TT&HĐ V - 43/k
Con lắc đơn và các vấn đề liên quan - Vật lí 12 - Thầy giáo Phạm Quốc Toản
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
(Tiếp theo)
Qua
những nhận xét trên có thể thấy quan niệm về thời gian trôi hoàn toàn
chỉ là do cảm nhận thuần túy chủ quan tạo ra. Đáng chú ý là trên cơ sở
hai biểu diễn và
có thể chỉ ra một cách cụ thể sai lầm của nhận định thời gian trong hệ
chuyển động trôi chậm hơn so với sự trôi của thời gian trong hệ đứng yên
và thời gian trôi càng chậm khi vận tốc của hệ chuyển động càng lớn dẫn
đến nghịch lý anh em sinh đôi mà chúng ta đã kể.
Giả
sử tại điểm S (đứng yên) trong hệ chuyển động O’ với vận tốc v, xuất
hiện một biến đổi vật lý nào đó và sau khoảng thời gian t' thì quá trình biến đổi vật lý đó kết thúc. Theo thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh thì:
với t là khoảng thời gian tồn tại của quá trình vật lý xảy ra tại điểm S, được “thấy” trong hệ O đứng yên.
Từ đó mà suy ra rằng thời gian trôi trong hệ O’ chậm hơn thời gian trôi trong hệ O.
Thực ra, cần thấy rằng, điểm S chỉ đứng yên trong hệ O’ thôi chứ đối với quan sát ở hệ O, nó đang chuyển động với vận tốc .
Cho nên theo nhận định của quan sát ở hệ O, thời gian tồn tại của quá
trình biến đổi vật lý tại S hoàn toàn tương đương với thời gian điểm S
chuyển động với vận tốc (song song với trục tọa độ k’ và cũng là k) và đạt được một quãng đường nào đó. Như thế, theo biểu diễn 3, vì nên phải có:
Nếu
dừng lại ở đây và với quan niệm thời gian trôi thì cũng “đành” phải
nhận định rằng thời gian trong hệ chuyển động O’ trôi chậm hơn sự trôi
của thời gian trong hệ O. Tuy nhiên, chúng ta còn có biểu diễn xác định quãng đường mà điểm S đạt được trong thời gian t, quan sát từ hai hệ trong mối quan hệ chuyển đổi lẫn nhau là:
Đem chia quãng đường cho thời gian, chúng ta sẽ có:
Ở đây, có thể thấy giá trị x', t' là
được xác định bởi chủ thể thí nghiệm, hay cũng là bởi quan sát ở hệ O.
Tuy nhiên, một khi quan sát ở hệ O’ nhận thức được sự chuyển động với
vận tốc v của hệ O’ thì cũng đi đến kết luận rằng, trong khoảng thời
gian tồn tại quá trình biến đổi vật lý tại S, điểm S cũng chuyển động và
đạt được quãng đường:
x'=vt'
Vậy thì rốt cuộc, nhận thức cuối cùng rồi cũng phải rút ra được kết luận gì? Đó
là: vận tốc biến đổi và thời gian tồn tại của quá trình vật lý tại S là
tương đương với tốc độ chuyển động của hệ O’ và thời gian điểm S chuyển
động với vận tốc ấy để đạt được quãng đường x' trong nhận thức của quan sát ở O’ và x trong
quan sát ở hệ O; hay có thể nói vận tốc biến đổi của quá trình vật lý
xảy ra tại S là được thấy như nhau trong mọi hệ qui chiếu quán tính.
Nghĩa là không thể xảy ra trong thực tại nghịch lý anh em sinh đôi. Nếu
cho rằng tuổi thọ của hai anh em sinh đôi bằng nhau thì do tốc độ biến
đổi sinh học cơ thể của người du hành với vận tốc đáng kể so với giá trị
vận tốc c cũng y hệt như vận tốc biến đổi sinh học cơ thể của người ở
lại Trái Đất, cho nên khi người du hành Vũ Trụ quay về Trái Đất, hai
người anh em ấy chẳng thấy xảy ra điều gì bất thường cả, vì họ đều “răng
long, tóc bạc” như nhau. (Trong thực tế, thậm chí người du hành có thể
chết sớm hơn nhiều nhưng đó thuộc về vấn đề khác).
Nói
rộng ra, sự trôi thời gian là không có thực, thời gian chỉ là một thể
hiện cơ bản của vận động vật chất trước quan sát - nhận thức, là thước
đo để đánh giá sự lâu mau, nhanh – chậm của quá trình biến, chuyển hóa
hay nói chung là của sự vận động vật chất cụ thể nào đó trên cơ sở qui
ước chung của quan sát - nhận thức về đơn vị đo thời gian. Thời gian gắn
liền với vận động, không có vận động thì chủ thể quan sát có trực giác
tinh nhạy đến đâu đi nữa, có “nhìn lòi mắt ếch” ra cũng không cảm nhận
được thời gian, cũng không “thấy” được thời gian. Cuộc “công phá” thuyết
tương đối hẹp của Anhxtanh, có lẽ, đã đến hồi kết thúc. Nhìn lại, kể từ
lúc bắt đầu “xắn tay áo” lên… trình bày lại thí nghiệm của Maikenxơn –
Moocly cho đến nay, chúng ta có cảm tưởng như thời gian đã… trôi qua
hàng thế kỷ rồi. Dù đang mệt nhoài và tóc râu có phần bạc nhiều hơn
trước, thì chúng ta cũng vô cùng phấn khởi đã dám “cãi lại” thần tượng
vật lý học của thế kỷ XX để bảo vệ những luận điểm cơ bản của triết học
duy tồn về Tự Nhiên Tồn Tại. Và (có thể là) đã thành công mỹ mãn.
Chúng
ta tin tưởng sâu sắc rằng, dù có thể còn ở dạng thô sơ (vì kiến thức
toán học còn ngây thơ của chúng ta chỉ cho phép xây dựng được đến đó),
thì hai biểu diễn và
cũng hoàn toàn đủ năng lực thay thế cho phép biến đổi Lorenxơ trong vật
lý học. Có thể thấy phép biến đổi Lorenxơ được xây dựng dựa trên một
phán đoán có tính huyền bí và chỉ là một phép biến đổi gần đúng. Còn
phép biến đổi gồm hai biểu diễn và
thì được xây dựng trên cơ sở một tiền đề duy nhất (c là giới hạn trên
của vận tốc trong Vũ Trụ), đồng thời cũng được giải thích tường tận hơn
về mặt vật lý và điều quan trọng là được dẫn dắt một cách tự nhiên, có
tính giản dị, trong sáng về mặt toán học.
Để khẳng định sự xác đáng của hai biểu diễn và
thì cách thuyết phục nhất là… bắt chước Anhxtanh, xây dựng nên một lý
thuyết cơ học mới. Lý thuyết này phải là sự kế thừa có phê phán cơ học
cổ điển trong điều kiện phải thỏa mãn giá trị c là vận tốc cực đại giới
hạn trong Vũ Trụ mà mọi chuyển động, vận động, truyền tương tác không
thể vượt qua và đòi hỏi có tính sống còn đối với lý thuyết này là ít ra,
nó cũng phải giải thích được hiện tượng vật lý mà thuyết tương đối hẹp
đã giải thích, phải được thực nghiệm thừa nhận tương tự như đối với
thuyết tương đối hẹp. (Có thể võ đoán: vận tốc cực đại của chuyển hóa vật chất trong Vũ Trụ là C, nhưng khoảng thời gian biến đổi trạng thái của nội tại hạt KG mới là nhanh nhất Vũ Trụ, nếu đường kính hạt KG, d = 1 thì C = 3,125.10^(-10) cm/s !).
Chúng
ta nhất quyết sẽ thực hiện công việc đó. Nhưng tiếp theo, chúng ta xin
kể một câu chuyện và coi như đây là sự kết thúc có hậu cho những ăn nói
bỗ bã, liến thoắng “tự mình cãi cọ với mình”, và những phát biểu văng
mạng có phần phởn chí, huênh hoang của “thằng cha” chủ thể thực hành thí
nghiệm giả tưởng cũng như của “lũ ném đá giấu tay” ở trên.
Vào
năm 1851, một nhà vật lý học người Pháp, tên là Fucô (Leon Foucault) đã
thực hiện một thí nghiệm nhằm chứng tỏ Trái Đất xoay quanh trục của nó.
Fucô đã không thể ngờ rằng thí nghiệm đó của ông trở nên rất nổi tiếng
vì những hệ lụy mà nó gây ra cho các nhà vật lý và ngày nay trong nhiều
viện bảo tàng trên thế giới, vẫn còn trưng bày mô hình của nó.
Léon Foucault | |
---|---|
Léon Foucault (1819-1868)
|
|
Sinh | 18 tháng 9 năm 1819 Paris, Pháp |
Mất | 11 tháng 2 năm 1868 Paris, Pháp |
Nơi cư trú | Pháp |
Ngành | Vật lý học |
Nổi tiếng vì | con lắc Foucault |
Trong
thí nghiệm đó, Fucô đã treo một con lắc nặng 28 kg vào đầu một sợi dây
dài 67m, đầu dây kia được neo chặt tại đỉnh vòm của điện Pantheon ở Pari
bằng cách sao cho hầu như loại bỏ được ảnh hưởng của ma sát và tác động
do sự tự xoay của Trái Đất lên con lắc đó. Khi cho con lắc dao động thì
quá trình dao động của nó đã thể hiện ra một điều đặc biệt là, nếu thả
con lắc dao động theo hướng Bắc – Nam, vài giờ sau nó sẽ dao động theo
hướng Đông – Tây; nghĩa là có hiện tượng mặt phẳng dao động của con lắc
xoay quanh trục vuông góc với mặt đất và đi qua điểm cân bằng của nó
(chúng ta dùng từ “xoay” thay cho từ “quay” vì coi như đã loại bỏ được
tác động của chuyển động Trái Đất quanh Mặt Trời lên con lắc!). Ở Pari,
do bị chi phối bởi vĩ độ nên sự xoay đó chỉ “quét” được một phần nào đó
của hình tròn trên mặt phẳng cố định và song song với mặt đất. Nếu thực
hiện thí nghiệm tại Bắc cực hay Nam cực thì mặt phẳng dao động của con
lắc sẽ xoay đúng một vòng sau 24 tiếng.
Nhưng tại sao
mặt phẳng dao động của con lắc lại xoay khi không có một tác động nào
gây ra điều đó? Chính Fucô đã trả lời rằng thực ra chẳng có sự xoay mặt
phẳng dao động nào cả. Đó chỉ là chuyển động có tính chất biểu kiến “làm
phát lộ ra” sự xoay của Trái Đất quanh trục của nó. Thí nghiệm của Fucô
đã đạt được mục đích đề ra và chắc rằng ông cũng rất hài lòng. Oái oăm
thay, trong khi kết quả thí nghiệm trưng ra được bằng chứng về sự xoay
của Trái Đất thì đồng thời nó cũng tạo ra liên tiếp những vấn đề nhạy
cảm đối với các nhà vật lý, đòi hỏi họ phải giải quyết một cách có cơ sở
khoa học, nếu không thì hoặc phải thừa nhận có sự “nhúng tay vào” của
Đấng Toàn Năng (như Arixtốt xưa kia đã từng thừa nhận) hoặc phải tin vào
một thực tại “mơ mơ hồ hồ” như Giác Ngộ đã chỉ ra, để rồi cuối cùng thì
đều đến trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa “Bất khả tri luận”.
Mặc dù sự
xoay mặt phẳng dao động của “Con lắc Fucô”, cũng như sự lệch về phía
Đông của những vật rơi tự do so với hướng vuông góc với mặt đất (thí
nghiệm của Benzenberg, năm 1802), và kết quả của những thí nghiệm tương
tự đã là những bằng chứng không thể chối cãi được về mặt động lực học
đối với sự xoay của Trái Đất, nhưng thử hỏi sự xoay đó là so với cái gì,
so với “cột mốc” nào? Galilê từng nói: “Chuyển động giống như không là
gì cả”. Biểu hiện của chuyển động là sự thay đổi, di dời vị trí trong
không gian. Trong một không gian mông lung có vẻ vô bờ vô bến, không thể
nói đến sự thay đổi, di dời vị trí của một vật, nghĩa là không thể biết
được một vật có chuyển động hay không, nếu không lấy một cái gì đó, một
vật khác nào đó được cho là đứng yên để làm mốc so sánh và hơn nữa, để
làm cơ sở đánh giá chuyển động về mặt định tính cũng như định lượng.
Ngày
nay, ai mà không biết điều này: Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời và
tự xoay quanh trục của nó. Nhưng vào thời Prôlêmê, họa chỉ có kẻ điên rồ
mới nghĩ ra điều được cho là “quá ư ngược đời” như thế. Cảm nhận trực
giác tỏ rõ rằng Trái Đất bất động cho nên mọi thiên thể trên bầu trời,
kể cả Mặt Trời đều chuyển động quay quanh Trái Đất – trung tâm Vũ Trụ.
Sự tồn tại xuyên suốt hàng chục thế kỷ như một chân lý bất di bất dịch
của thuyết địa tâm Prôlêmê đã là minh chứng hùng hồn nhất về tính bất ổn
có nguyên nhân khách quan của quan sát chủ quan trong việc nhận diện
chuyển động. Cũng vì lẽ đó, không thể nói một cách giản đơn rằng, những
thế hệ người xưa nhận định sai lầm về hành trạng Trái Đất là do họ kém
hiểu biết mà phải nói chủ yếu là do tính bất định của quan sát, cảm giác
đã chi phối mạnh mẽ đến việc đánh giá chuyển động của họ, làm cho họ
phạm sai lầm trong nhận định và điều đặc biệt là trong suốt một thời
gian rất dài đã không phát hiện được sai lầm đó. Mặt khác, cần thấy
rằng, ngày nay chúng ta có được sự nhận định đúng đắn về trạng thái
chuyển động của Trái Đất không phải vì đã khắc phục được tính bất định
cố hữu trong quan sát, cảm giác đối với chuyển động mà vì, nói như
Niutơn, đã được đứng trên vai những người khổng lồ của các thế hệ người
xưa.
Khi
đã biết Mặt Trời (đúng hơn là điểm cân bằng - trọng tâm của hệ thống
Mặt Trời – Trái Đất) đứng yên tương đối so với Trái Đất thì bằng suy lý
đơn thuần cũng biết được Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời và đồng
thời cũng tự xoay quanh trục của nó. Về mặt định tính thì suy lý đó là
chính xác, cho dù Mặt Trời đang trôi nổi kiểu gì trong chân không mênh
mông thì Trái Đất vẫn cứ phải quay quanh Mặt Trời và xoay quanh trục của
nó một khi bản thân nó và Thái Dương Hệ còn tồn tại. Hành trạng đó của
Trái Đất có thể rút ra được từ quan sát ở bất cứ đâu, tại vị trí chuyển
động tương đối hay đứng yên tuyệt đối trong chân không. Về mặt định
lượng, nếu chỉ xét duy nhất mối quan hệ cơ học giữa Mặt Trời và Trái Đất
thôi, thì những đánh giá về tình trạng chuyển động của Trái Đất so với
Mặt Trời cũng hoàn toàn xác đáng và có tính tuyệt đối. Tuy nhiên, xét về
mặt động lực học, không thể quan niệm được Ngân Hà lại có thể quay xung
quanh Mặt Trời nên Mặt Trời cũng chuyển động trong chân không. Do đó,
xét trên bình diện tổng thể, dù vẫn là Trái Đất quay quanh Mặt Trời và
xoay quanh trục của nó thì hành trạng của nó cả về mặt định tính lẫn
định lượng đều bị biến đổi đi. Nghĩa là chuyển động của Trái Đất được
thấy tương đối không đồng nhất bởi những hệ quan sát khác nhau về vị trí
cũng như về chuyển động của chúng. Vậy trong vô số những hình ảnh không
đồng nhất về chuyển động của Trái Đất ấy, có hình ảnh nào là tuyệt đối
chân thực không? Không mà cũng… có. Đối với một quan sát nhất định, nếu
sự suy ra từ quan sát không phạm sai lầm, không làm nảy sinh mâu thuẫn
nội tại thì hình ảnh chuyển động của Trái Đất mà nó quan sát được là
tuyệt đối chân thực đối với nó, là một chân lý trong hiện thực khách
quan của nó và từ đó cũng có thể rút ra được những qui luật tổng quát
nhất về chuyển động của Tự Nhiên. Thế nhưng, trong bối cảnh tầm quan sát
đã được mở rộng và sự nhận thức đã sâu sắc hơn, quan sát đó cũng đồng
thời thấy được tùy thuộc vào hành trạng và vị trí của quan sát mà hình
ảnh được cho là tuyệt đối chân thực ban đầu phải bị biến đổi đi nhưng
theo cách sao cho thỏa mãn những qui luật về chuyển động đã được rút ra
trước đó. Có thể nói hình ảnh chuyển động của Trái Đất là chân thực
tuyệt đối đối với quan sát này thì đồng thời lại không chân thực tuyệt
đối đối với quan sát kia và ngược lại. Hay cũng có thể nói, tuyệt đối
chưa hẳn đã tuyệt đối và tương đối chưa hẳn đã tương đối, tuyệt đối bao
giờ cũng thể hiện ra một cách tương đối và chỉ có như thế, tuyệt đối mới
khẳng định được mình. Nói bỗ bã hơn: thực tại khách quan chỉ có một
nhưng hiện thực khách quan về nó thì vô thiên ủng, sự vô thiên ủng ấy
thống nhất tuyệt đối với nhau ở chỗ, nếu không phạm bất cứ sai lầm nhận
định nào thì đều rút ra được từ chúng những định luật tổng quát nhất,
những nguyên lý cơ bản nhất của Tự Nhiên, cũng vì thế mà có thể qui đổi,
chuyển biến chúng về một mối duy nhất, tuyệt đối “bất di bất dịch” và
thực tại khách quan qua đó cũng “lộ diện”. Một thực tại khách quan tuyệt
đối thì chưa phải là thực tại khách quan đích thực. Một thực tại khách
quan được cho là đích thực thì phải sinh động, bao hàm cả thực tại khách
quan tuyệt đối lẫn những vô thiên ủng hiện thực khách quan biểu diễn
nó. Một khu triển lãm thì vì được mặc định như thế nên tuyệt đối đúng
là… khu triển lãm, nhưng chưa phải là khu triển lãm đích thực nếu không
có vô thiên ủng khách vãng lai.
Sẽ
vĩnh viễn không bao giờ có thể quan sát chân xác được hình ảnh tuyệt
đối của chuyển động Trái Đất trong không gian và thời gian dù chỉ là một
“quãng” nào đó. Giả sử rằng chuyển động Trái Đất “in dấu” lại trong
chân không (hay cũng gọi là môi trường ête) thì có thể coi đó là hình
ảnh tuyệt đối về chuyển động của Trái Đất. Nhưng đến ngay cả quan sát
đứng yên tuyệt đối trong chân không cũng không thấy được hình ảnh tuyệt
đối ấy. Nếu có một quan sát thứ hai cũng đứng yên tuyệt đối trong chân
không thì hình ảnh chuyển động Trái Đất mà nó thu được trong cùng một
“quãng” với quan sát thứ nhất sẽ có khác biệt với hình ảnh thu được của
quan sát thứ nhất. Có như thế là vì ngay cả đối với quan sát đứng yên
tuyệt đối, cũng không thể loại trừ được sự bất định khách quan trong chủ
quan của nó. Chúng ta nói đó không phải là hai hình ảnh tuyệt đối nhưng
là hai hình ảnh đích thực về chuyển động của Trái Đất. Nếu có 100 người
đứng ở 100 vị trí khác nhau trong cùng một thời điểm chụp hình một con
voi thì sẽ có 100 hình ảnh khác nhau về con voi. Sự hiện hữu của con voi
trong hiện thực được cho là tuyệt đối vì quan sát nào cũng thấy nó. Chỉ
có điều chẳng có “sự thấy” nào thấy được đầy đủ, toàn vẹn mọi thứ mà
con voi thể hiện ra (như hình thể, hai mắt, hai tai, hai ngà, bốn chân,
một vòi, một đuôi…), nghĩa là chỉ thấy tương đối con voi và những hình
ảnh chụp con voi đó từ những quan sát khác nhau đều chỉ cho thấy một con
voi ít nhiều khiếm khuyết, ít nhiều biến dạng. Khi đem 100 bức ảnh đó
cho một người đã có kinh nghiệm nhận dạng voi, một anh chàng đã từng
chăn voi nào đó chẳng hạn, và hỏi: “Hình con gì? Thì chắc rằng chàng ta
sẽ trả lời: “Gớm, mấy bác cứ đùa em!... Em đâu có mù!... Đó là những
hình ảnh đích thực về con voi chứ không lẽ con ngựa?!”.
Không
thể quan sát được trong hiện thực chuyển động tuyệt đối của Trái Đất
không có nghĩa là chuyển động đó không tồn tại. Bởi vì trong sự biểu
hiện tương đối của nó bao giờ cũng hàm chứa tính tuyệt đối Có lẽ chỉ duy
nhất Đấng Tạo Hóa Toàn Năng là “quan sát trực giác” được một cách chính
xác “không chê vào đâu được” hành trạng tuyệt đối của Trái Đất. Chúng
ta tin rằng quá trình nỗ lực nhận thức, “năng nhặt chặt bị” những khám
phá về tự nhiên sẽ giúp loài người thấu hiểu được Đấng Tạo Hóa, và trong
trường hợp lý tưởng còn có thể “nhập hồn” vào Tạo Hóa, hình dung rõ nét
được toàn hộ hành trạng đích thực của cả Vũ Trụ chứ không riêng gì của
Trái Đất, thậm chí là mượn luôn “đôi mắt” soi rọi khắp không gian, xuyên
suốt thời gian của Ngài để trực giác toàn cảnh Tự Nhiên Tồn Tại.
Trong
triết học, có thể tùy hứng đưa ra luận điểm này nọ được, có thể cao
hứng cãi “vung thiên địa” được, vì kiểu gì thì cũng rất dễ dàng trưng ra
được bằng chứng định tính ít nhiều có sức thuyết phục. Có khả năng đó
là do sự thể hiện ỡm ờ, nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại trước quan sát và
nhận thức. Một kẻ huyên thuyên gàn dở nào đó (như chúng ta chẳng hạn!),
miễn là có chút ít năng khiếu về hùng biện, đều có thể tự nhận là triết
gia, nhà tư tưởng bậc chân tu và tha hồ rao giảng, truyền giáo mà nhiều
khi chẳng bị ai nghi ngờ, thậm chí nhiều người còn tin “sái cổ”. Nhưng
trong nghiên cứu khoa học nhằm tiếp cận chân lý, giở trò đó là lập tức
lộ chân tướng nhà khoa học dỏm ngay. Đòi hỏi gắt gao, tiên quyết về tính
thuyết phục của một luận thuyết khoa học là “nói có sách, mách có
chứng” cả định tính lẫn định lượng (phải biểu diễn được bằng toán học).
Chúng ta vừa nói triết học, vừa nói khoa học, vậy, chúng ta là ai? Chẳng
là ai cả trong số những nhà khoa học, triết học ngày nay. Có lẽ trước
mắt người đời, vì chẳng có bằng cấp, học vị cao sang gì nên vĩnh viễn
không đủ tiêu chuẩn để được thừa nhận là một “nhà” trong hai “nhà” ấy.
Nếu chúng ta có ngỏ lời xin xỏ thì may ra được họ “thương tình” gắn cho
danh hiệu: “nhà” nói trạng tếu táo nhất thiên hạ, hay danh hiệu: “nhà”
kể chuyện tào lao có một không hai của mọi thời đại. Cũng may là (nói
thật lòng mình), chúng ta chưa bao giờ ao ước được trở thành một trong
những “nhà” nghiêm túc hay không nghiêm túc đó. Nếu giả sử được tôn
vinh, chúng ta chỉ mong có danh: những nhà hoang tưởng vĩ…, vĩ gì ấy chỉ
(?), … à (!), vĩ cuồng – cái danh mà chúng ta đã ngấm ngầm tự phong từ
lâu lắm rồi!...
Theo
kết quả khảo sát thiên văn thì ngày nay các nhà vật lý cho biết: Trái
Đất quay xung quanh Mặt Trời (với vận tốc 30 km/s), Mặt Trời quay quanh
tâm Ngân Hà (với vận tốc 230 km/s), do bị hút, Ngân Hà dịch chuyển về
phía thiên hà Andromede (với vận tốc 90 km/s), thiên hà này lại chuyển
dịch về phía tâm của cái gọi là cụm thiên hà địa phương mà nó là một
thành viên (với vận tốc 45 km/s), cụm này dịch chuyển về phía được gọi
là đám thiên hà Vierge (với vận tốc 600 km/s), đám thiên hà này, đến
lượt nó lại dịch chuyển đến siêu đám thiên hà Hydre và Centaure, cuối
cùng, siêu đám thiên hà dịch chuyển về phía một kết tập thiên hà khổng
lồ khác được gọi là “Tâm hút lớn” (bản chất của “Tâm hút lớn” hiện nay
vẫn còn là điều bí ẩn, đối với các nhà vật lý thiên văn: họ ước lượng
rằng nó có khối lượng tương đương với hàng chục ngàn thiên hà). Chỉ như
thế thôi chứ không cần biết “Tâm hút lớn” có “đi đâu” nữa không, thì
cũng quá đủ để chứng tỏ việc định lượng chuyển động tuyệt đối của Trái
Đất trong Vũ Trụ là vô vọng. Nhưng có cần thiết!? Chúng ta suy tư, đi
đến đó và lấy đó làm bằng chứng cho những suy lý mang tính triết học để
may ra “kiếm chác” được thêm chút gì đó phục vụ cho sự hiểu biết về tự
nhiên của bản thân mình thôi. Nếu trong thực tế có ai “hiến dâng cuộc
đời nghiên cứu khoa học” cho việc tim kiếm một biểu diễn toán học để
định lượng chuyển động tuyệt đối của Trái Đất, thì người đó, theo thiển ý
của chúng ta, không khờ khạo thì cũng gàn dở hơn chúng ta vì đã “xả
thân” một cách… tuyệt đối tào lao, đến nỗi những kẻ quá ư tào lao như
chúng ta đây cũng không thể tưởng tượng được và phải cúi đầu bái phục.
Thực
ra, các nhà vật lý thiên văn quan tâm đến chuyển động của Trái Đất
trong một phạm vi khiêm tốn và hữu ích hơn nhiều xác định chính xác
những thông số của nó trong mối tương quan cơ học với Mặt Trời nói riêng
và với các hành tinh thuộc Thái Dương Hệ nói chung.
Như
chúng ta đã trình bày thì vì quan sát không biết chắc chắn trạng thái
chuyển động tuyệt đối của mình nên chuyển động mà nó quan sát cũng mang
tính tương đối. Mặt khác, nói đến chuyển động thì phải nói đến di dời vị
trí trong không gian nên bản thân nó đồng thời cũng hàm chứa tính tuyệt
đối. Sự hình thành và xuất hiện của một thực thể hay một hệ thống (hai
khái niệm này chỉ được phân biệt một cách tương đối tùy theo qui ước của
quan sát - nhận thức) trong không gian chính là quá trình hun đúc nên
từ môi trường (vì thế mà chúng cũng mang những đặc tính chung nhất của
môi trường sinh ra chúng). Không thể có một thực thể hay hệ thống vật
chất nào lại có thể được sinh ra ngoài môi trường và môi trường vốn dĩ,
nguyên thủy, nền tảng, vô thủy vô chung - môi trường của mọi môi trường,
chính là mạng khối Không Gian. Phương thức cơ bản, duy nhất nhằm duy
trì tồn tại của vạn vật và đồng thời cũng là của môi trường là tương tác
- trao đổi vật chất (va chạm, thu phát bức xạ chẳng hạn) giữa chúng với
nhau. Đây là quá trình thường xuyên, liên tục. Có thể nói, tương tác -
trao đổi vật chất với môi trường (hay ở góc độ khác: chuyển hóa - trao
đổi năng lượng) là điều kiện tất yếu quyết định đến sự duy trì tồn tại
của mọi thực thể - hệ thống. Cũng vì thế mà nội tại của thực thể - hệ
thống phải vận động và chuyển hóa không ngừng. Trong mối quan hệ về vận
động giữa nội tại thực thể hệ thống và môi trường thì vì môi trường là
lớn hơn nhiều về qui mô không gian, cùng một lúc tương tác - trao đổi
với vô số thực thể - hệ thống khác nữa nên tác động của nó đối với thực
thể - hệ thống đang xét dù cũng phải tuân theo những qui luật nhất định
nhưng nổi trội tính khách quan (chủ động, độc lập, ngẫu nhiên, bất ổn),
trong khi đó vận động nội tại của thực thể - hệ thống đối với môi trường
lại nổi trội tính chủ quan (bị động, lệ thuộc, dĩ nhiên, ổn định).
Chúng ta hiểu sự tồn tại của một vật là vật đó luôn là nó trong (hay
“theo) thời gian, nói cách khác là bản chất của vật không thay đổi theo
thời gian. Rõ ràng, khái niệm tồn tại của một vật không chỉ mang tính
tương đối mà còn hàm chứa tính tuyệt đối nữa, và tùy thuộc vào quy ước
mà cảm nhận tính nào nổi trội hơn tính nào. (Đúng là không ai có thể tắm
hai lần trên cùng một dòng sông nhưng nếu nói: một người có thể tắm vô
số lần trên cùng một dòng sông cũng đúng. Vì tôi hôm qua khác tôi hôm
nay nên nếu hôm nay tôi cưới vợ thì sáng mai ra tôi là một thằng đàn ông
khác, ngủ với mụ đàn bà khác mà chẳng có cưới xin gì cả! (Để không làm
rối loạn xã hội, các nhà làm luật (hơi sức đâu mà cãi với mấy “ông”
triết học hiếu thắng!) phải đưa ra qui định: Trên đời này cái gì cũng
biến đổi và luôn luôn biến đổi, nhưng đối với một vật hay một người có
mức biến đổi nội tại chưa vượt phạm vi được pháp luật cho phép thì vật
đó hay người đó vẫn… như cũ. Chẳng hạn, một cô nàng đi giải phẫu thẩm mỹ
làm biến đổi hoàn toàn khuôn mặt (xấu hay đẹp hơn không biết), thì vẫn
là cô nàng đó, trái lại một anh chàng khi đã uống rượu say mèm mất hết
nhân cách thì biến đổi thành không phải là anh ta nữa mà thậm chí không
còn là người nữa, dù sau khi tỉnh rượu, anh ta “hoàn hồn” thành… như
cũ…).
Từ đây chúng ta hiểu, hoa hậu đẹp nhất thế giới không bao giờ được tất cả mọi người thừa nhận, mà chỉ đúng với một số, với qui ước và đánh giá của ban giám khảo!
Từ đây chúng ta hiểu, hoa hậu đẹp nhất thế giới không bao giờ được tất cả mọi người thừa nhận, mà chỉ đúng với một số, với qui ước và đánh giá của ban giám khảo!
Vì
nội tại của một vật là vật chất “kết thành” vật đó, làm nên bản chất
của vật đó, cho nên khi nói vật tồn tại theo thời gian thì cũng hàm ý
nội tại của nó (hầu như) không đổi về mặt vật chất và bình ổn về mặt vận
động theo thời gian. Chúng ta hiểu vận động bình ổn là biến đổi mà như
không biến đổi, là sự thỏa thuận giữa thường biến và bất biến (theo thời
gian). Muốn thế, vận động nội tại của một vật tồn tại theo thời gian
phải được thấy là một sự vận động trong cân bằng, “động” mà như không
“động”, có tính chu kỳ, lặp đi lặp lại, hay có thể nói: nội tại của một
vật luôn ở thế cân bằng động. Một khi nội tại của một vật (hay một hệ
thống) bị biến đổi về cấu tạo vật chất (về số lượng vật chất, về hình
thức và mức độ vận động vật chất) đến độ không còn như cũ nữa (một cách
tuyệt đối trong mối quan hệ tương tác - trao đổi với môi trường hoặc
tương đối theo nhìn nhận, đánh giá của quan sát trên cơ sở qui ước) thì
coi như vật không tồn tại nữa. Có trường hợp nội tại của một vật bị biến
thái “sâu sắc” trong một thời gian rồi lại hồi phục như cũ, lúc đó,
chúng ta nói: vật “hồi sinh”, tồn tại trở lại, có những giới hạn mà khi
vượt qua chúng, sự biến thái nội tại trở nên “hoàn toàn”, không bao giờ
có thể hồi phục lại như cũ được nữa, chúng ta nói: sự tồn tại của vật bị
chấm dứt vĩnh viễn, “nhường chỗ” cho vật khác (hay những vật khác) tồn
tại, theo nguyên lý nhân quả, kế thừa...
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét