow. Vì trận này mà kế hoạch Barbarossa của Đức quốc xã phá sản hoàn toàn và được xem là trận đánh lớn đầu tiên quân Đức thua ở Thế chiến II.
Trận vòng cung Kursk
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 6
Zhukov ký vào biên bản chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của nước Đức Quốc xã ngày 9.5.1945.
Ngày 17.3.1943, Zhukov chỉ đạo tác chiến ở phía nam Kursk để đối phó kế hoạch phản công màu xuân của Cụm tập đoàn quân sông Đông của Đức do thống chế tài ba Erich von Manstein chỉ huy. Zhukov nhận định rằng quân Đức sẽ cố gắng cắt đứt “chỗ lồi Kursk”. Sau khi Zhukov đưa ra dự báo một tuần, Hitler thực hiện đúng những gì Zhukov dự tính.
Nhờ Zhukov dự liệu từ trước tình hình nên quân Liên Xô có nhiều thời gian chuẩn bị thế trận phòng thủ và xây dựng thêm một phương diện quân Thảo Nguyên làm dự bị. Quân Liên Xô đã chặn đứng thành công “Kế hoạch thành trì” của Hitler, đánh bại các binh đoàn xe tăng của các thống chế Günther von Kluge và Erich von Manstein hùng mạnh hơn nhiều so với các binh đoàn xe tăng Đức trong chiến dịch Barbarossa.
Chiến dịch Berlin
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 7
Thống chế Bernard Law Montgomery và Nguyên soái G. K. Zhukov cùng các tướng lĩnh Anh và Liên Xô sau Lễ trao tặng Huân chương Hiệp sĩ Bath của Vương quốc Anh tại cổng Bradenburg (Đức) ngày 12.7.1945.
Đầu tháng 3.1945, Stalin cho rằng với thế trận tan rã của quân Đức quốc xã, Liên Xô có thể nhanh chóng giải quyết tình hình. Tuy nhiên, Nguyên soái Zhukov không nghĩ mọi việc đơn giản tới vậy. Ông nói rằng chiếm Berlin không khó, nhưng phức tạp ở chỗ đây là thành phố rộng và phòng thủ kiên cố. Zhukov đề nghị quân củng cố thật chắc trận địa bờ tây sông Oder (chảy qua Séc và Ba Lan).
Đúng như dự đoán, Đức quốc xã tấn công liên tiếp ở nhiều mũi nhưng quân Liên Xô đã có dự tính từ trước nên không bị bất ngờ. Khi quân Liên Xô tràn vào Berlin, Zhukov thấy đường xá quá chật hẹp, không phù hợp với xe tăng nên thành lập các tổ đội bộ binh, pháo binh ở mức trung đội để tấn công nhanh gọn. Quyết định này đã chứng minh hiệu quả khi các trung đội nhanh chóng tiêu diệt sinh lực địch trong mê cung Berlin.
Sau một tuần công phá, ba phương diện quân Liên Xô cùng quân Đồng minh Anh, Mỹ gặp nhau ở bờ sông Elbe. 80.000 Hồng quân hy sinh dũng cảm trong trận chiến Berlin đẫm máu nhưng ngày 30.4.1945, lá cờ chiến thắng đã được cắm trên nóc nhà Quốc hội Đức. Hitler và Goebbels tự sát.
Ngày 9.5, đại diện Đức và quân đội Đức quốc xã kí biên bản đầu hàng vô điều kiện trước 4 nước đồng minh. Thay mặt Liên Xô, nguyên soái Zhukov kí vào biên bản này. Sau chiến thắng vang dội ở mặt trận Berlin, Zhukov được phong tặng Huân chương Sao vàng – Anh hùng Liên Xô lần thứ 3.
Những năm sau chiến tranh
Tổng chỉ huy quân đội Liên Xô chưa từng nếm mùi thất bại - 8
Bốn nhà lãnh đạo quân sự xuất sắc của Đồng Minh chống phát xít: Bernard Montgomery (Anh), Dwight D. Eisenhower (Mỹ), Georgi Zhukov (Liên Xô) và Jean de Lattre de Tassigny (Pháp).
Khi Stalin mất, ông được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Quốc phòng, chuyên nghiên cứu tác dụng của vũ khí hạt nhân trong chiến tranh hiện đại. Từ năm 1955-1957, ông giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Tuy nhiên sau đó, Zhukov bị thất sủng và ông tập trung viết quyển hồi ký “Nhớ lại và suy ngẫm”. Quyển sách xuất bản năm 1969. Tới năm 1974, nguyên soái lừng danh Zhukov qua đời ở tuổi 78.
Theo Quang Minh – Tổng hợp (Dân Việt

G.K.Zhukov, tư lệnh của các chiến dịch lớn

(Quốc phòng) - (ĐVO) Tuổi ấu thơ nghèo khó và chí tự họcSinh ngày 1/2/1896 trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Strenkovka,  tỉnh Kluga. 12 tuổi làm thợ học việc ở một cửa hàng đồ da. 19 tuổi, năm 1915 nhập ngũ, phục vụ trong một đơn vị kỵ binh Sa hoàng, tham gia đại chiến I (1914-1918). Sau Cách mạng tháng Mười Nga 1917, gia nhập Hồng quân và trở thành một sĩ quan kỵ binh ưu tú. 27 tuổi giữ chức trung đoàn trưởng và năm 42 tuổi là Phó Tư lệnh Quân khu Belorusia. Những dòng ngắn ngủi trên chỉ mong phác họa đôi chút về chân dung vị Nguyên soái lừng danh của Đại chiến II, Georgi Konstantinovich Zhukov. Thực ra trước thềm 1939, ông đã trải qua hơn 40 năm đầy gian khổ. Hồi ức "Nhớ lại và suy nghĩ" của ông phát hành năm 1969, 5 năm trước khi qua đời, cho ta biết rõ hơn quá trình hình thành một bản lĩnh, một nhân cách hiếm có.


https://images.kienthuc.net.vn/static/images/contents/minhbich/20130331/06_tg_marshal_zoukoff.jpg
Chân dung Nguyên soái Zhukov.
“Bảy tuổi đã cùng người lớn đi cắt cỏ, cố quá sức nên làm tay phồng lên... xấu hổ không dám nói với ai cả, cố hết sức chịu đựng và đến mùa gặt lúa mì... hấp tấp đưa liềm vào ngón tay út bên trái... đã bao nhiêu năm qua, vết sẹo ở đấy vẫn còn nhắc tới...”.Ông được đi học mấy năm ở trường làng, năm 12 tuổi lên Moscow làm ở cửa hàng đồ da, từ 7h sáng đến 7h tối, có một tiếng buổi trưa để nghỉ ăn cơm. Vất vả như vậy nhưng ông vẫn kiên trì học thêm buổi tối về tiếng Nga, toán, địa lý, đọc sách khoa học phổ thông....Tháng 6/1915, nước Nga tổn thất nhiều trên các mặt trận, đến đợt tổng động viên, ông lên đường. Một sự kiện quan trọng diễn ra trong đời binh nghiệp: Ngày 27/2/1917, ông gia nhập hàng ngũ Cách mạng. >> 'Tượng đài Cách mạng Tháng Mười'Tháng 8/1918, ông phục vụ trong đoàn kỵ binh 4, sư đoàn kỵ binh Moscow của Hồng quân. Mùa xuân năm 1923 ông nhận nhiệm vụ chỉ huy trong đoàn, đây là cương vị đã rèn luyện để ông có nhiều kinh nghiệm về huấn luyện, điều hành sau này.Ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ sư đoàn trưởng, quân đoàn trưởng trong những năm sau và đến năm 1938 làm Phó Tư lệnh quân khu Belarusia. Ngày 2/6/1939, ông bay sang Mông Cổ để cùng các đơn vị quân đội nước này đánh bại quân Nhật ở Khankhin Gôn, chiến dịch kéo dài đến 30/8/1939, ngay trước khi quân Đức đánh vào Ba Lan mở đầu Đại chiến II.Đầu tháng 5/1940, ông nhận quân hàm Đại tướng, giữ chức Tư lệnh quân khu đặc biệt Kiev, khi được I.V.Stalin hỏi về kinh nghiệm ở Khankhin Gôn, ông nói: “... Cuộc chiến đấu ở Khankhin Gôn là một trường học kinh nghiệm chiến đấu lớn”.Tư lệnh của các chiến dịch lớnĐầu năm 1941, ông là Tổng tham mưu trưởng quân đội, ở cương vị này, ông thể hiện tầm nhìn chiến lược của một thiên tài quân sự.Đêm 21, rạng 22/6/1941, Đức tấn công toàn tuyến biên giới Liên Xô, 13.000 giờ ngày 22/6 ông được cử tới Tây nam làm đại diện Tổng hành dinh, 40 phút sau ông ngồi trên máy bay và sực nhớ ra “chưa ăn gì từ hôm qua”. Từ đó là những ngày đêm liên tục chỉ huy các chiến dịch lớn và đều chiến thắng. Sau này, khi được hỏi chiến dịch nào ghi nhớ nhất, ông trả lời không do dự: Chiến dịch Moscow (30/9/1941-20/4/1942) một chiến dịch Liên Xô ở vào thế rất bất lợi, đã kiên cường phòng ngự, mưu trí phản công. Quân Đức lúc đầu có lợi thế rất lớn: chiếm toàn bộ các nước Cộng hòa của Liên Xô: Litva, Latvia, Extonia và phần lớn Belorusia, Ukraine. Tháng 9/1941, Đức sử dụng cụm tập đoàn quân trung tâm gồm 3 tập đoàn quân dã chiến và 3 tập đoàn quân tăng với 1.800.000 quân, 1.700 xe tăng, 14.000 pháo và cối, 1.390 máy bay mở cuộc tấn công quy mô với mật danh “Giông tố”, theo hai hướng nam, Bắc hòng tiến vào thủ đô Moscow. Giai đoạn phòng ngự (30/9/1941-5/12/1941), Quân đội Liên Xô đã đánh trả quyết liệt khiến quân Đức tổn thất nặng nề, nhưng chúng vẫn chọc thủng được tuyến phòng ngự để tiến về sông Moscow, còn ở phía Nam thì bị chặn lại. Cuối tháng 11, đầu tháng 12 ý định đột phá vào thủ đô Moscow của Đức thất bại, Hồng quân đã nắm quyền chủ động, có thêm sự tăng quân, vũ khí. Nhiều trận đánh có phương diện quân liên tục diễn ra, đẩy quân Đức lùi về phía Tây 100-300 km. Toàn cục Đức thiệt hại 500.000 người, 1.300 xe tăng, 2.500 pháo, trên 15.000 xe và khí tài khác.Người ta nhớ rằng, trong những lúc gian khó nhất của chiến dịch bảo vệ thủ đô này, ông luôn ở vị trí trung tâm điều hành các phương diện quân, bên cạnh I.V.Stalin. Ông đến tận đơn vị cơ sở, nắm chắc vấn đề, khi báo cáo có bản lĩnh, thẳng thắn, không ngại va chạm với Tổng tư lệnh. Các dự báo chiến lược, chiến dịch của ông đều đúng. Ngày 1/11/1941, giữa trăm ngàn gia khó, khi về đại bản doanh, Stalin hỏi tình hình có thể bảo vệ cho Lễ duyệt binh 7/11/1941 được không, ông khẳng định: Được! Lễ duyệt binh có một không hai đã diễn ra đúng ngày kỷ niệm Cách mạng tháng Mười và từ quảng trường Đỏ, nhiều đơn vị đã đi thẳng ra chiến trường sát Moscow.>> 70 năm cuộc duyệt binh lịch sử>> Diễn tập duyệt binh trên Quảng trường ĐỏÔng viết: “Nếu có ai hỏi tôi điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Moscow. Trong điều kiện khắc nghiệt, hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, can trường và sau khi có được một số phương tiện vật chất tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui phòng ngự, thành một lực lượng tiến công rất mạnh”.Ngày 26/8/1942, ông được cử làm Phó Tổng tư lệnh tối cao và đến chiến dịch Stalingrad chỉ đạo.Ngày 18/1/1943, ông được phong Nguyên soái Liên Xô, là người đầu tiên được phong Nguyên soái trong chiến tranh. Từ lúc tham gia phòng ngự ở Leningrad ngày 9/9/1941, qua nhiều chiến dịch lớn, ông lại có mặt ở trận nổi tiếng: vòng cung Kursk, rồi tiêu diệt địch giải phóng Ukraine, Belorusia. >> Chùm ảnh Hồng quân Liên Xô ở LeningradNgày 29/7/1944, ông nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần 2. Tháng 10/1944, chỉ huy phương diện quân Belorusia 1, đơn vị nòng cốt tiến vào sào huyệt của Đức quốc xã ở Berlin. Ngày 20/4/1945 trận công phá lịch sử Berlin bắt đầu. 15h ngày 30/4/1945, ông là người được ủy  nhiệm của I.V.Stalin chủ trì Lễ duyệt binh mừng chiến thắng ở Moscow.
Tượng đài Nguyên soái Zhukov ở Nga.
Bình tĩnh, sáng suốt lúc cuối đờiNăm 1957, trên cương vị Ủy viên Bộ chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, Bộ trưởng Quốc phòng, đang thăm nhiều nước, khi về nhà, bị cách chức, ông bình tĩnh nhận quyết định nghỉ hưu. Một thời gian dài, ông ngủ và khi tỉnh dậy, vào rừng, đi câu bên suối nhỏ. Năm 1969, sau nhiều năm nghiền ngẫm, thai nghén, được sự giúp đỡ của cơ quan lưu trữ và nhiều đồng đội, ông hoàn thành tác phẩm “Nhớ lại và suy nghĩ”, được xuất bản rộng rãi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong lời tựa cuốn sách, ông viết “Tôi đã miệt mài với cuốn “Nhớ lại và suy nghĩ” này không phải chỉ trong một năm. Từ những tài liệu của cuộc sống rộng lớn, từ rất nhiều các sự kiện và những cuộc tiếp xúc, tôi muốn lựa chọn ra cái gì là thực chất và quan trọng nhất có thể nói lên thật xứng đáng sự vĩ đại của những sự nghiệp và thành tựu của nhân dân ta”.Ông mất năm 1974, hưởng thọ 79 tuổi.
Nguyên soái G.K.Zhukov (1896-1974) là danh tướng kiệt xuất, Phó Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Liên Xô trong đại chiến II (I.V.Xtalin là Tổng tư lệnh) 4 lần Anh hùng Liên Xô..., người trực tiếp chỉ huy nhiều mặt trận Leningrad (1941), Moscow (1941-1942), Stalingrad (1942-1943), Vòng cung Kursk (1943), Berlin (1945)..., qua bao thăng trầm vẫn sống mãi trong lòng nhân dân Nga và bạn bè trên thế giới.

Chuyện đời thường của Nguyên soái G.Giu-cốp

Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô chống phát xít Đức xâm lược, Ghê-ô-ghi Giu-cốp là một trong số ít các vị nguyên soái tài ba lỗi lạc nhất, đóng góp công lao to lớn có tính quyết định vào chiến thắng quân thù. Tên ông đã trở nên nổi tiếng không những với các dân tộc của Liên bang Xô-viết mà còn vang khắp thế giới. Thế nhưng, trong một khoảng thời gian dài, đời sống riêng tư của ông thì không được “trơn tru” như ý sau danh hiệu được quân và dân Xô-viết phong tặng –“Nguyên soái chiến thắng”.
Mới đây, bà Ma-ga-ri-ta-con gái đầu lòng của ông đã cởi mở kể lại một số tình tiết trong cuộc sống gia đình vào “những năm tháng xa xưa ấy” với tuần báo Luận chứng và Sự kiện của Liên bang Nga.
Chuyện bắt đầu từ năm 1919
Năm 1919, Ghê-ô-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích Giu-cốp lúc đó là Trung đoàn trưởng của Hồng quân Công nông Xô-viết, đã bị thương trong một trận kịch chiến với quân Bạch vệ phản cách mạng của tướng Côn-trắc, An-tô Ya-nin-người đồng đội của Giu-cốp đã cứu và đưa ông từ chiến trường rừng rực lửa đạn tới Xi-ri-xưn trên một chiếc xe ngựa kéo. Lúc đó người vợ chưa cưới của Ya-nin là Pô-li-na đã cùng với em gái mình là Ma-ri-a Vôn-khô-va (là mẹ của bà Ma-ga-ri-ta sau này) tới thăm ông. Thấy Giu-cốp nằm “cô đơn” trong quân y viện, họ đề nghị Ma-ri-a tới chăm sóc vị trung đoàn trưởng đang dưỡng thương này. Về sau, ông kể lại với con gái-bà Ma-ga-ri-ta: “Khi tỉnh giấc, bố thấy một cô gái có đôi mắt xanh như lá cây lưu ly”. Từ cái nhìn đầu tiên ấy, ông tuyên bố với Ya-nin: “Quả là tuyệt! Cậu hãy cưới Pô-li-na, còn tớ thì lấy Ma-ri-a”.
Tuy nhiên, Giu-cốp đã không kịp cưới Ma-ri-a. Ông được đi nghỉ dưỡng thương, còn Ma-ri-a thì trở về nhà bố mẹ. Mối tình đầu bị “tạm hoãn”. Năm 1921, Giu-cốp và Ya-nin trên đường công tác đã nghỉ đêm tại nhà của một vị mục sư ở tỉnh Vô-rô-ne-giơ. Khi họ đang ngồi uống trà thì Giu-cốp nghe thấy tiếng sột soạt. Ông nói nhỏ với Ya-nin: “Phía sau bếp này có ai đó đang cựa quậy”. Rồi đứng dậy và đi tới bếp lò, ông nói: “Nào, ai đó, hãy ra đây!”. Từ bếp lò, một cô gái vẻ luống cuống xuất hiện. Giu-cốp nhìn thẳng vào cô ta: “Cô là ai?”. Cô ta đáp: “Tôi là con gái của cha (linh mục-TG)”.Ghê-ô-ghi cười to với chiến hữu: “An-tôn, có lúc nào cậu nhìn thấy một cô con gái của cha không?”. Rồi ông mời cô ta ngồi vào bàn. “Khởi đầu” của câu chuyện đầu tiên của Giu-cốp và cô gái A-lếch-xan-đra Zui-cốp-va đã diễn ra như vậy. Rồi tự nhiên họ đã thành “đôi lứa”.
Mấy năm sau, Giu-cốp mới tìm gặp được bà Ma-ri-a Vôn-khô-va và lại thành “đôi lứa”, (có thể vì bà Zui-cốp-va không có con). Vậy là người trung đoàn trưởng mưu lược tài năng này phải “sống giữa hai mặt trận”(!). Năm 1929, bà Ma-ri-a sinh được cho ông người con gái đầu tiên-bà Ma-ga-ri-ta sau này-thì Giu-cốp muốn “thoát khỏi” bà Zui-cốp-va. Nhưng bà này đâu có chịu, bà yêu cầu để Ma-ga-ri-ta cho bà nuôi, nếu không thì bà sẽ bêu xấu ông khắp thế gian. Và sau đó bà Zui-cốp-va cũng đã viết đơn tố cáo Giu-cốp lên cấp trên khiến ông bị “cảnh cáo đảng” vì tội “lấy hai vợ”.
Trước việc này, do bà Zui-cốp-va vô sinh, nên họ đã nhận bé gái E-ra làm con nuôi năm 1928, và tới năm 1937 còn nhận thêm En-la. Hai cô gái này luôn luôn cho rằng mình là con ruột đích thực của Giu-cốp và Zui-cốp-va. Bà Ma-ga-ri-ta cũng như nhiều bà con họ hàng ruột thịt không trách điều đó, vì vào thời ấy việc “nhận con nuôi” thì sẽ bị “rắc rối to” theo pháp luật. Hơn nữa, vì bà Zui-cốp-va thực sự bị bệnh “vô sinh” nên việc nhận con nuôi cũng như “nhận thêm” con đẻ của bà Ma-ri-a là để tạo lập một gia đình đàng hoàng và chủ yếu là để giữ được Giu-cốp bên mình. Biệt hiệu “người đeo bám” được người thời đó tặng cho bà A-lếch-xan-đra Zui-cốp-va vì bà đã “có công” níu giữ Giu-cốp, quyết không cho ông “lòng thòng” với những phụ nữ khác, vì lúc đó có biết bao nhiêu người đẹp ngưỡng mộ ông.
Giu-cốp và người vợ cuối Ga-li-na Xê-mi-ô-nốp-na cùng con gái út Ma-sa. Ảnh tư liệu
Con đích thực-bố đích thực?
Bà Ma-ri-a Vôn-khô-va có được đứa con gái với Giu-cốp, rất tự hào điều này, nhưng cũng không chịu đựng nổi với tình thế lúc đó. Khi chị gái bà là Pô-li-na mất vì bệnh thương hàn, người chồng Ya-nin phải vừa chiến đấu vừa chịu cảnh “gà trống nuôi con”. Do vậy, bé Vô-lô-đi-a 3 tuổi được dì Ma-ri-a nuôi dưỡng. Và từ khi Ya-nin hy sinh trên chiến trường thì bà Ma-ri-a làm mẹ nuôi của các đứa con người chị gái… Ma-ga-ri-ta lại có thêm em nuôi nhưng vẫn chưa rõ được bố đẻ mình.
Sau một thời gian dài “nóng ruột tìm hiểu sự thật” thì Ma-ga-ri-ta được mẹ đẻ vừa cho tờ giấy chứng nhận khai sinh, ở mục bố đẻ ghi “Bố-Ghê-ô-ghi Côn-xtan-ti-nô-vích Giu-cốp”. Lập tức con gái Ma-ga-ri-ta viết thư cho bố ngoài chiến trường và được bố viết thư trả lời ngay. Từ đó bố và con luôn viết thư cho nhau trong suốt cuộc chiến tranh. Sự liên lạc qua lại giữa hai bố con được thông suốt là nhờ cô y tá Li-đa Gia-kha-rô-va. Sau mấy lần bị thương, sức khỏe ông “có vấn đề” nên cấp trên đã biệt phái một nữ y tá 19 tuổi-cô Li-đa-để trực tiếp chăm sóc ông. Và giữa họ đã xảy ra “chuyện tình cảm” khó tránh khỏi.
Trong những năm tháng lửa đạn chiến tranh khốc liệt đó, “bà đầu tiên” A-lếch-xan-đra Giui-cốp-va không để cho vị nguyên soái này yên. Bà luôn luôn “đánh thức” ông, thậm chí có lúc ra ngay chiến trường để “kiểm tra và kiềm chế” ông. Ông rất bực dọc, khổ tâm, có lần nói với cô y tá: “Li-đa, cái người luôn luôn “đeo bám” ấy lại tới quấy rầy đấy!”. Cũng may, Giu-cốp là vị danh tướng tài ba luôn luôn say sưa, đam mê suy nghĩ về chiến lược, chiến thuật để giành chiến thắng trước quân thù nên mọi cái “râu ria”, “nhỏ nhặt” đó ông đã bỏ qua.
Sau chiến tranh, người nữ y tá Li-đa gọi điện cho con gái Giu-cốp: “Ma-ga-ri-ta Ghê-ô-ghi-ép-na, tôi mời chị tới chỗ tôi dùng trà”. Ma-ga-ri-ta đến, đi vào nhà bếp thấy một người đàn ông rất giống mình bèn hỏi nhỏ Li-đa: “Ai đấy?”. Cô y tá cười: “Chính là bố chị đấy!”. Hai bố con gặp nhau hàn huyên tâm sự ở “nhà một người khác”. Nhưng rồi vị nguyên soái này cũng buộc phải rời cô y tá Li-đa. Bà Giui-cốp-va đã viết tới 10 bức thư tố cáo sự việc đó, khiến cấp trên phải thải hồi cô. Khi Li-đa bị đưa ra khỏi Quân y viện của Bộ Quốc phòng và trả về Mát-xcơ-va, ông đã giúp đỡ cô tìm được việc làm và một căn hộ ở khu chung cư. Về sau bà đã kết duyên với một vị trung tá về hưu.
Thực ra, Nguyên soái Giu-cốp đã rất nhiều năm phải sống với “người mình không yêu”. Còn bà Giui-cốp-va, ngoài chuyện vô sinh lại là người thích mua sắm các đồ dùng xa xỉ, khoe khoang của cải, hợm hĩnh… Ông rất khổ tâm nhưng vẫn không dứt ra được. Có lẽ cũng do vậy mà ông đã “ga lăng” với một vài phụ nữ thấy “ý hợp tâm đồng”. Ví như chuyện ông với một bác sĩ thạo nghề xoa bóp chữa trị bệnh viêm rễ thần kinh ở một bệnh viện cao cấp của quân đội. Nữ bác sĩ Ga-li-na Xê-mi-ô-nốp-na này tận tình xoa bóp chữa trị cho ông, kết quả nhiều lần hoàn toàn “như ý”. Do hằng ngày “lửa gần rơm” nên họ đã bén duyên. Kết quả của “cuộc tình lãng mạn” này là cô gái Ma-sa ra đời vào năm 1957, là con gái út của ông.
Lần này thì bà Giui-cốp-va “mạnh tay” hơn viết đơn lên Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô yêu cầu đày kẻ chia uyên rẽ thúy kia tới Xi-bia. Đáp lại, vị nguyên soái này đã thu gói đồ đạc của mình rời khỏi gia đình đó. Đây là một dịp để Khơ-ru-sốp (lúc đó là Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô) lợi dụng để đả kích Giu-cốp. Vốn hiềm khích với vị nguyên soái được quân và dân Xô-viết yêu kính, ông ta đã đưa “vụ án” về đạo đức và đứa con gái ngoài giá thú của Giu-cốp ra xem xét ở Đoàn Chủ tịch (sau này là Bộ Chính trị-TG).
Vậy là, trong cái gia đình “nhiều vợ” của vị nguyên soái lừng danh này có 4 cô con gái mà ai cũng cho mình là con đích thực của bố Giu-cốp. Nhưng thực ra chỉ có hai người, Ma-ga-ri-ta giống bố như đúc. Tuy về sau tất cả họ đều “ăn nên làm ra”, nhưng sự gắn bó ruột thịt thì “chưa được như ý”.
Để giữ mãi kỷ niệm đầy ý nghĩa về người cha nổi tiếng của mình, người con gái cả đích thực Ma-ga-ri-ta đã lập ra Quỹ “Ghê-ô-ghi Giu-cốp”. Bà nói: “Những gian kế mà Khơ-ru-sốp đã bày trò để mưu hại Giu-cốp chưa thấm vào đâu so với việc ngày nay một vài nhân vật có tiếng cố tình gièm pha tên tuổi của Ghê-ô-ghi Giu-cốp. Do vậy, tôi quyết định lập ra quỹ mang tên cha tôi để quảng bá cho di sản của ông”.
Quỹ này đã được nhiều cá nhân và tổ chức xã hội của nước Nga nhiệt tình tham gia. Và kết quả đầu tiên rất thành công là xây dựng được tượng Giu-cốp trên quảng trường Ma-nhét ở Mát-xcơ-va do nhà điêu khắc Via-trê-xláp Clư-cốp tạc tượng. Ông đã lấy hình mẫu của người con gái đích thực của vị Nguyên soái Chiến thắng-bà Ma-ga-ri-ta để tạo mẫu bức tượng bán thân đặc biệt này.
Nguyễn Hữu Dy
qdnd.vn

Hành xử công bằng của Nguyên soái Giucốp

08:17 | 09/05/2013
|
(Petrotimes) - Ngày 9/5 là ngày kỷ niệm chiến thắng hoàn toàn của các nước đồng minh chống phát xít. Hồng quân Liên Xô và quân đồng minh đã giành chiến thắng trước quân đội Đức Quốc xã, mở ra trang mới cho lịch sử toàn thế giới. Nhân dịp kỷ niệm 68 năm Ngày Chiến thắng Phát xít, Petrotimes xin được trích đăng bút ký về tiểu sử Nguyên soái Liên Xô G.C. Giucốp của Nhà văn Liên Xô K.M.Ximônôp giúp bạn đọc hiểu thêm về sự kiện và con người nổi tiếng này.
"Trong buổi nói chuyện giữa chúng tôi vào năm 1950, Giucốp hay nói về vấn đề đồng chí hằng quan tâm là cần phải đánh giá thật khách quan những lực lượng và khả năng của địch - cả trong lịch sử, cả cho ngày nay và mai sau. Thật đáng tiếc là tôi không ghi chép câu chuyện ấy nên không thể dẫn ra đây các chi tiết, không dám liều lĩnh nói cương. Song nhân đây, tôi có thể dẫn ra những vấn đề Giucốp nói tới trong những lần nói chuyện về sau. Nội dung các vấn đề ấy, tôi có ghi lại. Một số ghi chép được như sau: “Rốt cuộc lại sẽ phải nhìn thẳng vào sự thật; không được e ngại, phải nói những cái có thật đã xảy ra. Phải đánh giá những mặt mạnh của quân Đức mà chúng ta buộc phải đương đầu từ những ngày đầu chiến tranh. Không phải chúng ta buộc phải rút lui đến hàng ngàn kilômét trước những quân ngu ngốc, mà trước một đạo quân mạnh nhất thế giới.
Phải nói rõ, quân Đức lúc bắt đầu chiến tranh giỏi hơn quân đội chúng ta, được huấn luyện, được trang bị tốt hơn và đã sẵn sàng chiến tranh về mặt tâm lý hơn chúng ta. Quân Đức có những kinh nghiệm chiến tranh và thêm nữa lại là những cuộc chiến tranh đã đánh thắng. Những cái đó giữ một vai trò lớn. Cũng lại phải thừa nhận, Bộ Tổng tham mưu Đức và các cơ quan tham mưu Đức nói chung hồi đó làm việc tốt hơn Bộ Tổng tham mưu và các cơ quan tham mưu của chúng ta. Những người tư lệnh quân Đức trong thời kỳ ấy suy nghĩ sâu hơn và tốt hơn những người tư lệnh chúng ta. Trong quá trình chiến tranh, chúng ta mới học tập và đã học tập được và mới đánh được quân Đức. Nhưng đó là một tiến trình dài. Cái tiến trình này bắt đầu khi bên phía quân Đức chiếm ưu thế hơn ta về mọi mặt”.
Nguyên soái Giucốp
Chúng ta cũng không được ngần ngại khi viết về tình trạng không ổn định của bộ đội ta trong thời kỳ đầu chiến tranh. Do không ổn định, nên bộ đội chẳng những rút lui, mà còn bỏ chạy và lâm vào tình trạng hoang mang. Khuynh hướng không muốn công nhận tình trạng đó, bởi e rằng, nếu nói như vậy thì ra nhân dân không có lỗi mà chỉ ban lãnh đạo có lỗi. Về đại thể, thì điều đó đúng. Mà kết quả cũng thực như vậy. Nhưng nếu nói một cách cụ thể, thì lúc bắt đầu chiến tranh, chúng ta đã chiến đấu tồi cả ở cấp trên và cả ở bên dưới. Không có gì phải giữ bí mật, rằng các sư đoàn chúng ta, có sư đoàn đánh tốt, rất kiên cường, song lại có sư đoàn bỏ chạy khi bị địch tiến công y hệt như thế. Có những người chỉ huy khác nhau, sư đoàn khác nhau và cả mức độ kiên cường khác nhau.
Chúng ta cần nói và viết về tất cả những cái đó. Tôi có lần nói, ở đây có cả những mặt sư phạm của vấn đề, bởi các bạn đọc hiện nay, trong đó có các thanh niên sẽ không được nghĩ rằng, tất cả chỉ phụ thuộc vào Bộ Chỉ huy. Không. Thắng lợi phụ thuộc vào tất cả, vào từng con người trong chiến đấu. Chúng ta biết đấy, trong những điều kiện như nhau mà có người tỏ ra kiên cường, có người lại không. Cho nên vấn đề này không thể không được nói tới.
- Khi nói về sự thất bại của quân Đức trong chiến tranh, giờ đây chúng ta hay nhắc đến, cho là không phải chỉ có sai lầm của Hitle, mà sai lầm của cả Bộ Tổng tham mưu quân Đức. Song, cần phải nói thêm rằng, những sai lầm của Hitle càng làm cho Bộ Tổng tham mưu của chúng sai lầm thêm, bởi Hitle thường làm trở ngại cho Bộ Tổng tham mưu quân Đức không thể thông qua được những quyết định đúng đắn hơn, chín chắn hơn. Năm 1941, sau khi quân Đức bị đập tan ở gần Mátxcơva, Hitle đã cách chức Braokhích, Bốc cùng một loạt những viên tư lệnh khác và đảm nhận lấy quyền chỉ huy các lực lượng bộ binh Đức. Hitle làm như vậy đã giúp ích nhiều cho chúng ta. Sau đó thì Bộ Tổng tham mưu quân Đức và cả những viên tư lệnh các cụm tập đoàn quân Đức càng bị trói buộc nhiều hơn trước. Sự chủ động của họ bị tê liệt. Những quyết định của Hitle bấy giờ lại là Tổng tư lệnh Lục quân nên trở thành tuyệt đối lớn hơn hết thảy. Mức độ độc lập giải quyết những vấn đề tác chiến vốn dĩ vẫn dành cho quân đội Đức trước đây bị giảm thấp cùng với sự thải hồi Braokhích đều là những việc tất nhiên có lợi cho chúng ta.
- Nếu theo dõi tiến trình lịch sử chiến tranh trong thời kỳ thứ hai, thứ ba này, thì chúng ta có thể đếm được nhiều tình thế bị lặp lại về nguyên tắc mà quân Đức trước sau vẫn cứ rơi vào tình thế không xử lý nổi, vẫn bị hợp vây, hút vào những lòng chảo và mặc dù tình thế đã lặp đi lặp lại nhiều lần như thế, song chúng vẫn không thể quen với chiến đấu trong tình huống bị thất bại và rút lui thật lạ lùng đối với chúng.
Hãy đơn cử ra tình huống, chẳng hạn như vào trước cuộc tiến công của chúng ta ở Bêlaruxia vào mùa hè năm 1944, mà chỉ cần nhìn vào bản đồ cũng thấy rất rõ chúng ta có thể sẽ mở những đòn đột kích vào chúng trên ba hướng và có thể tạo nên chiếc lòng chảo Bêlarútxia và kết quả là có thể đột phá kết thúc chiến dịch trên chiều rộng 300-400 kilômét mà quân Đức sẽ không thể chống đỡ nổi. Chúng hoàn toàn có thể nhìn thấy trước những sự kiện đó.
Lôgíc của các sự kiện, sự am hiểu tối thiểu về mặt quân sự nhắc chúng phải rút quân ra khỏi chiếc lòng chảo tương lai đó, thu hẹp và tăng mật độ trên chính diện lên, xây dựng những đội dự bị chiến dịch ở phía sau chính diện đó. Tóm lại, là tất cả những gì đòi hỏi phải làm trong những trường hợp ấy. Nhưng quân Đức lại không làm thế và hậu quả đã bị tiêu diệt trong chiến dịch Bêlarútxia.
Nhưng sau này, khi bị lâm vào tình thế rất nặng nề, không sao có thể chống đỡ nổi cuộc đột phá trên chính diện 400 kilômét, ta cũng phải nói cho thỏa đáng là chúng đã tìm được một lối thoát táo bạo và đúng. Thay vì phải kéo quân ra để bịt lấy những cửa mở rộng hoác này, chúng đã tập trung lập thành từng cụm quân đột kích và đón đánh chúng ta ở giữa khoảng không gian trống trải ấy. Do đó chúng đã kìm được quân ta, buộc ta phải giao chiến với chúng. Như vậy chúng đã làm chậm bước tiến của quân ta. Nhờ cuộc đột kích táo bạo và bất ngờ này đối với chúng ta nên sau khi bị tiêu diệt trong chiếc lòng chảo Bêlarútxia, chúng đã kịp làm được việc xây dựng tuyến phòng ngự ở phía sau. Chúng ta phải công nhận quyết định ấy của bọn chúng là táo bạo và thông minh”.
Những đoạn trích ở đây dẫn trong các cuộc nói chuyện vào năm 1955 mà tôi còn nhớ là nó rất gần gũi với những chuyện Giucốp nói với tôi trước đây trong Văn phòng Bộ Quốc phòng. Hồi đó, câu chuyện cũng chỉ xoay quanh vấn đề: đánh giá cho thật khách quan các hành động của chúng ta, dù là những hành động thất bại hay thắng lợi.
Vào tháng 5 năm 1956, sau việc tự sát của Phađêép (Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Tổng thư ký Hội Nhà văn Liên Xô), tôi gặp Giucốp trong phòng tang lễ của Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Đảng, nơi tập trung tất cả những ai được cử làm hàng rào danh dự đứng bên linh cữu của Phađêép. Giucốp đến sớm hơn thời gian đã dự định, nên chúng tôi lại có dịp ngồi với nhau một góc phòng nói chuyện được nửa tiếng đồng hồ.
Câu chuyện thật bất ngờ với tôi và bất ngờ với cả khung cảnh ấy. Giucốp nói, sau Đại hội Đảng lần thứ 20 được ít lâu có một sự việc khiến đồng chí ấy xúc động và hào hứng. Đó là vấn đề phục hồi những tiếng tốt cho người bị bắt làm tù binh, mà chủ yếu vào thời kỳ đầu chiến tranh, ở thời điểm quân ta rút lui kéo dài và bị hợp vây quy mô lớn.
Tôi hiểu được phần nào vấn đề này khi đưa ra thảo luận trong Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Đảng. Giucốp thời gian ấy là Bộ trưởng Quốc phòng đã đề nghị đưa vấn đề này ra để Đoàn Chủ tịch có quyết định dứt khoát. Đồng chí rất phấn khởi khi được sự ủng hộ có tính nguyên tắc và đã nói thật sốt sắng về sự việc đó hầu như không thấy sự điềm tĩnh và ít lời như thường lệ. Có lẽ, vấn đề này đụng tới vấn đề gì sâu xa, mạnh nhất trong thâm tâm đồng chí. Chắc là (ít ra thì tôi cũng thấy như vậy) Giucốp lâu nay có suy nghĩ tới việc này và nhiều năm trong nội tâm không yên lòng với cách xử lý không đúng. Và không có căn cứ ấy trước đây về vấn đề này. Đồng chí nói đến nỗi đắng cay là theo luật pháp nước Anh, các sĩ quan và binh lính Anh bị bắt làm tù binh thì trong suốt thời gian bị đối phương bắt giữ vẫn tiếp tục hưởng lương, thậm chí còn tăng thêm phụ cấp cho những ai gặp hoàn cảnh khó khăn.
Hồng quân Liên Xô cắm lá cờ chiến thắng vào mùa xuân năm 1945  trên Tòa nhà Quốc hội Đức phát xít ở Berlin
“Còn ở chỗ chúng ta - Giucốp nói - ở chỗ chúng ta thì Mekhơlích lại nghĩ ra được cái định thức: “Những ai bị bắt làm tù binh đều là những kẻ phản bội Tổ quốc” và còn lập luận cho các định thức ấy, rằng những người Xôviết trước nguy cơ bị bắt làm tù binh phải tự sát để kết liễu đời mình. Thực chất ấy là trong tổng số biết bao triệu con người đã hy sinh trong chiến tranh phải cộng thêm mấy triệu người tự sát nữa. Hơn một nửa số người bị bắt làm tù binh đã bị bọn Đức hành hạ, tra tấn, đã chết vì đói khổ và bệnh tật. Nhưng theo như luận chứng của Mekhơlích, thì ngay cả số người còn sống sót, đã vượt qua được cửa ải địa ngục ấy trở về và khi về được đến nhà cũng sẽ phải luôn ăn năn, hối hận rằng, tại sao trong những năm 1941 hoặc 1942 ấy, mình không kết liễu lấy cuộc đời mình”.
Tôi không còn nhớ chính xác hết những lời của Giucốp, nhưng ý nghĩa của nó là cái định thức ấy của Mekhơlích thật đê nhục - không tin cậy vào những chiến sĩ và sĩ quan, đã dựa vào những lập luận không công bằng, cho rằng mọi người bị bắt làm tù binh đều là những con người hèn nhát.
“Hèn nhát, tất nhiên là có những người hèn nhát, song làm sao mà có thể suy nghĩ như vậy đối với mấy triệu chiến sĩ và sĩ quan bị bắt làm tù binh của cái quân đội, mà rốt cuộc, nó đã ngăn chặn và đánh tan được quân Đức.
Phải chăng, tất cả họ đều là những người khác, không phải là những con người mà sau này đã đến tận Béclin? Họ là những con người thuộc loại thử nghiệm khác chăng, tồi tệ hơn, hèn nhát hơn?! Liệu có thể nào lại đem khinh rẻ một cách xô bồ với tất cả những ai đã bị bắt làm tù binh do những tai họa bất ngờ ập đến với họ lúc đầu chiến tranh?...”.
Nhắc lại câu chuyện lúc ban đầu, là vấn đề đau thương này sẽ được xem xét lại và Ủy ban Trung ương Đảng đã nhất trí như thế, Giucốp nói, đồng chí thấy mình có nghĩa vụ của một quân nhân lúc này là sẽ làm tất cả những gì để khôi phục thật triệt để sự công bằng đối xử với tất cả những ai xứng đáng như thế, không được bỏ quên và bỏ qua, mà phải phục hồi phẩm cách của tất cả những chiến sĩ và sĩ quan đã chiến đấu trung thực, lâm vào cảnh ngộ đau đớn bị bắt làm tù binh. “Suốt những ngày này tôi suy nghĩ về công việc ấy và thật bận tâm về nó” - Giucốp nói.
Vào ngày lễ kỷ niệm 20 năm chiến thắng phát xít Đức, lần đầu tiên sau 8 năm nghỉ hưu, Giucốp lại cùng với các nguyên soái khác có mặt tại Chủ tịch đoàn của phiên họp ngày lễ kỷ niệm long trọng này. Đây là một hành động công bằng. Những người có mặt trong phòng họp, mà chí ít cũng là chín phần mười trong số họ đã tham gia chiến tranh cùng lĩnh hội như thế. Họ còn nhớ rõ, Giucốp đã giữ vai trò như thế nào trong chiến tranh.
Trong phiên họp trọng thể này, trong danh sách những người chỉ huy quân sự, khi đọc đến tên Giucốp mà nhiều năm qua đã không được nhắc đến trên một diễn đàn nào, cả gian phòng vang dội tiếng vỗ tay tự phát. Tại diễn đàn này cũng đã từng có nhiều tràng vỗ tay khi đọc đến tên những người đáng được ca ngợi trong chiến tranh và trong những hoàn cảnh khác, khi đọc đến tên Giucốp chắc là cũng không được hưởng ứng thật mãnh liệt đến thế. Cả gian phòng vỗ tay như sấm dậy, biểu lộ sự nhất trí, rằng cái ngày, cái giờ này, rốt cuộc đã khôi phục lại được sự công bằng lịch sử mà trong đáy lòng mọi người, ai cũng luôn luôn khao khát.
Tôi nghĩ rằng, Giucốp trải qua cái giây phút sung sướng ấy đối với đồng chí thật không dễ dàng, bởi trong đó có phần nào sự đắng cay. Những khi không nhắc đến tên đồng chí ấy, thì thời gian cứ tiếp trôi, mà con người lại không thể sống mãi. Ai có thể biết được bên cạnh những ý nghĩ khác, Giucốp lại mảy may không xao xuyến tới một điều đơn giản trong hoàn cảnh thật tàn nhẫn đối với mình và nói chung liệu có thể sống tới cái giây phút này.
Tối hôm ấy cho đến tận đêm khuya, Giucốp đã cùng một số người chỉ huy quân sự tới Cung Văn học ở chỗ chúng tôi tham dự buổi gặp mặt truyền thống hằng năm với các nhà văn - những người đã tham gia chiến tranh. Tính tự chủ và sức mạnh của tính cách đồng chí ấy được biểu lộ ở ngay đây.
Cũng phải nói rằng, cái đêm hôm ấy những người có mặt đều tập trung chú ý trước hết tới Giucốp. Trong cuộc sống, nhiều người với tấm lòng quá nhiệt thành có khi không nhận ra mình trong lúc bộc lộ hết cả tấm lòng đã rơi vào tình trạng thái quá, sẽ đặt người khác vào một tình thế khó khăn chính bởi những tình cảm ấy.
Cái đêm hôm ấy đúng là như thế. Một số người có mặt trong buổi tiếp đón tỏ ra sung sướng trước sự công bằng đã được khôi phục, song đồng thời cũng lại biểu thị sự không công bằng đối với các vị khách quân sự khác. Có lúc, hầu như họ đã quên sự có mặt của những vị ấy.
Nhưng tôi cảm thấy chính Giucốp lại không một giây phút nào quên những vị khách ấy, mà bằng chứng là thái độ xử sự của đồng chí và những cộng sự ấy đang ngồi cùng bàn với mình và những lời nói ngắn mà lúc đầu Giucốp không định phát biểu, khiến tôi không thể bỏ qua.
Giucốp không nói một lời về bản thân, về sự tham gia chiến tranh của mình. Đồng chí chỉ nói đến những công lao lịch sử xứng đáng của nhân dân, của Đảng và quân đội, tiếng nói của một trong những người tham gia cuộc chiến tranh lớn lao nói về những người khác trong chiến tranh.
Tôi nghĩ, những lời nói ấy đích thực là bài học cho các nhà văn chúng tôi, những người đã tỏ ra sung sướng và bộc lộ đến quá mức tình cảm của mình khi thấy Giucốp có mặt. Bản thân tôi cũng ở trong tình trạng đó và đúng là mình cũng đầy lòng khâm phục con người ấy, con người qua nhiều từng trải với những phẩm chất thật cao đẹp…”.
22 giờ ngày 8/5/1945 (0 giờ 43 phút ngày 9/5 theo giờ Mátxcơva), thay mặt nước Đức Quốc xã, thống chế Wilhelm Keitel ký vào định ước xác nhận đầu hàng không điều kiện. Sau đó, lần lượt đại diện các đoàn Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều ký vào văn bản định ước. Phía Liên Xô có Nguyên soái G. K. Zhukov, Đại tướngV. D. Sokolovsky, Trung tướng K. F. Teleghin và nhà ngoại giao A. Ya. Vysinsky. Đoàn đại biểu quân đội Hoàng gia Anh do thống chế Arthur Tedderđứng đầu, đoàn đại biểu quân đội Hoa Kỳ do tướng Carl A. Spaatz đứng đầu. Đại diện cho quân đội Pháp là thống chế Jean de Lattre de Tassigny.
Ngay sau lễ ký kết định ước, đoàn đại biểu quân sự Liên Xô đã mở tiệc chiêu đãi các đoàn đại biểu đồng minh. Tại buổi tiệc, các tướng lĩnh Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô đều bày tỏ lòng mong muốn củng cố và giữ vững mãi mãi các mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các nước trong khối đồng minh chống phát xít.

(Trích Bút ký về tiểu sử G.C.Giucốp - K.M.Ximônốp - Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 2004)


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét