CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 123/a

 (ĐC sưu tầm trên NET)

‘Tam Quốc diễn nghĩa’: 6 trận chiến nổi tiếng nhất quyết định cục diện thiên hạ (Phần 1)




Phan 1

Từ những trận trước khi cục diện Tam Quốc hình thành như Đồng Quan, Hổ Lao Quan cho đến những trận phân định thiên hạ như Quan Độ, Xích Bích, Di Lăng đi vào sử sách, cả về quy mô, mưu trí cũng như sự dũng cảm phi thường của các dũng tướng huyền thoại một thời. Tất cả đã tạo nên một thời đại anh hùng, huy hoàng hiếm có. 
1. Trận Hổ Lao Quan – Tam anh chiến Lã Bố
Trận Hổ Lao Quan là cuộc chiến giữa Đổng Trác – Lã Bố và liên minh 18 lộ chư hầu Quan Đông do Viên Thiệu làm minh chủ vào năm 190. Đó là trận chiến đã khắc họa hình ảnh hào hùng của các vị tướng. Đặc biệt là trận đọ sức trực tiếp nổi tiếng giữa Lã Bố chống lại ba anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, còn gọi là Tam anh chiến Lã Bố đã đi vào lịch sử, văn hóa Trung Quốc.
Sau khi Quan Vũ chém Hoa Hùng, quân Đổng Trác thua chạy dài. Đổng Trác đích thân dẫn 15 vạn quân tiến ra giữ Hổ Lao quan. Riêng Lã Bố lĩnh 3 vạn quân ra trước quan ải, đóng một trại lớn làm tiền quân còn Đổng Trác thì đóng đồn trên cửa quan.



v
Đổng Trác và con rể Lý Nho trên thành nhìn xuống trận chiến chuẩn bị xảy ra.

Bên kia, Viên Thiệu họp các tướng lại bàn, cử binh tiến sát cửa Hổ Lao vây đánh. Tào Tháo cũng dẫn quân tiếp ứng. Các chư hầu đều có mặt. Lã Bố đem 5000 quân thiết kỵ lại khiêu chiến, đánh tan quân tiền bộ của Vương Khuông, liên tiếp đánh bại các danh tướng của quân liên minh như Phương Duyệt, Mục Thuận, Vũ An Quốc…



v
Lã Bố, được mệnh danh là “chiến thần”, kiêu dũng khác thường.

Lã Bố lại kéo quân đến thách đánh. Các tướng chư hầu ai nấy đều khiếp sợ trước sự kiêu dũng của Lã Bố. Công Tôn Toản vác ngọn giáo nhảy ra đánh Lã Bố, mới được vài hiệp thì thua chạy. Lã Bố thúc ngựa xích thố sấn lại đuổi, ngựa này chạy nhanh như bay. Lã Bố gần đuổi kịp Toản thì ở bên rìa đường, Trương Phi quát lớn: “Thằng đầy tớ ba họ kia đừng chạy nữa! Có Trương Phi người đất Yên đây!” Lã Bố thấy thế bỏ Công Tôn Toản, đánh nhau với Trương Phi.



c
Trương Phi xuất chiến đánh Lã Bố.

Trương Phi hăng hái cố đánh Lã Bố. Hai người đánh nhau được hơn 50 hiệp chưa rõ bên nào thua bên nào được. Quan Vũ đứng ngoài thấy thế cầm thanh long yển nguyệt đao phi ngựa đến cùng đánh. 3 con ngựa đứng dàn kiểu chữ đinh, đánh nhau được 30 hiệp nữa hai người cũng vẫn không hạ được Lã Bố. Lưu Bị bấy giờ cũng cầm song kiếm thúc ngựa chạy vào đánh giúp hai người em của mình. Ba người vây tròn lấy Lã Bố đánh chẳng khác gì quân đèn cù.
Lã Bố cố sức chống đỡ không nổi, bèn nhắm giữa mặt Lưu Bị phóng vờ một ngọn kích, Bị tránh được, Bố mở góc của trận, cắp đao ngược kích, phi ngựa chạy về. Ba người thúc ngựa sấn vào, quân mã 8 xứ đều reo ầm lên, xô cả ra đánh. Quân Lã Bố chạy về trên cửa Hổ Lao, ba người theo sau đuổi mãi.



v
3 anh em Lưu – Quan – Trương và Lã Bố trọng trận Hổ Lao Quan. (Ảnh: Internet)

Điển cố “Tam anh chiến Lã Bố” trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa được đánh giá là một trong những câu chuyện truyền kỳ, khiến cho “chiến thần” Lã Bố vang danh thiên hạ.
Thế nhưng không mấy người biết rằng, trong trận chiến Hổ Lao Quan, Lã Bố đã nói: “Đánh nhau kịch liệt không phân thắng bại, trước trận chỉ sầu não trước Quan Vân Trường. Thanh Long Bảo Đao rực rỡ trong sương tuyết, Chiến bào Anh Vũ bay như cánh bướm”. Quan Vân Trường được miêu tả có khuôn mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu dài hai thước, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt Đao cưỡi trên ngựa Xích Thố, dáng vẻ oai phong lẫm liệt đó đã đi sâu vào trái tim của biết bao người.



Quan Vũ được mệnh danh là 'võ thánh' trong lịch sử Trung Hoa. (Ảnh: Internet)
Quan Vũ được mệnh danh là ‘võ thánh’ trong lịch sử Trung Hoa. (Ảnh: Internet)

Sau trận chiến này, chư hầu 8 xứ cùng mời 3 anh em Lưu – Quan – Trương đến mừng công rồi sai người về trại Viên Thiệu báo tin mừng.
2. Trận Quan Độ – Tào Tháo đại phá Viên Thiệu
Trận Quan Độ là trận đánh diễn ra trong lịch sử Trung Quốc vào năm 200 tại Quan Độ thuộc bờ nam Hoàng Hà giữa Tào Tháo và Viên Thiệu là 2 thế lực quân sự mạnh nhất trong thời kì tiền Tam Quốc. Tào Tháo mượn danh thiên tử để chuyên quyền và đã chiếm lĩnh toàn bộ khu vực Trung Nguyên. Các lực lượng đối lập đều bị đè bẹp, chỉ duy Viên Thiệu là kẻ địch lớn nhất và đáng gờm nhất của Tào Tháo. Viên Thiệu chẳng những đất rộng binh cường mà danh vọng trong xã hội lại rất cao với cái danh “ba đời làm Tam Công”.



v
Tào Tháo và Viên Thiệu, 2 lực lượng mạnh nhất thời bấy giờ.

Trận Quan Độ năm 220, là trận quyết định vận mệnh của Tào Tháo và Viên Thiệu, cũng mở ra một thời kỳ mới. Vào thế bất đắc dĩ, Tào Tháo đành phải dùng kế “lấy ít địch nhiều”, dùng 7 vạn quân tinh nhuệ để có thể chống cự với 70 vạn đại quân của Viên Thiệu.
Chiến dịch Bạch Mã – Diên Tân
Ban đầu, với quân đội đông đảo, Viên Thiệu đã ra tay đánh phủ đầu trước. Tháng Hai năm Kiến An thứ năm đời Hán Hiến đế (200 sau Công nguyên), Thiệu đưa quân tới Lê Dương, sai đại tướng Nhan Lương đem quân đánh thành Bạch Mã, tiếp đó, sai tướng Văn Xú tiến đánh Diên Tân, nhưng quyết chiến điểm vẫn là tại Bạch Mã. Tháng Ba, Lưu Diên quân ít không chống cự nổi, đưa thư cấp cứu Tào Tháo. Tháo lập tức tiếp viện cho Bạch Mã, nhưng Tuân Du khuyên Tháo nên tiếp viện cho Diên Tân. Tháo lập tức hiểu ý Tuân Du, thi hành chiến thuật “giương đông kích tây”, làm ra vẻ chuẩn bị vượt Hoàng Hà đánh vào hậu phương Viên Thiệu.



v
Quan Vũ ra trận 1 đao chém chết Nhan Lương giữa chốn đông người.

Tháng 4 năm 200, Tào Tháo dẫn 2 tướng Trương Liêu và Quan Vũ đi cứu Bạch Mã và cũng chia quân ra Diên Tân để phân tán sự chú ý của Thiệu. Quả nhiên Thiệu trúng kế, tăng cường thêm quân cho Diên Tân mà không chú ý Bạch Mã. Tào Tháo nhân đó đột ngột thúc quân đánh mạnh ở Bạch Mã, sai Quan Vũ ra trận giết chết mãnh tướng của Thiệu là Nhan Lương, giải vây thành Bạch Mã.
Sau khi giải phóng Bạch Mã, Tào Tháo sợ Viên Thiệu trút giận lên đầu dân chúng, nên dẫn họ men theo sông Hoàng Hà đi về phía tây lánh nạn. Xưa nay ta chỉ biết chuyện Lưu Bị khi rút lui đem theo 10 vạn dân Kinh – Tương bỏ đi, mà không biết rằng Tào Tháo cũng từng là một người như thế.
Tháng 5 năm 200, Tào Tháo cùng Quan Vũ và Trương Liêu đi men theo Hoàng Hà về phía tây đến cứu Diên Tân. Hành quân đến nam Diên Tân thì chạm trán với quân Thiệu vừa sang sông, Viên Thiệu cùng Lưu Bị và Văn Xú mang quân tới, một cuộc huyết chiến là không thể tránh khỏi. Khi đó quân Tào ở trên gò cao, quân Thiệu đánh tới. Tiêu binh báo cáo: “Khoảng năm trăm kỵ binh của Thiệu đã tới“. Lát sau lại báo: “Kỵ binh đã nhiều lên, bộ binh thì đếm không xuể“. Tào Tháo bảo: “Không cần báo cáo nữa“. Liền lệnh cho quân sĩ tháo yên ngựa, nghỉ ngơi tại chỗ. Các tướng ngớ ra, nói quân địch đông quá, xin cho vận chuyển đồ quân trang quân dụng về doanh trại trước rồi hãy đánh.
v
Chỉ Tuân Du là hiểu ý Tào Tháo, vừa cười vừa bảo: “Đó là mồi dử, chuyển đi làm gì?” Tháo cũng cười, rất là tự tin. Lát sau, Văn Xú cùng Lưu Bị (khi đó đang theo Viên Thiệu) dẫn năm nghìn quân ào tới. Các tướng hỏi: “Bây giờ lên ngựa được chưa?” – Tào Tháo bảo không vội. Quả nhiên, kỵ binh Văn Xú và Lưu Bị thấy đồ quân dụng ngổn ngang, liền xuống ngựa tranh nhau cướp. Lúc này Tháo mới lệnh cho đốt pháo hiệu, chiêng trống rầm trời, 600 thiết kỵ của Tháo từ trên gò cao đánh xuống, quân Thiệu tan vỡ.
Chiến sự Quan Độ
Sau vài tháng ngưng nghỉ điều quân, hai bên tái chiến trong trận thư hùng ở Quan Độ ngay từ tháng 8 năm đó, kéo dài hơn 100 ngàyBị thua và mất hai tướng, Viên Thiệu điều đại quân đến Dương Vũ, phía tây bắc Trung Mâu, men theo đồi cát dọc bờ sông, dựng vài chục doanh trại kéo dài từ đông qua tây, định triển khai hai cánh bao vây quân Tào rồi tiêu diệt.
Tào Tháo không lui binh, cũng chia quân làm nhiều nhóm chống cự, nhưng vì ít quân hơn nhiều nên không đủ phân ra các vị trí có địch. Viên Thiệu mang quân ra khỏi luỹ, giao chiến với quân Tào. Quân Tào thua trận phải lùi lại mấy lần. Tào Tháo ra lệnh tướng sĩ cố giữ vững trận địa, quân địch khiêu chiến nhiều lần nhưng không ra đánh.



f
Viên Thiệu với lực lượng áp đảo, ngày đêm khiêu chiến Tào Tháo.

Viên Thiệu bèn bày trận trên dãy núi đất, dựng nhiều chòi gỗ, đứng trên đó bắn xuống doanh trại quân Tào. Quân Tào mỗi người phải dùng thuẫn gỗ che đỡ tên bắn. Sau đó Tào Tháo dùng xe bắn đá, có sức mạnh bắn những viên đá mười mấy cân bay ra xa ngoài ba trăm mét, phá nát các chòi gỗ của địch.
Viên Thiệu lại cho quân đào nhiều địa đạo vào doanh trại quân Tào. Ông phát hiện bèn sai quân đào đường hầm theo chiều ngang nằm phục sẵn, hễ quân Viên đến thì bắn chết. Hai bên giữ nhau lâu ngày, Tào Tháo sắp hết lương, muốn rút lui, bèn hỏi ý kiến Tuân Úc đang trấn thủ Hứa Xương. Tuân Úc viết thư trả lời, khuyên Tào Tháo kiên trì giữ, nhất định không được rút lui, nếu không hậu quả sẽ rất xấu.
Ông viết: “Tuy nay lương thực trong quân đội khiếm khuyết, nhưng chưa bằng tình hình khiếm khuyết lương thực hai quân Sở và Hán đánh nhau tại Huỳnh Dương và Thành Cao. Lúc bấy giờ Lưu Bang và Hạng Võ không ai chịu rút lui cả. Vì kẻ nào rút lui trước thì kẻ đó sẽ bị thiệt hại to. Nay ngài với một binh lực yếu kém hơn, mà đã chia ranh giữ đất, nắm lấy yết hầu của đối phương để chúng không thể tiến lên được. Tình hình đó đã kéo dài nửa năm rồi, vậy một khi tình hình diễn biến đến mức cùng cực, thì tất nhiên sẽ có biến động. Đến chừng đó, chúng ta sẽ dùng kỵ binh tập kích, chắc chắn sẽ giành được thắng lợi thôi”. Tào Tháo nghe theo, lệnh cho các tướng sĩ cố sức giữ thế trận.
v
Đánh lâu ngày không hạ được, Viên Thiệu chưa nghĩ ra kế nào khác. Nội bộ của Viên Thiệu lại bộc lộ sự mâu thuẫn. Thiệu sai Thuần Vu Quỳnh mang 1 vạn quân đi về nhận lương để chở ra mặt trận. Mưu sĩ Hứa Du hiến kế cho Viên Thiệu để cho ông ta nhân lúc Hứa Đô phòng thủ lỏng lẻo, phái một cánh binh đi vòng qua Quan Độ tập kích Hứa Đô. Viên Thiệu không nghe. Đúng lúc đó Hứa Du có người nhà bị tội vào ngục, xin Viên Thiệu tha không được nên bất mãn, bỏ sang hàng Tào Tháo. Hứa Du bất mãn cũng có phần do là do nhắc nhở Viên Thiệu không nên sử dụng Thuần Vu Quỳnh là người nóng tính, nghiện rượu. Viên Thiệu đa nghi, không tin Hứa Du.
Được tin báo của Hứa Du về việc Thuần Vu Quỳnh, Tào Tháo đích thân mang 5.000 quân mã đuổi đến kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Đang đêm, quân Tào bất ngờ tập kích, Nhạc Tiến chém chết Quỳnh. Tào Tháo đốt sạch kho lương của Viên Thiệu. Trong hơn 1 vạn quân của Quỳnh thì hơn 1.000 bị giết, số còn lại đầu hàng. Tào Tháo sai cắt hết mũi xác chết, lưỡi của bò ngựa giao cho quân đầu hàng mang về doanh trại Viên Thiệu để uy hiếp tinh thần, làm nhụt ý chí quân địch.



v
Tào Tháo đốt cháy kho lương lớn nhất của Viên Thiệu tại Ô Sào, chính thức xoay chuyển 180 độ cục diện trận chiến.

Viên Thiệu thấy lửa cháy từ xa, biết tin Ô Sào bị đánh, một mặt điều quân cứu Quỳnh, mặt khác sai Trương Cáp, Cao Lãm đi cướp doanh trại Tào. Nhưng Tào Tháo đã bố trí quân phòng bị trước, đúng như dự liệu của Cáp và Lãm. Cáp và Lãm không hạ được trại Tào, lại nghe tin Tào Tháo phá tan Ô Sào trở về, bèn quyết định đầu hàng Tào.
Viên Thiệu liên tiếp nghe tin thua trận, kho lương bị mất, tướng sĩ náo loạn, kéo nhau bỏ chạy. Tào Tháo thừa cơ dẫn quân tập kích khiến quân Thiệu đại bại tan nát. Thiệu hốt hoảng, cùng con là Viên Đàm dẫn 800 quân kỵ chạy một mạch, qua sông Hoàng Hà mới dám dừng lại nghỉ.



v
Tào Tháo đứng trước mộ của Viên Thiệu kể lại cuộc chiến giữa đôi bên, không ngừng ca ngợi Thiệu.

Trận Quan Độ đánh dấu sự suy yếu và từ đó đi tới chấm dứt hoàn toàn quyền lực của tập đoàn Viên Thiệu, mở đường cho Tào Tháo làm chủ cả miền Bắc Trung Quốc, chiếm thế thượng phong trong cục diện “quần hùng tranh thực” khi đó.
Viên Thiệu sau tiếp tục thất bại ở Thương Đình, 2 năm sau thì mất. 3 người con của Viên Thiệu là Viên Thượng, Viên Hy, Viên Đàm tranh giành quyền lực đánh nhau, lần lượt bị Tào Tháo tiêu diệt. Trận Quan Độ còn cho thấy tài năng quân sự tuyệt vời của Tào Tháo và sự yếu kém về khả năng lãnh đạo và quân sự của Viên Thiệu. Đồng thời, nó để lại bài học lớn về lấy ít chống đông, lấy yếu thắng mạnh.
Sách Tam Quốc Chí, Ngụy Vũ Đế bản kỷ chép:
Đời vua Hoàn Đế, sao Hoàng tinh mọc sáng giữa ranh giới hai nước Tống, Sở. Ân Quỳ, một nhà thiên văn ở đất Liêu Đông đoán rằng: năm mươi năm về sau tất sẽ có Chân Nhân khởi nghiệp tại vùng Lương Bái, sức mạnh như sấm sét. Quả nhiên đúng 50 năm, thì Tào phá Viên Thiệu, thế lớn chẳng ai bằng“.



v
Các bô lão trong vùng nghe tiếng Tào Tháo đại phá Viên Thiệu, mang rượu lên đỉnh núi chúc mừng Tháo và kể về lời tiên tri cách đây 50 năm về trước, giờ đã ứng nghiệm, Tháo hết sức vui.

Vậy là thuận theo sự diễn biến của bánh xe lịch sử, của thời thế, Tào Tháo sẽ trở thành một ngôi sao nổi lên giữa bầu trời đêm như một định mệnh đã được dự báo từ trước. Việc Viên Thiệu không lấy được thiên hạ mà lại là Tào Tháo âu cũng có lý do của nó!
Ánh Trăng
Hữu Bằng hiệu đính

3 chi tiết bất ngờ chứng tỏ Lưu Bị đích thực là ‘cao thủ võ lâm’




thumneo 1

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Lưu Bị hiện diện như là một thư sinh trói gà không chặt. Nhưng gần đây người ta đã tìm ra một số chi tiết chứng minh Lưu Bị biết võ, hơn thế còn là một cao thủ võ lâm.
Theo sử sách, Lưu Bị từng nhiều lần rút chạy thành công, thoát khỏi vòng vây của thiên binh vạn mã. Ông cũng lại nhiều lần đơn thương độc mã xông pha vào trận địch không chút sợ hãi. Điều đó chứng tỏ Lưu Bị tất biết võ công.
Khi nói về binh khí và cao thủ thời Tam Quốc, người ta thường chỉ nhớ về “Phương thiên họa kích” của Lã Bố, “Thanh Long yển nguyệt đao” của Quan Vũ, “Bát xà mâu” của Trương Phi hay cây thương nguy hiểm trong tay Triệu Tử Long. Kỳ thực, những người luyện võ đều biết câu: “Luyện đao trăm ngày, luyện thương ngàn ngày, luyện kiếm vạn ngày”.
Untitled-2
Câu đó có nghĩa là luyện đao thương thì dễ, luyện kiếm rất khó. Người trong võ lâm lấy việc luyện đao thương làm căn bản. Còn riêng về kiếm thuật, ai tinh thông luyện thành rồi thì đều là cao thủ. Một cao thủ dùng kiếm phải có nhiều phẩm chất: sự kiên nhẫn, quyết tâm, sự bình tĩnh đến cao độ và trí tuệ. Người đó lại cần có một nội tâm trong sạch và cảm giác cực kỳ nhạy cảm, đồng thời trong tích tắc phải có phản ứng thích đáng, kiếm đồng thời hòa làm một với tâm hồn kiếm thủ.
Một kiếm sĩ còn cần có sức lực mạnh mẽ, tay nắm kiếm cần phải chắc và có lực, đặc biệt là cổ tay càng cần phải cứng rắn như sắt thép đúc thành. Trong khi đó Lưu Bị sử dụng vũ khí là song kiếm. Trong võ lâm, sử dụng được song kiếm không có mấy người cho nên có thể nói rằng Lưu Bị rất có thể là một cao thủ.



Lưu Bị cầm song kiếm.
Lưu Bị cầm song kiếm, đây chính là vấn đề.

Loại song kiếm mà Lưu Bị sử dụng là kiếm gì? Đó là loại kiếm rất không bình thường mang tên Tam xích thanh phong. Nó vừa dài lại dày và nặng. Tác giả dám chắc rằng Quan Vũ hai tay có thể múa đại đao của ông dễ dàng nhưng loại song kiếm này chưa chắc ông đã có thể múa được vài hiệp. Trong ảnh là nhân vật Lưu Bị trong phim “Tam Quốc diễn nghĩa” 1994.
1. Lưu Bị với sức mạnh “vô song” chế ngự Trương Phi và Quan Vũ 
Quan Vũ, Trương Phi thân thủ giỏi thế nào mà tuy chỉ mới gặp đã nể phục mà chịu nhận một anh chàng đóng giày, bán chiếu ở chợ như Lưu Bị làm đại ca khi kết nghĩa vườn đào? Điều này thật không giản đơn.



v
2 anh hùng hảo hán Trương Phi và Vân Trường vì sao lại kết nghĩa vườn đào với Lưu Bị? Ông có điều gì đặc biệt?

Trong tập đầu phim Tam Quốc Diễn Nghĩa 1994 có cảnh Quan Vân Trường đi bán đậu tương ngoài chợ, thấy một người bán thịt nhưng lại làm khó những người khác không chịu bán. Vân Trường ra hỏi lý do, thì người này chỉ vào một cái giếng có một cái cối đá lớn đè ở trên, nói rằng ông chủ bảo ai nhấc được cối này lên thì tất cả thịt bên trong đều thuộc về người đấy.
Vân Trường cười nhẹ, vuốt râu nói nếu nhấc được thì thịt trong giếng là của mình. Vân Trường lấy hết sức bám chắc vào khối đá lớn, rồi nhấc bổng lên cao, rồi ném nó thẳng xuống dưới nền đất, đoạn bảo người kia chia thịt cho mọi người. Lưu Bị nhìn thấy cảnh này hết sức nể phục nhưng chưa vội ra mặt.
Lúc sau, gã bán thịt đi gọi ông chủ hắn đến, chính là Trương Phi. Vừa thấy Vân Trường, Trương Phi thò tay bốc ngay một nắm đậu tương, vò nát trong lòng bàn tay rồi gây sự. Hai người đấu với nhau một trận kịch liệt. Đang lúc kịch tính nhất, khi cả hai giằng co nhau dữ dội, bất phân thắng bại, Lưu Bị bèn đi vào, dùng hết sức nắm chắc 2 cổ tay của Trương Phi và Vân Trường rồi từ từ tách ra làm đôi và đè xuống dưới. Hai người kia quá bất ngờ trước sức mạnh phi thường của người bán giày, đoạn hạ tay lại, bình tĩnh cùng nhau xưng danh, bắt chuyện.



v
Lưu Bị, tay trái đẩy nắm đấm Quan Vũ xuống, tay phải nắm chặt cổ tay Trương Phi tách ra, sức mạnh của ông quả thật là không thể ngờ nổi!

Nói rồi Trương Phi bảo là mình cố tình gây sự với Vân Trường vì thấy ông là một trang hảo hán, muốn kết bạn thông qua võ thuật, ai ngờ hôm nay gặp được cả Lưu Bị, vậy là cả 3 người mời nhau về nhà Trương Phi ngồi tâm sự. Từ đó dẫn đến sự việc kết nghĩa vườn đào nổi tiếng của 3 anh em Lưu – Quan – Trương trong thời loạn thế, mở ra hàng loạt điển tích chấn động lòng người về sau, lưu danh sử sách.
2. Tam anh chiến Lã Bố
Trận Hổ lao quan khi quân liên minh đối đầu với Đổng Trác là lần đầu tiên Lưu Bị xuất kiếm. Cùng với Trương Phi, Quan Vũ, ông xuất kiếm quyết chiến với Lã Bố, tạo nên một trong những cuộc đối đầu thú vị nhất thời Tam Quốc. Có thể, Lưu Bị vốn không muốn bộc lộ bản thân là kẻ võ phu, chỉ trong những tình thế bắt buộc thế ông mới thể hiện sức mạnh của mình.
Biết được võ nghệ thực sự của Lưu Bị, có lẽ chỉ có 3 người là Quan Vũ, Trương Phi và Lã Bố. Lã Bố từng cướp Từ Châu của Lưu Bị, tưởng như chỉ cần múa một đường kích là có thể hạ ngay Lưu Bị nhưng cuối cùng vẫn không làm gì nổi. Lã Bố thậm chí cũng không dám hại người nhà Lưu Bị, không dám công khai chọc giận Lưu Bị.



Tam anh chiến Lã Bố.
Tam anh chiến Lã Bố, một trong những giai thoại nổi bật nhất về 3 anh em Lưu – Quan – Trương, hoạn nạn có nhau.

Tại Bạch Môn Lầu, Lã Bố đã có ý định giết Tào Tháo nhưng nhìn thấy Lưu Bị ngồi đó nên đành phải thay đổi ý định. Vì vậy rất có thể Lưu Bị là một cao thủ võ nghệ ẩn thân không lộ diện. Trong ảnh là phương thiên họa kích của Lã Bố và kiếm của Lưu Bị chạm nhau, cảnh trong phim Tam Quốc 1994.
3. Lưu Bị dùng song kiếm đánh với đô đốc Hạ Hầu Đôn ở gò Bác Vọng. 
Sau khi về làm quân sư cho Lưu Bị, Gia Cát Lượng bắt tay ngay vào xây dựng lực lượng ở Tân Dã. Tào Tháo nghe tin, điều đại tướng Hạ Hầu Đôn dẫn 10 vạn đại quân đi đánh Tân Dã. Lưu Bị giao quyền điều binh cho Khổng Minh. Khổng Minh cho quân mai phục chuẩn bị mọi thứ để tiêu diệt quân Tào tại Bác Vọng.



Hạ Hầu Đôn
Hạ Hầu Đôn và cái giá quá đắt khi coi thường đương kim kỳ sỹ – Ngoạ Long tiên sinh, và cái kết…

Gia Cát Lượng sai Trương Phi và Quan Vũ phục kích 2 bên sườn gò Bác Vọng, chuẩn bị đầy đủ mồi lửa sẵn sàng thiêu cháy quân Tào khi có hiệu lệnh. Cũng theo kế này Khổng Minh cho Triệu Tử Long và Lưu Bị đi dụ địch, chỉ được thua không được thắng. Lần đầu tiên Triệu Tử Long ra đánh, thua chạy nhưng Hạ Hầu Đôn không dám truy kích theo vì sợ gặp mai phục. Nhưng một lúc sau lại có toán quân xông ra, lần này đích thân Lưu Bị xuất đầu lộ diện.
Việc để Lưu Bị, người đứng đầu quân đội ra nghênh chiến cho thấy Khổng Minh đã biết rõ thực lực của Lưu Bị, rằng ông không chỉ là một chúa công chỉ biết dùng nhân nghĩa và nước mắt để thu phục thiên hạ, mà còn sở hữu một sức mạnh tiềm tàng rất to lớn, có thể ‘đánh nhử’ đô đốc quân Tào là Hạ Hầu Đôn được. Vì nếu không phải là Lưu Bị, thì ngoài Triệu Tử Long, dù có cả Trương Phi, Vân Trường cũng không thể nào nhử đại quân địch vào bẫy của mình được. Đó chính là điểm then chốt của trận chiến này.
Lưu Bị lao ra, cầm song kiếm đánh tay đôi với Hạ Hầu Đôn một hồi. Mà Hạ Hầu Đôn là ai? Đó là một trong những viên tướng cưng của Tào Tháo, không phải dạng vừa. Lưu Bị có thể đánh ngang ngửa với ông, thì quả đúng không phải tầm thường rồi. Sau đó, vì phải diễn theo đúng kế của quân sư, nên Lưu Bị giả thua bỏ chạy thục mạng. Thế là cả Hạ Hầu Đôn và các tướng lĩnh dưới trướng lần này đều trúng kế, không còn ai đề phòng mai phục gì nữa, vì cơ hội chém đầu Lưu Bị đã rất gần trong tầm tay rồi, bèn thúc ngựa đuổi theo.



Màn
Màn so găng giữa Lưu Bị và Hạ Hầu Đôn, một người dùng song kiếm, một người dùng trường đao.

Quân Tào tiến vào rừng đến khi đêm xuống, lúc này tướng dưới trướng mới thưa rằng Hạ Hầu Đôn nên dừng truy kích, chuẩn bị rút quân vì nơi này không nên ở lâu, thì bất ngờ tên lửa bắn xuống mịt mù, cây cối hai bên đường cháy to. Quân Tào hoảng loạn dẫm đạp lên nhau mà chạy, lương thực toàn bộ bị cháy. Toàn bộ Tào quân bị tiêu diệt, tướng Hạ Hầu Đôn chạy thoát.
Qua 3 điển tích này, mặc dù khá ‘mờ nhạt’, không phải là những chi tiết dễ thấy hay ấn tượng với khán giả, thế nhưng nó chính là phản ánh một khía cạnh khác của Lưu Bị, vị quân chủ nhà Thục Hán sau này, 1 trong 3 người có quyền lực nhất thời Tam Quốc. Lưu Bị quả là một người phi thường, rất đáng mặt được Tào Tháo khen là “anh hùng” trong thiên hạ!
Ánh Trăng
Hữu Bằng hiệu đính

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH