TT&HĐ V - 43/f
Vũ trụ đang mở rộng HD Thuyết minh
PHẦN V: THỐNG NHẤT
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
(Tiếp theo)
Để
thấy rõ hơn nữa, chúng ta xét đến trường hợp khi O trùng với O’, nghĩa
là A cũng trùng với A’ và B cũng trùng với B’. Lúc này không cho phát
sáng đồng thời tại các điểm A. B, A’, B’ nữa mà cho phát sáng đồng thời
tại O và O’. Sẽ có hai tia sáng đồng thời xuất phát từ O truyền ngược
hướng nhau về hai phía A và B, và cũng có hai tia sáng đồng thời xuất
phát từ O’ truyền ngược hướng nhau về hai phía A’ và B’. Đối với hai tia
sáng xuất phát từ O, vì hệ O được cho là đứng yên tuyệt đối trong chân
không so với ête cho nên vận tốc của hai tia sáng đều bằng c và dù có
quan sát ở O hay ở O’ thì cũng thấy hai tia sáng đồng thời đạt đến A và B
(nếu bỏ qua thời gian truyền tín hiệu thông tin đến O cũng như O’, hay
cho rằng thời gian quan sát được hiện tượng là tức thời). Đối với hai
tia sáng đồng thời xuất phát từ O’, nếu quan sát ở O’ không phát hiện
được sự chuyển động của O’ và phát hiện được sự đạt đến A’ và B’ của hai
tia sáng là không đồng thời (tia sáng đến A’ sớm hơn tia sáng đến B’),
thì quan sát đó phải đi đến quan niệm về sự không bất biến của vận tốc
truyền sáng trong chân không. Còn nếu quan sát ở O’ phát hiện được sự
chuyển động của nó đối với hệ O thì phải đi đến quan niệm về sự co giãn
của khoảng cách do chuyển động gây ra hoặc phải cho rằng vận tốc ánh
sáng phát ra từ điểm chuyển động sẽ không còn mang tính bất biến theo
phương chiều truyền sáng nữa. Nếu quan sát từ O, cũng sẽ thấy hai tia
sáng đạt đến A’ và B’ là không đồng thời. Tuy nhiên quan sát từ O sẽ
không thấy sự co rút kích thước nào cả của hệ chuyển động O’ và giải
thích rằng do tác động của sự chuyển động mà vận tốc truyền sáng từ O’
tới A’ nhỏ hơn c trong khi vận tốc truyền sáng từ O’ đến B’ vẫn bằng c
sao cho tia sáng đạt đến A’ sớm hơn tia sáng đạt đến B’ và không có sự
co rút kích thước do chuyển động gây ra nào cả.
Nếu
quan sát ở O’ cho rằng hai tia sáng đồng thời xuất phát từ O’ cùng đồng
thời đạt đến A’ và B’ thì quan sát tại O cũng phải thấy điều đó và quan
sát tại O sẽ phải kết luận rằng vận tốc tia sáng từ O’ đến B’ sẽ lớn
hơn c trong chân không so với ête. Kết luận đó sẽ mâu thuẫn với kết luận
rút ra từ suy lý của chúng ta về sự cực đại tuyệt đối của c. Cần lưu ý
rằng giả sử hệ O’ chuyển động với vận tốc c, trong khi đó có một hạt
sáng cũng lan truyền với vận tốc c theo phương trùng với đường thẳng
chứa véctơ vận tốc của O’ và đi qua O’ nhưng ngược chiều với véctơ vận
tốc ấy, thì quan sát ở O’ sẽ phải thấy hạt ánh sáng chuyển động về phía
mình với vận tốc 2c và như vậy hạt sáng đó có gốc xuất phát từ đâu đó
bên ngoài hệ O’. Từ đây, có thể nói rằng vận tốc truyền sáng cực đại
trong chân không so với ête là c, nhưng so với một hệ qui chiếu nào đó,
do hiệu ứng của sự cộng vận tốc mà có thể thấy nó lớn hơn c và cực đại
là bằng 2c. Khi chúng ta nói vận tốc c là cực đại và bất biến trong Không Gian Vũ Trụ là chỉ nói cho chuyển động của hạt KG kích thích
thôi và hiểu rằng không chỉ có trong chân không mà ở bất cứ đâu, trong
bất cứ vật thể nào và môi trường nào, một hạt KG kích thích bất kỳ cũng
phải luôn luôn chuyển động với vận tốc cực đại và bất biến ấy. Vì ánh
sáng có thể lan truyền với vận tốc c và do tác động của chuyển động mà
cũng có thể lan truyền với vận tốc nhỏ hơn c so với ête, cho nên phải
coi vận tốc truyền sáng là không bất biến và vận tốc cực đại c được coi
như vận tốc gọi là “toàn phần” của sự truyền sáng.
Phép
tổng hợp vận tốc trong cơ học cổ điển là một suy lý toán học chính xác
trên cơ sở quan sát trực quan nên nó có tính chân lý cao độ, khó lòng
phủ nhận được. Vận tốc truyền sáng cực đại C đã là kết luận rút ra được
từ hàng loạt trắc nghiệm thực tế, do đó mà cũng khó lòng bác bỏ được.
Việc tác động của một hay nhiều chuyển động có thể gây biến đổi ở một
hay nhiều chuyển động khác, là hiện tượng phổ biến, không loại trừ nhưng
lại không gây ảnh hưởng chút gì đến sự truyền sáng là một điều đáng
ngạc nhiên và khó hình dung. Vì những lẽ đó, chúng ta cho rằng, phép
tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển và sự không thể vượt qua c của vận
tốc chuyển động, bằng cách nào đó đã “thỏa thuận” với nhau, hòa hợp với
nhau để từ đó có thể xây dựng nên một biểu diễn toán học thỏa mãn cả
hai.
Trên
cơ sở nhận định suy lý đó, chúng ta đi đến với thí nghiệm giả tưởng
mới. Trong thí nghiệm này, chúng ta cũng bỏ qua thời gian truyền thông
tin (thấy hiện tượng - biến cố một cách tức thời). Làm như vậy không
những không ảnh hưởng “xấu” đến vấn đề nghiên cứu mà còn thấy được sáng
tỏ hơn.
Cũng
cho hai hệ qui chiếu quán tính là O, đứng yên tuyệt đối và O’ chuyển
động đều với vận tốc v so với hệ O trên hình 5/a. Vận tốc v nhỏ hơn
nhiều so với c.
Hình 5: Ảnh hưởng của chuyển động và tính cực đại C đối với sự truyền sáng.
Giả
sử hai hệ (phẳng) đó, mỗi hệ được bao bọc bởi một đường tròn có thể
phát tín hiệu đến các trạm quan sát đặt ở O và O’, có tâm là gốc tọa độ
của hệ. Hai đường tròn ấy có bán kính bằng nhau và bằng ct (với c là vận
tốc truyền sáng cực đại trong chân không so với ête, t là thời gian hạt
sáng từ O đến đường tròn bao của nó). Chúng ta gọi hai đường tròn có
tâm O và O’ lần lượt là K và K’.
Bây
giờ, tại đúng thời điểm O trùng với O’, đồng thời cho O và O’ phát sáng
ra khắp các phương chiều trong mặt phẳng của mỗi hệ. Trước hết xét các
hạt sáng đồng thời xuất phát từ O ra mọi phía. Vì hệ O đứng yên tuyệt
đối trong chân không so với ête, nên các hạt sáng đó không bị ảnh hưởng
bởi chuyển động nào và sẽ lan truyền với cùng một vận tốc cực đại c và
sau một thời gian t, chúng cũng sẽ đồng thời đến “đập” vào đường tròn K.
Dù quan sát từ O hay O’ thì vì qui ước sự truyền tín hiệu thông tin là
tức thời nên đều thấy duy nhất hiện tượng khách quan đó.
Xét
đến các hạt sáng phát đồng thời từ O’ ra mọi phía trong hệ O’. Do hệ O’
chuyển động đều với vận tốc v so với hệ O (cũng là so với ête) nên có
sự ảnh hưởng của chuyển động ấy đối với các hạt sáng phát ra từ tâm hệ
(điểm chuyển động). Dù chuyển động của hệ O’ có gây ảnh hưởng đến sự
truyền sáng như thế nào chăng nữa thì như chúng ta đã suy đoán, nó phải
vừa tuân theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học cổ điển, vừa không được
“tạo ra” sự truyền sáng có vận tốc vượt qua giá trị cực đại tuyệt đối c.
Vậy đối với hạt sáng truyền từ O’ (tại thời điểm O’ trùng với O) theo phương ngang, cùng chiều với , đáng lý ra theo phép tổng hợp vận tốc cổ điển, nó phải có vận tốc là c+v, nhưng vì c+v>C là
phạm luật cho nên vận tốc của nó chỉ đạt được tối đa là C, nghĩa là
theo quan sát tại O, đáng lý ra hạt sáng đạt đến điểm a’ thì nó chỉ đạt
đến điểm a sau khi đi hết đoạn đường ct (xem hình 5/b). Đối với hạt sáng
xuất phát từ O’ (tại thời điểm O’ trùng với O) cũng truyền theo phương
ngang nhưng ngược chiều với ,
nếu O’ đứng yên thì trong thời gian t nó sẽ chuyển động với vận tốc C
để đạt đến b. Song trong thời gian t, vì cũng đồng thời tham gia chuyển
động có vận tốc , cho nên nó chỉ có thể đạt đến điểm b’ sau khi hành trình hết đoạn đường Ob’ với vận tốc . Đối với hạt ánh sáng xuất phát từ O’ (tại thời điểm O’ trùng với O) truyền theo phương vuông góc với và
hướng lên trên (hướng xuống dưới cũng tương tự). Tuân theo phép cộng
vận tốc cổ điển (theo nguyên tắc hình bình hành) và không được vi phạm
điều cấm kỵ, đáng lý trong thời gian t đạt đến điểm d’ thì hạt sáng chỉ
đạt đến điểm d và hơn nữa, theo quan sát ở O, nó phải truyền theo đường
xiên với vận tốc:
Với V1 là vận tốc truyền sáng theo phương vuông góc với
Đối
với các hạt sáng xuất phát từ D’ (tại thời điểm O’ trùng với O), truyền
theo mọi phương xiên khác, bằng lập luận và dựng hình tương tự, chúng
ta sẽ xác định được mọi điểm mà sau t thời gian các hạt sáng đồng thời
xuất phát từ O’ cũng đồng thời đạt tới (chẳng hạn như mô tả trên hình
5/b, ở một phương xiên, đáng lẽ trong thời gian t, hạt sáng sẽ đạt đến
điểm e nhưng thực tế lại đạt đến điểm e’, ở phương xiên khác và cũng
trong thời gian t đáng lẽ hạt sáng đạt đến điểm f’ thì thực tế chỉ đạt
đến điểm f. Toàn bộ những điểm gọi là đồng thời ấy sẽ hợp thành một
đường cong kín được chúng ta vẽ đậm hơn trên hình 5/b, và gọi là “đường
đồng thời”, ký hiệu là D (và D’).
Nếu
thí nghiệm giả tưởng của chúng ta đã diễn giải đúng một cách cơ bản về
sự truyền sáng trong thực tại khách quan của Vũ Trụ vĩ mô thì đường đồng
thời cũng phải là một tồn tại khách quan và do đó nếu thời gian thấy
mọi biến cố là tức thời đối với mọi hệ quan sát thì mọi hệ quan sát ở cả
hệ O lẫn hệ O’ đều phải thấy như nhau đối với hình dạng và kích thước
đường đồng thời D’ của hệ O’ trong thí nghiệm giả tưởng vừa trình bày.
Do
cách đặt vấn đề của thí nghiệm mà có thể thấy đường đồng thời D của hệ
đứng yên tuyệt đối O trùng với đường tròn (đặc trưng cho cấu trúc) k của
nó. Trong khi đó, đối với hệ O’, đường K’ và đường D’ là có thể phân
biệt được. Qua đây, cũng có thể nghĩ rằng đối với những vật thể chuyển
động trong Vũ Trụ vĩ mô, không xảy ra hiện tượng tự co rút nào cả mà chỉ
vì hiện tượng truyền sáng trong đó mà tưởng rằng kích thước của nó co
theo phương chuyển động. Sự co rút do chuyển động gây ra, nếu có thì có
lẽ chỉ xảy ra đối với các hạt vi mô, khi mà “vỏ bao ngoài” của chúng
không xác định dứt khoát được, hoàn toàn lệ thuộc vào sự vận động của
các thành phần trong nội tại chúng, liên kết làm nên chúng. Vậy sự co kích thước theo phương chuyển động của một vật chỉ là hiện tượng ảo, lừa dối quan sát!
Có
thể nào phát hiện được một hệ vật lý đứng yên hay chuyển động trong
chân không so với ête không? Vì hạt KG thông thường là đứng yên tuyệt
đối trong Không Gian Vũ Trụ nên một khi phát hiện được nó thì lúc đó câu
trả lời là khẳng định. Nếu không phát hiện được hạt KG thông thường
(hạt ête) thì còn một cách nữa là làm sao chế được một dụng cụ đo đủ
nhạy để xác định cho được hình dáng và kích thước đường đồng thời của hệ
vật lý cần khảo sát. Đó là một việc cực kỳ khó khăn do giá trị C quá
lớn, sự nhiễu loạn do tương tác giữa ánh sáng với dụng cụ đo và do sự
“gây rối” của thời gian truyền thông tin không đồng đều về các biến cố
không thể loại trừ được trong thực tiễn thí nghiệm. Chẳng hạn, chỉ riêng
việc xác định chính xác vận tốc truyền sáng từ O’ đến a đối với quan
sát ở O’ đã thực sự là một khó khăn lớn rồi. Giả sử gọi vận tốc đó là c’
thì:
c’=c-v
Nếu v’ là vận tốc trái đất và bằng 3.106 . Biết giá trị c là bằng 3.1010 . Vậy:
c’=3.1010-3.106=3.1010(1-3.10-4)=3.1010.0,9997=2,9991.1010
Nếu đem so với giá trị c đã được thực nghiệm xác định là 2,9979.1010 thì rõ ràng là c'>c và như thế làm sao biết được hệ O’ có đứng yên tuyệt đối trong chân không so với ête hay không?
Tình
hình vô cùng khó khăn đó đã dẫn đến quan niệm: đối với hai hệ quán tính
có sự chênh lệch chuyển động là V so với nhau, sẽ không thể biết được
hệ nào thực sự chuyển động so với hệ nào và hơn nữa không có cách nào
xác định được trạng thái chuyển động tuyệt đối của một hệ vật lý quán
tính trong không gian. Như vậy trong hai hệ qui chiếu quán tính ấy, có
thể tùy tiện chọn một trong hai hệ là đứng yên so với hệ kia và quá
trình khảo sát khoa học đều đưa ra một kết quả duy nhất.
Nếu
quan sát ở hai hệ đó chỉ “chằm chằm nhìn nhau” mà suy đoán thôi thì
quan niệm trên có thể chấp nhận được. Nhưng quá trình quan sát ngày một
sâu rộng để nhận thức ngày một đích đáng hơn là một quá trình tất yếu
khách quan cho nên trước sau gì hai quan sát ở hai hệ đó cũng phải hướng
quan sát ra xung quanh, bên ngoài hai hệ. Chính vì thế mà quan sát ở cả
hai hệ đều xác định được chắc chắn hệ nào chuyển động so với hệ nào.
Trong cuộc sống đời thường cũng thấy rõ điều đó. Sự ngộ nhận chỉ có thể
là do quan sát còn thiển cận, nhận thức còn nông cạn và cũng chỉ mang
tính nhất thời. Chẳng hạn, một hệ quan sát, quan sát chuyển động các hành tinh trong hệ Thái Dương có năng lực quan sát bị giới hạn trong phạm vi hệ, vì lấy Mặt Trời làm chuẩn mốc đứng yên so sánh, nên sẽ thấy các hành tinh quay quanh Mặt Trời theo quĩ đạo elíp. Nhưng khi năng lực quan sát vượt giới hạn hệ Thái Dương, thì sẽ thấy quĩ đạo chuyển động của các hành tinh quanh Mặt Trời khác đi!
Chúng
ta gọi một quần thể các vật chất vận động nào đó là hệ thống không gian
nếu các vật chất đó liên kết với nhau theo cách thức nào đó để có mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, cùng nhau tồn tại. Chẳng
hạn Trái Đất và Mặt Trăng là một hệ thống không gian, Thái Dương Hệ là
một hệ thống không gian. Cần thấy rằng vận động (nội tại) của một hệ
thống không gian luôn được duy trì trong trạng thái cân bằng động. Vì
nếu không như thế nó sẽ bị phá vỡ và chấm dứt tồn tại. Nói đến một tổng
thể vận động cân bằng thì phải nghĩ đến một điểm chung nhất, đóng vai
trò là trung điểm duy nhất của toàn bộ hệ thống cân bằng động. Điểm đó
được toán học nêu ra và gọi là “điểm bất động”. Một cách hình thức có
thể cho rằng điểm bất động luôn “trôi nổi” trong không gian theo cách
thức và sự ràng buộc nào đấy nhằm mục đích duy trì tình trạng cân bằng
động cho toàn bộ hệ thống mà nó đại diện. Khi có một tác động ngoại lai
gây nguy cơ phá vỡ trạng thái cân bằng động của hệ thống, điểm cân bằng
động lập tức phải thay đổi cách “trôi nổi” sao cho phù hợp để cố gắng
duy trì tình trạng cân bằng động, và nếu sự thay đổi ấy bị ngăn chặn, hệ
thống sẽ không tồn tại như cũ nữa, thậm chí là bị tan vỡ hoàn toàn.
Điểm
bất động “trôi nổi” trong không gian như thế nhưng đối với nội tại hệ
thống, nó được xem là đứng yên thực sự hay có thể nói là đứng yên tuyệt
đối đối với toàn bộ vật chất vận động trong hệ thống, tạo nên nội tại
của hệ thống. Nhờ có điểm bất động đóng vai trò chuẩn mốc mà có thể xác
định rõ ràng được mối quan hệ về chuyển động giữa các vật chất thành
phần (vật thể - môi trường chất) trong nội tại hệ thống. Nếu quan sát
trên Trái Đất và quan sát trên Mặt Trăng chỉ “đắm đuối” nhìn nhau thôi
thì cả hai đều không biết được thực sự Trái Đất quay quanh Mặt Trăng hay
Mặt Trăng quay quanh Trái Đất. Nhưng nếu cả hai quan sát ấy cùng xác
định được điểm bất động của hệ thống Trái Đất - Mặt Trăng thì dựa vào
điểm đó cả hai quan sát sẽ cùng đi đến kết quả khảo sát là Mặt Trăng
quay quanh Trái Đất. Nếu xác định được điểm bất động của Thái Dương Hệ
thì dựa vào đó cũng sẽ thấy Mặt Trăng quay quanh Trái Đất và Sao Hỏa để
nhận định đích thực hành tinh nào chuyển động so với hành tinh nào,
chuyển động đó như thế nào với vận tốc là bao nhiêu. Kết quả xác định đó
có tính tương đối và chủ quan so với bên ngoài Thái Dương Hệ nhưng cũng
có tính tuyệt đối và khách quan trong phạm vi nội tại hệ thống.
Quay
trở lại với thí nghiệm giả tưởng mà chúng ta đang bàn luận dở dang.
Chúng ta đã cho rằng sự tồn tại đường đồng thời là một hiện tượng khách
quan thuần túy cho nên dù quan sát từ O hay từ O’ và có thể có những
nhận xét sai biệt giữa hai quan sát ấy thì hai quan sát ấy đều phải thấy
đường D’ như nhau về hình dạng và kích thước một cách đồng thời (vì qui
ước sự truyền thông tin là tức thời). Điều quan trọng là cả hai quan
sát ở O và O’ đều thấy đúng là vận tốc truyền sáng trong bất cứ trường
hợp nào cũng không lớn hơn giá trị c. Chẳng hạn, đối với hạt sáng phát
ra từ O’ đúng thời điểm O’ và O trùng nhau, theo phương vuông góc với
véctơ vận tốc ,
thì sau thời gian t, nó phải đạt đến điểm d chứ không thể là điểm đ’ và
cả hai quan sát ở O lẫn ở O’ đều phải thấy điểm d duy nhất đó.
Có thật sự là như vậy không? Như đã nói thì đối với quan sát ở O, do tác động ngang của chuyển động nên hạt sáng phải truyền lệch đi một góc so với phương vuông góc và do vận tốc truyền sáng có tính giới hạn nên nó phải truyền theo tuyến od với vận tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến d. Còn quan sát ở O’, quan niệm vận tốc ánh sáng luôn cực đại bất biến trong môi trường chân không so với ête và đồng thời cũng phải tuân theo nguyên lý quán tính của Galilê, sẽ đi đến suy luận rằng hạt sáng sẽ truyền từ O’, theo tuyến o’d’ với vận tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến điểm d’. Suy luận đó sai lầm vì nếu hạt sáng đạt đến d’ thì quan sát từ O cũng thấy điều đó, nghĩa là phải thấy hạt sáng truyền với vận tốc lớn hơn c. Vì hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân không cho nên vận tốc truyền của các hạt sáng phát ra từ o theo mọi hướng đều phải như nhau, phải cực đại, nghĩa là bằng một số c cực đại bất biến nào đó gọi là vận tốc toàn phần. Do đó việc thấy một hạt sáng truyền có vận tốc lớn hơn c, đối với quan sát ở O là điều phi lý. Một khi có được các công cụ đo đủ khả năng quan sát chính xác hiện tượng thì quan sát ở O’ sẽ có được kết quả thí nghiệm xác nhận rằng hạt sáng sau thời gian t đúng là chỉ đạt đến điểm d chứ không phải điểm d’, và phải từ bỏ suy luận sai lầm của mình để nhận thức lại.
Có thật sự là như vậy không? Như đã nói thì đối với quan sát ở O, do tác động ngang của chuyển động nên hạt sáng phải truyền lệch đi một góc so với phương vuông góc và do vận tốc truyền sáng có tính giới hạn nên nó phải truyền theo tuyến od với vận tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến d. Còn quan sát ở O’, quan niệm vận tốc ánh sáng luôn cực đại bất biến trong môi trường chân không so với ête và đồng thời cũng phải tuân theo nguyên lý quán tính của Galilê, sẽ đi đến suy luận rằng hạt sáng sẽ truyền từ O’, theo tuyến o’d’ với vận tốc c và sau thời gian t sẽ đạt đến điểm d’. Suy luận đó sai lầm vì nếu hạt sáng đạt đến d’ thì quan sát từ O cũng thấy điều đó, nghĩa là phải thấy hạt sáng truyền với vận tốc lớn hơn c. Vì hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân không cho nên vận tốc truyền của các hạt sáng phát ra từ o theo mọi hướng đều phải như nhau, phải cực đại, nghĩa là bằng một số c cực đại bất biến nào đó gọi là vận tốc toàn phần. Do đó việc thấy một hạt sáng truyền có vận tốc lớn hơn c, đối với quan sát ở O là điều phi lý. Một khi có được các công cụ đo đủ khả năng quan sát chính xác hiện tượng thì quan sát ở O’ sẽ có được kết quả thí nghiệm xác nhận rằng hạt sáng sau thời gian t đúng là chỉ đạt đến điểm d chứ không phải điểm d’, và phải từ bỏ suy luận sai lầm của mình để nhận thức lại.
Vì
cả hai hệ đều thấy điểm d sau thời gian t một cách đồng thời, cho nên
tại thời điểm ấy điểm d phải đứng yên tuyệt đối trong chân không, nếu
thời điểm ấy có độ “dài lâu” bằng đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối.
Nếu thế, đường đồng thời D’ của hệ O’ cũng là một tồn tại khách quan
tuyệt đối, chưa bị quan sát chủ quan “bóp méo” tại thời điểm ấy. Nghĩa
là nếu có một quan sát thứ ba trong hệ qui chiếu quán tính O’’ nào đó,
cũng phải thấy đường O’ đúng như thế về hình dạng và kích thước.
Ba
quan sát ở ba hệ, sau khi đã nhất quán với nhau về điểm đến của hạt
sáng thì có thể vẫn không nhất quán với nhau về điểm xuất phát và độ dài
quãng đường truyền sau thời gian t của nó. Giả sử rằng hạt sáng phát ra
tại thời điểm gốc tọa độ o, o’, o’’ của ba hệ trùng nhau, và cho rằng
quan sát ở o lúc này không biết hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân
không. Nếu ba quan sát không phát hiện được hạt sáng phát ra từ hệ nào
thì cả ba quan sát ấy đều quả quyết rằng hạt sáng xuất phát từ gốc hệ
của mình để đến d. Với ba nhận định khác nhau đó, hạt sáng được thấy như
phải “phân thân” thành ba hạt sáng, truyền theo ba tuyến có độ dài khác
nhau để sau thời gian t đồng thời hội ngộ, trở lại nguyên hình là một
hạt sáng duy nhất tại điểm d. Hơn nữa điều “đáng sợ” nhất là ở chỗ trong ba
tuyến truyền hạt sáng đó, hoàn toàn có khả năng trên một tuyến nào đó,
hạt sáng phải truyền với vận tốc lớn hơn c. Đó là điều không thể tin
được!
Thực
ra, điểm xuất phát của hạt sáng là duy nhất và do đó nó cũng truyền
trên tuyến duy nhất để đến điểm d. Vì đã qui ước hạt sáng được phát ra
từ O’ nếu đúng thật là nó xuất phát từ O’, nhưng phải tại điểm đơn vị
thời gian nhỏ nhất tuyệt đối khi mà O’ trùng với O và O’’, nghĩa là phải
coi hạt sáng xuất phát từ O’ trong thời điểm cả O’, O, O’’ trùng với
một điểm đứng yên tuyệt đối nào đó trong chân không và tuyến đường
truyền thực của hạt sáng đó có điểm đầu là điểm đứng yên tuyệt đối mà ở
đó điểm gốc của ba hệ trùng nhau và điểm cuối là điểm đứng yên tuyệt đối
d. Vì đã cho rằng hệ O đứng yên tuyệt đối trong chân không nên tuyến od
chính là tuyến thực sự khách quan mà hạt sáng truyền đi và vận tốc
truyền trên tuyến đó cùng lắm cũng chỉ bằng c (cụ thể trong thí nghiệm ở
đây là đúng bằng c). Rõ ràng, nhận định của quan sát ở O’ và O’’ là ngộ
nhận nên cũng phạm sai lầm.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét