CÂU CHUYỆN VỤ ÁN 82

 (ĐC sưu tầm trên NET)


Huyền Thoại Ivan Robert Marko Milat (hay The Backpacker Murderer, The Australia's Worst Serial Killer, Kẻ Sát Nhân Ba Lô, Kẻ Sát Nhân Đáng Sợ Nhất Nước Úc)


Không phải duy nhất một vụ án mạng mà hàng loạt vụ giết hãm hiếp, giết người chỉ do một tên tội phạm gây ra đã “đi vào lịch sử nước Úc” với thủ đoạn tàn bạo và cách che giấu tội ác kín kẽ của mình. Trước những bằng chứng rành rành, Ivan Robert Marko Milat bị kết tội đã ra tay sát hại 7 khách du lịch và chờ ngày toà phán quyết. Đáng lẽ ra, phiên toà xét xử Ivan dự định sẽ diễn ra vào tháng 02/1995, nhưng do một vài rắc rối trong việc tập hợp giấy tờ, ngày phán xét đã hoãn lại cho tới tháng 06/1996. Cuối cùng, sau nhiều ngày chờ đợi, người dân Australia đã được nghe bản cáo trạng tuyên bố mức hình phạt gã sát nhân gây chấn động quốc gia này vào ngày 27/07/1996.

Trời cao trong xanh, không khí thoáng đãng của tiết trời mùa xuân, đó là một ngày rất thích hợp để đi vào rừng, hoà vào cuộc sống thiên nhiên hoang dã. Ken Seily đứng trầm ngâm, hít sâu để cảm nhận không khí trong lành len vào từng ngóc ngách trong cơ thể. Nơi đó cách xa sự ồn ào và ô nhiễm của thành phố Sydney sầm uất 2 tiếng đi xe về phía Bắc, nơi ông sống và làm việc. Giống như bao năm qua, đây là quãng thời gian ông chờ đợi nhất trong tuần để chạy bộ thư giãn đầu óc sau những ngày làm việc căng thẳng. 


Bình thường, Ken đi bộ hoặc chạy tới nơi đã định trước một mình, song vào thứ bảy, ngày 19/09/1992 đó, CLB ông tham gia lại lên kế hoạch cho một buổi ngoại khoá đặc biệt bằng việc băng xuyên qua khu rừng Belangalo State rộng 160 hecta. Còn Ken chẳng có mấy thiện cảm với rừng. Mọi thứ xung quanh đều là màu xanh của bạch đàn, bụi rậm và sự hoang dã luôn khiến ông cảm thấy cái gì đó bất an.

Sau khi nghe lời chỉ dẫn ngắn ngủi trước giờ lên đường, Ken và đồng đội, Keith Caldwell bắt đầu những bước chạy đầu tiên. Môn thể thao này không giống như đua xe đường trường, nội dung mà người chơi được khảo sát địa hình kỹ lưỡng trước khi vào cuộc. Đầu giờ chiều, họ đã tiến vào sâu trong rừng và có chỗ địa hình rất hiểm trở với con đường gần như dốc đứng. Sau khi vượt qua những vị trị được định ra trong cuộc thi (nửa dặm lại có một cột mốc tính điểm), cả 2 chuẩn bị đi tới khu vực thứ 4, được đánh dấu bằng một tảng đá lớn. Khi tiến lại gần tảng đá, Ken ngửi thấy mùi khó chịu. Anh ta nghĩ rằng đó là mùi của động vật chết, một điều không có gì lạ bởi khu rừng này là nơi rất nhiều động vật hoang dã trú ngụ.

Loại bỏ chúng ra khỏi suy nghĩ, Ken cố gắng tìm kiếm vị trí đánh dấu. Cách đó không xa, Keith cũng nhận thấy có gì đó bất thường và hỏi: "Cậu có ngửi thấy mùi đó không?". Mùi bốc lên càng mạnh khi họ đi về hướng Tây của tảng đá lớn. Bên dưới một mô đất nhô lên, họ thấy một đống đổ nát rộng chừng 2m và cao 60cm. Tiến lại gần hơn, 2 người đàn ông nhìn thấy một mảnh xương và một mảng tóc. Họ không chắc đó là một người đàn ông cho đến khi nhìn thấy một phần của chiếc áo phông màu đen. Cả 2 đi thật chậm xung quanh đống đổ nát cho tới điểm cuối cùng, họ dừng lại và nhìn chằm chằm xuống mặt đất, cố gắng hiểu xem điều gì đã xảy ra. Ở đó, một chiếc gót giày nhô ra.

Lúc đó là 3h45 phút chiều. Cả khu rừng chẳng mấy chốc bị bóng tối bao phủ khi mặt trời bắt đầu xuống núi. Họ cẩn thận đánh dấu vị trí này ở trên bản đồ, cách 243m về hướng Tây Nam của con đường mòn. Một quyết định được đưa ra, quay trở lại nơi xuất phát hay tiếp tục cuộc hành trình. Cuối cùng, họ quyết định đi tiếp và chỉ nửa giờ sau đã nhập lại với đám bạn. Tất cả đồng ý rằng sẽ phải báo cáo vụ này cho chính quyền càng sớm càng tốt. Họ liền gọi tới đồn cảnh sát ở Bowral, một thì trấn nhỏ xinh đẹp, ẩn mình ở phía Nam tiểu bang New South Wales. Seily, một người trong đoàn nói với nhân viên trực điện thoại: "Tôi tìm thấy một cái xác ở khu rừng Belangalo".

Khi cảnh sát tới nơi, ánh sáng ban ngày gần như đã tắt hẳn. Họ phải dùng đuốc để đánh dấu đường đi. Chẳng bao lâu sau, các thám tử địa phương cũng tới và yêu cầu sự trợ giúp của đội trọng án từ Goulburn, thị trấn ngay kế bên về hướng Nam. Không ai lúc bấy giờ có thể nghĩ rằng xác chết tìm thấy khi đó sẽ dẫn đến một vụ điều tra giết người lớn nhất trong lịch sử nước Úc.

Khu vực được phong toả điều tra nhiều ngày sau đó, 2 nhân viên cảnh sát Roger Gough và Suzanne Roberts đã tìm được thi thể thứ 2, nằm cách thi thể thứ nhất khoảng 30m về hướng Đông. Theo thông báo từ phía chính quyền cho hay, đó là thi thể của 2 khách du lịch người Anh, Caroline Clarke và Joanne Walters. Họ đã mất tích 5 tháng sau khi rời Kings Cross đi về phía Nam để tìm việc. Tuy nhiên, cảnh sát vẫn chưa khẳng định thông tin trên. Các cơ quan truyền thông đã vào cuộc để giúp sớm tìm ra tung tích nạn nhân. Nhờ đó ở Úc và nhiều nơi khác trên thế giới, một vài gia đình đã nghe được thông tin về sự việc đã liên lạc với chính quyền để xác định chính xác thông tin về các nạn nhân.

Ở Đức, Manfred và Anle Neugebauer cho hay con trai họ Gabor và bạn gái cậu ta Anja bị mất tích từ Giáng sinh năm 1991. Herbert Schmidl, sống tại Regensburg, gần Munich cũng nghe tin và mong rằng trong số các xác chết không có cô con gái độc nhất của anh, Simone, mất tích kể từ khi rời Sydney năm 1991. Cách vài trăm cây số về phía Nam Belangalo, ở Frankston Victoria, Pat Everist cũng thông báo về sự biến mất của con gái bà, Deborah và bạn cô bé, James Gibson từ năm 1989. 

Có rất nhiều thông tin xác nhận được chuyển tới nhưng đến cuối buổi chiều ngày Chủ nhật, 20/09, cảnh sát đã khẳng định hai thi thể đó là của Caroline Clarke và Joanne Walters. Bố mẹ Joanne, Ray và Jill Walters cũng tới Úc được chừng 1 tháng để tìm kiếm đứa con gái của mình song vô ích. Cảnh sát liên lạc với họ và thông báo tin xấu. Chính quyền cũng gọi điện cho Ian và Jacquie Clarke, hiện sống ở Anh và cho họ biết tin về cái chết của cô con gái Caroline.

Bên cạnh việc xác định nhân thân của 2 thi thể, hồ sơ vụ giết người cũng được đẩy lên hàng đầu bởi mức độ nghiêm trọng cũng như tàn nhẫn. Joanne Walters bị đâm xuyên tim và phổi cũng có vết cắt sâu tới tận cột sống. Caroline Clarke cũng bị đâm và bắn nhiều phát súng vào đầu. Các thanh tra thuộc tổ trọng án, Bob Godden và Steve McClennan được phân công chỉ huy vụ điều tra. Sau khi tới hiện trường vụ án, với kinh nghiệm của mình, McClennan cho biết các thi thể được tìm thấy ở khu vực biệt lập, bởi vậy không loại trừ khả năng hung thủ biết rất rõ nơi này và sống ở gần đây.

Các thanh tra xem xét hiện trường hàng giờ liền và cũng yêu cầu chụp hình từng chi tiết xung quanh đó. Thi thể của Joanne Walter vẫn còn đeo trang sức ở cả 2 tay và cô mặc một chiếc quần jean xanh, đi giày màu đen. Lạ một điều là chiếc khoá quần đã bị mở ra nhưng cái khuy trên cùng vẫn được đóng chặt. Cách cái xác của Caroline Clarke chừng 4 mét, 6 mẩu đuôi xì gà cùng loại được tìm thấy. Điều này chứng tỏ đã có người ở lại hiện trường một khoảng thời gian tương đối lâu.

Cách đó không xa, một viên đạn cỡ 22mm được tìm thấy bên cạnh một mảnh nhựa màu xanh lá cây có kích thước lớn hơn đồng xu. Các chuyên gia về súng cũng sử dụng máy dò tìm kim loại trong khi kiểm tra hiện trường và tìm được 9 vỏ đạn khác cách xác của Caroline hơn 3 mét. Ngoài ra, trong đầu thiếu nữ xấu số này cũng tìm được 3 đầu đạn. Các điều tra viên thuộc đội súng tự tin khẳng định với những gì tìm được tại hiện trường, họ có thể sẽ biết chúng được bắn ra từ khẩu súng nào. Ngoài ra, một vài điều lạ cũng được tìm thấy ở sâu trong rừng.

Trong 5 ngày sau đó, 40 cảnh sát được huy động tìm kiếm ở phạm vị rộng 152 mét và sâu một dặm rưỡi nhưng không tìm thấy thêm được thi thể nào hay những vật dụng cá nhân của 2 cô gái. Sau khi tìm kiếm, cảnh sát thông báo với giới truyền thông rằng gần như chắc chắn không còn thi thể thứ 3 ở trong rừng. Đó là thông báo chứng tỏ rằng sở cảnh sát New South Wales đang rất lúng túng trong vụ việc này.

Bác sĩ Peter Bradhurst, pháp y được chỉ định tiến hành khám nghiệm tử thi, một công việc không hề dễ dàng khi xác chết đã phân huỷ. Tử thi được đưa ra khỏi rừng và chuyển về nhà xác ở Glebe, ngoại ô Sydney. Ban đầu, ông tiến hành cân sau đó chụp x-quang cơ thể của Joanne để tìm xem có đầu đạn hay mảnh kim loại nào ở trong người không. Xác của Caroline cũng được khám nghiệm như vậy nhưng công việc khó khăn hơn nhiều bởi các bộ phận bị phân huỷ rộng hơn Joanne. Họ phải bọc xác cô gái lại mới có thể tiến hành chụp x-quang và 4 đầu đạn được tìm thấy chứ không phải 3 như phán đoán ban đầu.

Kế đó, bác sĩ Bradhurst mới bắt đầu kiểm tra phía bên ngoài cơ thể để xác định những chứng cớ giúp cảnh sát điều tra. Trên áo và tay Joanne có một vài sợi tóc đen. Một miếng vải dùng để bịt miệng cô gái được lấy ra và trong cổ họng cũng phát hiện miếng vải khác, khiến người ta đưa ra giả thuyết nạn nhân bị chết ngạt. Ngoài ra, không có dấu hiệu nào cho thấy Joanne đã bị cưỡng bức trước khi chết, tuy nhiên, cơ thể đang ở giai đoạn phân huỷ nên chưa thể khẳng định chắc chắn được điều này. 

Bởi vậy, cuộc phẫu thuật âm đạo được tiến hành vì tinh trùng vẫn có thể nằm trong cơ thể vài tuần, thậm chí vài tháng. Joanne bị đâm 3 nhát vào ngực phải, 1 vào ngực trái và 1 nhát ở cổ. Những chi tiết đó đủ cho mọi người thấy nạn nhân đã bị tấn công dã man đến thế nào. Không chỉ có vậy, 2 vết chém khác được tìm thấy bên hông trái, 5 vết khác ở bên phải và 2 vết kéo dài từ gáy cho tới dọc cột sống. Tổng cộng 14 vết thương được tìm thấy. Kết quả mổ tử thi cho biết 5 vết đâm ở trên đều xuyên từ đằng trước và chạm tới cột sống. Bác sĩ Bradhurst khi đó khẳng định đó là những đòn chí mạng cướp đi mạng sống của cô gái trẻ xấu số.

Một chi tiết nữa được chú ý: bàn tay và cánh tay của nạn nhân không hề có một vết chém nào, điều này bất bình thường bởi khi bị tấn công bằng dao, thông thường con người ta sẽ theo phản xạ giơ tay ra đỡ. Cộng thêm miếng vải bịt mồm và dải dây buộc cổ, rõ ràng hung thủ hoàn toàn kiểm soát tình hình trong khi ra tay sát hại. So sánh độ dài và rộng của những vết thương, bác sĩ pháp y cho hay đó có thể xuất phát từ một cái mác (vật dụng người ta dùng để đi săn) hay những con dao tương tự như vậy.

Còn 2 tay của Caroline Clarke thì bị trói vòng qua đầu và bị chùm bằng một miếng vải đỏ. Lỗ thủng do đạn gây ra được nhìn thấy dễ dàng. Bác sĩ pháp y nhẹ nhàng gỡ miếng vải ra và kiểm tra những vết thương được nhìn thấy bằng mắt thường. Có tới 10 vết đạn được bắn vào đầu nhưng chỉ tìm được 4 đầu đạn ở bên trong. Cả 4 đều là loại 22mm. Phía trước mặt, quai hàm bị vỡ, có thể là do tác động khi bị bắn. Caroline chỉ bị chém một nhát phía sau lưng và vết thương cũng giống như nạn nhân đầu tiên. Các đầu đạn được tìm thấy trong người cô gái được chuyển cho trung sĩ Gerard Dutton để đưa tới kiểm tra tại khu đạn đạo học. Anh ta tin rằng chúng hoàn toàn trùng khớp với những vỏ đạn được tìm thấy tại hiện trường và cùng được bắn ra từ một khẩu súng.

Theo kinh nghiệm của pháp y, các vết thương cho thấy nạn nhân bị bắn từ 3 hướng khác nhau, song cả 10 vết đạn đều rất gần nhau. Trung sĩ Dutton đưa ra giải thuyết hung thủ chỉ đứng một chỗ và bắn trong khi Caroline đang cố gắng chạy thoát.Ở bên ngoài nhà xác, giáo sư John Hilton thuộc viện kiểm sát không tiết lộ cho báo chí về mức độ thương tích cũng như tính tàn bạo mà các nạn nhân phải hứng chịu.

Vài tuần sau khi phát hiện ra 2 nạn nhân, thanh tra Godden và McLennan vẫn tiến hành thu thập chứng cứ. Tuy nhiên, những manh mối ít ỏi tìm thấy khiến họ không thể khoanh vùng đối tượng và trên thực tế, vụ án khi đó đã đi vào ngõ cụt. Song các điều tra viên quyết tâm không bỏ cuộc bởi dư luận đang rất quan tâm về vụ giết người dã man này. Trong quá trình tìm hướng đi cho vụ án, tiến sĩ Rod Molton, một bác sĩ khoa tâm thần với hơn 20 năm kinh nghiệm với những tội phạm giết người đã được hỏi để có sự tư vấn trong việc điều tra. Ông từng tham gia vào vụ truy lùng tên tội phạm giết người liên hoàn gây chấn động phương Bắc, John Wayne Glover, kẻ đã giết chết 6 phụ nữ lạ mặt cao tuổi vào năm 1989.

Hồ sơ tiến sĩ Milton đưa cho cảnh sát hoàn toàn có ích ngoại trừ lứa tuổi. Ông cho hay hung thủ có thể chỉ là một thiếu niên bởi trong lịch sử điều tra tội phạm dạng này, hầu hết những kẻ giết người đều dưới 20 tuổi. Song đó chỉ là giả thiết xuất phát từ kinh nghiệm và sách vở.

Các thanh tra đưa Milton tới Belangalo theo yêu cầu của vị tiến sĩ. Giải thích về điều này, ông cho hay mặc dù mình được cung cấp đầy đủ thông tin và hình ảnh mà cảnh sát có, nhưng ông vẫn muốn tới hiện trường để có thể cảm thấy được cách mà hung thủ tấn công các nạn nhân. Milton xuống xe, tiến gần lại nơi 2 cái xác được tìm thấy. Sau khi bước đi chậm rãi xung quanh khu vực đó một vài lần, ông nhẹ nhàng ngồi xuống và suy nghĩ tại sao hung thủ chọn vị trí này. Tại sao hắn lại để các nạn nhân ở đây và động cơ là gì?

Suy nghĩ đầu tiên Milton để ý chính là hung thủ rất thân thuộc với địa hình nơi đây, ông biết những tên giết người rất hiếm khi ra tay ở những khu vực xa lạ. Tiếp tục đi giữa khu vực 2 nạn nhân chết, Milton hỏi cảnh sát chi tiết về vụ việc. Những thứ gì đã được tìm thấy và ở đâu? Ông suy nghĩ về sự khác nhau giữa 2 cái chết.

Caroline Clarke bị giết trong khi đang mặc quần áo rét. Với những chi tiết bị trói chùm qua đầu, rõ ràng hung thủ đã kiểm soát được cô gái. Nhiều khả năng, phát súng đầu tiên được bắn ra trong khi Caroline đang quỳ. Quần áo của cô không hề bị xộc xệch ngoại trừ chiếc áo lót chưa cài. Và ở thời điểm nạn nhân chết, trang phục của cô cũng không có dấu hiệu bị cởi bỏ. Bởi vậy, Milton khẳng định nạn nhân không bị giết vì động cơ tình dục. Và ông cũng tin rằng vết chém cuối cùng phía sau lưng như thể hung thủ khẳng định mình hoàn toàn kiểm soát nạn nhân, hay cũng có thể đó là việc làm của kẻ tòng phạm. Với những nhận xét của tiến sĩ Milton, cảnh sát bắt đầu tính đến chuyện có hơn một tên tham gia vào vụ giết người.

Với cách lập luận này, thi thể của Joanne Walter là minh chứng hùng hồn cho sự điên loạn của tên tội phạm. Không giống như Caroline, quần áo của Joanne lộn xộn bởi vậy không loại trừ khả năng cô gái bị cưỡng bức. Áo sơ mi và áo lót đã bị đẩy lên nhưng cái chốt phía sau lại không được cởi ra. Khoá quần bị kéo xuống nhưng cúc vẫn còn nguyên. Không có chiếc quần lót nào được tìm thấy trên người nạn nhân hay ở khu vực xung quanh. Tiến sĩ Milton liền đưa ra lập luận rằng do giày vẫn còn trên chân nạn nhân nên chiếc quần jean vẫn chưa thể cởi bỏ. Cũng có thể hung thủ chỉ làm vậy để thoả mãn khát khao tình dục trong hắn trước hoặc sau khi nạn nhân chết. Chiếc quần lót có thể đã bị cắt và lấy đi như thể một chiến lợi phẩm.

Khi cảnh sát hỏi về nguyên nhân cơ sở dẫn đến những hành động này, tiến sĩ Milton chỉ trả lời: "Sự thích thú". Ông tin rằng nếu có 2 kẻ sát nhân cùng liên quan, một tên lớn hơn sẽ chi phối mọi chuyện cho dù mức độ tàn bạo là như nhau. Không loại trừ khả năng đó là anh em và chúng đều có những sở thích về súng ống, săn bắn và tư tưởng lệch lạc về tình dục. Cuối cùng tại văn phòng cảnh sát ở Sydney, tiến sĩ Milton đưa ra hướng điều tra hung thủ cho các cơ quan chức năng:

- Sống ở ngoại ô thành phố trong một vùng nông thôn
- Được thuê làm những công việc chân tay
- Có liên quan tới mối quan hệ nào đó không ổn định hoặc không thoả mãn
- Có tiền sử về những quan hệ đồng giới
- Có tiền sử về việc chống đối chính quyền
- Tuổi chỉ khoảng trên dưới 30.

Cuối năm đó, đội ngũ điều tra đã thu hẹp được phạm vi khoanh vùng tội phạm. Tuy nhiên, họ cũng biết rằng, cần có chút gì đó may mắn để làm sáng tỏ những điều bí mật trong vụ giết người ở Belangalo.

Bruce Pryor nhiều năm nay có thói quen vào rừng Belangalo kiếm củi. Anh ta biết rất nhiều lối mòn trong khu rừng đó song không phải khu vực nào cũng thử đặt chân đến. Là một người dân địa phương, Bruce cũng nghe nhiều đến vụ giết người man rợ và luôn cảm thông cho những gia đình có nạn nhân xấu số. Anh không tài nào bỏ được suy nghĩ đó ra khỏi đầu và trong những chuyến đi rừng sau đó, Bruce luôn tự mình đi tới những khu vực mình chưa bao giờ đến mà không hiểu lý do tại sao. Kể từ khi cảnh sát cho triệu tập dân cư quanh vùng để thông báo về cái chết của 2 vị khách trẻ tuổi ở Toà thị chính Bowral và cho biết hung thủ nhiều khả năng biết rất rõ khu rừng này. Nhiều ngày sau đó, suy nghĩ về những xác chết trong rừng luôn hiện hữu trong công việc cũng như giấc ngủ.

Một buổi sáng, Bruce thức dậy và tới Belangalo, việc làm mà anh không hề lên kế hoạch. Bruce lái chiếc xe tải tới đó. Nhưng không đi hết con đường lớn như thường lệ, anh rẽ xuống một lối nhỏ có tên gọi "Morice Fire Trail". Khi đến một ngã 3, Bruce biết rõ lỗi đi bên tay phải sẽ dẫn tới con đường được gọi "Cearly"s Exit Fire Trail", còn anh chưa bao giờ rẽ trái, hướng đi dẫn tới một khu vực chỉ toàn đá.

Bruce ra khỏi xe rồi thơ thẩn đi loanh quanh đó mà vẫn không thể hiểu nổi tại sao mình lại có mặt ở đây. Khi cách chiếc xe khoảng 45 mét, anh ta dừng lại và nhìn chằm chằm xuống đất, tim đập thình thịch trong lồng ngực. Bruce giẫm lên một cái xương lớn, trông như của người. Anh ta sốc và cố gắng động viên mình có thể đó chỉ là của kangaroo. Ngập ngừng một lúc, anh nhấc cái xương lên và ướm thử vào đùi mình rồi nhận ra chúng dài gần như nhau. Nhưng cũng có thể đó chỉ là xương động vật. Bruce đặt nó xuống rồi đi tiếp về phía trước. Người đàn ông này đi từ từ, ngó nghiêng xung quanh với hy vọng sẽ tìm được phần còn lại của bộ xương kangaroo. Khi tới đỉnh đồi, anh quyết định quay trở lại chiếc xe ô tô nhưng lại đi hơi chếch sang hướng khác. 

Và rồi một cảnh tượng hãi hùng đã diễn ra ngay trước mắt khiến Bruce dựng tóc gáy. Chưa bao giờ trong đời anh ta lại thấy một cái đầu lâu ở ngay trước mắt mình. Nó nhỏ, có thể là của đứa trẻ mới lớn hoặc một người phụ nữ. Một phần của hàm dưới đã bị vỡ và nhìn kĩ hơn, anh ta thấy một vết cắt nhỏ ở trên trán. Trông giống như một vết dao cắt.

Quá hoảng hốt trước những việc đang diễn ra, Bruce không biết mình nên làm gì tiếp theo. Lo sợ không có ai tin mình, anh ta mang chiếc đầu lâu quay trở lại xe, bọc trong một túi vải rồi đi ra khỏi rừng. Khi ra gần tới cổng, Bruce nhìn thấy một chiếc xe đỗ ngay cạnh chiếc lều nhỏ, thứ thường được các thành viên CLB chạy định hướng sử dụng. Bruce tới lều và nói chuyện với John Springett, một chủ thầu người địa phương.

"Anh có điện thoại ở đây chứ?", Bruce hỏi.
"Có, nhưng trên xe kia. Có chuyện gì vậy?", người đàn ông kia trả lời.
Bruce liền kể lại câu chuyện mình đã gặp. "Tốt hơn hết chúng ta nên báo với cảnh sát", nói xong, John ra lấy điện thoại đưa Bruce gọi cho thám tử khu vực Bowral nhưng không ai nghe máy. Rồi anh ta thử gọi đến đồn cảnh sát: "Tôi tìm thấy một phần bộ xương người ở rừng Belangalo".
Nửa tiếng sau, 2 nhân viên cảnh sát tuần tra gần đó đã tới chiếc lều.
"Các anh có gì cho chúng tôi vậy?", một viên cảnh sát hỏi.
"Trong xe ô tô đó", Bruce trả lời rồi đưa họ đến chiếc xe, mở cái bọc mình đã tìm thấy. Dường như tới thời điểm này, cảnh sát mới tin vào những gì người đàn ông kia nói trong điện thoại và lập tức họ cũng mở bộ đàm gọi cho 2 thám tử Peter Lovell và Steven Murphy tới giúp đỡ. Sau khi có mặt, 2 người này lệnh cho Bruce chỉ cho họ nơi anh ta tìm thấy cái đầu lâu.

Tới hiện trường, thám tử Murphy đi sâu vào rừng thêm 36 mét rồi dừng lại, nhìn xuống. Anh ta quay trở ra nơi người đồng sự của mình đang đứng nói chuyện với Bruce Pryor về cái đầu lâu: "Có một đôi giày ở bụi cây đằng kia". Nói xong, cả 2 đều nhìn Bruce với thái độ thận trọng và thắc mắc tại sao anh ta lại có mặt ở khu vực này. Một vài cuộc gọi đã được thực hiện và cuộc truy tìm lại bắt đầu.

Thông tin phát hiện thêm được thi thể trong rừng được lan đi rất nhanh. Trực thăng của vài hãng thông tấn bay lượn lờ bên trên khu vực hiện trường. Các phóng viên và quay phim cũng tới để cố gắng thu thập tin tức. "Liệu đó có phải cặp đôi người Đức hay họ tới từ Victoria?", các phóng viên dồn dập đặt câu hỏi cho các thám tử song không nhận được câu trả lời nào từ phía nhà chức trách. Đơn giản là bởi chưa ai có thể đưa ra câu trả lời chính xác hay chí ít là tất cả vẫn đang rối bời với chính những thắc mắc của mình: Liệu có sớm quá khi quyết định dừng cuộc tìm kiếm trước đây? Phải chăng họ đã tìm sai địa điểm? Còn bao nhiêu người chết nữa ở trong khu rừng này?

Ở cuộc tìm kiếm sau đó, một chiếc áo đen đã được tìm thấy gần một trong những khu vực có xác chết. Văn phòng chuyên nhận những thông tin báo về người mất tích ở Sydney đã tra lại các tài liệu và cho rằng có thể thi thể đó là của James Gibson, một chàng trai trẻ tới từ Victoria, lần cuối cùng được nhìn thấy khi bắt xe tới phía Nam khu rừng với cô bạn gái Deborah Everist. Họ bị mất tích từ năm 1989.

Không lâu sau, cảnh sát cũng nghiêng về giả thiết Gibson là nạn nhân bởi cái ba lô và máy quay của cậu ta đã được tim thấy bên cạnh đường ở phía Bắc Belangalo cách đó 78 dặm, trong một khu rừng nhỏ khác có tên Galston Gorge. Nhưng câu hỏi lại được đặt ra. Nếu đó là Gibson thì tại sao đồ đạc của anh ta lại nằm ở một khu khác của Sydney, nơi có nhiều người qua lại. Phải chăng hung thủ cố tình đánh lệch hướng điều tra của cảnh sát về phía Nam khu rừng. Ở hiện trường vụ án, các nhà chức trách làm việc tới nửa đêm để hoàn tất những điều tra sơ bộ và cắt cử một đội ở lại sau khi ra về. Những ngày kế tiếp đó, hai cán bộ khoa học Grosse và Goldie quay trở lại hiện trường với bác sĩ Bradhurst và nha sĩ của toà án Chris Griffiths.

Cả 2 xác chết chỉ còn trơ xương nhưng vẫn khá hoàn thiện. Một vài chiếc xương nằm rải rác xung quanh đó, có thể do động vật tha đi. Bên cạnh thi thể đầu tiên, Grosse tìm thấy một sợi dây chuyền bạc, một chiếc vòng tay nạm ngọc và một cây thánh giá với hình chua Giê Su trên đó. So sánh kích thước của những vật được tìm thấy, đó có thể là của một người phụ nữ. Cái xác thứ 2 to hơn và vẫn còn nguyên 2 chiếc giầy ở trên chân. Bác sĩ Griffiths kiểm tra bộ xương, làm sạch những vết bẩn trên đó, xem xét hàm răng để sớm gửi kết luận cuối cùng cho cảnh sát. 

Qua nghiên cứu, họ chắc chắn thi thể đó là của James Gibson, còn cái xác kia là Deborah Everist. Sau đó, cả 2 bộ xương đều được mang về nhà xác Sydney để tiến hành xây dựng lại và kiểm tra chi tiết. Cùng với những thi thể, một vài chiếc túi đựng một vài thứ thối rữa ở khu vực đó cũng được đem về bởi họ cho rằng đấy là rau, quần áo hay cả hai thứ đó. Một vật dụng trên xác chết của James Gibson dễ dàng được nhận ra, đó là cái phéc mơ tuya từ chiếc quần bò. Cái khoá được mở ra, trong khi khuy quần vẫn còn đóng chặt.

Hôm sau, bác sĩ Bradhurst bắt đầu khôi phục lại bộ xương theo nguyên tắc giải phẫu cơ thể. Những chiếc xương được đưa vào một dung dịch đặc biệt để làm sạch và những vết thương sẽ dễ dàng được phát hiện ra. Ông bắt đầu với James Gibson. Ngoài xương tay, chân và một vài đồ trang sức, những chi tiết quan trọng đã được phát hiện, đặc biệt là những vết bị đâm chém bắt đầu xuất hiện. Một vết đâm bị xuyên từ ngực đến đốt sống thứ 3. Cũng giống như những nạn nhân trước đó, đòn chí mạng đó sẽ khiến đối tượng tê liệt và không thể chống cự. 

Đương nhiên, để làm được việc này đòi hỏi hung thủ phải có sức mạnh rất lớn khi ra đòn. Một vết đâm khác xuyên thủng xương ức. Ngoài ra, phần ngực trước và lưng cũng có khá nhiều thương tích. Người ta đếm được có tổng cộng 7 vết chém trên bộ xương. Rất có thể vẫn còn nhiều cú đâm khác xuyên vào người mà không chạm vào xương nên không thể phát hiện ra. Kích thước và hình dáng của những vết thương cũng tương tự như của Joanne và Caroline.

Bộ xương nhỏ thứ 2 ở trạng thái tồi tệ hơn. Một phần xương hàm đã vỡ vụn, một vài mảnh được tìm thấy ngay cạnh thi thể. Trên chiếc đầu lâu tìm thấy 4 vết chém hiện rõ. Hai vết ở cạnh đầu nhưng không đủ sâu để lấy đi mạng sống của nạn nhân.

Trong khi Bradhurst tiếp tục công việc của mình, tại hiện trường vụ án, các nhân viên điều tra tìm thêm được một vài manh mối mới. Cách khoảng 9 mét từ chỗ nạn nhân, họ tìm thấy chiếc áo lót nữ màu đen có một vết đâm xuyên qua ngực. Sau đó, một chiếc quần bó của phụ nữ cũng được tìm thấy ở dưới đám lá ngay gần xác chết của người con gái. Đến cuối ngày hôm đó, sau những kiểm tra về bộ xương, người ta khẳng định đó chính là Deborah Everist.

Sĩ quan Clive Small được thám tử Tony Lauer cử ra chỉ đạo cuộc điều tra. Công việc đầu tiên của ông là tập hợp tất cả những người từng tham gia điều tra vụ án này thành một khối thống nhất. Với kinh nghiệm và sự cống hiến của mình trước đây, Clive được hết thảy mọi người tôn trọng. Ông có khả năng phân tích rất tốt dựa trên những chi tiết dù là nhỏ nhất hay những điểm mọi người cho rằng chẳng hề quan trọng, viên sĩ quan này cũng có thể dùng làm bằng chứng. Cuộc điều tra được đặt cho cái tên “Task Force Air”. 

Song đương nhiên, Clive Small không thể một mình bao quát tất cả, bởi vậy ông chọn thanh tra Rod Lynch làm trợ lý cho mình. Công việc của Lynch là phối hợp và điều hành quản lý ở trụ sở chính của vụ điều tra tại Sydney, trong khi đó Small trực tiếp giám sát tìm kiếm chứng cớ ở gần khu rừng thuộc Bowral. Lynch phải đối mặt với thử thách gần như từ đầu. Toà nhà được sử dụng làm trụ sở cuộc điều tra là một nhà máy cũ, nơi từng được dùng làm văn phòng cho tổ chức điều tra tội phạm của Sydney (C.I.B).

Sau khi tìm được mặt bằng rộng lớn hơn, C.I.B bỏ lại nơi này trong tình trạng nghèo nàn, không điện thoại, điều hoà, máy tính, đồ đạc, thậm chí đường nước cũng tậm tịt. Giải quyết xong mọi vấn đề cơ bản như vậy, ông mới bắt đầu chọn các thám tử làm công việc phân tích hàng ngàn những chi tiết, thông tin đã và sắp nhận được. Kế đến, một đường dây nóng được thiết lập nhằm thu thập những điều nhỏ nhặt nhất mà người dân trong vùng có thể biết. Với kinh nghiệm lâu năm trong nghề, Lynch biết việc này sẽ vất vả và khó khăn, tuy nhiên, đây là giai đoạn quan trọng nhất để phân tích những “bằng chứng thực tế”, giúp đỡ rất nhiều cho quá trình phá án.

Trong khi đó, Small không tiến hành ngay các cuộc khảo sát trong rừng mà dành vài ngày để nghiên cứu bản đồ và địa hình của khu vực này để lên kế hoạch mở rộng khu vực điều tra. Chánh thanh tra Bob May tới từ đơn vị hỗ trợ kĩ thuật được chọn làm phụ trách đội tìm kiếm. Ông phân chia khu vực chính của khu rừng trên bản đồ thành những ô vuông, mỗi khoanh tương đương với 200 m­ét vuông. 40 nhân viên được cử đi kiểm từng khu như vậy một cách kỹ càng. Từng mét rừng bị xới tung lên, không bỏ sót bất cứ chi tiết nào. Tất cả những gì đáng quan tâm được tìm thấy, họ sẽ phải hét lớn: “Thấy” và cán bộ khoa học sẽ ngay lập tức tới điểm nóng, chụp ảnh, đánh dấu trên bản đồ và những chứng cứ đó vào túi mang về nghiên cứu.

Cuộc tìm kiếm nâng cao hơn khi một đội chó nghiệp vụ được huấn luyện đặc biệt được đưa tới để phát hiện những gì chứa phốt pho và nitơ ở trong đất bởi những thi thể thối rữa sẽ để lại những hợp chất này thời gian rất lâu sau khi chết. Cách thức này đã được người ta sử dụng để đánh hơi những ngôi mộ trong cuộc nội chiến ở Mỹ. Song song với cuộc tìm kiếm trong rừng, tại trụ sở bên pháp chứng, đầu đạn và vỏ đạn được tìm thấy ở hiện trường đã được xác định đều được bắn từ một khẩu súng trường tự động. Chi tiết này có thể sẽ giúp ít nhiều cho việc khoanh vùng kẻ giết người. Ngay lập tức, cảnh sát đã xem lại sổ sách, liệt kê ra hơn 50.000 khẩu súng trường được nhập khẩu tới Australia từ năm 1964 đến năm 1982. 

Các nhà sản xuất đã cung cấp một bản danh sách những người phân phối tại Australia. Tuy nhiên, theo luật pháp nước này, các cửa hàng súng chỉ lưu lại giấy tờ liên quan lúc bấy giờ, còn sau này người mua đi đâu, làm gì, không ai hay biết. Điều này chẳng khác nào mò kim đáy bể. Thế nhưng, một tia hy vọng dù là nhỏ nhất cũng không thể bỏ qua. Một danh sách tất cả những vũ khí của cư dân quanh khu rừng sẽ được thu thập lại để bắn thử nhằm tìm kiếm khấu súng trùng khớp với vật chứng thu được. Kế hoạch này bị rò rỉ đến tai báo chí. Đương nhiên các điều tra viên hết sức tức giận bởi họ tin rằng hung thủ nếu nghe được thông tin này sẽ phi tang khẩu súng gây án.

Mọi thành viên thuộc câu lạc bộ súng địa phương đều được liên hệ và vũ khí của họ đều được đem đi kiểm tra. Một thành viên nói với các thám tử rằng bạn của ông đã chứng kiến việc đáng ngờ trong khu rừng cách đây vài năm. Cảnh sát đã tìm đến người đàn ông đó để rồi nhận được sự miêu tả rất chính xác về 2 chiếc xe ô tô. Một chiếc Ford Sedan và chiếc khác 4 bánh đã xuất hiện tại một lối mòn trong khu rừng. Ông kể rằng khi chiếc đầu tiên vượt qua mình, ông nhìn thấy ngoài tên lái xe, còn 2 gã khác ngồi phía sau. Giữa họ là một cô gái bị nhét miếng vải vào mồm. 

Trong chiếc thứ 2 có 2 gã, một tên lái và người đàn ông còn lại ngồi cạnh một cô gái đang bị trói. Người đàn ông đó miêu tả chi tiết cho cảnh sát tất cả mọi thứ từ quần áo, màu sắc và ước chừng độ tuổi. Ông nói rằng ở thời điểm đó, ông đã ghi lại biển số xe của chiếc thứ 2 nhưng đã làm mất nó. Cảnh sát đã ghi lại tất cả lời khai và đưa ông đọc lại, nếu đồng ý hãy kí tên vào. Và ông đã kí: “Alex Milat”.

Hai mươi sáu ngày đã trôi qua kể từ khi thi thể của Deborah Everist được tìm thấy trong rừng, những người tìm kiếm đã thấm mệt. Họ rà soát hầu hết mọi khu vực được đánh dấu và bắt đầu bước đến khu vực cuối cùng cách nơi tìm thấy xác cuối cùng hơn 4 kilômét về hướng Đông. Thời điểm bấy giờ, cảnh sát đã chuẩn bị công bố với báo chí rằng không có phát hiện thêm nào ở rừng Belangalo. Dẫn đầu đội tìm kiếm, hạ sĩ Jeff Trichter, cùng một nhóm rà soát ở khu đất trống nhỏ. Một chiếc quần bò màu hồng của phụ nữ, một sợi dây thừng dài màu xanh dương và vàng được nhìn thấy.

Bên cạnh quần áo của nạn nhân là 22 vỏ đạn rỗng. Nhưng những vật dụng này không có gì lạ bởi trong quá trình tìm kiếm gần 1 tháng qua, họ đã tìm được khá nhiều thứ tương tự nhưng dường như chẳng liên quan đến vụ án. Đi sâu hơn vào bãi đất trống, họ tìm thêm được một số vật phẩm. Một chiếc lon rỗng bị bắn xuyên thủng, một sợi dây thép dài, một hộp vỏ đạn và vài cái chai rỗng. Cuối bãi đất trống, hạ sĩ Trichter loé lên một suy nghĩ: đây là nơi tập bắn.

Biết rằng đây có thể sẽ là manh mối quan trọng, Trichter cho đội của ông nghỉ trưa và dành thời gian còn lại trong ngày để rà soát thật kĩ khu vực đó. Chẳng lâu sau khi họ quay trở lại công việc, một người lại hét lớn: “tìm thấy”. Trichter rảo bước tới một khoảng đất toàn đá lởm chởm nổi lên, nơi một viên cảnh sát có tên Rullis đang đứng đó chỉ về vật gì đó, một chiếc xương, giống như của con người. Cách đó chừng 3 mét, họ phát hiện thêm được 1 chiếc đầu lâu. Lập tức vị trí được đánh dấu lại, hiện trường được dựng lên và các đội khác cũng được triệu tập đến bằng radio.

Nhóm tìm kiếm mở rộng khu vực rà soát xung quanh hiện trường, tuy nhiên, họ chẳng tìm thêm được gì ngoài một mảnh xương khá to được gói trong một tấm da thuộc màu nâu. John Goldie, người khám xét hiện trường cho hay đấy là của một người phụ nữ. Một dải băng buộc đầu màu tím được tìm thấy ở trên chiếc đầu lâu. Cùng với quần áo được tìm thấy gần thi thể, sau khi so sánh với những báo cáo về người mất tích, các nhà chức trách khẳng định bộ xương đó chính là cô gái người Đức, Simone Schmidl. 

Trong bản báo cáo người bị mất tích, một chiếc ba lô lớn và những đồ dùng để cắm trại đã không được tìm thấy. Bác sĩ Chris Griffiths, pháp y thuộc bên toà án đã được triệu tập đến hiện trường. Sau khi kiểm tra tổng thể, ông cũng khẳng định đó chính là Simone.

Cô gái trẻ thích phiêu lưu mạo hiểm được gia đình và người thân gọi với cái tên âu yếm “Simi” xuất hiện lần cuối vào 20/01/1991, tại Liverpool, phía Tây Sydney, chuẩn bị có chuyến đi bộ đường dài xuống phía Nam. Chính sở thích chinh phục thử thách đã khiến cô kết thúc cuộc đời của mình trong khu rừng cách mái ấm gia đình tới hàng ngàn cây số. Ở Đức, bố mẹ Simone đã nghe thông tin đau buồn này trên sóng radio. Họ đã liên hệ với cảnh sát Đức để xác nhận lại mọi chuyện. Thi thể của Simone được chuyển về nhà và chôn cất 2 tuần sau đó.

Về cơ bản, cảnh sát Australia vẫn tin trong rừng còn thi thể chưa được tìm thấy bởi vẫn còn tới 2 khách du lịch người Đức nữa mất tích. Còn xác Simone được tìm thấy với quần áo xộc xệch, áo lót đẩy cao lên phía cổ, chiếc quần soóc màu xanh bị kéo tụt xuống. Đồ trang sức và hai đồng xu được tìm thấy ngay bên cạnh thi thể. Chiếc quần jean màu hồng không phải của Simone nhưng khá trùng hợp với sự miêu tả của một thiếu nữ người Đức khác, Anja Habschied. Cô gái và bạn trai Gabor Neugebauer bị mất tích kể từ tháng 12/1991.

Hai ngày sau, cuộc tìm kiếm được tiếp tục, còn bộ xương được chuyển về Sydney để tiến hành kiểm tra. Người trực tiếp làm việc không ai khác là bác sĩ Bradhurst và ông tin hung thủ đều là một người. Công đoạn kiểm tra cũng giống như những nạn nhân khác. Không có vết thương nào ở phần hộp sọ. Lưng và ngực lại có khá nhiều vết chém. Hung thủ ra tay tàn nhẫn như những vụ trước. Chẳng lâu sau khi hoàn thành công việc của mình, ông lại nhận được thông tin báo lại từ khu rừng: “Chúng tôi đã tìm thêm được 2 xác chết nữa”. 

Bác sĩ Bradhurst và đồng nghiệp Griffiths được đưa ngay tới hiện trường bằng máy bay trực thăng của cảnh sát. Thi thể được cho là của Gabor nằm dưới một bụi cây và bị một thân cây lớn đè lên. Phải nhờ tới một vài viên cảnh sát to khoẻ mới có thể nhấc nó ra. Với những tài liệu có trong tay, bác sĩ Griffiths xác nhận đó chính là thi thể của Gabor.

Bộ xương khá hoàn thiện với đầy đủ quần áo, bao gồm cả chiếc quần jean với khoá và khuy đã được mở ra. Ở xác chết thứ hai, các pháp y cho biết đó không phải của Anja, một người phụ nữ trẻ. Trên người thi thể này chỉ còn độc chiếc áo lót đã bị cởi nút và kéo cao lên vai, còn quần áo được tìm thấy gần đó. Chiếc quần jean màu hồng lại được phát hiện ra cách đó khá xa. Một điểm nữa khiến người ta quan tâm tới thi thể người phụ nữ này, đó là đầu và 2 đốt sống đầu tiên đã bị mất. Ngoài ra không có vết chém nào nhìn thấy bằng mắt thường. 

Kiểm tra kĩ càng hơn, bác sĩ Bradhurst khẳng định phần đầu bị chém lìa khỏi cơ thể bằng một công cụ rất sắc bén, có thể đó là thanh gươm. Thêm vào đó, góc độ của vết cắt cho thấy, nạn nhân khi đó có thể đang quỳ, đầu cúi về phía trước khi bị chém. Mọi dấu hiệu như thể đã diễn ra một nghi lễ chặt đầu như những vụ tử hình hồi xa xưa.

Người chỉ đạo vụ điều tra, thám tử Clive Small sau đó đã có buổi trả lời phỏng vấn nhỏ ở ngay gần hiện trường vụ án. Ông trả lời báo chí rằng đã tìm thêm được các thi thể mới và cảnh sát đang tập hợp mọi dữ liệu để đi tìm tên giết người liên hoàn.

Quay trở lại nhà xác, bác sĩ Bradhurst kiểm tra thi thể Gabor một cách tổng quát. Mồm nạn nhân được nhét 2 vật gì đó. Là người trực tiếp tiến hành mổ xác tất cả nạn nhân từ đầu tới giờ nên ông nhớ mọi chi tiết dù là nhỏ nhất. Vật nhét vào miệng Gabor có nhiều điểm tương đồng giống như của Joanne Walter. Xương cuống họng có dấu hiệu nứt, nhiều khả năng hung thủ đã bóp cổ nạn nhân. Ngoài bộ hàm bị vỡ, trên sọ có tới 6 vết đạn. Chuyên gia đạn đạo học Dutton cho biết có tới 4 viên xuyên qua đầu.

Ngoài ra, với phân tích của mình, ông đã lập giả thuyết về góc độ ra đạn khi bác sĩ Bradhurst khẳng định 3 viên trúng vào góc trái, còn đâu là bên phải và từ dưới lên. Nhưng thực tế, với kinh nghiệm của mình, Dutton cho hay Gabor dính tới 7 viên đạn vào đầu chứ không phải 6 như với báo cáo ban đầu. Tuy nhiên, cảnh sát không tìm thấy bất cứ vỏ đạn nào cho dù đã bới tung khu vực tìm thấy nạn nhân. 

Giả thiết Gabor không bị giết ở đó đã được đặt ra. Nhưng cách đó không xa, cảnh sát đã tìm thấy một vài đầu đạn và vỏ đạn rỗng. Tổng cộng có tới 9 viên đạn được bắn ra và tất cả đều trùng khớp với những gì tìm thấy ở nơi Walter bị giết. Với những gì thu thập được, cảnh sát khẳng định Joane Walter và Gabor bị bắn từ một khẩu súng. Bác sĩ Bradhurst cũng tiến hành kiểm tra phần xương của Anja nhưng không tìm được vết thương nào.

Thực tế cho thấy, 7 nạn nhân đều chết với những cách thức rất khác nhau. Người bị đánh, bị bóp cổ, bị bắt, bị chém và chặt đầu; hầu hết đều có những dấu hiệu tình dục ở cả nam lẫn nữ. Với những điểm này, rõ ràng hung thủ đã giành cho mỗi nạn nhân khá nhiều thời gian chứ không hề tiến hành theo kiểu “hạ gục nhanh, tiêu diệt gọn”. Ngoài tính hung bạo, hung thủ thực chất là một kẻ rất có tính toán và tự tin.

Paul Onions tới Australia chỉ vì mong muốn được tận mắt ngắm nhìn đất nước mà mình được nghe kể qua nhiều sách báo. Anh ta nghỉ tại một nhà nghỉ rẻ tiền dành cho những khách du lịch tự túc tại Kings Cross, Sydney. Phần lớn thời gian ở đây, Paul đều sử dụng để đi ngắm cảnh và tiệc tùng với bạn bè. Với cuộc sống như vậy, số tiền mang theo mình dần dần chẳng còn bao nhiêu và anh quyết định đi tìm một công việc làm thêm. Visa của Paul có thời hạn 6 tháng nhưng tiền của anh ta chắc chắn không thể đủ sống tới thời gian đó. Paul đi hỏi khắp nơi trong thành phố nhưng kiếm việc thực sự không dễ dàng chút nào. Một người bạn của anh ta giới thiệu cho việc thu gom hoa quả tại quận Riverina, cách đó vài trăm dặm về hướng Nam.

Anh quyết định dùng số tiền còn lại để bắt tàu tới Liverpool, nằm ở phía Tây Nam Sydney, sau đó đi nhờ xe tới đó. Ngày 25/01/1990, Paul tới Liverpool chờ xe để vẫy. Hành lý Paul mang theo chỉ là một chiếc Sony Walkman, một chiếc máy quay và một vài vật dụng cá nhân khác. Anh ta đi bộ về hướng Nam trong khi vẫn cố gắng bắt xe. Dừng lại trước một trung tâm mua sắm nhỏ, Paul mua đồ uống và bắt đầu nghĩ tới việc quay về khách sạn. Nhưng rồi một người đàn ông khá vạm vỡ, giọng đặc người dân Australia đã lại gần và hỏi: “Cậu muốn đi nhờ xe chứ?”.

Paul liền nói ngay nơi mình muốn đến và đồng ý lời mời một cách sung sướng. Hai người đàn ông leo lên một chiếc xe 4 chỗ thẳng tiến về hướng Nam. Điều đầu tiên khiến Paul ấn tượng với người lạ mặt kia là thân hình đô con với bộ ria khá dài. Họ nói chuyện với nhau. Paul giới thiệu về bản thân mình còn người đàn ông lạ bảo mình tên là Bill. Người bạn mới của Paul giành cho anh hàng tá câu hỏi:

“Cậu tới từ đâu?”
“Khi nào thì cậu quay lại?”
“Có ai biết cậu ở đây không?”
“Nghề nghiệp của cậu là gì?”.

Rồi Paul cũng hỏi lại tương tự và Bill trả lời khá rành mạch. Gã nói rằng mình làm việc trên đường, tới từ Nam Tư, sống gần Liverpool và đã li dị. Họ lái xe khoảng 1 giờ đồng hồ và Bill bắt đầu thay đổi. Lời lẽ của ông ta trở nên tục tĩu và hung hăng hơn khi cả hai nói chuyện về “phân biệt chủng tộc”. Sau đó Bill lại yên lặng và từ chối nói chuyện. 

Đến giữa buổi chiều hôm đó, cả 2 đã ra khỏi thị trấn ở phía Nam Mittagong, Paul nhận thấy Bill bắt đầu có những cử chỉ lại: thay đổi tốc độ lái xe và liên tục nhìn qua gương chiếu hậu về phía sau. Paul cảm thấy mệt mỏi, khát nước và bắt đấu cảm thấy bất an. Bill điều chỉnh chiếc radio và nói: “Tôi nghĩ tôi đã để hết băng ở phía sau rồi”. Sau đó, gã dừng xe, đi vòng ra phía sau. Trong khi đó, Paul nhìn xuống phía dưới ngay giữa 2 ghế ngồi thế một khay đựng toàn băng casset. Thấy có gì đó không ổn, anh ta quyết định ra khỏi xe.

“Quay trở lại xe đi”, Bill nói với giọng đầy hăm doạ. Paul tuân theo bởi không muốn mọi chuyện tồi tệ hơn. Ngay sau khi cả hai vào xe, Bill liền với xuống dưới chiếc ghế lái, lôi ra một khẩu súng lục lớn và chĩa vào mặt Paul nói: “Đây là một vụ cướp”. Sau đó gã với ra đằng sau ghế ngồi để lấy một sợi dây thừng. “Chuyện quái quỷ gì đang diễn ra thế này? Ông muốn gì?”, Paul lo sợ nói.

“Câm mồm. Thắt đai an toàn của mày vào”. Ngay lúc đó, Paul đã đạp tung cánh cửa, phi ra ngoài. Trong khi cố gắng chạy thật nhanh, anh ta nghe thấy tiếng hét vọng lại từ phía sau: “Dừng lại không tao bắn”.

Không quan tâm, Paul lao ra đường nhằm trốn thoát khỏi “gã điên” kia nhưng vẫn không quên ngoái lại xem Bill có đuổi theo không. “Quay lại đây, con trai”, gã hét lớn. Paul vẫy một chiếc xe tải đang tiến lại gần và lao vào đầu xe để chắn nó lại. Joanne Berry, người chủ xe chưa biết chuyện gì xảy ra, Paul đã nói với giọng sợ hãi: “Hắn có súng, cứu tôi!”.

Joanne lưỡng lự bởi trong xe khi đó có em gái và 4 đứa trẻ con. Cô lo sợ cho sự an toàn của mọi người nên đề nghị Paul hãy ra khỏi đầu xe. Joanne nhìn vào khuôn mặt đầy vẻ sợ hãi của anh ta và rồi quyết định đưa người đàn ông này tới đồn cảnh sát gần nhất, ngược với hướng mà mình đang đi. Cô ta quay xe và nhìn thấy gã đàn ông vạm vỡ chạy trở lại chiếc xe của hắn để lấy thứ gì đó. Không chần chừ, Joanne liền cho xe tăng tốc.

Khi họ tới đồn cảnh sát Mittagong, nó đã đóng cửa. Joanne điều khiển xe tới thị trấn Bowral kế tiếp. Tới nơi, Paul thuật lại tường tận câu chuyện cho nữ cảnh sát trực Janet Nicholson về kẻ đã tấn công mình, về chiếc xe và không quên nói rằng hành lý của anh ta đã để hết lại đó, bao gồm hộ chiếu và vé máy bay khứ hồi quay lại Anh. Sau khi điền đầy đủ thông tin vào bản báo cáo, Nocholson thông báo về đặc điểm nhận dạng của người đàn ông lạ và chiếc xe ô tô trên sóng radio rồi đưa Paul trở về khách sạn. Anh ta phàn nàn rằng đã mất tiền và nữ cảnh sát đó liền đưa anh 20 đô la. Ngoài ra, cô cũng giải thích rằng việc không nhớ được biển số chiếc xe kia khiến cuộc tìm kiếm gã đàn ông vạm vỡ là rất khó.

Hôm sau, Paul tới cơ quan đại diện của Vương quốc Anh ở Sydney để thay hộ chiếu khác và vay tiền. Tuy nhiên, anh ta chỉ nhận được hộ chiếu, còn tiền mặt thì không. Một người phụ nữ đứng chờ ngay phía sau thông cảm với hoàn cảnh và dúi cho Paul 20 đô la khiến anh vô cùng sững sờ trước sự rộng lượng của bà. Nhiều tuần sau đó, sau khi quyết định ở lại Australia, Paul đã kiếm được công việc khá tốt. Bạn gái anh đã bay từ Anh sang và họ đã đi du lịch vòng quanh phía Bắc Australia trong vài tuần trước khi trở về nhà. 

Paul cố gắng tìm lại cuộc sống bình thường vốn có của mình nhưng căn bệnh mất ngủ đã hành hạ anh nhiều năm sau đó. Nhất là khi Paul nghe đến những xác chết được tìm thấy gần nơi mình bị tấn công, những hình ảnh rùng mình khi xưa lại hiện về.

Quay trở lại với vụ án, cuộc điều tra vẫn đang được tiếp tục. Hơn 200 cảnh sát được phân công rà soát mọi ngóc ngách trong rừng. Ở sở chỉ huy, hàng ngàn cuộc gọi điện tới trong đó đang chú ý nhất có 2 lần. Thứ nhất là một người phụ nữ kể rằng bạn trai mình từng làm việc cùng với một người đàn ông mà bà nghĩ rằng có liên quan đến vụ án. Gã là chủ một trang trại ở gần rừng, lái xe 4 chỗ, có rất nhiều súng tên là Ivan Milat. Còn cuộc điện thoại thứ 2 là từ Joanne Berry, người đã cứu Paul Onions trong vụ tấn công cách đây 3 năm. 

Giống như những cuộc gọi khác, tất cả đều được lưu vào dữ liệu máy tính. Trong khi đó, Paul cũng gọi tới Đại sứ quán Australia tại Anh để hỏi về đường dây nóng. Ngày 13/09/1993, anh đã kể chi tiết cho người trực điện thoại về vụ tấn công năm 1990. Đến ngày 17/11/1993, cảnh sát đã kết thúc những cuộc tìm kiếm trong rừng và thông báo không tìm được thêm thi thể nào.

Tháng 12/1993, 10.000 trang giấy được ghi chép lại từ hàng ngàn cuộc gọi tới đường dây nóng đã được lọc ra và cảnh sát đã lên danh sách gần 2000 người gọi điện được cho là có thể cung cấp những thông tin bổ ích về vụ án. Trong đó, chi tiết trong câu chuyện của Paul Onions và Joanne Berry là được quan tâm nhất. Ngay từ những ngày đầu năm mới, 37 thám tử thay phiên nhau làm việc 24/24 để phân tích vụ án, chủ yếu tập trung theo dõi những nghi can sở hữu nhiều súng và có khả năng gây án. Còn 2 thám tử Gordon và McCluskey được giao nhiệm vụ tổng hợp các thông tin được ưu tiên và tìm tất cả mọi điều liên quan tới cái tên “Milat”.

Còn về người phụ nữ kể rằng có bạn trai làm cùng Ivan Milat lại không hề cho biết tên mình là ai. Bởi vậy, Lynne Butler và Paul Douglas quyết định tới công ty qua lời kể để hỏi thăm về Milat. Richard và Ivan Milat làm việc ở đó cùng một thời gian. Theo như lời kể của các đồng nghiệp, Ivan là một công nhân chăm chỉ và nhận được rất nhiều sự tôn trọng của mọi người. Còn Richard lại được miêu tả như một kẻ điên cuồng và không thể đoán trước người đàn ông này sẽ làm gì. 

Hai thám tử yêu cầu công ty cung cấp thời gian làm việc của cả 2 người đàn ông và so sánh với khoảng thời gian mà họ nghi ngờ diễn ra các vụ án. Một phát hiện khá thú vị: Richard thời điểm đó vẫn làm việc đều đặn. Còn Ivan thường xuyên vắng mặt trong khoảng thời gian cảnh sát tính toán nạn nhân bị giết. Gordon cảm thấy Ivan Milat có vấn đề nhưng khi quay trở về báo cáo với cấp trên, anh chỉ nhận được câu trả lời: “Hãy tìm thêm chứng cớ”.

Tin rằng sự nghi ngờ của mình là hoàn toàn chính xác, Gordon tìm kiếm hồ sơ tố tụng hình sự và tìm thấy Ivan Milat đã từng có vài năm ngồi tù. Tuy nhiên, không có những hành vi tội phạm nào chỉ ra hắn sẽ trở thành một tay sát thủ liên hoàn. Sau khi “lục” thêm nhiều tài liệu lưu trữ khác, Gordon đã tìm ra được chi tiết hết sức quan trọng. Năm 1971, Ivan bắt 2 cô gái đang thực hiện chuyến đi bộ đường dài từ Liverpool đến Melbourne và cưỡng bức một trong số đó. Cả 2 cô gái khai rằng hắn có một con dao rất lớn và một sợi dây thừng dài.

Ivan Milat được triệu tập đến cơ quan điều tra nhưng sau được cho về vì cảnh sát không thu thập đủ chứng cứ để kết tội. Gordon và McCluskey một lần nữa đề nghị lên cấp trên để đặt máy nghe trộm trong nhà và xe hơi của Ivan. Nhưng họ không thể thuyết phục được cấp trên, Clive Small. Clive hoàn toàn đúng bởi luật pháp quy định rất rõ ràng về chuyện sử dụng các thiết bị điện tử để giám sát đối tượng tình nghi. Nó chỉ được dùng khi tất cả các biện pháp thu thập chứng cứ đều không hiệu quả và họ phải chắc chắn là đó là đối tượng tình nghi chính xác.

Một vài ngày sau, Clive chỉ định 4 thám tử, bao gồm cả Gordon và McCluskey, làm việc suốt ngày, lập một đội theo dõi Ivan Milat và nhà anh ta 24/24. Sau khi nhận nhiệm vụ, họ bắt đầu tiến hành kiểm tra, rà soát và thu thập tin tức liên quan đến Ivan Milat. Trong khi đó, thám tử Gordon cho dù đang bực tức về những hoài nghi của cấp trên, song anh ta vẫn tin rằng mình đã tới rất gần tên sát thủ.

Để tăng cường đội ngũ điều tra, Clive Small bắt đầu tập hợp một nhóm chuyên gia làm nhiệm vụ phân tích các động cơ và trạng thái tâm lý của những người có khả năng trở thành tội phạm. Bác sĩ chuyên khoa tâm thần, Rod Miltin và trưởng khoa nhân loại học của trường ĐH Sydney, Richard Basham đã được Clive Small mời đến để trợ giúp trong quá trình điều tra đang gặp rất nhiều khó khăn. 

Trong khi đó, Clive vẫn tin rằng hung thủ sống đâu đó ở phía Nam Belangalo. Bởi vậy, ông đã đề xuất kế hoạch tới từng ngôi nhà để kiểm tra, rà soát những người có vũ khí. Tuy nhiên, ý kiến này không được sự đồng thuận từ phía các đồng nghiệp. Lý do họ đưa ra chính là cảnh sát không đủ nhân lực để tiến hành công việc này. Người phản đối kịch liệt nhất là tiến sĩ Basham bởi ông khẳng định thế chẳng khác nào “tìm kim đáy bể”.

Nhóm nghiên cứu lục lại mọi thông tin trong hồ sơ bởi họ rất quan tâm đến lời khai của Alex Milat, người đàn ông đã nhìn thấy 2 chiếc xe ô tô bắt cóc và uy hiếp các cô gái trẻ ở trên xe. Clive khẳng định, sau bao nhiêu năm như vậy, người đàn ông đó phải có một trí nhớ siêu phàm mới có thể tả lại khung cảnh lúc bấy giờ một cách chi tiết và mạch lạc. Basham lại tin rằng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra nếu như người đàn ông kia tham gia vào sự việc. Kể từ đó tiến sĩ khoa nhân loại học tin vào giả thiết có hơn một người dính líu vào vụ việc và họ có thể là anh em trong một gia đình.

Cuộc thảo luận bắt đầu chuyển hướng sang nơi ở của hung thủ. Milton đưa ra giả thuyết tên giết người có thể không sống ở khu vực này nhưng lại thường xuyên qua lại nơi đây bởi một lý do nào đó. Sau khi nghiên cứu bản đồ khu vực, họ suy luận và tin rằng hung thủ nhiều khả năng sống ở khu vực phía Nam, gần với đường quốc lộ Hume. Bởi trên thực tế, tất cả các nạn nhân đều từng được nhìn thấy ở đó hoặc gần Liverpool. Và xác chết được tìm thấy đều nằm trong rừng Belangalo càng khiến giả thuyết đó trở nên có lý hơn.

Bên cạnh đó, cảnh sát bắt đầu tìm kiếm thông tin về gia đình Milat, tuy nhiên, trong các tài liệu đều không có nhiều về tên tuổi hay lý lịch của họ. Clive Small thì hiểu rằng đội điều tra còn cả một chặng đường dài để đến được cái đích cuối cùng, nhưng vướng mắc hiện nay là phải làm sao ráp nối được những giải thuyết đến với gia đình Milat.

Cảnh sát liên tục tìm kiếm bằng chứng cho tới tháng 03/1994. Một đội chuyên tập trung vào gia đình Milat đã thu được hồ sơ về đất đai, tài sản và xe hơi mà gia đình Milat từng sở hữu. Một chi tiết khá thú vị khi 3 anh em Milat cùng làm chủ một mảnh đất ở trên đường Wombeyan Caves, cách 25 dặm với Belangalo. Ngoài ra, một chiếc xe Nissan Patrol 4 chỗ màu bạc cũng được xác định người đứng tên đăng kí là Ivan Milat.

Người chủ sở hữu mới của chiếc xe được triệu tập và cảnh sát đã tìm thấy một viên đạn ở dưới ghế lái. Nó có cỡ 22mm và hoàn toàn trùng khớp với những vỏ đạn ở khu vực A, nơi tìm thấy xác của Clarke và Walters. Được biết, Milat đã bán chiếc xe 2 tháng sau khi 2 cô gái người Anh này mất tích.

Thám tử Gordon và đội của anh đã giải đáp được khá nhiều thắc mắc nhưng vẫn cần một điều gì đó kết nối chúng lại với nhau, đại loại như là những nhân chứng đã thấy Ivan Milat và chiếc xe của hắn ta ở khu vực hiện trường cùng với thời gian diễn ra vụ án. Họ rà soát lại tất cả những thông tin thu thập được từ đường dây nóng. Sau nhiều tuần làm việc, cuối cùng vào 13/04, Gordon đã tìm ra những lời khai của Paul Onion gọi tới đường dây nóng 5 tháng trước. Anh ta đọc lại báo cáo mô tả lại sự việc xảy ra vào tháng 01/1990 và tin rằng người đàn ông có tên Paul sẽ là một nhân chứng rất quan trọng. 

Sự miêu tả về chiếc xe, khu vực xảy ra sự việc và tên lái xe, những lời khai này sẽ giúp ghép nối mọi thông tin lại với nhau. Gordon liền mang phát hiện mới này đến cho người trực tiếp điều hành vụ điều tra, Clive Small. Ngay lập tức, Clive Small gọi điện lại để lấy bản báo cáo gốc của cảnh sát ở Bowral nhưng tài liệu đã bị thất lạc. Rất may, nữ cảnh sát trực hôm đó, Janet Nicholson vẫn lưu lại tất cả trong cuốn sổ tay của mình về những lời khai của Paul Onion. Sau đó, đội điều tra ngay lập tức đến thu thập thông tin trực tiếp từ những người chủ lao động của Richard và Ivan Milat.

Và thông tin đã được xác nhận: Richard vẫn làm việc vào đúng ngày Paul Onion bị tấn công còn Ivan thì không. Ngoài ra, qua kiểm tra, người ta còn biết được rằng Ivan từng lại việc tại khu vực Galston Gorge vào đúng khoảng thời gian túi đồ của James Gibson được tìm thấy. Cảnh sát đã phỏng vấn nhiều đồng nghiệp của y và đều thu được thông tin: hắn rất thích súng. Một người bạn của Ivan, Tony Sara kể lại rằng Ivan sở hữu một chiếc xe máy, một chiếc ô tô Nissan 4 chỗ và một kho vũ khí ngay tại nhà. Thêm một chi tiết nữa, hắn thường xuyên đi xuyên qua rừng trên đường đi làm.

Đến cuối tháng 4, Paul Onions nhận được cú điện thoại từ Australia. Thám tử Stuart Wilkins nói rằng anh ta là một nhân chứng hết sức quan trọng và liệu có thể bay ngay tới Sydney càng sớm càng tốt hay không. Paul lúng túng bởi nghĩ rằng câu chuyện của mình khi xưa không khiến cho cảnh sát Australia quan tâm đến. Vậy mà bỗng nhiên, họ lại nói anh là nhân chứng quan trọng. Một tuần sau đó, Paul có mặt tại Sydney và được cảnh sát lái xe đưa đến những nơi liên quan đến lời khai khi xưa trước khi phỏng vấn. 

Đầu tiên là một cửa hàng nhỏ, nơi anh ta gặp người có tên Bill. Đó là một sạp báo có tên Lombardo. Sau đó, họ đi xuống xa lộ ở phía Nam và Paul nói: “Sai rồi. Chúng tôi đi xuyên qua một thị trấn”. Tuy nhiên, cảnh sát đã khẳng định không có bất cứ một thị trấn nào ở trên con đường này. Nhưng rồi họ nhớ ra rằng vào tháng 1/1990, thời điểm Paul Onions bị tấn công, đường cao tốc này vẫn chưa được hoàn thành và đường quốc lộ Hume là con đường đi qua Mittagong. Sau đó, cảnh sát đưa cho Paul 13 bức ảnh để nhận diện ra người đã tấn công anh khi xưa. Và không chần chừ, Paul chọn ngay tấm số 4.

“Chính hắn ta đó, tấm số 4”, Paul quả quyết cho dù cảnh sát có yêu cầu anh xem kỹ những tấm khác. Và gã đàn ông trong tấm hình chính là Ivan Milat.Clive Small đã được thông báo về phát hiện mới và ngay lập tức, sau khi tham khảo ý kiến với Lynch, ông quyết định ra lệnh bắt giữ Ivan Milat vì họ đã đủ chứng cứ để kết tội gã hành hung Paul Onions. Bên cạnh đó, cảnh sát lục soát nhà của Ivan Milat ở Eaglevale, gần quốc lộ Hume và cách Liverpool vài dặm. Dựa vào giả thuyết Ivan không hành động một mình, cảnh sát cũng tới nhà của mẹ và anh em hắn, Richard, Walter và Bill để tìm kiếm chứng cớ. Tài sản của họ ở trong rừng cũng bị lục soát. Không chi tiết nào được bỏ sót.

Cuộc tấn công được lên kế hoạch rất chi tiết với hơn 300 cảnh sát tham gia. Để giữ bí mật, họ không được để lộ ra bất kì thông tin nào về thời gian và địa điểm của các cuộc tấn công cho tới khi nó diễn ra. Cuộc đổ bộ nhắm vào nhà của Ivan được đặt mã “Air-1”. Do giờ làm việc của Ivan Milat rất thất thường, nên cuộc tấn công được xác định sẽ tiến hành vào 6h30 sáng Chủ nhật, ngày 22/05/1994. 50 cảnh sát bao gồm cả lực lượng vũ trang, các viên chỉ huy và cảnh sát được tập trung tại đồn cảnh sát Campbelltown từ 2 giờ sáng.

Đúng 6h30, tất cả đã vào vị trí để sẵn sàng tóm gọn đối tượng. Tuy nhiên, thám tử Gordon sử dụng cách thương thuyết, yêu cầu Ivan Milat ra hàng để tránh việc nổ súng. Phải sau tới 2 lần gọi điện buộc Ivan ra hàng, gã và bạn gái Chalinder Hughes mới chịu giơ tay chịu trói.

Ngay sau đó, cảnh sát bắt đầu tiến hành lục soát nhà Ivan. Một vài tấm bưu thiếp, một viên đạn được tìm thấy trong phòng ngủ song hắn chối bay rồi khẳng định mình không sở hữu khẩu súng nào và rằng đó chỉ là viên đạn gã mang về khi đi săn cùng anh trai. Sang đến phòng kế bên, các nhân viên thuộc đội pháp chứng tìm được túi đồ nghề của Ivan trong đó có một con dao dài 30 centimét. 

Ngoài ra, còn một cuốn sách mà trung sĩ Dutton hết sức quan tâm. Đó là quyển hướng dẫn sử dụng khẩu Ruger 22 li. Mọi chuyện dần trở nên sáng tỏ. Tất cả những đồ vật trong nhà đều giúp những nghi vấn của cảnh sát được giải thích. Trong một cuốn album ảnh gia đình, họ lại thấy xuất hiện một khẩu Colt 45 li, giống hệt như miêu tả của Paul Onions. Đáng chú ý hơn, bạn gái của Ivan, Chalinder Hughes đã xuất hiện trong bức ảnh khi khoác trên mình chiếc áo hiệu Benetton, giống như chiếc của Caroline Clarke.

Kế đến, cảnh sát tiếp tục lục soát gara nằm ngay cạnh nhà chính. Và ở nơi này, đội pháp chứng đã tìm được thứ mà họ cần, đó là khẩu Ruger 22 li được tháo thành nhiều phần và giấu trong một chiếc túi nilong treo trên trần nhà. Cho dù liên tục chối cãi rằng chưa bao giờ nhìn thấy những đồ vật đó trong nhà tại đồn cảnh sát Campbelltown sau khi được giải đi, song bằng các phương pháp nghiệp vụ, nhóm nghiên cứu súng đạn khẳng định những viên đạn tại hiện trường hoàn toàn trùng khớp với khẩu Ruger 22 li được tìm thấy ở nhà Ivan.

Trước những bằng chứng rành rành, Ivan Robert Marko Milat bị kết tội đã ra tay sát hại 7 khách du lịch và chờ ngày toà phán quyết. Đáng lẽ ra, phiên toà xét xử Ivan dự định sẽ diễn ra vào tháng 02/1995, nhưng do một vài rắc rối trong việc tập hợp giấy tờ, ngày phán xét đã hoãn lại cho tới tháng 06/1996. Cuối cùng, sau nhiều ngày chờ đợi, người dân Australia đã được nghe bản cáo trạng tuyên bố mức hình phạt gã sát nhân gây chấn động quốc gia này vào ngày 27/07/1996. 

Với tội danh tấn công Paul Onions, Ivan Milat phải chịu mức án 6 năm tù. Còn với tội giết Caroline Clarke, Joanne Walters, Simone Schmidl, Anja Habschied, Gabor Neugebauer, James Gibson và Deborah Everist, hắn phải chịu một án tù chung thân cho mỗi tội danh giết người. Được biết, cho đến nay, Ivan Milat vẫn sống và đang bị giam tại Goulburn Gaol, nhà tù dành cho nam giới được bảo vệ nghiêm ngặt nhất Australia. Hồi tháng 01/2009 vừa qua, hắn đã dùng dao tự cắt ngón tay út của mình để gửi lên toà án tối cao với mục đích kháng cáo. Nhưng tất cả chỉ là những cố gắng bất thành của tên tội phạm đã đi vào lịch sử đất nước “chuột túi”. 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH