MUÔN NẺO MƯU SINH 26
(ĐC sưu tầm trên NET)
Giữa cảnh tấp nập và nhộn nhịp thường thấy trên đường phố New York, không khó để bắt gặp những bóng dáng của người Việt.
Suốt hai mươi năm qua, bất chấp nắng mưa, lạnh giá, bà Trương Muội gắn mình với sạp trái cây trên vỉa hè người qua kẻ lại suốt ngày đêm ở khu phố Tàu, Chinatown.
Hàng chục loại hoa quả phong phú tưởng như chỉ có thể thấy ở xứ sở nhiệt đới đã giúp bà nuôi bốn người con khôn lớn tại một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới
Người phụ nữ ở tuổi ngũ tuần này nói với VOA Việt Ngữ: “Ở đây ngủ dậy là phải đi làm rồi đứng ở ngoài đường ngày mười mấy tiếng vậy đó. Ở Mỹ phải làm mới có ăn, không chịu làm thì không có ăn. Làm ở hãng là 8 tiếng thì tôi ở ngoài phải làm 14 tiếng, double (gấp đôi) đó. Sắp tới mùa đông hơi cực. Mùa đông 9 – 10 độ vẫn bán. Phải mặc 8 cái áo”.
Bà Muội nói thêm rằng ai cũng “phải chịu cực” mới trụ lại được ở New York, dù việc đứng trên đường phố mỗi ngày khiến bà “đau chân, nhức gối”.
Trong khi đó, chị Kim Anh, một nhân viên phục vụ nhà hàng Việt, cũng cho biết, sống ở New York thì “không sợ thất nghiệp”, nhưng cần phải “chịu khó, chịu cực”.
Chị nói: “Áp lực thì cũng có, nhưng mình phải làm quen với nó rồi mình xoay sở thôi, chứ ở đâu cũng có áp lực. Tiền lương mình tiết kiệm chút thì sống cũng đủ, và nhiều khi còn có dư. Ăn thua là do mình xài”.
Chị nói một khi đã sống ở New York thì không muốn chuyển đi nơi khác nữa. “Ở đây thích lắm, nên đi tiểu bang khác lại nhớ,” chị nói.
THẾ ANH
THẾ ANH
THẾ ANH
THẾ ANH - THI NGÔN
THẾ ANH - THI NGÔN
TT - Khó khăn lắm chúng tôi mới được ông chủ người Hàn cho phép
tiếp cận một xưởng có sử dụng lao động bất hợp pháp. Đây là một xưởng
chuyên sản xuất chỉ may nằm sâu trong một con đường nhỏ thuộc thành phố
Pocheon. Cổng xưởng luôn được khóa kín, gác ở cửa là một con chó bẹcgiê
to vật vã... Trong xưởng là tiếng máy móc gầm rú suốt 24 giờ, xung quanh
là những chiếc container được phủ kín bạt làm chỗ ở cho công nhân.
Xưởng có bảy người làm, trong đó có một người Campuchia, hai người
Bangladesh và bốn người VN.
15 năm lưu lạc
Trực tiếp điều hành công việc ở đây là anh Lê Thế Xuân, chồng chị Vũ Thị Tuyết. Anh Xuân quê ở huyện Nông Cống, còn chị ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Anh chị ở trong số những lao động Việt lâu năm ở thành phố Pocheon mà chúng tôi gặp được. Đã có thâm niên trên 15 năm lao động tại Hàn, nhưng trong suốt thời gian ấy họ chưa một lần về thăm quê...
Anh chị từng quen biết nhau ở VN, cùng nhau sang Hàn mưu sinh rồi cưới nhau vào năm 2001. Đến năm 2007 thì đứa con đầu lòng ra đời. Nếu để con ở lại thì không thể đi làm nên họ đành gửi con về VN nhờ người thân nuôi. Đó là quyết định quá khó khăn. Chị Tuyết nhớ lại: “Khi gửi cháu về thì nó mới gần 1 tuổi. Phải thuê người ẵm ra sân bay giá hơn 3.000 USD vì thân phận lao động bất hợp pháp, ra đó là bị trục xuất luôn. Tiễn con ra sân bay mà lòng tôi như ai xát muối, khóc cả mấy tháng liền...”.
Ba mẹ xin lỗi
Mãi đến hơn 10 giờ đêm chúng tôi mới gặp được anh Trần Văn Duyên và chị Nguyễn Thị Vân. Vợ chồng anh Duyên, chị Vân là một trong những lao động bất hợp pháp bám trụ trên đất Hàn Quốc đã 17 năm. Anh Duyên qua Hàn từ năm 1994 làm thuyền viên cho một tàu đánh cá đại dương. Công việc quá khắc nghiệt, chỉ sau sáu tháng lênh đênh nơi đầu sóng ngọn gió anh đành bỏ trốn khi tàu cập cảng Busan. Anh kể: “Lên bờ, không tiền bạc, không giấy tờ tùy thân, ngôn ngữ thì tiếng được tiếng mất. Tôi phải đi xin từng đồng lẻ để đón xe về Seoul, nơi có một vài người bạn đồng hương để nương nhờ“. Còn chị Vân qua Hàn Quốc từ năm 2000, làm việc tại một công ty ở thành phố Gimpo. Chưa hết hợp đồng thì công ty gặp khó khăn nên chị ra ngoài tìm việc mới. Trên vách tường của căn phòng trọ nhỏ hẹp dưới tầng hầm một chung cư, họ treo kín những bức hình của hai con. Phía dưới bức hình là những dòng chữ nguệch ngoạc đã úa màu: “Saron ơi, mẹ nhớ con lắm!”, “Thành Tín ơi, ba mẹ xin lỗi con nhiều nhé...!”. Mười năm trước, hai con của họ, đứa lớn 1 tuổi, đứa nhỏ 9 tháng tuổi, đã phải rứt ruột gửi về quê nhà...
Mỗi ngày phải làm việc hơn 12 tiếng, mỗi đêm phải thức dậy hai lần để canh chừng máy móc. Môi trường làm việc đầy bụi bặm và ồn ào.
Anh Xuân tâm sự: “Chỉ những công việc nặng nhọc, ô nhiễm, máy móc cũ kỹ hay lương thấp... thì người ta mới nhận lao động bất hợp pháp vào làm. Ở đây tai nạn lao động luôn là nỗi ám ảnh của các lao động bất hợp pháp VN. Bởi nếu bị tai nạn, họ sẽ bị chủ cho nghỉ ngay với một chút tiền ít ỏi. Đó là chưa kể đến việc một số ông chủ lợi dụng điểm yếu của lao động bất hợp pháp để quát nạt, chèn ép. Bởi họ biết dù có bị bất công đến đâu thì chúng tôi cũng chỉ biết im lặng, không dám thưa kiện tới cảnh sát...”.
Đi lao động nước ngoài mà phải ăn mì gói trừ bữa, có lẽ điều này ít ai tin. Nhưng vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết đã phải trải qua những ngày khó khăn như thế trong những năm tháng Hàn Quốc rơi vào cơn khủng hoảng kinh tế.
Anh Xuân nhớ lại: “Đó là vào năm 2007, nền kinh tế Hàn Quốc suy thoái, hàng loạt nhà máy ngưng sản xuất, người lao động rơi vào cảnh lao đao. Với anh em lao động bất hợp pháp như chúng tôi lại càng khó khăn hơn. Nhiều tháng liền ngồi ở nhà, góp nhặt những đồng tiền còn lại đi mua mì gói và ớt xanh về dự trữ để ăn cầm hơi. Nhiều người chịu không nổi đã bỏ về nước. Lúc đó tôi chỉ ước có một nơi nào đó nhận vào làm, chỉ cho ăn thôi cũng được, không cần lương...”.
Trải qua nhiều mùa tuyết giá rét, những công xưởng nặng nhọc và ô nhiễm trên chặng đường mưu sinh, hiện anh Xuân và cả chị Tuyết đang mang trong mình những mầm bệnh nghề nghiệp. Nhưng họ phải quên đi tuổi thanh xuân và sức khỏe của mình để cầu mong những điều tốt đẹp hơn.
Chị Tuyết chia sẻ: “Ở đây nhớ con lắm, nhưng cũng phải gắng gượng để lo cho tương lai của con. Với lại gia đình tôi còn mẹ già và ba người chị tật nguyền ở quê nữa...”.
Nặng nợ với quê nhà
Chúng tôi đã tìm về mảnh đất trồng đậu phộng của gia đình chị Tuyết ở xã Liên Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Giữa trưa nắng, hai người chị bị khiếm thính của chị Tuyết đang nhổ đậu phộng trên ruộng.
Năm nay mùa mưa bão tới sớm, hai người chị của chị Tuyết phải tất tả nhổ đậu phộng sớm để tránh bão. Căn nhà khang trang mới xây xong cuối năm 2010 của gia đình chị được góp bởi những đồng lương của người anh trai cả lành lặn, của đứa em út chị Tuyết đi lao động ở Libya và cả công sức của chị Tuyết nơi xứ Hàn.
Mảnh vườn này, căn nhà này đã 15 năm chị Tuyết chưa một lần về thăm. Nhưng ở xứ Hàn chưa lúc nào chị nguôi quên về hình ảnh người mẹ đã 80 tuổi và ba người chị đều bị khuyết tật. Bà Cao Thị An, mẹ chị Tuyết, bùi ngùi: “Vất vả xa quê để lo cho gia đình, lo cho các chị tàn tật, vậy mà ngày bố nó mất cũng không về được...”.
Có một điểm rất giống nhau ở cả bốn người phụ nữ trong ngôi nhà này là mỗi khi nhắc tới vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết, họ sẽ chỉ món đồ, những cái áo... ra hiệu rằng đó là quà của người em gửi về từ Hàn Quốc.
Khi phóng sự này đến với độc giả cũng là lúc chúng tôi nhận được tin vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết đã bị trục xuất khỏi đất Hàn. Họ lấy lý do bận bịu để từ chối những cuộc tiếp xúc, nhưng chúng tôi hiểu rằng họ không muốn ai xoáy thêm vào nỗi đau của đời mình - nỗi đau của những phận đời bất hợp pháp nơi xứ người...
Chẳng biết rồi anh chị sẽ làm gì để sống nơi quê nhà khi mà đã 15 năm xa cách? Đó là một câu hỏi khó cho những thân cò như vợ chồng họ...
THẾ ANH
Muôn nẻo mưu sinh của người Việt ở New York
Suốt hai mươi năm qua, bất chấp nắng mưa, lạnh giá, bà Trương Muội gắn mình với sạp trái cây trên vỉa hè người qua kẻ lại suốt ngày đêm ở khu phố Tàu, Chinatown.
Hàng chục loại hoa quả phong phú tưởng như chỉ có thể thấy ở xứ sở nhiệt đới đã giúp bà nuôi bốn người con khôn lớn tại một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới
Người phụ nữ ở tuổi ngũ tuần này nói với VOA Việt Ngữ: “Ở đây ngủ dậy là phải đi làm rồi đứng ở ngoài đường ngày mười mấy tiếng vậy đó. Ở Mỹ phải làm mới có ăn, không chịu làm thì không có ăn. Làm ở hãng là 8 tiếng thì tôi ở ngoài phải làm 14 tiếng, double (gấp đôi) đó. Sắp tới mùa đông hơi cực. Mùa đông 9 – 10 độ vẫn bán. Phải mặc 8 cái áo”.
Bà Muội nói thêm rằng ai cũng “phải chịu cực” mới trụ lại được ở New York, dù việc đứng trên đường phố mỗi ngày khiến bà “đau chân, nhức gối”.
Trong khi đó, chị Kim Anh, một nhân viên phục vụ nhà hàng Việt, cũng cho biết, sống ở New York thì “không sợ thất nghiệp”, nhưng cần phải “chịu khó, chịu cực”.
Chị nói: “Áp lực thì cũng có, nhưng mình phải làm quen với nó rồi mình xoay sở thôi, chứ ở đâu cũng có áp lực. Tiền lương mình tiết kiệm chút thì sống cũng đủ, và nhiều khi còn có dư. Ăn thua là do mình xài”.
Chị nói một khi đã sống ở New York thì không muốn chuyển đi nơi khác nữa. “Ở đây thích lắm, nên đi tiểu bang khác lại nhớ,” chị nói.
Giã từ sân cỏ, muôn nẻo mưu sinh
08/01/2015 06:43:55
Đời cầu thủ có hai bước ngoặt quan trọng. Thứ nhất: ngày được thi đấu bóng đá đỉnh cao. Thứ hai: ngày giã từ sân cỏ.
Thời
còn dọc ngang, tung hoành trên sân cỏ trong và ngoài nước, họ quá quen
thuộc với những pha bóng hay, những bàn thắng đẹp cùng những lời chúc
tụng bên cạnh các danh hiệu.
Nhưng khi giã từ sự nghiệp, chọn nghề gì để mưu sinh là bài toán nan giải của vô số cầu thủ.
Treo giày và làm thầy
Thông
thường, dân đá bóng sau lúc treo giày đều chọn nghiệp HLV. Nhưng cả nước
có được mấy người thành công như các HLV Phan Thanh Hùng (Hà Nội
T&T), Nguyễn Hữu Thắng (SLNA), Lê Huỳnh Đức (CA TP.HCM), Nguyễn Văn
Sỹ (Nam Định) hay Hoàng Anh Tuấn (Khánh Hòa).
Không
gặp thời khi hành nghề HLV bóng đá đỉnh cao, nhiều danh thủ phải lui về
huấn luyện bóng đá trẻ, bóng đá phong trào như trường hợp của Nguyễn Văn
Dũng (Nam Định, bốn lần đoạt giải vua phá lưới toàn quốc), Triệu Quang
Hà (Thể Công)...
Hành
trình đến với nghiệp HLV muôn phần gian nan, biết vậy nhưng Minh Phương
(SHB Đà Nẵng), Tài Em (Đồng Tâm Long An) vẫn cặm cụi theo học các lớp
HLV từ thấp đến cao do Liên đoàn Bóng đá châu Á (AFC) tổ chức. Vẫn còn
tung tăng trên sân cỏ ở V-League 2015, nhưng cặp tiền vệ lừng danh một
thời này đã nhận được bằng A HLV quốc tế do AFC cấp để có thể trở thành
HLV một đội bóng chuyên nghiệp trong tương lai.
Vài năm
trở lại đây, Quỹ đầu tư và phát triển tài năng bóng đá VN (PVF) trở
thành “địa chỉ đỏ” với các cựu tuyển thủ. Với lượng học viên lên đến hơn
100 em đòi hỏi lực lượng HLV cũng phải dồi dào để huấn luyện, quản lý.
Và đây cũng là lò đào tạo bóng đá trẻ quy tụ các anh tài một thời vang
bóng của CA TP.HCM (Minh Chiến, Hiền Vinh, Trí Cường, Liêm Thanh, Hoàng
Hùng, Ngọc Thọ, Tuấn Phong, Việt Thắng), Thể Công (Mạnh Cường, Duy
Đông), Khánh Hòa (Hữu Đang, Hữu Lộc), Nam Định (Thế Hiếu), Đồng Tháp
(Trịnh Tấn Thành, Quang Trãi), Đà Nẵng (Võ Văn Hạnh), CSG (Hoàng Bửu,
Ngầu Nại, Văn Lợi, Trung Tuấn, Nguyên Chương). Thu nhập hằng tháng của
mỗi người xấp xỉ 20 triệu đồng, ngoài ra họ còn được lãnh đạo PVF cho đi
học các lớp HLV do AFC tổ chức từ thấp đến cao.
Muôn nẻo mưu sinh
Muôn nẻo mưu sinh
Một số
khác chọn con đường đi định cư nước ngoài cùng gia đình và có cuộc sống
ổn định nhờ làm việc cho các hãng xưởng, công ty ở Úc như Hoài Linh (CA
TP.HCM), Hà Vương Bửu (CSG) hay ở Mỹ như Phạm Văn Tám, Phan Huy Khải
(CSG), Vũ Trọng Thành (Sở Công nghiệp), Trọng Linh (CA TP.HCM).
Số khác
được tuyển vào biên chế, hiện công tác trong ngành công an như Vũ Minh
Hiếu, Tuấn Thành (CSGT Hà Nội), Lã Xuân Thắng (cảnh sát hình sự Long
Biên, Hà Nội), Chu Văn Mùi (CSGT Q.6, TP.HCM), Bùi Sĩ Thành, Bùi Tuấn
Anh, Phan Bá Hùng (Trung tâm TDTT CA TP.HCM), Hải quan thành phố như Đỗ
Khải, Nguyễn Thanh Tùng, Nguyễn Hoàng Tân hay trường hợp Võ Hoàng Tân
(lai dắt tàu ở thủy đội CSG).
Xấp xỉ 50 tuổi nhưng Chu Văn Mùi vẫn chạy tốt trong các giải lão tướng
Xấp xỉ 50 tuổi nhưng Chu Văn Mùi vẫn chạy tốt trong các giải lão tướng
Dù chơi
bóng cùng thời, cùng CLB nhưng không phải ai cũng được xét chọn vào
biên chế để làm việc trong ngành do vướng phải những rào cản khách quan.
Chính vì vậy, tay săn bàn một thời của CA TP.HCM - tiền đạo Nguyễn
Hoàng Tuấn - tìm kế mưu sinh bằng việc làm quản lý sân bóng đá mini, thi
thoảng kiếm thêm đồng ra đồng vào bằng việc cầm còi điều khiển các trận
đá bóng phong trào. Đôi ba người có được tấm bằng HLV hạng B hay C do
AFC cấp như cựu cầu thủ Hồ Văn Tam (CSG), nhưng vì không tìm được bến đỗ
ở các CLB chuyên nghiệp nên đành phải chọn cách làm HLV cho các đội
bóng phong trào, trường học để mưu sinh.
Cũng có
một số cầu thủ chọn kế sinh nhai bằng việc mở quán ăn như cựu tuyển thủ
quốc gia Bùi Hữu Lợi (CAHN). Gần một năm sau khi khai trương quán ăn
gia đình trên đường Nguyễn Trọng Tuyển (Q.Phú Nhuận, TP.HCM), Hữu Lợi
nói vui: “Nhờ trời thương, quán được anh em thể thao và giới văn nghệ sĩ
chiếu cố đông đảo hằng đêm nên cũng có được đồng ra đồng vào không chỉ
nuôi sống vợ con mà còn tạo công an việc làm cho hơn 20 nhân viên khác.
Nhưng đó cũng là một “canh bạc” liều lĩnh mà đến giờ nghĩ lại, tôi vẫn
không hết hồi hộp, âu lo...”.
Lợi kể:
“Mấy hôm đầu, cứ mở mắt ra là tôi đau đáu với câu hỏi làm sao lời được
ít nhất là 5-7 triệu đồng mỗi ngày để trang trải tiền thuê nhà, điện,
nước, nhân viên. Muốn hút khách rồi giữ chân khách chỉ còn cách phải có
món ngon đặc sản. Thế là tôi chơi liều bằng cách đặt hàng các món ngon
từ Hạ Long chuyển vào như sá sùng, cá bớp, sò ngán... với giá cả phải
chăng. Để hạ giá thành, từ 2g-3g sáng phải đến chợ đầu mối ở Hóc Môn để
tìm mua thực phẩm tươi ngon, có chất lượng, bảo đảm vệ sinh”.
Để có
thể được tạm gọi thành công như hiện nay, Bùi Hữu Lợi cũng nếm biết bao
cay đắng hơn chục năm qua. Năm 1997 khi cùng tuyển VN tập trung tại Hà
Nội chuẩn bị Tiger Cup 1998, anh bị đứt dây chằng chéo sau đầu gối đúng
thời điểm phong độ đang lên. Ngày ấy, đơn vị chủ quản là CAHN không có
kinh phí cho Lợi chữa trị nên tuyển thủ quốc gia này đành treo giày ở
tuổi 28.
Lê bước
chân nặng nhọc, Lợi đến làm việc ở một cây xăng tại TP.HCM. Làm được
vài năm thì bị dị ứng do không chịu được mùi xăng dầu, Lợi xin thôi việc
về nhà cùng vợ mở cơ sở may gia công quần áo trẻ em. Thu nhập cũng tạm
ổn, nhưng không lâu sau đó kinh tế xuống dốc, ngành may mặc bị ảnh hưởng
nghiêm trọng. Túng thế, Lợi chạy vạy ngược xuôi vay của cha mẹ, bạn bè
gần tỉ đồng để mở quán. Sinh sau đẻ muộn nhưng quán ăn gia đình của Bùi
Hữu Lợi không bi đát như trường hợp của một số đồng nghiệp khác.
(Theo: Sĩ Huyên/ TTO)
Muôn nẻo mưu sinh ngày cận Tết
Thứ hai, 16/02/2015 18:12
Những ngày giáp Tết, hầu như ai cũng đều bận rộn hơn. Với những
người làm nghề sửa quần áo, đánh bóng lư đồng, viết thư pháp… thì đây
là thời điểm vất vả nhất. Họ “chạy đua” với thời gian để kiếm thêm ít
tiền, mong muốn có một cái Tết đủ đầy, tươm tất hơn.
Anh Trần Văn Thiện chăm chú đánh bóng bộ lư đồng.
Những ngày này, dạo quanh các tuyến đường chính của thành phố Vị Thanh,
chúng tôi cảm nhận được không khí Tết đang len lỏi từng ngôi nhà, ngõ
phố. Trên các tuyến đường, chúng ta dễ dàng bắt gặp những chuyến xe ba
gác vận chuyển chậu hoa cúc, vạn thọ rực vàng, cây mai cảnh đang hé nụ
để “mang mùa xuân” đến cho mọi nhà.
Ở một góc đường 3/2, thuộc phường V, anh Trần Văn Thiện đang chăm chút
đánh bóng bộ lư đồng bên chiếc mô tơ điện chạy vù vù. Anh Thiện tâm sự:
“Sớm hơn mọi năm, năm nay, mới 19 tháng Chạp, tui đã bắt đầu nhận đánh
bóng lư đồng ở góc đường này. Thường công việc chính của tui là làm thợ
hồ, còn vợ thì buôn bán, tiền kiếm được vừa đủ trang trải chi phí sinh
hoạt. Nhờ có nghề “tay trái” này mà năm nào tui cũng có thêm thu nhập để
lo cái Tết cho gia đình. Đây là cái Tết thứ ba tui làm nghề này”.
Cũng theo anh Thiện, mỗi ngày anh đánh được khoảng 2-3 bộ lư đồng,
kiếm được khoảng 200-300 ngàn đồng. “Với số tiền như thế đã gấp 2-3 lần
tui kiếm được thường ngày với nghề thợ hồ. Tuy có vất vả đôi chút, nhưng
cũng phải cố gắng làm để có tiền mua quần áo mới cho mấy đứa nhỏ”, anh
Thiện bộc bạch.
Những ngày giáp Tết cũng là “mùa làm ăn” của những người thợ sửa quần
áo. Theo quan sát của chúng tôi, tại khu vực chợ Vị Thanh, ở phường III,
thành phố Vị Thanh, có gần 10 điểm sửa quần áo. Vào thời điểm cận Tết,
người dân tranh thủ mua quần áo mới, “tân trang” quần áo cũ, nên “hàng
hóa” nhiều hơn. Hôm gặp chúng tôi, mới đầu buổi sáng mà gian hàng của
chị Lê Thị Mỹ Linh đã đầy ắp quần áo chờ sửa chữa. Chị Linh tâm sự: “Mấy
năm gần đây, công việc làm ăn của chúng tôi ngày một khó khăn, vì ngày
càng có thêm nhiều người vào nghề. Tranh thủ thời điểm giáp Tết, hàng
nhiều, chúng tôi cố gắng đi sớm, về muộn, có khi đem về nhà làm để kiếm
thêm chút đỉnh tiền lo cho các cháu ăn học và có cái Tết tươm tất hơn”.
Ông Vương Trường Thành viết thư pháp tại một góc đường Trần Hưng Đạo.
Càng cận Tết, ông Vương Trường Thành (67 tuổi) viết thư pháp tại một
góc đường Trần Hưng Đạo, phường I, cũng trở nên hối hả hơn. Viết từ sáng
sớm đến trưa, đôi bàn tay của ông đã mỏi nhừ. Đang nghỉ ngơi hút điếu
thuốc, ông Thành nói với chúng tôi: “Tôi đã lớn tuổi rồi nên đâu làm gì
ra tiền. Hàng ngày, ít có ai mướn viết thư pháp lắm. Những ngày giáp
Tết, tôi tranh thủ ra đây để viết, một ngày cũng kiếm trên 100 ngàn
đồng. Tuy có vất vả nhưng tôi cảm thấy vui, khi cầm được đồng tiền trong
tay là mệt mỏi tự nhiên tan biến hết”.
Đó là ba trong số rất nhiều trường hợp mưu sinh những ngày giáp Tết
trên địa bàn thành phố Vị Thanh. Trên gương mặt của họ lấm tấm những
giọt mồ hôi, nhưng ẩn sau đó là một nét đẹp rất riêng, niềm vui rất
riêng và luôn có một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng hơn.
Càng gần Tết, đường phố lại càng tấp nập hơn, bởi những dòng người đi
sắm Tết. Trong dòng người bận rộn, hối hả ấy, không khó để nhận ra vẻ
lam lũ, nhọc nhằn của những anh đánh bóng lư đồng, chị sửa quần áo… Họ
đang tranh thủ từng ngày, từng giờ để kiếm thêm thu nhập mà trang trải
cho ngày Tết của gia đình.
Theo NHẬT TÂN (Báo Hậu Giang)
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn
TT - Ở Hàn Quốc, người ta thường
nói đùa rằng thành phố Ansan là nơi mà người Hàn trở thành... người
nước ngoài. Bởi đây là một thành phố có nhiều khu công nghiệp lớn, thu
hút hàng chục ngàn lao động với nhiều quốc tịch khác nhau, trong đó
người Việt được xếp hàng thứ hai về số lượng.
Vào thập niên 1990 người Việt mới đến xứ sở kim chi
qua đường hợp tác lao động. Chỉ sau hai thập niên, ở Hàn Quốc đã có hơn
120.000 người Việt gồm cả cô dâu và lao động. Trong đó, diện lao động
hợp pháp khoảng 55.000 người... Theo chân những nẻo đường mưu sinh của
người Việt tại Hàn, phóng viên Tuổi Trẻ ghi lại những câu chuyện của cả
nụ cười và nước mắt...
Phóng to |
Mỗi đêm Thanh phải đứng bốn giờ giữa trời gió tuyết để làm thêm - Ảnh: Thi Ngôn |
Vào một ngày cuối tuần tuyết rơi dày, trong dòng người
hối hả mua sắm tại khu chợ dành cho người nước ngoài ở trung tâm, chúng
tôi đặc biệt chú ý đến một thanh niên nhỏ con trùm khăn kín mít với lời
rao lập cập vì gió tuyết: “Ai mua quýt không? Quýt ngon giảm giá
đây...”. Mấy rổ quýt bày ra bên vỉa hè đã bị tuyết phủ trắng. Lâu lâu
tiếng rao bị ngắt quãng bởi tiếng hít hà để sưởi ấm đôi bàn tay của
người bán dạo...
Tiếng rao ở chợ đêm
Người bán dạo ấy chính là một lao động VN làm thêm sau
giờ làm chính. Anh tên Nguyễn Văn Thanh, sinh năm 1988, quê ở Giồng
Trôm, Bến Tre. Thanh vừa qua Hàn Quốc được bốn tháng, chưa kịp làm quen
với cuộc sống mới thì đã phải đối diện với cái rét thấu xương của mùa
đông xứ Hàn. Thanh tâm sự: “Khi đi thì tôi chọn ngành công nghiệp, nhưng
qua đây được chuyển qua làm nông nghiệp. Do làm nông nghiệp lương thấp
nên tôi phải tranh thủ đi làm thêm vào mỗi đêm. Ăn uống sinh hoạt thì
chủ chỉ lo cho mình gạo thôi, còn thức ăn phải tự mua. Lương nông nghiệp
của tụi tôi chỉ được hơn 700 USD mỗi tháng, chỉ đủ gửi về quê trả nợ.
Bởi trước khi đi gia đình tôi phải vay hơn 70 triệu đồng”.
Lớn lên ở miệt sông nước, quanh năm chân lấm tay bùn,
tưởng rằng chuyến xuất ngoại sẽ giúp Thanh thoát khỏi cảnh làm nông cơ
cực... Ai ngờ một lần nữa cái nghiệp ruộng vườn một nắng hai sương vẫn
bám lấy đời anh như một định mệnh. Dẫu nghề nông không phải là nguyện
ước trong chuyến xuất ngoại, nhưng khi đã bỏ ra một khoản tiền lớn để
được đi, Thanh phải tập quen với những điều không mong đợi vì sau lưng
anh là cả một đống nợ nần, là cả niềm hi vọng từ chốn quê nhà... Banwon,
nơi trại rau Thanh làm việc, chỉ cách thành phố Ansan sầm uất vài ga
tàu điện nhưng đó là hai thế giới khác biệt. Banwon giống với Bến Tre
quê anh về sự bình yên, tĩnh lặng của một làng quê. Chỉ có điều quê anh
mướt bóng dừa, còn ở đây cánh đồng phủ đầy tuyết khi mùa đông kéo về...
Mặc cho cái rét vào đông ở xứ Hàn xuống đến âm 15 độ,
mặc cho bàn tay bị bỏng tuyết lên cơn đau nhức, Thanh vẫn gắng gượng đi
làm thêm vào mỗi đêm. Thanh kể: “Ở nông trại trồng xà lách, mỗi ngày tụi
tôi phải làm 10 tiếng nhưng không được tính thêm tiền làm ngoài giờ. Dù
mùa đông hay mùa hè mỗi ngày đều bắt đầu công việc từ 7g-18g. Sau đó
tôi đi làm thêm bằng nghề bán hàng ngoài trời cho một ông chủ người
Việt. Mỗi đêm đứng giữa gió tuyết hơn bốn giờ tôi được trả khoảng 10
USD, tức khoảng 200.000 đồng. Nếu sống chắt bóp thì tiền làm thêm này
cũng đủ chi phí ăn uống qua ngày. Tôi chỉ mong trả xong nợ rồi dành dụm
gửi về quê cất cho cha mẹ căn nhà để báo hiếu...”.
Tính ra mỗi ngày chàng thanh niên này phải trân mình
giữa gió tuyết gần 14 giờ. Cường độ lao động cao, sự khắc nghiệt của
thời tiết là điều mà nhiều lao động VN không thể hình dung được trước
khi lên đường xa xứ mưu sinh. Không ít người vì nản chí đã phải bỏ về
nước khi chưa hết hợp đồng.
Phần lớn lao động Việt ở Hàn Quốc chỉ biết mỗi con
đường từ nhà đến chỗ làm trong suốt thời gian lao động. Với Thanh cũng
vậy, anh thông thuộc từng bến ga trên chặng đường mưu sinh. Còn các khu
vui chơi, nhà hàng, cửa hiệu... là những khái niệm xa xỉ, là thứ không
thuộc về thế giới của những người lao động như Thanh!
Quê nhà trong đêm
Phải gần 11 giờ khuya, khi khu chợ đêm vắng hẳn người
thì Thanh mới được nghỉ ngơi. Trên chuyến tàu điện ngầm cuối ngày chỉ
một mình Thanh lạc lõng, cô đơn sau một ngày mưu sinh. Không một người
sẻ chia, không một người trò chuyện, nỗi mệt nhọc sau một ngày làm việc
như càng đè nặng thêm trên đôi vai người xa xứ... Anh tâm sự: “Nhiều lần
tôi đã thầm cảm ơn sự bận bịu, bởi nhờ nó mà tôi không còn thời gian để
nghĩ ngợi, không còn thời gian để buồn, không còn thời gian để nhớ! Tôi
chỉ có mỗi một con đường, đó là tận dụng hết thời gian trong hợp đồng
lao động để kiếm tiền lo cho gia đình, lo cho tương lai...”. Nói rồi
Thanh tranh thủ chợp mắt nghỉ ngơi trong lúc chờ tàu về bến...
Chuyến tàu đêm băng nhanh qua những khu phố sầm uất.
Ánh đèn màu của phố xá chiếu qua cửa kính làm hằn rõ nét mặt phờ phạc
của Thanh. Những khu phố phồn hoa ngoài kia Thanh vẫn nhìn thấy hằng đêm
trên chặng đường mưu sinh, nhưng anh chưa một lần đặt chân đến đó. Phải
mất 20 phút đi tàu điện ngầm, trải qua một chặng đường dài đi bộ, thêm
khoảng 15 phút đạp xe nữa Thanh mới về tới nhà. Tài sản quý giá nhất của
Thanh ở xứ người là chiếc xe đạp cũ kỹ được vứt bên vệ đường để làm
phương tiện đi về trong những đêm làm thêm. Nơi Thanh ở gọi là nhà nhưng
thực chất chỉ là những container chật chội dựng lên giữa đồng. Càng về
khuya trời càng giá buốt, nhiệt độ ngoài trời âm đến 20 độ, nhà không lò
sưởi, cả căn phòng như cái tủ đông khổng lồ...
Một ngày quần quật ở đồng, thêm bốn giờ phơi mình giữa
tuyết làm thêm, lúc Thanh về đến nhà cũng đã gần 12 giờ đêm. Rét!
Đói...! Thanh lao ngay vào bếp kiếm cái ăn. Nhưng tủ lạnh trống rỗng,
thức ăn cũ đông đá, nước ở vòi đóng băng. Thanh đành phải chấp nhận lấy
chút nước cặn còn sót lại trong nhà để nấu mì gói. Không đợi đến khi bát
mì chín, Thanh lùa vội...
Vừa thỏa cơn đói thì nỗi đau nhức từ đôi bàn tay bỏng
tuyết lại lên cơn hành hạ. Vừa bôi thuốc lên vết thương sưng tấy ở tay,
Thanh vừa nói: “Nghề nông tụi tôi mùa đông phải thường xuyên tiếp xúc
với tuyết nên dễ bị bỏng lắm. Nhiều đêm đau nhức không ngủ được...”.
Lúc ấy họ sẽ nhớ nhà. Nhưng họ biết biến nỗi nhớ nhung,
những ký ức nghèo khổ nơi quê nhà thành sức mạnh, thành hơi ấm để vượt
qua những đêm đông xa nhà... Anh tâm sự: “Qua đây vất vả, cô đơn thật,
nhưng không vì thế mà cứ mãi quanh quẩn chốn quê nhà. Phải đưa sức trẻ
ra để làm, để học hỏi, để thử sức với người ta”.
Đối với Thanh, hai tiếng quê hương thật đơn giản. Đó là
mẹ, đó là cha, là xứ sông nước với những vườn dừa mà nơi này không có.
Nó chính là điểm tựa cho Thanh và những lao động Việt trên đất Hàn vượt
qua gian khó, đi qua những mùa gió tuyết nơi xứ người...
_______________________
Với đa số lao động Việt, đặt chân đến Hàn Quốc mưu
sinh là một cơ may để đổi đời. Nhưng trong hành trình bươn chải nơi xứ
người, không phải ai cũng toại nguyện giấc mơ thoát nghèo.
Kỳ tới: Nỗi đau đời thợ
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn - Kỳ 2: Nỗi đau đời thợ
TT - Với đa số lao động Việt,
được đặt chân đến Hàn Quốc mưu sinh là một cơ may để đổi đời. Nhưng
trong hành trình bươn chải nơi xứ người, không phải ai cũng toại nguyện
về giấc mơ thoát nghèo. Có người đã bỏ mạng nơi xứ lạ, có người phải trở
về quê nhà với tấm thân không lành lặn trên chiếc xe lăn.
Phóng to |
Đặng Hùng Phương điều trị tại Bệnh viện Keumsol (Busan) đã ba năm nay - Ảnh: Hữu Hạnh |
Kỳ 1: Nơi miền gió tuyết
Chúng tôi đã tìm đến Bệnh viện Keumsol ở thành phố
Busan để được tận mắt chứng kiến bi kịch của một lao động Việt gặp rủi
ro nơi xứ người.
Chuyện ở Keumsol
Tiếp chúng tôi trên giường bệnh là chàng thanh niên 26
tuổi Đặng Hùng Phương với ánh mắt vô hồn khó tả. Quê Phương ở thành phố
Bắc Ninh, anh qua Hàn hồi tháng 2-2008, làm việc cho một hãng đóng tàu
tại Busan. Đúng sáu tháng sau khi đặt chân đến đất Hàn, tai nạn ập đến.
Đó là một ngày đen tối mà dường như Phương đã cố quên từ lâu. Gặng hỏi
mãi anh mới chịu kể lại một cách rời rạc, run rẩy: “Lúc đó tôi đang làm
việc trên boong tàu thì bất ngờ bị cần cẩu đập phải rồi ngã quỵ ngay tại
chỗ. Sau khi đi cấp cứu, chụp hình mới biết mình bị gãy đốt xương sống
thứ 12. Tương lai như sụp đổ...!”.
Sau vụ tai nạn đó Phương bị liệt nửa người. Những ước
mơ, hoài bão của tuổi trẻ vỡ vụn. Tương lai của Phương chỉ còn lại là
tấm thân tàn phế trên chiếc xe lăn nơi xứ người... Anh tâm sự: “Hai chân
của tôi bây giờ mất hết cảm giác, không thể hoạt động được nữa. Hết hi
vọng rồi, xem như buông xuôi theo số phận! Nhiều lúc buồn chán tôi đã
nghĩ đến tự tử để chạy trốn... Cũng may là có anh em đồng hương, những
người Hàn tốt bụng động viên, an ủi nên cũng nguôi ngoai được phần nào.
Điều tôi sợ nhất là phải trở về quê nhà với một hình hài tàn phế. Liệu
bố mẹ có chấp nhận mình không? Khi đi thì mong sẽ kiếm được tiền báo
hiếu bố mẹ, ai ngờ bây giờ lại trở thành gánh nặng cho gia đình. Rồi
tương lai sẽ đi về đâu...”.
Dù được bảo hiểm lo toàn bộ chi phí chữa trị, dù vẫn
được công ty trả 70% lương hằng tháng, nhưng có lẽ những giá trị vật
chất đó sẽ chẳng bao giờ bù đắp được những mất mát của đời anh. Ba năm
tàn phế, ba năm đơn độc với nỗi đau thể xác và tinh thần nơi xứ người,
Phương càng thấm thía hơn cái giá của sự đổi đời.
Không mẹ cha, không người thân thích, may cho Phương là
có được một người phụ nữ Hàn tốt bụng chăm lo cho anh trong suốt thời
gian qua. Phương nhờ chúng tôi ghi hình của Phương hiện tại ở bệnh viện
để mang về cho bố mẹ như một bước thăm dò. Nhà Phương nằm cách trung
tâm thành phố Bắc Ninh chưa đầy 5km. Căn nhà lọt thỏm trong khu tập
thể của Công ty Xây dựng số 4 thuộc phường Vũ Linh.
Đây là lần đầu tiên bố mẹ Phương nhìn thấy hình hài con
mình sau vụ tai nạn định mệnh. Vẫn khuôn mặt đó, nụ cười đó của
cậu con trai út nhưng lời hứa về thăm gia đình của Đặng Hùng
Phương đã ba năm rồi lỗi hẹn. Những giọt nước mắt lăn dài trên
khuôn mặt gầy guộc của người mẹ vì những đêm mất ngủ, vì những
ngày dài chờ ngóng tin con. Người bố cố gắng gượng để kìm nén sự đau
đớn, nhưng rồi ông cũng không cầm được nước mắt trước lời nhắn của đứa
con trong đoạn clip: “Nếu một ngày nào đó con trở về, mong bố mẹ hãy
chấp nhận con! Con xin lỗi bố mẹ vì đã không báo hiếu được ơn sinh
thành...”.
Có một chuyện mà bố mẹ Phương vẫn giấu anh. Đó
là tai nạn giao thông của bà Nguyễn Thị Xuân - mẹ Phương - xảy ra chỉ
vài ngày sau khi nghe tin con trai bị nạn nơi xứ người. Cú ngã do
bị tông xe và cú sốc về tinh thần đã khiến bà như quỵ ngã. Dù thế,
suốt bao năm qua bà vẫn lặn lội đi hết chùa này đến chùa khác để khẩn
cầu cho đứa con trai út nơi xứ Hàn sớm tai qua nạn khỏi.
Không biết những lời khẩn cầu của người mẹ đã
ngoài 60 tuổi này có được linh ứng, chỉ biết rằng nỗi thấp thỏm
về cậu con trai ở xứ người luôn giày vò bà mãi không nguôi. Lễ
chùa, với bà không chỉ là gửi đi những lời cầu may, cầu an cho
con trai và gia đình, đó còn là nơi duy nhất giúp bà cảm thấy
lòng mình được thanh tịnh trước những sóng gió của gia đình.
Rủi ro làm thêm
Mục sư Nguyễn Thông - phó giám đốc Trung tâm phúc lợi
xã hội thuộc Trung tâm Công giáo ở thành phố Busan, người đã giúp đỡ rất
nhiều lao động VN khi gặp rủi ro - chia sẻ: “Người Hàn họ làm theo
nguyên tắc, khi bị tai nạn thì họ đưa đến bệnh viện, còn các công đoạn
còn lại họ phó mặc cho bên bảo hiểm lo. Họ không có thói quen thăm hỏi
hay động viên tinh thần công nhân khi nằm điều trị, vì thế nhiều công
nhân Việt cảm thấy sốc trước cách hành xử của giới chủ.
Thường mới nhìn vào thì ai cũng nói những ông chủ Hàn
rất tốt, rất nhân đạo. Nhưng khi bước vào phân xưởng rồi thì để tìm một
ông chủ như vậy không đơn giản. Thường 10 người thì chỉ có được 4-5 chủ
xưởng tốt. Họ không quan tâm đến cá nhân và điều kiện sinh sống của công
nhân. Có nhiều người họ đối xử rất tàn nhẫn. Tôi từng can thiệp một
trường hợp công nhân Việt bị chủ Hàn dọa giết bằng cách nhốt xuống hầm
rồi lấy cát lấp từ từ. Những trường hợp như thế thường rơi vào những
công nhân đi làm thêm, không có hợp đồng lao động chặt chẽ”.
Dù nguyên nhân gì đi nữa, khi gặp rủi ro thì thiệt thòi
luôn nằm về phía những người lao động. Nếu tai nạn xảy ra trong giờ làm
việc chính thức thì còn được bảo hiểm bồi thường, có tiền để chữa trị
thương tật. Bi kịch nhất là những người gặp phải rủi ro trong giờ đi làm
thêm, hầu như họ chẳng có được quyền lợi gì cả khi rủi ro xảy ra...
Biết thế nhưng họ vẫn phải tranh thủ đi làm thêm vào giờ nghỉ để mong
sớm trả hết nợ nần, sớm có tiền lo cho tương lai...
Tại một bệnh viện ở trung tâm thành phố Busan, chúng
tôi gặp anh Nguyễn Hoài Thương, một công nhân bị giập tay trong giờ làm
thêm đang điều trị tại đây. Quê Thương ở Cà Mau, anh đến Hàn Quốc từ năm
2009.
Anh cho biết: “Ngoài giờ làm chính theo hợp đồng, tôi
còn đi làm thêm tại một xưởng máy dập. Chẳng may hệ thống tự động bị lỗi
nên khi đút tay vào lấy sản phẩm ra thì bị máy dập đè xuống, tay tôi bị
giập mất ba ngón.
Để có tiền trả nợ ở quê, nếu công ty chính không có
việc để tăng ca thì anh em lao động bên này đều đi làm thêm ở ngoài để
có thêm thu nhập. Người thì chỉ làm thêm thứ bảy, chủ nhật, có người làm
thêm ca đêm sau khi đã xong việc ở công ty chính. Tai nạn lao động
thường xảy ra với những người làm thêm ca đêm, do mệt mỏi, vì máy móc
không được bảo trì đúng hạn. Nhiều người đi làm thêm không có hợp đồng
lao động chặt chẽ còn bị giới chủ quỵt luôn cả tiền lương.
Phóng to |
Nguyễn Hòai Thương, một lao động Việt Nam bị tai nạn trong lúc đi làm thêm đang điều trị tại bệnh viện Busan - Ảnh: Thế Anh |
Với
những người làm thêm thì khi xảy ra tai nạn không được hưởng chế độ bảo
hiểm. Vừa rồi có một trường hợp là anh Trần Văn Hùng, người Nghệ An, đi
làm thêm rồi bị té từ trên lầu xuống. Anh bị gãy cột sống, phải mổ
nhiều lần nhưng công ty nơi anh làm thêm cũng lơ đi. Họ chỉ trả cho anh
một khoản tiền hơn 10.000 đôla gọi là an ủi. Anh em trong cộng đồng
người Việt phải kêu gọi quyên góp để giúp anh về nước...”.
_____________________
Một mảng nghề quan trọng cho thị trường lao động
Hàn Quốc là làm việc trên biển. Điều gì chờ đợi người lao động Việt trên
những con tàu lênh đênh giữa biển cả xứ người?
Kỳ tới: Rủi ro nghề biển
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn - Kỳ 3: Rủi ro nghề biển
TT - Thành phố cảng Busan là nơi
tập trung chủ yếu số lượng lao động Việt làm nghề biển trên đất Hàn.
Nói là tập trung nhưng thật ra để gặp được những ngư dân Việt ở đây thì
phải đợi đến ngày rằm hằng tháng.
Đó là những ngày mà tàu thuyền đánh bắt xa bờ cập cảng
để bán cá và chuẩn bị cho chuyến xa khơi mới tại chợ cá nổi tiếng
Jagalchi. Với khách thập phương, Jagalchi là một địa điểm du lịch hấp
dẫn, còn với những ngư dân Việt, đó là bến trọ của đời viễn xứ sau những
ngày dài lênh đênh giữa đại dương...
Phóng to |
Vì nhiều lý do, nhiều thuyền viên phải xin đổi tàu liên tục. Trong lúc chờ đợi việc mới họ phải làm nghề móc câu ở các lán tạm tại bến cá... - Ảnh: Thế Anh |
Kỳ 1: Nơi miền gió tuyết Kỳ 2: Nỗi đau đời thợ
“Bến trọ” Jagalchi
Trời mới tờ mờ sáng, gió biển rít từng cơn làm cho cái
rét giữa đông như cắt da cắt thịt. Những thương lái tụ về vây quanh cảng
cá để đấu giá, người buôn kẻ bán sầm uất. Trong không khí náo nhiệt của
một ngày làm việc ở cảng cá lớn có tiếng này là những ngư dân Việt lầm
lũi bốc vác các mẻ cá lên bờ. Mắt họ trũng sâu vì những đêm mất ngủ, nét
mặt phờ phạc sau những chuyến đi dài...
Phần lớn lao động Việt ở đây đều làm trên những con tàu
đánh cá xa bờ. Có người một hai tuần, có người hai ba tháng mới được
lên bờ một lần. Nói là đi lao động nước ngoài nhưng thật ra họ chẳng
biết gì nhiều ở Hàn Quốc. Cuộc sống của họ chỉ quanh quẩn trên con tàu
với biển cả đầy sóng gió trong suốt chặng đường mưu sinh. Ngôn ngữ họ
học được cũng chỉ là vài tiếng bồi liên quan đến kỹ thuật để trao đổi
với người Hàn trên tàu mà thôi.
Vừa bốc dỡ xong hơn 5 tấn cá lên bờ, anh Lê Tùng Lâm,
quê ở Lý Hòa, tỉnh Quảng Bình, tâm sự: “Nghề biển ở đây vất vả lắm. Mỗi
ngày tụi tôi phải làm việc 14-16 giờ trên biển. Một nghịch lý là đi biển
vất vả nhưng lương lại thấp nhất trong các ngành nghề nhận lao động
nước ngoài tại Hàn Quốc. Lương trung bình của những thuyền viên ở đây
chỉ độ 800 usd mỗi tháng. Nhưng cũng đành phải chấp nhận vì phần lớn anh
em là dân miền biển, chẳng được học hành đến nơi đến chốn, chẳng theo
nghề biển thì biết làm gì bây giờ!
Ở đây, nhiều chủ tàu sợ các thủy thủ trốn nên khi cập
bến họ không cho thủy thủ lên bờ. Các giấy tờ tùy thân chủ giữ hết, anh
em chỉ biết quanh quẩn trên tàu rồi nhìn vô bờ cho đỡ nhớ nhà trong lúc
chờ đợi chuyến xa khơi tiếp theo”.
Cuộc sống ngư dân trên quê nhà đã khổ, cuộc sống của
những người sống bằng nghề biển nơi xứ người lại khổ hơn. Những ngày
đông gió rét, dông tố bất thường luôn rình rập vây bủa lấy đời họ. Vài
tháng mới được gọi điện hỏi thăm vợ con, mới hưởng được chút an lành của
đất liền khiến sự cô đơn của họ nơi xứ người càng tăng thêm bội phần.
Sau khoảng thời gian ngắn ngủi để nghỉ ngơi, họ phải
lao vào công việc để chuẩn bị cho chuyến ra khơi nữa. Trên các con tàu
cỡ nhỏ tại cảng cá Jagalchi, chúng tôi dễ dàng bắt gặp hình ảnh những
ngư dân Việt trong chiếc áo rét dày cộm đang cặm cụi cắt mồi chuẩn bị
cho chuyến ra khơi.
Vừa luôn tay cắt những con cá nhỏ đã đông đá giữa trời
đông, anh Bùi Đắc Lý, quê ở Kỳ Xuân, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, tâm sự: “Thủy thủ
là nghề phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trên đất Hàn. Trên biển gặp bất
công chẳng biết kêu với ai. Khi muốn chuyển chỗ làm cũng hết sức khó
khăn. Vì hầu như anh em chẳng biết tiếng, luật lệ thì mù tịt, quan hệ
lại không có... Muốn chuyển chỗ làm tốt hơn thì phải thông qua những
người Việt làm dịch vụ tại đây với chi phí bằng cả tháng lương. Trong
lúc theo quy định thì chẳng mất đồng nào cả”.
Dù vất vả nhưng họ vẫn cảm thấy vui. Vui vì mỗi tháng
có thể gửi về quê vài trăm đô cho con trẻ, cho mẹ già nơi quê nhà. Nỗi
lo sợ nhất của những người lao động Việt trên đất Hàn là thất nghiệp.
Với những ngư dân thì nỗi thất nghiệp lại càng đáng sợ hơn... Nhiều
người vì không chịu được sự khắc nghiệt của giới chủ đã phải xin đổi tàu
hay bỏ trốn.
Trong những ngày tháng chờ đợi một người chủ mới, họ
phải sống lây lất quanh cảng cá Busan. Không có tiền thuê nhà trọ, họ
phải xin ngủ ở những lều tạm ven cảng trong những ngày đông giá rét.
Phải nhờ những gói mì, miếng cơm của những người đồng hương cùng cảnh
ngộ. Phải làm tạm cái nghề móc câu với đồng lương rẻ mạt để chờ đợi một
cơ hội mới ngoài biển xa...
Hiểm nguy đời thuyền viên
Dù thế, những người theo nghề biển ở Busan vẫn còn may
mắn hơn những người phải làm cho những tàu cá ở tận ngoài đảo. Ở nơi hẻo
lánh của đảo xa, sự khắc nghiệt, nỗi cô đơn và sự bất công là nỗi ám
ảnh thật sự của các thủy thủ Việt.
Anh Trần Văn Tuấn, quê ở Cửa Lò, tỉnh Nghệ An, cho
biết: “Tôi có mấy người bạn cùng quê làm việc ở đảo Jeju, họ nói ngoài
đó vất vả hơn thủy thủ ở Busan rất nhiều. Mỗi ngày họ phải làm việc hơn
18 tiếng, điều kiện sinh hoạt thì thiếu thốn, lại thường xuyên bị các
chủ tàu đối xử tệ. Vì ở xa đất liền nên họ chẳng biết kêu ai, đành phải
cắn răng chịu đựng cho hết hợp đồng. Nhiều người trở về bờ với nhiều
thương tích, thân thể gầy yếu cùng đủ loại bệnh tật trên người...”.
Anh Trần Văn Tuấn là một thủy thủ Việt chẳng may bị tai
nạn trên biển đang điều trị tại Bệnh viện Young Do ở trung tâm thành
phố Busan. Anh sinh năm 1978, qua Hàn Quốc cách nay ba năm. Để được qua
Hàn làm thuyền viên, anh Tuấn phải bỏ ra đến 8.500 đôla.
Với mức lương hơn 1.000 đôla mỗi tháng, trừ chi phí
sinh hoạt tính ra anh phải lao động hơn một năm mới trả hết nợ. Ngày anh
đi đứa con đầu lòng mới vừa tròn một tháng tuổi. Anh cất bước ra đi để
cầu mong một cuộc sống khá hơn nhưng điều đó cũng không dễ dàng...
Anh Tuấn kể lại: “Tôi và anh em trên tàu đang giăng
lưới thì đột nhiên dông tố nổi lên, dây neo bị đứt rồi đập thẳng vào
đầu. Tôi bị choáng rồi ngất ngay tại chỗ. Cũng may là không bị rơi xuống
biển. Biển ở đây vào đông lạnh lắm, rơi xuống chưa kịp chết đuối thì đã
chết vì lạnh mất rồi. Đã có không ít thuyền viên người Việt phải bỏ
mạng mà chưa tìm ra xác. Nghề biển có nhiều rủi ro lắm.
Chẳng may gặp phải chủ tệ thì bị đánh đập, chửi bới
thường xuyên. Trên tàu đánh cá của Hàn Quốc không chỉ có mỗi người Việt
mà còn có cả thuyền viên các nước khác, nên việc mâu thuẫn giữa lao động
khác quốc tịch cũng thường xuyên xảy ra. Có trường hợp vì ghét nhau mà
thuyền viên nước này đẩy thuyền viên nước khác xuống biển giữa đêm
khuya...”.
Dù hai mắt sưng đỏ và lưng bị bầm tím, nhưng anh Tuấn
vẫn cho rằng mình còn may mắn hơn nhiều thuyền viên khác, đó là vẫn còn
cơ hội để trở lại ngư trường. Những ngày đau ốm, không người thân chăm
sóc, anh chỉ biết sống nhờ vào những bữa cơm đạm bạc của bệnh viện. Đó
là chút kim chi, miếng cá khô mà lúc khỏe mạnh cũng đã chán ngấy. Dẫu
vậy, anh Tuấn chẳng dám báo tin cho vợ con ở quê nhà, bởi anh biết điều
đó chỉ làm họ thêm lo lắng mà thôi!
---------------------------------------------------
Xuất ngoại, nhiều người tưởng sẽ thoát được
cảnh làm nông cơ cực. Ai ngờ khi đặt chân tới Hàn Quốc, cái nghiệp một
nắng hai sương vẫn đeo bám lấy đời họ như một định mệnh.
Kỳ tới:Nghề nông ở đất Hàn
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn - Kỳ 4: Nghề nông ở đất Hàn
TT - Gyeonggi là tỉnh giáp ranh
với Seoul, nơi có 70% diện tích là đồi núi, đất canh tác chỉ chiếm
khoảng 18,5% nhưng lại là vùng cung ứng một khối lượng lớn sản phẩm nông
nghiệp cho người dân thủ đô Seoul.
Phóng to |
Chỉ
cần bước ra khỏi TP Pocheon, người ta có thể bắt gặp những dãy nhà kính
trồng rau dài tít tắp được phủ một màu trắng của tuyết, người Hàn gọi
đó là “hau sừ”.
Ngày “hau sừ”, đêm “container”
Phần lớn người trẻ ở Hàn ít làm trong lĩnh vực nông
nghiệp, nên nhân công chủ yếu ở đây là lao động nước ngoài, trong đó có
khá nhiều người Việt. Với những người Việt theo nghề nông ở Hàn, quanh
năm họ chỉ biết trồng trọt ở các “hau sừ”, tối về ngủ trong những căn
nhà bằng container dựng tạm hiu quạnh giữa đồng...
Trời đang là giữa đông, chúng tôi tìm đến nông trang
Kasan, một trong những nông trang lớn ở Pocheon, chuyên trồng cải, xà
lách và rau diếp... Tại đây có 11 lao động nước ngoài, trong đó có đến
sáu người Việt và một số người đến từ Campuchia, Trung Quốc...
Mới 6g sáng, Pocheon còn chìm trong âm u của gió tuyết,
từ dãy nhà container, đoàn người đã lục tục khăn áo chuẩn bị cho ngày
mới. Nơi họ làm việc cách chỗ ở đến 30km, phương tiện di chuyển là chiếc
xe cũ kỹ dùng để chở nông sản.
Đến “hau sừ” trời vẫn còn tối, tuyết rơi mịt trời,
nhiệt độ bên ngoài xuống đến -17 độ C. Trên mái và vách làm bằng nilông
của “hau sừ” phủ một lớp băng dày làm nhiệt độ bên trong càng thêm giá
rét. Từ cái miệng đỏ rực của chiếc lò sưởi, môt làn hơi khô nóng phà ra
kèm theo tiếng ù ù ầm tai. Máy chạy được một lúc phải tắt vì thán khí,
hơi lạnh từ ngoài lại ùa vào...
Các nam lao động đảm trách những công việc nặng nhọc
nhất của nghề nông là cày xới, bón phân, vận chuyển, tưới nước... Sau
một đêm giá rét, sáng ra một đường ống đã bị vỡ do nước đóng băng. Họ
phải dùng lửa để hơ nóng ống nước rồi mới thay được đoạn ống bị vỡ. Cùng
lúc, các nữ công nhân lao vào thu hoạch, phân loại, đóng gói rau củ.
Mặc cho gió rét, họ vẫn thoăn thoắt bó từng bó rau rồi lâu lâu đưa tay
lên miệng thổi cho đỡ cóng.
Vật lộn với việc sửa chữa, cày xới, thu hoạch..., bữa
trưa của họ diễn ra vội vã trên nền đất giá lạnh. Đồ ăn chỉ đơn giản là
cơm trắng, đĩa kim chi và một ít cá khô.
Thấy chúng tôi có vẻ khó nuốt, chị Nguyễn Thị Cúc, quê ở
Thái Bình, cười thông cảm: “Ngày đầu tôi mới qua cũng thế, không tài
nào nuốt nổi. Nhưng lâu rồi quen, không ăn thì lấy sức đâu mà chống chọi
với rét. Ở đây chủ lo ăn ngày hai bữa thì chỉ có vậy thôi, tối về anh
em mới cải thiện thêm”.
Nói là cải thiện nhưng thật ra họ cũng chỉ dám ra chợ mua ít nội tạng heo gà, loại thực phẩm rẻ ở Hàn, để dùng...
Đắng cay nghề chăn nuôi
Tưởng rằng nghề trồng trọt đã vất vả, ai ngờ vẫn chưa
thấm vào đâu so với những lao động Việt phải làm trong những trang trại
chăn nuôi, đặc biệt là với những người làm trong lĩnh vực nuôi trồng
thủy sản. Ở đó, cường độ làm việc, điều kiện sống mới thật sự là một thử
thách khó vượt qua đối với những người con xa xứ...
Phần lớn lao động Việt làm trong ngành nuôi trồng thủy
sản tập trung chủ yếu ở những tỉnh phía nam của Hàn Quốc như Busan,
Masan... Nhờ một người Hàn có uy tín giới thiệu, chúng tôi mới được phép
đến thăm một công ty nuôi trồng - chế biến thủy hải sản tại một thị
trấn nhỏ thuộc TP Masan, tỉnh Gyeongsang, cách Busan khoảng 65km về phía
tây.
Ở nơi này chỉ có hai lao động nước ngoài là người VN đang làm việc trong một công ty gia đình chuyên nuôi vẹm xanh trên biển.
Anh Lê Xuân Nam, quê Nam Định, qua Hàn lao động theo
ngành thủy sản đã hơn hai năm, tâm sự: “Hồi mới qua tôi làm việc cho
công ty chuyên nuôi hàu, ở đó chỉ có mình tôi là người VN, buồn lắm!
Công việc đã vất vả, lại chẳng có ai để bầu bạn nên tôi mới xin chuyển
chỗ làm. Dù về đây công việc cũng vất vả như trước nhưng bù lại có được
người đồng hương để trò chuyện, nương tựa mỗi khi ốm đau”.
Người đồng hương mà Nam nhắc tới đó là Ngô Đức Soái,
quê Hải Dương. Khi chúng tôi đến cũng là lúc Soái đang bị bệnh nằm ở
nhà. So với Nam, con đường sang Hàn của Soái gian nan và nhiều sóng gió
hơn.
Anh cho biết: “Cũng chọn ngành thủy sản nhưng không may
tôi bị rơi vào một công ty nhỏ chuyên nghề đi biển đánh cá. Thời gian
làm việc từ 2g sáng tới 7g tối ngày hôm sau. Sau ba tháng vừa làm vừa nỗ
lực đấu tranh, tôi mới được chuyển xưởng với điều kiện phải đền cho ông
chủ tàu hơn 1.300 USD”.
Tại đây, công việc thường ngày của Soái là làm việc
trên tàu, suốt ngày ngoài biển khơi thu hoạch vẹm xanh. Còn Nam làm
trong xưởng chế biến.
Do Soái bệnh nên Nam phải lên tàu làm thay cho bạn. Gọi
là tàu nhưng thực chất đó chỉ là chiếc sà lan được thiết kế để thu
hoạch vẹm xanh cách bờ chừng 4km. Trời tờ mờ sáng, sau khi ăn vội chén
cơm, Nam cùng với ba người Hàn nữa xuống tàu ra khơi.
Mùa đông ở đây nhiệt độ xuống đến -15 độ, càng xa bờ
gió càng thổi mạnh. Hơi nước từ hơi thở đóng thành tuyết, trắng cả chiếc
khăn quàng cổ!
Nam vừa khom mình để chống lại những cơn gió lạnh vừa
tâm sự: “Công việc trên tàu chủ yếu là dùng sức của đôi tay để thu hoạch
và đóng gói vẹm xanh. Mỗi ngày phải đóng gói, khuân vác ít nhất 600 bao
vẹm. Mỗi bao nặng khoảng 25kg. Ra biển luôn là phần việc khó khăn, nặng
nhọc nhất trong nghề thủy sản. Không chỉ với những lao động VN mà cả
với những lao động người Hàn, vốn đã quen với giá rét và sóng gió cũng
phải kiêng sợ”.
Mãi đến 4g chiều, chiếc sà lan nặng trĩu vẹm xanh mới
cập bến. Với những lao động người Hàn làm việc trên tàu, công việc coi
như đã xong. Họ có thể ra về nghỉ ngơi với gia đình, bạn bè... Còn với
Nam, công việc dường như chỉ mới bắt đầu. Nhiều công việc không tên khác
đang chờ anh trong phân xưởng chế biến.
Ở phân xưởng này, Nam và Soái luôn là người về sau cùng
sau mỗi ngày làm việc. Nam cười buồn: “Phận nhập cư thì phải chịu thiệt
thôi. Làm việc nhiều hơn, lương lại thấp hơn người bản xứ đó là chuyện
thường tình. Nhưng so với những anh em làm trong các trang trại chăn
nuôi bò, heo hay những người phải ngâm mình dưới nước biển lạnh giá để
lấy rong biển... thì họ còn khổ và vất vả hơn tụi tôi nhiều!”.
Chỉ tiêu tuyển dụng ngành nông nghiệp hiện khoảng 1.500
người/năm, nhưng chưa năm nào ngành này tuyển đủ hạn ngạch được phân
bổ. Lý do chính là thời gian làm việc quá dài, thường là 12 giờ nhưng
chỉ được hưởng lương cơ bản, không tính tiền ngoài giờ như ngành công
nghiệp hay xây dựng.
Lương nữ “nông dân” vào khoảng 800 USD/tháng, nam khoảng 1.200 USD/tháng.
Đa số lao động VN đến Hàn đều không muốn làm trong
ngành thủy sản, chăn nuôi. Trong số hồ sơ xin đi xuất khẩu lao động tồn
đọng mỗi năm trên 10.000 người, chỉ có vài trăm người đăng ký vào ngành
thủy sản, chiếm khoảng 2,7% hạn ngạch được phân bổ.
|
__________
Hiện Việt Nam có số lượng lao động làm việc tại Hàn
Quốc đứng đầu trong 15 nước có lao động đến đây với khoảng
55.000-60.000 người. Tuy nhiên, tỉ lệ lao động bất hợp pháp cũng dẫn đầu
các nước nói trên.
Kỳ tới: Những mảnh đời lưu lạc
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn - Kỳ 5: Những mảnh đời lưu lạc
TT - Theo con số chính thức thì
hiện Việt Nam có hơn 8.000 lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc, tuy nhiên
con số thực tế ước tính cao hơn nhiều. Phần lớn các lao động bất hợp
pháp là những người đã hết hạn lao động rồi trốn lại, một số ít vẫn còn
hợp đồng nhưng tự ý trốn khỏi công ty vì nhiều lý do. Người thì do lương
thấp, người do công việc không phù hợp, người thì bị chủ ngược đãi...
Phóng to |
Anh Kiên đứng lớp dạy tiếng Hàn miễn phí cho lao động Việt Nam - Ảnh: Hữu Hạnh |
Long đong phận bất hợp pháp
Chúng tôi từng chứng kiến cảnh lao động Việt chạy tán
loạn để trốn tránh sự truy đuổi của cảnh sát ở chợ Pocheon khi có một ai
đó la lên: “Cảnh sát, trốn!”. Nhóm lao động Việt quáng quàng chạy, tủa
ra các con đường nhỏ đi bộ về nhà trọ thay vì đi xe buýt như thường
ngày. Có thể nói, không đợt truy bắt nào mà cảnh sát không bắt được lao
động bất hợp pháp người Việt, khi thì ở những khu chợ tập trung đông dân
cư hoặc ngay tại những nhà xưởng các vùng quê hẻo lánh. Trong những lần
bị vây ráp, họ sẵn sàng liều mình bằng nhiều cách để thoát thân. Người
thì chui vào hầm nhà xí, người thì chui vào thùng hóa chất, người thì
ngủ ngoài trời giữa đêm đông... Thậm chí có người còn nhảy lầu thiệt
mạng.
Chị Nguyễn Thu Hiền, một lao động ở Pocheon, tâm sự:
“Sống đời bất hợp pháp khổ lắm, đi đâu cũng mắt trước mắt sau như là ăn
trộm. Đêm ngủ không yên giấc, cứ nghe rục rịch là ba chân bốn cẳng lao
ra đồng chạy như ma đuổi...”. Trong một đợt truy bắt gần đây ở thành phố
Pocheon, anh Nguyễn Quốc Toản, chồng chị, đã không thoát kịp, bị bắt
ngay tại xưởng. Anh qua Hàn từ năm 1999, chị qua Hàn năm 2003, cả hai
đều hết hợp đồng nhưng trốn ở lại sống đời bất hợp pháp cho đến nay.
Từ ngày anh Toản bị bắt, “tổ ấm” của họ là chiếc
container nằm trơ trọi cạnh một nhà xưởng trông càng vắng lạnh hơn. Dù
phải sống trong điều kiện không có toilet riêng, không có đường ống dẫn
nước vào nhà, nhưng bù lại chị không phải trả tiền thuê nhà. Để có tiền
nuôi con, hằng ngày chị nhận hàng về rồi khóa trái container lại để gia
công. Chị tâm sự: “Tôi với anh là người cùng quê ở Ứng Hòa, Hà Tây (cũ),
lại cùng cảnh ngộ nên “góp gạo thổi cơm chung”. Từ khi có bé Hương
Giang ra đời, tôi phải ở nhà, mọi chi tiêu sinh hoạt đều dựa hết vào
lương anh Toản. Bây giờ anh bị bắt, tui cũng không biết phải xoay xở sao
đây...?”.
Chồng bị giam đã mấy tháng nay để chờ ngày trục xuất
nhưng chị cũng chẳng dám đi thăm vì sợ bị bắt. Ngày chúng tôi đến cũng
là ngày chị đang gói ghém đồ đạc cho đứa con gái mới 2 tuổi để làm thủ
tục gửi về cùng cha trong chuyến bay trục xuất. Nhìn đứa con còn thơ dại
mà chị không nén được nỗi xúc động: “Biết xa con thì nhớ lắm nhưng cũng
đành phải gửi nó về quê theo cha thôi, chứ ở đây một mình tôi sống đã
khó rồi, huống gì đèo bồng thêm con nhỏ? Chồng đã về với hai bàn tay
trắng, tui phải liều ở lại vài năm nữa kiếm ít vốn liếng để sau này còn
lo cho tương lai”.
Lòng người ở lại
Anh Trần Văn Phòng, ở thành phố Incheon, kể ngày anh
chuẩn bị về Việt Nam khi hết hạn hợp đồng thì nhận được tin mẹ bị ung
thư giai đoạn cuối. “Chỉ có làm ở bên đây mới kiếm đủ tiền để chữa trị
cho má. Dù có thương cũng ráng để trong lòng, chỉ mong má sống tới ngày
tôi về...” - anh Phòng nghẹn ngào.
Thấm thoắt mà anh Phòng đã sống năm năm bất hợp pháp
nơi xứ người. Khi chúng tôi mang những thước phim của “thằng út Phòng”
về cho má anh ở Tây Ninh, người mẹ quê đã không kìm được nước mắt, khóc
òa: “Cứ 21 ngày là tui phải vô viện một lần. Mỗi lần như thế tiền khám,
tiền thuốc mất hơn 5 triệu đồng, không nhờ thằng út Phòng thì chắc tui
chết lâu rồi. Khi ba nó chết, thấy gia đình khổ quá nó mới xin đi để lo
cho tương lai. Ai dè tới tôi bệnh. Nghe con nói mà đứt ruột, không biết
mình có sống để chờ nó được không...?”.
Anh Võ Trọng Kiên là một lao động bất hợp pháp “kỳ cựu”
nhất. Anh qua Hàn theo diện tu nghiệp sinh từ năm 1997 nhưng được vài
tháng anh bỏ ra ngoài sống bất hợp pháp cho tới nay. Kinh qua nhiều
nghề, lang thang qua nhiều thành phố trên đất Hàn, cuối cùng anh ở lại
thành phố Pocheon và lấy nghề hàn để mưu sinh.
Anh chia sẻ: “Hồi mới qua chưa có kinh nghiệm, lại nghe
bạn bè rủ rê nên mới bỏ ra ngoài sống đời bất hợp pháp. Chứ nếu biết
được từ đầu thì chẳng bao giờ mình chọn cách này. Vì cuộc sống của những
lao động bất hợp pháp bên này nhiều thiệt thòi lắm. Đi làm thì dễ bị
chủ xưởng nợ hay quỵt lương, gặp tai nạn lao động thì chẳng được bảo
hiểm. Lương của lao động bất hợp pháp thường thấp hơn lao động hợp pháp,
lại hay bị giới chủ hoạnh họe. Nhiều lần mình cũng tính về nhưng do đi
lâu quá rồi, về cũng chẳng biết làm gì, khó hòa nhập cuộc sống ở quê nhà
nên cứ chần chừ mãi. Đã bước qua tuổi 40 rồi, ngại thay đổi lắm... Vì
bát cơm manh áo mới liều ở lại cả thôi, chứ ai nào có muốn sống một cuộc
đời lẩn trốn, chui rúc bao giờ...?”.
Điều đặc biệt tuy là một lao động bất hợp pháp nhưng
anh Kiên lại được giới báo chí địa phương ở Pocheon đặc biệt quan tâm
như một nhân vật tiêu biểu. Bởi anh là một trong những lao động Việt Nam
hiếm hoi trên đất Hàn tự soạn thảo và bỏ tiền in ấn cuốn từ điển thông
dụng cho những lao động Việt mới chập chững qua Hàn.
Suốt 5-6 năm trời, hằng đêm anh tình nguyện đứng lớp
dạy tiếng Hàn cho lao động và cô dâu Việt tại địa phương. Không biết từ
bao giờ anh đã trở thành “tổng đài” trợ giúp cho rất nhiều lao động Việt
đang gặp khó khăn. Khi thì phiên dịch, lúc đi xin việc làm, lúc lại đấu
tranh đòi tiền lương cho anh chị em lao động người Việt. Cũng vì sợi
dây tình cảm này mà anh Kiên chưa đành đoạn dứt áo về nước...
Tuy nhiên, không phải lao động bất hợp pháp nào cũng có
ý thức cộng đồng như thế. Một thực tế đau lòng là tỉ lệ phạm tội trong
giới lao động bất hợp pháp khá cao, gây nhiều điều tiếng không tốt cho
cộng đồng Việt trên đất Hàn.
Chị Trà Thị Nên, một người sống tại Hàn đã 20 năm nay ở
thành phố Ansan, tâm sự: “Nhìn chung, các lao động bất hợp pháp thường
không có công việc ổn định, vì thế sinh ra rượu chè, cờ bạc. Từ đó,
nhiều người đã vướng vào con đường phạm pháp... Đây là điều đáng lo ngại
vì làm xấu hình ảnh người Việt trong mắt người bản xứ. Có nhiều nguyên
nhân để trở thành lao động bất hợp pháp, nhưng một nguyên nhân rất quan
trọng là những quy định chưa thực tế từ cả hai phía. Giá như chính phủ
hai nước quy định, tạo điều kiện sớm hơn cho những ai từng làm việc tại
Hàn Quốc được phép gia hạn hợp đồng sau khi hết hạn thì sẽ giảm được
tình trạng bất hợp pháp như hiện nay...”.
Năm 2011 có khoảng 10.000 lao động Việt Nam hết hạn làm
việc tại Hàn Quốc phải về nước. Tuy nhiên, một số lao động Việt Nam đã
bỏ trốn và ở lại Hàn Quốc làm việc bất hợp pháp. Việc làm này gây tổn
hại cho công tác tuyển dụng và xuất khẩu lao động qua Hàn Quốc khi thị
trường đã bị tạm dừng, kế hoạch tuyển dụng trong năm 2011 không được
nước bạn thực thi. Hàng ngàn lao động Việt Nam sẽ mất cơ hội qua Hàn
Quốc làm việc...
|
____________________
Đi lao động nước ngoài mà phải ăn mì gói trừ bữa,
có lẽ điều này ít ai tin. Nhưng vợ chồng anh Xuân - chị Tuyết đã phải
trải qua những ngày khó khăn như vậy...
Kỳ tới: Lặn lội vì con
Muôn nẻo mưu sinh xứ Hàn - Kỳ cuối: Lặn lội vì con...
15 năm lưu lạc
Trực tiếp điều hành công việc ở đây là anh Lê Thế Xuân, chồng chị Vũ Thị Tuyết. Anh Xuân quê ở huyện Nông Cống, còn chị ở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Anh chị ở trong số những lao động Việt lâu năm ở thành phố Pocheon mà chúng tôi gặp được. Đã có thâm niên trên 15 năm lao động tại Hàn, nhưng trong suốt thời gian ấy họ chưa một lần về thăm quê...
Anh chị từng quen biết nhau ở VN, cùng nhau sang Hàn mưu sinh rồi cưới nhau vào năm 2001. Đến năm 2007 thì đứa con đầu lòng ra đời. Nếu để con ở lại thì không thể đi làm nên họ đành gửi con về VN nhờ người thân nuôi. Đó là quyết định quá khó khăn. Chị Tuyết nhớ lại: “Khi gửi cháu về thì nó mới gần 1 tuổi. Phải thuê người ẵm ra sân bay giá hơn 3.000 USD vì thân phận lao động bất hợp pháp, ra đó là bị trục xuất luôn. Tiễn con ra sân bay mà lòng tôi như ai xát muối, khóc cả mấy tháng liền...”.
Ba mẹ xin lỗi
Mãi đến hơn 10 giờ đêm chúng tôi mới gặp được anh Trần Văn Duyên và chị Nguyễn Thị Vân. Vợ chồng anh Duyên, chị Vân là một trong những lao động bất hợp pháp bám trụ trên đất Hàn Quốc đã 17 năm. Anh Duyên qua Hàn từ năm 1994 làm thuyền viên cho một tàu đánh cá đại dương. Công việc quá khắc nghiệt, chỉ sau sáu tháng lênh đênh nơi đầu sóng ngọn gió anh đành bỏ trốn khi tàu cập cảng Busan. Anh kể: “Lên bờ, không tiền bạc, không giấy tờ tùy thân, ngôn ngữ thì tiếng được tiếng mất. Tôi phải đi xin từng đồng lẻ để đón xe về Seoul, nơi có một vài người bạn đồng hương để nương nhờ“. Còn chị Vân qua Hàn Quốc từ năm 2000, làm việc tại một công ty ở thành phố Gimpo. Chưa hết hợp đồng thì công ty gặp khó khăn nên chị ra ngoài tìm việc mới. Trên vách tường của căn phòng trọ nhỏ hẹp dưới tầng hầm một chung cư, họ treo kín những bức hình của hai con. Phía dưới bức hình là những dòng chữ nguệch ngoạc đã úa màu: “Saron ơi, mẹ nhớ con lắm!”, “Thành Tín ơi, ba mẹ xin lỗi con nhiều nhé...!”. Mười năm trước, hai con của họ, đứa lớn 1 tuổi, đứa nhỏ 9 tháng tuổi, đã phải rứt ruột gửi về quê nhà...
Mỗi ngày phải làm việc hơn 12 tiếng, mỗi đêm phải thức dậy hai lần để canh chừng máy móc. Môi trường làm việc đầy bụi bặm và ồn ào.
Anh Xuân tâm sự: “Chỉ những công việc nặng nhọc, ô nhiễm, máy móc cũ kỹ hay lương thấp... thì người ta mới nhận lao động bất hợp pháp vào làm. Ở đây tai nạn lao động luôn là nỗi ám ảnh của các lao động bất hợp pháp VN. Bởi nếu bị tai nạn, họ sẽ bị chủ cho nghỉ ngay với một chút tiền ít ỏi. Đó là chưa kể đến việc một số ông chủ lợi dụng điểm yếu của lao động bất hợp pháp để quát nạt, chèn ép. Bởi họ biết dù có bị bất công đến đâu thì chúng tôi cũng chỉ biết im lặng, không dám thưa kiện tới cảnh sát...”.
Đi lao động nước ngoài mà phải ăn mì gói trừ bữa, có lẽ điều này ít ai tin. Nhưng vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết đã phải trải qua những ngày khó khăn như thế trong những năm tháng Hàn Quốc rơi vào cơn khủng hoảng kinh tế.
Anh Xuân nhớ lại: “Đó là vào năm 2007, nền kinh tế Hàn Quốc suy thoái, hàng loạt nhà máy ngưng sản xuất, người lao động rơi vào cảnh lao đao. Với anh em lao động bất hợp pháp như chúng tôi lại càng khó khăn hơn. Nhiều tháng liền ngồi ở nhà, góp nhặt những đồng tiền còn lại đi mua mì gói và ớt xanh về dự trữ để ăn cầm hơi. Nhiều người chịu không nổi đã bỏ về nước. Lúc đó tôi chỉ ước có một nơi nào đó nhận vào làm, chỉ cho ăn thôi cũng được, không cần lương...”.
Trải qua nhiều mùa tuyết giá rét, những công xưởng nặng nhọc và ô nhiễm trên chặng đường mưu sinh, hiện anh Xuân và cả chị Tuyết đang mang trong mình những mầm bệnh nghề nghiệp. Nhưng họ phải quên đi tuổi thanh xuân và sức khỏe của mình để cầu mong những điều tốt đẹp hơn.
Chị Tuyết chia sẻ: “Ở đây nhớ con lắm, nhưng cũng phải gắng gượng để lo cho tương lai của con. Với lại gia đình tôi còn mẹ già và ba người chị tật nguyền ở quê nữa...”.
Nặng nợ với quê nhà
Chúng tôi đã tìm về mảnh đất trồng đậu phộng của gia đình chị Tuyết ở xã Liên Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Giữa trưa nắng, hai người chị bị khiếm thính của chị Tuyết đang nhổ đậu phộng trên ruộng.
Năm nay mùa mưa bão tới sớm, hai người chị của chị Tuyết phải tất tả nhổ đậu phộng sớm để tránh bão. Căn nhà khang trang mới xây xong cuối năm 2010 của gia đình chị được góp bởi những đồng lương của người anh trai cả lành lặn, của đứa em út chị Tuyết đi lao động ở Libya và cả công sức của chị Tuyết nơi xứ Hàn.
Mảnh vườn này, căn nhà này đã 15 năm chị Tuyết chưa một lần về thăm. Nhưng ở xứ Hàn chưa lúc nào chị nguôi quên về hình ảnh người mẹ đã 80 tuổi và ba người chị đều bị khuyết tật. Bà Cao Thị An, mẹ chị Tuyết, bùi ngùi: “Vất vả xa quê để lo cho gia đình, lo cho các chị tàn tật, vậy mà ngày bố nó mất cũng không về được...”.
Có một điểm rất giống nhau ở cả bốn người phụ nữ trong ngôi nhà này là mỗi khi nhắc tới vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết, họ sẽ chỉ món đồ, những cái áo... ra hiệu rằng đó là quà của người em gửi về từ Hàn Quốc.
Khi phóng sự này đến với độc giả cũng là lúc chúng tôi nhận được tin vợ chồng anh Xuân, chị Tuyết đã bị trục xuất khỏi đất Hàn. Họ lấy lý do bận bịu để từ chối những cuộc tiếp xúc, nhưng chúng tôi hiểu rằng họ không muốn ai xoáy thêm vào nỗi đau của đời mình - nỗi đau của những phận đời bất hợp pháp nơi xứ người...
Chẳng biết rồi anh chị sẽ làm gì để sống nơi quê nhà khi mà đã 15 năm xa cách? Đó là một câu hỏi khó cho những thân cò như vợ chồng họ...
THẾ ANH
Nhận xét
Đăng nhận xét