Thứ Ba, 12 tháng 10, 2021

TT&HĐ V - 42/m


 
Năng Lượng Tối và Vật Chất Tối | Thư Viện Thiên Văn

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 
 
"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey
 
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
Leonardo da Vinci
 
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới" 
Albert Einstein
 
 "Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.

Upanishad       

CHƯƠNG III (XXXXII): THỰC - ẢO

"Hãy sống nhờ trí tưởng tượng của mình thay vì nhờ trí nhớ."

"Biết thì nói là biết, không biết thì nói là không biết, vậy mới thật là biết."
Khổng Tử 
 
"Có thể Chúa tồn tại, nhưng khoa học có thể giải thích về vũ trụ mà không cần tới một đấng sáng tạo."
 "Mục đích của tôi khá đơn giản. Đó là hiểu biết hoàn toàn về vũ trụ, vì sao nó có hình dạng như hiện tại, và vì sao nó tồn tại."
Stephen Hawking

“Tự nhiên không làm bất cứ việc gì vô ích”.
Hêrôn

“Ôi, sự tất yếu diệu kỳ (…), mọi hành động tự nhiên đều tuân theo ngươi bằng con đường ngắn nhất”.

“Vũ Trụ như một trò chơi ảo tượng khổng lồ chứa đầy các ảo ảnh thách thức trí tưởng tượng của chúng ta. Thật nghịch lý, chính một phần nhờ vào những nghiên cứu về các ảo ảnh Vũ Trụ này mà chúng ta hiểu chính xác hơn về hiện thực”.


"Phải chăng có thể tưởng tượng: Vũ Trụ là một đại dương mênh mông mà không gian là nước và vạn vật là những tảng băng trôi dạt; băng tan thành nước và nước cô kết lại thành băng?".
NTT

 

 


(Tiếp theo)

17.-  Nếu tượng trưng Vũ Trụ Thực tại là mặt phẳng (vô biên) ở hình 11/b và nếu cho xuất hiện một điểm A ở đó thì A chỉ là điểm tương đối và được qui ước là không có nội tại. Không thể xác định được tuyệt đôi vị trí của điểm A trong Vũ Trụ Thực Tại. Bởi vì bản thân Vũ Trụ Thực Tại là hoàn toàn bất định về vị trí trước một hệ quan sát ở “trong lòng” Nó. Chỉ có thể quan niệm được Vũ Trụ “đang ở duy nhất chỗ đó”, vô biên mà cũng hữu biên, không có trong – ngoài mà cũng có trong – ngoài, không có trung tâm mà cũng có trung tâm, có một tâm mà cũng có vô vàn tâm, chỉ có một phía đồng thời cũng có vô kể phía… Nếu cho rằng điểm A đang nằm ở “rìa” Vũ Trụ thì cũng đúng bởi vì có thể phân định tương đối (qui ước) đâu là trong và đâu là ngoài, nhưng cũng sai vì Vũ Trụ chỉ có một phía nên từ điểm A nhìn theo bất cứ phương chiều nào trong vô hạn chiều (vô hạn phía) thì cũng chỉ thấy một Không Gian thuần nhất, duy nhất. Nghĩa là dù điểm A có ở rìa Vũ Trụ đi nữa thì nó vẫn đang ở đâu đó “trong” Vũ Trụ và nếu chọn nó làm trung tâm của Vũ Trụ thì cũng… khó mà bác bỏ được. Vật lý thiên văn hiện nay cho thấy từ Trái đất quan sát thì hiện tượng giản nỡ Vũ Trụ biểu hiện đồng đều ở mọi phía và nếu có cho phép Trái Đất là trung tâm Vũ Trụ thì cũng… được thôi.
Nếu gọi A là một điểm hình học thì nó là một thực thể có kích thước nhỏ tuyệt đối của Vũ Trụ hình học và cũng là của Vũ Trụ hiện thực (Vũ Trụ Thực Tại ở tầm vĩ mô theo qui ước được rút ra từ quá trình quan sát và chiêm nghiệm của con người). Có thể lấy điểm A làm tâm, vẽ bất cứ đường tròn nào và như thế, có thể vẽ được rất nhiều đường tròn có đường kính khác nhau đồng tâm ở A. Làm như vậy, chúng ta đã “vô tình” minh họa sự phân tầng qui mô Không Gian trong Vũ Trụ Thực Tại. Rõ ràng, sự phân tầng qui mô đó là có tính chủ quan, qui ước. Tuy nhiên, mặt khác, nó đã phản ánh đúng rằng trong Vũ Trụ hiện thực, thực sự là có sự phân tầng Không Gian về qui mô trong mối quan hệ giữa đại và tiểu (lớn - nhỏ). Vì A chỉ là điểm nhỏ nhất của Vũ Trụ tầm qui mô mà thôi, và hơn nữa, A có thể ở bất cứ vị trí nào trong Vũ Trụ ấy, cho nên sự phân tầng qui mô Không Gian trong Vũ Trụ hiện thực chỉ có tính tương đối, qui ước.
Bây giờ, qua A, chúng ta “vẽ” một đường thẳng t chẳng hạn. Hiển nhiên là đường thẳng t sẽ chia các đường tròn đồng tâm A thành hai nửa bằng nhau và do đó nó “chứa” tất cả các đường kính của các đường tròn ấy và do đó nó “chứa” tất cả các đường kính của các đường tròn ấy và do chồng chập Không Gian mà bản thân nó cũng đóng vai trò là đường kính DV của Vũ Trụ Thực Tại. Nếu chu vi của miền Vũ Trụ thực trong phân định tuyệt đối là thì chu vi của Vũ Trụ Thực Tại (do chồng chập ảo - thực) phải được thấy là:
              
Một đàng, đường kính của Vũ Trụ Thực tại phải là DV, đằng khác, chu vi của nó lại phải bằng . Thật là lạ đời! Giả sử rằng chúng ta có thể hành trình trên đường chu vi của Vũ Trụ Thực Tại và nếu chúng ta đánh dấu điểm xuất phát thì coi như chúng ta hành trình trên đường tròn có độ cong tuyệt đối và có đường kính DV. Khi đi hết quãng đường , đáng lẽ chúng ta phải về đúng điểm xuất phát đã đánh dấu thì lại không thấy điểm đó đâu cả. Vì biết rằng trong suốt cuộc hành trình, chúng ta luôn quan sát kỹ lưỡng và không thể có cái gì xóa được dấu mốc mà chúng ta đã tạo ra lúc xuất phát, cho nên chúng ta sẽ nghĩ rằng, cần phải tiếp tục hành trình. Sau khi hành trình thêm một quãng có độ dài đúng bằng nữa, chúng ta mới thấy đã về được đúng điểm xuất phát. Để lý giải hiện tượng này, chúng ta chỉ còn một cách duy nhất là “bám vào” dải băng Môbinx mà suy ra rằng “con đường” có vẻ trùng với đường tròn chu vi của Vũ Trụ thực nhưng dài gấp đôi chính là đường chu vi của Vũ Trụ Thực Tại. Nó có tính một phía và chúng ta cũng đã từng gọi nó là “đường giả tròn”.
Khi DV cũng chính là đường kính của Vũ Trụ Thực Tại thì đường kính cong chuẩn của nó cũng là:
              
Nếu ký hiệu đường kính có độ cong tuyệt đối là DTN thì đường kính cong đó bằng:
              
(với quan niệm đường kính đúng bằng tổng độ dài hai cạnh của lục giác đều nội tiếp đường tròn).
Từ nay, chúng ta gọi DTN là “đường kính cong tự nhiên” và là “độ cong tuyệt đối tự nhiên”. Hình minh họa của đường kính cong này được thể hiện trên hình 11/b.
18.-  Vì Vũ Trụ Thực Tại có độ cong cực tiểu tuyệt đối là , nên thực ra không thể “hiện hữu dứt khoát” được bất cứ đường nào có độ cong nhỏ hơn nữa. Nghĩa là trong Vũ Trụ ấy, không thể dựng được một đường thẳng thực sự (có độ cong tuyệt đối bằng 0) nào. Do đó mà đường kính DV chỉ có thể là một tồn tại ảo (tương đối).
Trong Vũ Trụ Thực Tại vĩ mô (hình 11/b) nếu từ điểm A, chúng ta có ý đồ vẽ một đường thẳng thuần túy hình học đi qua điểm B thì trong thực tế, chúng ta chỉ có thể vẽ được một trong những đường gọi là “thẳng nhất” (có độ cong ) qua đó. Lúc này, Vũ Trụ được thấy như không phân tầng qui mô và điểm A cũng không phài là tâm điểm của Vũ Trụ bởi vì nó hoàn toàn bình đẳng với điểm B. Có thể nói Vũ Trụ Thực Tại không phân tầng là Vũ Trụ có độ cong và độ cong của nó là bất biến trong toàn không gian, nghĩa là mọi miền của nó đều ở cùng một tầng nấc qui mô.
Nếu quan niệm trên được Tạo Hóa khen là “hay quá!” thì chúng ta mạnh miệng nói thêm rằng trong Vũ Trụ Thực Tại vĩ mô, ánh sáng thực ra không tuyền thẳng mà truyền theo đường có độ cong tự nhiên , và cũng chẳng có một thực thể nào chuyển động thẳng đều được trong Vũ Trụ ấy. Vì  quá nhỏ nên trong hiện thực khách quan (của loài người) không có cách nào phát hiện được độ cong ấy và chúng ta có thể ung dung và tự tin phán rằng: = 0.
Khi Vũ Trụ Thực tại được thấy như là phân tầng qui mô (tương đối) thì vì sự phân tầng qui mô có liên quan đến sự tương phản nghịch đảo, cho nên, nếu có một điểm C ở vị trí như thế hiện ở hình 11/b, nó phải có một kích cỡ nào đó lớn hơn điểm A tương ứng với mức độ giãn nở Không Gian. Lúc này, nếu nối điểm A với điểm C theo khoảng cách ngắn nhất thì chúng ta sẽ có một “đường” phi hình học thuần túy, có hình dạng kỳ lạ nhất từ trước đến nay, và không biết gọi nó là gì cho phải, đành bắt chước Lão Tử tạm gọi là “đạo” vậy! Lúc này điểm A được coi là tâm điểm của Vũ Trụ phân tầng qui mô. Nếu A phát sáng thì tia sáng từ A đến C sẽ phải “lớn dần” và để có thể lớn dần được thì phải cần đến thời gian tích lũy đủ ánh sáng sao cho khi đến C nó trở thành một luồng sáng có tiết diện đúng bằng tiết diện điểm C.
Trong Vũ Trụ Thực Tại, đúng là có hai thể hiện về sự phân tầng qui mô Không Gian của nó. Chúng ta tạm gọi kiểu cách phân tầng qui mô thứ nhất là “sự phân tầng ly - hợp”. Sự phân tầng này xảy ra trong cùng một tầng nấc qui mô Không Gian, là sự phân chia hay kết hợp tạo nên mối quan hệ Đại - Tiểu của vạn vật - hiện tượng cùng chấp nhận một kích cỡ thực thể nào đó đóng vai trò là điểm nhỏ nhất của chúng và một kích cỡ thực thể khác làm điểm lớn nhất của chúng. Giả dụ, cơ thể của một con người là gồm nhiều bộ phận to, nhỏ khác nhau (biểu hiện của sự phân tầng qui mô) như đầu, cổ, chân tay, gan, tim, thận… trong cùng một tầng nấc qui mô không gian, hợp thành. Tầng nấc qui mô ấy được giới hạn bởi hai điểm mà điểm nhỏ nhất là tế bào và điểm lớn nhất là bản thân kích cỡ người đó. Hoặc cũng có thể hình dung sự phân định to - nhỏ trong Thái Dương Hệ là ở cùng một tầng nấc qui mô có điểm nhỏ nhất là “hạt” nguyên tử và điểm lớn nhất là bản thân Thái Dương Hệ.
Kiểu phân tầng qui mô thứ hai tạm gọi là “Sự phân tầng thực sự”. Trong sự phân tầng này, các tầng nấc Không Gian thực sự có những biểu hiện ám chỉ khác nhau về mức độ qui mô giữa chúng. Chẳng hạn, có thể cho rằng hai lượng không khí bằng nhau được chứa trong hai thể tích khác nhau. Thể tích nào mà trong đó xuất hiện áp suất lớn hơn áp suất xuất hiện trong thể tích kia thì coi như nó có qui mô không gian nhỏ hơn qui mô không gian của thể tích kia. Hay nói cách khác, lượng không khí đã bị “đưa sang” vùng có tấng nấc qui mô không gian nhỏ hơn. Vậy thì độ cong trong vùng thể tích có áp suất lớn hơn có lớn hơn độ cong trong vùng thể tích có áp suất nhỏ hơn không? Nếu không, phải vứt bỏ nhận định nói trên đi! Chúng ta tin là có và còn tin rằng có thể suy ra điều đó từ những hiện tượng đã được khám phá trong lĩnh vực nghiên cứu động lực học chất khí của vật lý học. Một đặc điểm quan trọng của kiểu phân tầng qui mô này là miền không gian nào đó của tầng nấc qui mô nhỏ hơn khi “đặt trong” vùng của tầng nấc qui mô lớn hơn, luôn có xu thế giãn nở và nếu loại bỏ đột ngột những “ràng buộc” nào đó giúp nó tồn tại thì nó sẽ giãn nở bột phát mang tính bùng nổ, phát tán vạn vật, thực thể mà nó dung chứa để “hòa nhập” vào môi trường không gian có qui mô lớn hơn và đang “chứa” nó.
Phải chăng có thể dùng những đặc tính của ánh sáng để nói nhiều điều về sự phân tầng qui mô không gian thực sự? Giả dụ, một luồng sáng trắng đến Trái Đất từ Mặt Trời là tập hợp của rất nhiều những tia sáng đơn sắc có bước sóng () và tần số () khác nhau. Rất có thể sự khác nhau về bước sóng và đơn sắc của các tia sáng đơn sắc là do chúng được sản sinh ra ở những tầng nấc qui mô không gian có độ cong khác nhau. Có một hiện tượng xảy ra đối với ánh sáng (đúng hơn là tia bức xạ) mà vật lý vi mô đã phát hiện là không phải bất kỳ tia sáng nào cũng có thể xâm nhập được vào nội tại của nguyên tử mà chỉ có những tia sáng có bước sóng nhỏ đến mức nào đó mới thực hiện được việc đó. Có thể nào giải thích được hiện tượng đó bằng nhận định: một thực thể được sản sinh ra từ tầng nấc qui mô không gian lớn hơn (có độ cong nhỏ hơn) không bao giờ có thể xâm nhập được vào miền không gian có qui mô nhỏ hơn (có độ cong lớn hơn) mà chỉ có thể là ngược lại?
Đến đây, nếu thích, chúng ta cũng có thể kết luận một cách “hùng tráng”: trong Vũ Trụ Thực Tại một thực thể được sản sinh ra trong một tầng nấc qui mô không gian nào đó chỉ có thể xâm nhập vào tầng nấc qui mô không gian lớn hơn “nơi xuất xứ” của nó mà không thể xâm nhập vào tầng nấc qui mô không gian có qui mô nhỏ hơn. Con người có thể “hòa mình” vào không gian Vũ Trụ bao la nhưng không thể “hòa mình” vào thế giới nguyên tử!
Biết bao nhiêu hoang cảnh ly kỳ hiện ra trước mắt chúng ta, song, theo hướng này, sự “hoang tưởng” của chúng ta đã quá sa đà!...
19.-  Đường kính cong tự nhiên là một đường đặc biệt. Khoảng cách giữa hai đầu mút của nó đúng bằng DV nhưng độ dài của nó lại bằng:
Đường kính cong tự nhiên đó chỉ thị rằng, trong Vũ Trụ Thực Tại, không thể tồn tại thực sự một đường nào đó có độ cong tuyệt đối nhỏ hơn thế nữa. Những đường có độ cong nhỏ hơn chỉ có thể là tồn tại ảo và phải coi chúng là những đường nổi trội về tính thẳng. Do đó có thể quan niệm rằng đường kính cong tự nhiên của Vũ Trụ Thực Tại là đường phân định tương phản giữa độ tròn và độ thẳng. Bản thân nó không cong không thẳng, đồng thời vừa cong vừa thẳng.
Trên tinh thần quan niệm đó chúng ta cần phải điều chỉnh lại tên gọi ba loại đường kính của Vũ Trụ thực tại đã nêu cho phù hợp hơn. Từ nay đường kính cong chuẩn (DCT) sẽ được gọi là “đường kính cong” (ký hiệu DC) đường kính cong tự nhiên DTN được gọi là “đường kính tự nhiên” (vẫn ký hiệu DTN) và đường kính DV được gọi là “đường kính thẳng” (ký hiệu DT).
Vì đường DTN được hình dung là đường trung dung, đóng vai trò là đường phân định giữa tròn và thẳng, cho nên nó phải có tính đơn vị trong mối quan hệ tương phản tuyệt đối giữa độ cong và độ thẳng. Nếu độ cong tuyệt đối cực tiểu được biểu diễn là:
thì tương phản đối ứng nghịch đảo của nó phải là:
T = DV
(và được gọi là “độ thẳng tuyệt đối cực đại”)
sao cho:
Cần phải thấy rằng cách biểu diễn toán học về độ cong tuyệt đối của chúng ta là chưa thỏa đáng. Bởi vì cho dù Không Gian Thực Tại là một Không Gian chồng chập thì phải hiểu một cách “cực kỳ linh động” cái bản chất chồng chập đó. Trong Vũ Trụ Thực Tại, hạt KG vẫn cứ là hạt KG và Vũ Trụ vẫn cứ là Vũ Trụ. Nếu trong Thực Tại, bằng cách nào đó chúng ta xác định được đường kính thẳng của hạt KG, và của Vũ Trụ, theo thứ nguyên độ dài mà chúng ta chọn, là bằng:
thì đó chính là những giá trị tuyệt đối dài nhất và ngắn nhất của khoảng cách. Không thể có khoảng cách nào có thể dài hơn DV được nữa và cũng không thể có khoảng cách nào ngắn hơn Dh được nữa. Lúc này độ cong cực đại tuyệt đối và cực tiểu tuyệt đối được biểu diễn:

Nghĩa là không thể qui ước Dh=1 một cách đơn thuần, tùy tiện vì giá trị độ dài tuyệt đối nhỏ nhất của Dh là sự thực khách quan, mang bản chất đơn vị tuyệt đối cho nên chúng ta có thể chọn giá trị đó bằng (một tuyệt đối). Tuy nhiên lúc đó chúng ta cũng phải chọn thứ nguyên độ dài khác một cách phù hợp để đảm bảo không xâm phạm sự thực khách quan và tất yếu dẫn đến một giá trị mới theo thứ nguyên mới của đường kính thẳng của Vũ Trụ, bằng bình phương giá trị cũ. Từ đây có thể thấy đường kính thẳng của Vũ Trụ Thực Tại có giá trị DV hay DV2 là do “cách nhìn” chủ quan qui định về một sự thực tuyệt đối khách quan. Hai giá trị đó luôn luôn có thể biến chuyển thành nhau theo một nguyên tắc duy  nhất.
Chỉ có hiểu như thế mới cảm nhận hết được mức độ biến hóa kỳ ảo phi thường nhưng chí lý của Tự nhiên Tồn tại, và phải hiểu như thế mới “cảm thông” được cách biểu diễn toán học về độ cong tuyệt đối mà chúng ta đã “lỡ” đề xuất và sử dụng.
Dù sao thì cách biểu diễn đầy đủ nhất, chân thực nhất về độ cong cực tiểu tuyệt đối có lẽ phải thế này:
              
Và như vậy, độ thẳng cực đại tuyệt đối phải được biểu diễn như thế này:
              
Rốt cuộc:
              
Hay có thể viết:
               DhDV=DV2 
Chúng ta thấy rằng biểu thức đó diễn đạt một trường hợp đặc biệt của sự tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, với vế trái là biểu diễn Vũ Trụ trong tình trạng phân lập và vế phải biểu diễn Vũ Trụ trong tình trạng chồng chập Không Gian. Như đã nói, khi Không Gian chồng chập (nghĩa là trong Vũ Trụ Thực Tại), Dh vẫn là Dh và DT (với DT = DV) vẫn là DT. Ở vế phải của biểu thức trên: chúng ta “có quyền” thay DV bằng D (đóng vai trò là gốc của tương phản nghịch đảo tuyệt đối) để đưa về dạng biểu diễn tổng quát quen thuộc:
               Dh.DT=D2
Và từ đó có:
              
Cách biểu diễn này làm gợi nhớ đến tỷ lệ vàng (sao). Nếu chúng ta chọn thì:
               DT=1,6+0,96
               Dh=1
Và trở về:
              
Viết ra như vậy để thấy vấn đề “tích trong bằng tích ngoại” chỉ là một trong nhiều biểu hiện của sự tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối trong hiện thực toán học. Có lẽ, chỉ vì nhận thức chủ quan về nó chưa thấu đáo cho nên chỉ thấy nó như một “thứ gì đó” có vẻ thần bí, ma thuật, chứ chưa thấy được ẩn ý sâu xa hơn mà nó hàm chứa.
Trên cơ sở của phép nghịch đảo qua đường tròn, chúng ta có thể phát biểu: Vẽ trước (cho trước) đoạn thẳng có độ dài D bất kỳ, bao giờ cũng xác định đươc hai đoạn thẳng có độ dài lần lượt là D+x D-y thỏa mãn:
              
Khi nói “vẽ trước đoạn thẳng…” thì đoạn thẳng đó chắc chắn xác thực, nghĩa là nó không thể vô tỷ. Tuy nhiên, nếu từ hai đầu mút của nó, vẽ thêm hai đoạn thẳng nữa sao cho tạo thành một tam giác vuông cân, nhận nó làm cạnh huyền thì lúc đó, so với hai cạnh kia, nó trở thành một đoạn thẳng vô tỷ (bằng ) còn nếu không, nghĩa là vẫn coi nó là một đoạn thẳng nguyên hoặc hữu tỷ thì hai đoạn thẳng kia phải vô tỷ. Người ta gọi đó là tinh vô ước. Còn chúng ta nói thêm rằng, tất cả các đoạn thẳng, một cách khách quan đều được xây dựng nên cùng một đơn vị độ dài gọi là tuyệt đối, do vậy mà chúng luôn nguyên, còn nếu xét theo những đơn vị độ dài tương đối nào đó (theo qui ước) thì trong số chúng còn thấy những đoạn thẳng hữu tỷ. Do có sự tạm gọi là “co giãn” của đơn vị độ dài tương đối ở những góc độ quan sát khác nhau có thể khác nhau mà xảy ra hiện tượng đoạn thẳng này có thể là vô tỷ so với đoạn thẳng kia và ngược lại. Chẳng hạn có ba đường thẳng nguyên bằng nhau lập thành một tam giác đều. Rõ ràng tổng bình phương hai cạnh không thể bằng bình phương một cạnh thứ ba. Tuy nhiên nếu đặt tam giác đó trước một phương phẳng ở một tư thế thích hợp, sẽ làm xuất hiện ảnh của nó là một tam giác vuông cân có tổng bình phương hai cạnh vuông bằng bình phương cạnh huyền. Tuy nhiên nếu khai căn chúng ra, vì vi phạm vào luật cấm của thế giới số hữu tỷ (không thể khai căn được một số nếu số đó không phải là bình phương của số nào khác trong các số hữu tỷ) cho nên đoạn thẳng có độ dài nguyên ban đầu (lúc này đóng vai trò cạnh huyền), so với hai cạnh kia, phải vô tỷ.
Hoàn toàn có thể chọn y = D -1 để đưa biểu diễn (*) về dạng:
                  (*)(*)
với:          D+x=D2
Khi x=1 thì D bằng . Nghĩa là trong thế giới hữu tỷ, không thể có một số nào cộng với số 1 lại bằng chính nó bình phương. Giả sử cho D=2 thì x chỉ có thể là bằng 2, hay có thể viết:
               D=x=2
Tuy nhiên, nếu cho D=x thì ngoài kết quả D=x=2, còn có kết quả thứ hai nữa, là D=x=0 (D, x không hiện hữu!)
Khi x=0,96 thì . Trường hợp này đã trở nên có vẻ tầm thường vì đến đây, chúng at biết rằng nó cũng chỉ là một trường hợp riêng của trường hợp tổng quát hơn rất nhiều. Tuy nhiên, sự hiện diện của số 0,96, số mà chúng ta đã linh cảm từ lâu về vai trò phi thường của nó trong tự nhiên, làm chúng ta nảy ra một ý tưởng mới.
Khi tỷ lệ thức (*)(*) thực sự là đang biểu diễn mối tương quan giữa đường kính của Vũ Trụ Thực Tại khách quan và của hạt KG trong đó thì D phải đóng vai trò là mốc tương phản nghịch đảo hoàn toàn cho nên D phải bằng 1. Lúc này, để phân biệt được giữa Dh, D và DT, chúng ta sử dụng trở lại 10k và viết:
              
Trong tình thế tương phản ảo - thực nghịch đảo tuyệt đối, xét về mặt phân lập đối ứng Thẳng 0 tròn, Vũ Trụ Thực là miền mang tính cong nổi trội thì nội tại hạt KG (Vũ Trụ ảo) là miền mang tính cong nổi trội. Do đó, gốc tương phản thẳng – tròn của hai miền đó phải có tính chồng chập, trung dung của chúng. Về mặt tương phản cong - thẳng, nếu coi DCT (đường kính cong chuẩn) là đại diện cho miền thực và D*h là đại diện cho miền ảo thì D*TN chính là đại diện gốc phân lập của chúng. Tạm quên 10k đi thì có thể viết ra ba đại diện ấy the DT.
             
Trong đó DTN được coi là đường trung dung giữa tròn và thẳng, và trong mối quan hệ tương phản ấy nó phải bằng 1. Lúc này, ba đại diện trên sẽ được viết lại:
              
Đây là phát hiện có thể rất tầm thường về một điều kỳ diệu:
        
Từ nay trở đi cho đến thời khắc cuối cùng còn được hiện hữu trên cõi trần gian, không ai có thể lay chuyển nổi niềm tin đã hóa thành tuyệt đối của chúng ta rằng, khoảng cách cực tiểu tuyệt đối, có thực trong Vũ Trụ Thực Tại khách quan bằng: 0,96.10-k
Khi Dh=0,96.10-k thì đường kính thẳng của Vũ Trụ Thực Tại bằng:
              
Vậy thì đường kính tự nhiên của nó sẽ là:
              
Và đường kính cong chuẩn của nó là:
              
Nếu ký hiệu đường kính tự nhiên của nội tại hạt KG là , thì
              
Viết như thế là … ngược đời! Bởi vì chúng ta chỉ có thể thấy được điều ấy nếu cùng một lúc thấy được cả ba miền phân định của một Vũ Trụ duy nhất. Đó là việc mà đến thánh cũng chào thua, thậm chí ngay cả Đấng Tạo Hóa toàn năng cũng khó lòng mà chiêm ngưỡng nổi. Viết đúng phải là:
              
Tại sao lại cho rằng  là đúng chứ không phải ngược đời? Tại vì nó ngược với sự… ngược đời của chúng ta. Thế thôi!
Nếu ký hiệu đường kính cong chuẩn của hạt KG (có tính ảo, chỉ tồn tại trong suy nghĩ của những cái đầu biết hoang tưởng thôi!) là  thì tương tự như trên, sẽ viết được:
              
Nếu đem chia cho 6, chúng ta sẽ làm xuất hiện con số có vẻ quen nhưng cũng rất lạ và tạm đặt tên cho nó là “m”
              
Hơn nữa dễ thấy thêm là:
              
Nhớ lại ký hiệu D*, đến đây coi như nó đã được xác định dứt khoát là:
              
Bây giờ, nếu tạm quên 10k đi thì chúng ta sẽ thấy nhiều điều lý thú nữa về mối quan hệ giữa các đường kính. Dưới đây là một vài biểu diễn:
Với quan niệm chu vi của Vũ Trụ Thực Tại là độ dài của “đường giả tròn” và ký hiệu là CT thì:
              
Đem nó chia cho 6 rồi căn 2 () sẽ có:
              
        
Vì 9 lần m (quên 10-k đi!) cũng bằng 0,9216 nên có thể viết:
              
Lạ hơn nữa cũng có:
              
Nếu cho rằng vận tốc truyền sáng trong chân không (vận tốc cực đại trong Vũ Trụ Thực Tại) c có giá trị chính xác là 3 thì phải chăng:
              
               (với T là thời gian, m là khối lượng của hạt KG)
là lực lượng Không Gian toàn phần (mà trong vật lý học người ta vẫn gọi là năng lượng toàn phần) của hạt KG?
Gọi lực lượng Không Gian ấy là Eh, gọi thể tích của hạt KG là Vh thì một điều không thể nào tin nổi sẽ xảy ra
Vì:          
Cho nên có thể viết:
              
Nghĩa là:
                       hay      
Gọi Vhtp là thể tích toàn phần của hạt KG thì:
Và có thể suy ra: Lực lượng toàn phần của Không Gian bằng hai lần thể tích của Vũ Trụ Thực Tại!
Xin đất trời chứng dám, từ lâu chúng ta cũng đã từng mường tượng ra điều đó nhưng chưa bao giờ dám cả quyết rằng nó đúng vì sự kỳ dị đến “ghê hồn” mà nó gây ra. Nhưng đã lỡ bước đến đây rồi thì cũng không thể thoái thác được rằng dù đó là điều có khó tin, có kỳ dị đến đâu chăng nữa thì vẫn thật là chí lý. Chúng ta buộc phải trở thành nô lệ cho sự biểu diễn phi thường ấy, phải tự giác tận tụy cật lực một cách không công để tôn thờ nó, bênh vực nó bằng mọi giá. Nếu không, coi như cái công trình vĩ cuồng mà chúng ta đã và đang quần quật xây đắp nên chỉ như một lâu đài cát nguy nga theo kiểu dị hợm trước một cơn mưa (chẳng cần lớn lắm) đang tới. Và chúng ta đành phải thục mạng “bỏ của chạy lấy người” mới may ra thoát thân, không bị chết ngạt trong một đống “thập toàn đại… bẩn” không biết là đống gì nữa.
(Còn tiếp)
---------------------------------------------------------------



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét