TT&HĐ V - 43/a
Hiện tượng giao thoa ánh sáng
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky
Gorky
"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng
mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể
gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.
Albert Einstein
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
CHƯƠNG IV (XXXXIII): ÊTE
“Một con người có thể thành công trong bất cứ việc gì nếu anh ta đổ vào đó một lòng nhiệt thành vô hạn”.
Charles Schwab
“Nếu
toán học quắc thước, ngạo nghễ và hùng vĩ như những kim tự tháp Ai Cập
thì vật lý học uyển chuyển, lúc điềm tĩnh lúc cuồn cuộn dâng trào như
dòng sông Nin và chúng hợp thành một quang cảnh hiện thực khách quan vô
cùng sinh động, vừa sáng lạn, vừa kỳ bí, được tạo dựng bởi thiên nhiên
hoang dã và sự cộng tác sáng tạo của lý trí loài người”.
Thầy Cãi
“Đôi lúc cuộc sống thật khắc nghiệt, rắn như thép đã tôi. Nó có những lúc ảm đạm và đau đớn. Như bất cứ một dòng chảy nào của một con sông, cuộc sống có những lúc khô cạn và những khi triều cường. Cũng như sự thay đổi theo chu kỳ từ trước đến nay của các mùa, cuộc sống có cái ấm áp dễ chịu của những mùa hè và cái rét buốt của những mùa đông…Nhưng chúng ta có thể tự nâng mình lên khỏi nỗi chán chường và tuyệt vọng, vươn đến sự vui vẻ của hy vọng và biến đổi các thung lũng hoang vắng, tăm tối thành những lối đi chan hoà ánh nắng của sự thanh bình sâu lắng”.
MARTIN LUTHER KING
"Sai lầm lớn nhất của Anhxtanh là tin theo quan niệm coi thời gian như vật chất, có thể co giãn được và hòa quyện vào không gian được. Do đó nếu ngày nay học thuyết tương đối trở thành cơ sở chủ yếu cho nhận thức vật lý học về Vũ Trụ, thì tương lai nó chỉ còn là một huyền thoại của một thời ảo mộng. Có thể coi không gian và thời gian quan hệ khăng khít như hình với bóng, như thể xác với linh hồn, nhưng phải được phân biệt dứt khoát với điều kiện tiên quyết: không có hình thì không có bóng, không có thể xác thì tuyệt đối không có linh hồn".
NTT
"Tất cả mọi điều trên thế giới này đều được hy vọng làm nên".
Tin vào quan
niệm của Đềcác, Huygens cũng cho rằng Vũ Trụ lấp đầy một chất nào đó.
Theo ông, chất nền đó là một chất rất tinh tế, huyền bí vì không thể cảm
giác nó được, không trọng lượng nhưng đàn hồi… Ông cũng gọi chất ấy
theo người xưa là “ête”. Trên cơ sở quan niệm đó, Huygens
đã xây dựng nên thuyết sóng ánh sáng của mình. Theo thuyết này, nguồn
sáng bao gồm vô số các hạt rung động. Các hạt này truyền rung động của
chúng tới các hạt ête bên cạnh dưới dạng các sóng cầu và các hạt ête đó
lại tiếp tục truyền đi như kiểu sóng nước. Ở gần nguồn sáng, vô số các
sóng cầu chồng chập nhau gây ra sự hỗn loạn, nhưng càng ra xa nguồn sáng
sóng truyền càng trở nên đều đặn và trơn tru hơn. Thuyết truyền ánh
sáng theo phương thức dao động sáng của Huygens đã giải thích được các
hiện tượng phản xạ, khúc xạ và nhiễu xạ ánh sáng.
Hào
quang của Niutơn đã làm cho thuyết hạt về ánh sáng của ông thắng thế,
dìm thuyết sóng ánh sáng của Huygens vào bóng tối. Mãi đến năm 1801, nhà
vật lý học tên là Thomas Young (1773-1829) đã trình bày một thí nghiệm
nổi tiếng tại Royal Society, phát hiện ra hiện tượng kỳ lạ: khi hai chùm
sáng qua hai khe hẹp thì tại cùng một vị trí chúng chồng chập nhau trên màn hình,
xuất hiện những dải sáng hơn và tối hơn nằm xen kẽ nhau. Dựa trên thuyết
hạt về ánh sáng của Niutơn, không thể giải thích được hiện tượng này,
mà chỉ có thể dựa trên thuyết sóng ánh sáng của Huygens. Đó chính là
hiện tượng giao thoa ánh sáng. Thế là Young đã là người Anh đầu tiên
đứng lên bênh vực cho thuyết sóng ánh sáng và đồng thời phủ nhận thuyết hạt
ánh sáng của Niutơn, người mà tên tuổi đã gây sự kính phục đến cuồng tín
trong giới vật lý học thời bấy giờ. Ở Anh và Pháp, lập trường về bản
chất hạt của ánh sáng chẳng có gì suy suyển sau những phát hiện phi
thường của Young. Một số người còn chỉ trích mạnh mẽ. Có người còn nói
toạc rằng: “Thật khó có thể coi là nghiêm túc đối với một tác giả mà trí
tuệ chỉ bận tâm đến một môi trường mà bản chất dao động của nó liên tục
biến đổi (ám chỉ đến ête – NV), (…), một tác giả không cho thấy bất kỳ
dấu hiệu nào về sự hiểu biết, sáng suốt hay chân thực để có thể bù lại
sự thiếu hụt rành rành khả năng tư duy vững chắc”.
Christiaan Huygens | |
---|---|
Christiaan Huygens
|
|
Sinh | 14 tháng 4, 1629 Den Haag, Hà Lan |
Mất | 8 tháng 7, 1695 (66 tuổi) Den Haag, Hà Lan |
Nơi cư trú | Hà Lan, Pháp |
Ngành | Vật lý và Toán học |
Alma mater | Đại học Leiden Đại học Orange |
Nổi tiếng vì | Đồng hồ quả lắc Nguyên lý Huygens-Fresnel |
Vì thế mà
phát hiện của Young có nguy cơ chìm nghỉm vào quên lãng.
Nhưng đúng là
trời xui đất khiến, ở Pháp xuất hiện ngay một tài năng vật lý xuất
chúng, đóng vai là chàng kỹ sư cầu đường, tên là Frênen (Augustin
Fresnel, 1788-1827). Frênen là người Pháp, không biết tiếng Anh nên cũng
không hề biết những nghiên cứu của Young ở bên kia eo biển Măngxơ. Nhà
vật lý trẻ tuổi này đã có linh cảm về tính đúng đắn của thuyết sóng ánh
sáng nên đã chú tâm nghiên cứu theo hướng này và một cách độc lập với
các kết quả của Young, tái phát hiện bản chất sóng và các định luật giao
thoa của ánh sáng, hơn nữa, còn xây dựng được cho chúng một cơ sở toán
học vững chắc. Frênen tuyên bố rằng, ánh sáng là một dao động của ête,
ly độ của dao động này thay đổi không phải theo phương lan truyền sóng
mà trong mặt phẳng vuông góc với phương truyền sóng, do đó, tương tự như
sóng nước, sóng đó phải là sóng ngang. Chính những chứng minh toán học
đầy thuyết phục của Frênen đã phủ định thuyết hạt về ánh sáng của Niutơn
và khẳng định thuyết sóng ánh sáng.
Lịch
sử đã ghi lại được một biểu hiện hết sức đẹp đẽ, cao quí của tâm hồn
con người. Ngay khi biết đến các nghiên cứu của Young, Frênen đã không
ngần ngại báo tin: “Tôi đã nhiều lần vui vẻ thừa nhận trước công chúng
rằng tôi đã đi sau các nghiên cứu của ngài”. Còn Young thì đáp lại, xác
nhận các phát biểu của Frênen là có tính độc lập và cũng rất độc đáo:
“Lần đầu tiên tôi rất vui sướng được nghe về một nghiên cứu quang học do
ngài Frênen trình bày, người đã tái phát hiện các định luật giao thoa
bằng các nỗ lực riêng của mình”.
Kết
luận của Frênen về sóng ánh sáng là sóng ngang đã giải quyết được nhiều
hiện tượng của sự truyền sáng, song lại gây ra một mắc mứu ghê gớm đối
với quan niệm về sự tồn tại của ête. Young chính là người thấy rất rõ
mâu thuẫn đó nên vào năm 1823, ông viết: “Giả thuyết của ngài Frênen chí
ít cũng rất tài tình và cho phép thực hiện các tính toán một cách thỏa
đáng. Nhưng nó cũng dẫn chúng ta đến một kết luận rụng rời: ête choán
toàn bộ không gian không chỉ hoàn toàn đàn hồi, mà nó cũng phải rất
rắn!”.
Tại
sao vậy? Vì sóng ngang chỉ có thể truyền trong các môi trường rắn và
đàn hồi. Môi trường càng đàn hồi và càng rắn thì vận tốc truyền sóng
càng cao. Vận tốc truyền sáng được xác nhận là rất lớn, do đó ête phải
là một khối có thể là trong suốt nhưng phải rất rắn. Nhưng trong hiện
thực đâu có thấy như vậy?
Young
không phải là người đầu tiên nói đến tính rắn của ête. Sau khi xây dựng
thuyết sóng ánh sáng, Huygens cũng đã thừa nhận rằng các hạt ête rắn
đến mức chúng truyền mọi nhiễu động hầu như tức khắc. Một môi trường đầy
những hạt ête rắn như thế sẽ phải có một sức căng rất lớn, đồng thời
khối lượng của nó phải rất nhỏ. Người ta đã chứng minh được: vận tốc
truyền sóng tỷ lệ thuận với căn bậc hai của tỷ số giữa sức căng và khối
lượng của môi trường. Ngay từ năm 1746, Ơle đã cho biết: so với không
khí, ête phải “nhẹ” hơn 100 triệu lần và có sức căng lớn hơn 1000 lần.
Một
Vũ Trụ lấp đầy bằng một môi trường ête có tính chất như thế lại cho
phép các thiên thể, hành tinh chuyển động xuyên qua nó dễ dàng, không bị
một cản trở nào rõ ràng là phi hiện thực. Và đây cũng chính là mắc mứu
vô cùng nan giải đối với các nhà vật lý đặt niềm tin vào sự tồn tại của
ête.
Sau
Ơle, có rất nhiều nhà vật lý hình dung ra những mô hình ête khác nhau
nhằm né tránh cái mắc mứu chết người ấy nhưng chưa đi đến đâu cả. Thuyết
sóng ánh sáng của Huygens được Frênen xác nhận một cách thuyết phục và
nếu thừa nhận nó thì phải thừa nhận ête. Tình hình lúc đó có thể nói là
không một ai dám phủ nhận ête nhưng cũng không có ai hình dung được một
cách hợp lý, phi mâu thuẫn về nó.
Vào
đầu thế kỷ XVIII, các nhà vật lý thiên văn đã biết đến hiện tượng tinh
sai. Hiện tượng tinh sai là hiện tượng: khi muốn quan sát một ngôi sao
bất động nào đó thì không phải hướng trục kính thiên văn vào đúng ngôi
sao đó mà phải hướng lệch đi một góc theo
chiều chuyển động của Trái Đất xung quanh Mặt Trời. Để giải thích hiện
tượng, các nhà thiên văn cho rằng, ête “thấm” trong khí quyển Trái Đất
vẫn đứng yên trong không gian tuyệt đối, không bị Trái Đất kéo theo và
như vậy, tinh sai là do chuyển động tương đối giữa Trái Đất và ête gây
ra. Trên cơ sở lý thuyết đó, họ đã tính được góc lệch và điều đáng nói là nó phù hợp với thực nghiệm.
Đến
giữa thế kỷ XIX, Phidô đã thực hiện một thí nghiệm nổi tiếng để đo vận
tốc ánh sáng trong một chất lỏng chuyển động. Kết quả đo được đã không
phù hợp với tính toán theo phép tổng hợp vận tốc của cơ học Niutơn. Do
đó mà Phidô phải đi đến một giả thuyết hình thức là ete bị chất lỏng
chuyển động kéo theo một phần.
Farađây
cũng tin vào sự tồn tại của ête khi ông khẳng định sự có thực của đường
sức và đến với khái niệm trường. Và cả Mắcxoen cũng vậy, đến năm 1878,
nghĩa là cả chục năm sau khi xây dựng xong lý thuyết trường điện từ, còn
viết: “Dù thật khó để có một hình dung hữu lý về ête, nhưng không thể
nghi ngờ là trong không gian của Vũ Trụ phải đầy ngập một chất liệu vật
chất hay một thứ gì đó như thế”.
Nói
chung, vào những năm cuối thế kỷ XIX, nhất là sau khi thuyết trường
điện từ ra đời và bản chất điện từ của sóng ánh sáng được phát hiện thì
không còn một ai nghi ngờ về sự tồn tại của ête nữa. Nhiệm vụ của các
nhà vật lý lúc này đối với ête là tìm cách phát hiện ra nó, xây dựng mô
hình xác đáng cho nó và tiến tới thiết lập biểu diễn định lượng về nó.
Có một hướng nghiên cứu được nhiều nhà vật lý quan tâm và có vẻ khả thi
hơn cả. Đó là tiến hành thực nghiệm đo chuyển động của Trái Đất so với
ête. Mắcxoen là người cũng rất quan tâm tới vấn đề này. Ông đã nêu ra
một sáng kiến thực hành thí nghiệm đo chuyển động của Trái Đất đối với
ête và gửi nó cho một nhà thiên văn quen biết và được công bố năm 1880,
tức là sau khi Mắcxoen đã mất một năm.
Về mặt nguyên tắc, có thể dựng được một thí nghiệm như vậy, nhưng đòi hỏi độ chính xác của dụng cụ đo phải rất cao, vào cỡ .
Mắcxoen nghĩ rằng rất khó mà chế tạo được một dụng cụ đo có độ chính
xác cao như thế. Ấy vậy mà chỉ một năm sau, một người tên là Maikenxơn đã
tiến hành cuộc thí nghiệm đầu tiên theo nguyên tắc mà Mắcxoen đã đề
xướng.
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
(Còn tiếp)
------------------------------------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét