Bài
này nói về thực thể Trung Quốc (lịch sử và văn hóa) hay Trung Hoa. Về
chính thể hiện nay với tên gọi thông dụng Trung Quốc tại Đại lục Trung
Hoa,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; hoặc chính thể tại Đài Loan,
Trung Hoa Dân Quốc.
Trung Quốc (
Hoa phồn thể: 中國;
Hoa giản thể: 中国;
Hán Việt:
Trung Quốc;
bính âm:
Zhōngguó;
Wade-Giles:
Chung-kuo;
phát âm (trợ giúp·chi tiết)) là tổng hợp của nhiều quốc gia và nền văn hóa đã từng tồn tại và nối tiếp nhau tại
Đông Á lục địa, cách đây ít nhất 3.500 năm. Trung Quốc ngày nay, có thể được coi như có một hay nhiều nền
văn minh khác nhau, nằm trên một hay nhiều
quốc gia khác nhau, sử dụng một hay nhiều
ngôn ngữ khác nhau.
Với một trong những giai đoạn văn minh liên tục dài nhất của
thế giới và hệ thống chữ viết tiếp tục được dùng cho đến ngày nay,
lịch sử Trung Quốc đặc trưng bởi những chia tách và thống nhất lặp đi lặp lại qua các thời kỳ
hòa bình xen kẽ
chiến tranh, trên một lãnh thổ đầy biến động. Lãnh thổ Trung Quốc bành trướng ra xung quanh từ một vùng đất chính tại
Bình nguyên Hoa Bắc và lan ra tận các vùng phía
Đông,
Đông Bắc, và
Trung Á. Trong hàng thế kỷ, Đế quốc Trung Hoa cũng là một trong những nền văn minh với
kỹ thuật và
khoa học tiên tiến nhất, và có ảnh hưởng
văn hóa lớn trong khu vực Đông Á.
Tuy nhiên từ
thế kỷ 19 đến đầu
thế kỷ 20, ảnh hưởng kinh tế, chính trị, quân sự của Trung Quốc giảm sút nhiều do tác động của
sức mạnh phương Tây cũng như sức mạnh khu vực của
Nhật Bản.
Cuối thế kỷ 19 nhiều khu vực tại Trung Quốc đã bị cắt hoặc nhường cho
nước ngoài làm tô giới, nhượng địa, thuộc địa và phần lớn nước này bị
Nhật xâm chiếm vào
Thế chiến thứ hai và người Nhật đã tách lãnh thổ Mãn châu ra khỏi Trung Quốc, dựng nên chính phủ
Mãn Châu Quốc.
Chế độ quân chủ tại Trung Quốc chấm dứt và
Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) ra đời năm
1912 dưới sự lãnh đạo của
Tôn Dật Tiên; tuy nhiên Trung Quốc trong suốt bốn thập kỷ của THDQ đã hỗn loạn vì kiểu lãnh đạo
quân phiệt,
Chiến tranh Trung-Nhật lần II và
nội chiến giữa
Quốc Dân Đảng và
Cộng Sản Đảng.
Đảng Cộng sản Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của
Mao Trạch Đông sau khi giành chiến thắng đã thành lập nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm
1949, đẩy chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ra đảo
Đài Loan là hòn đảo vốn thuộc quyền quản lý của họ sau khi kết thúc Thế chiến thứ hai.
Tên gọi
Trung Hoa
Trung Quốc, có nghĩa là "quốc gia Trung tâm" hay "vương quốc ở trung
tâm". Tên gọi này không chỉ mang ý nghĩa Trung Quốc ở giữa các nước khác
mà còn thể hiện Trung Quốc là ở trung tâm "thiên hạ", có văn hóa và sức
mạnh nổi trội hơn các dân tộc và quốc gia xung quanh.
Tên gọi Trung Quốc đã không được dùng thống nhất trong suốt
lịch sử Trung Quốc, và thể hiện sắc thái văn hóa và chính trị. Vào thời
Xuân Thu, nó được dùng để mô tả về mặt chính trị các nước xuất phát từ
nhà Tây Chu, nằm trong châu thổ
Hoàng Hà, không tính các nước như
Sở dọc theo
Trường Giang và
Tần ở phía tây. Tuy nhiên vào thời
nhà Hán,
Sở và Tần kết nối vào Trung Quốc và được coi là một bộ phận của "Trung
Quốc mới". Và theo dòng lịch sử, tên gọi này dần ổn định và chỉ toàn bộ
lãnh thổ dưới sự cai trị của chính quyền đế quốc trung ương.
Tên gọi "Trung Quốc" trong các ngôn ngữ Tây phương
Tây An, thời cổ đại gọi là
Trường An, là kinh đô của 13 triều đại phong kiến khác nhau (bao gồm
Hán và
Đường) của Trung Quốc.
Tiếng Anh và nhiều thứ tiếng khác dùng tên
China (và
tiền tố Sino-), mà nhiều người coi là tên xuất phát từ tên "
nhà Tần" (
Qin)
là triều đại đầu tiên đã thống nhất Trung Quốc, mặc dù vẫn còn nhiều
chi tiết cần làm rõ thậm chí nguồn gốc của nó còn nhiều tranh cãi. Mặc
dù thực tế nhà Tần chỉ tồn tại rất ngắn và thường bị coi là cực kỳ tàn
bạo, nhưng nó đã xác lập một kiểu chữ viết thống nhất tại Trung Quốc và
gọi người nắm quyền tối cao của Trung Quốc là "Hoàng đế". Kể từ thời nhà
Tần trở đi, những thương nhân trên
Con đường tơ lụa đã sử dụng tên gọi "China". Ngoài ra còn nhiều thuyết khác về nguồn gốc của từ này.
Trong bất kể trường hợp nào, từ
China đã đi vào nhiều
ngôn ngữ theo
Con đường tơ lụa trước khi nó truyền tới
châu Âu và nước
Anh. Từ
China của phương Tây đã được
người Nhật chuyển tự thành
Chi Na và dùng từ
thế kỷ 19, và trở thành một từ có tính chất tiêu cực trong
tiếng Nhật.
Tên gọi
China theo nghĩa hẹp chỉ
Trung Quốc bản thổ, hoặc Trung Quốc bản thổ cùng với
Mãn Châu,
Nội Mông,
Tây Tạng và
Tân Cương, một kết hợp đồng nghĩa với thực thể chính trị Trung Quốc vào
thế kỷ 20 và
21; biên giới giữa các khu vực này không nhất thiết phải đúng theo
ranh giới các tỉnh Trung Quốc.
Trong nhiều văn cảnh khác nhau, "Trung Quốc" thường được dùng để chỉ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hay Đại lục Trung Quốc, trong khi "Đài Loan"
được dùng cho Trung Hoa Dân Quốc. Bình thường, trong văn cảnh
kinh tế hay
kinh doanh, "
Đại Trung Hoa địa khu" dùng để chỉ
Đại lục Trung Quốc,
Hồng Kông,
Ma Cao và
Đài Loan.
Các
nhà Trung Quốc học thường dùng
Chinese theo một nghĩa hẹp gần với cách dùng kinh điển của "Trung Quốc", hoặc để chỉ sắc dân "
Hán", là sắc dân chiếm đại đa số tại Đại lục Trung Quốc.
Trong một số trường hợp thì tên gọi "
Trung Quốc đại lục" rất thích hợp để chỉ Trung Quốc, đặc biệt khi để phân biệt với các khu vực có thể chế chính trị khác biệt như
Hồng Kông,
Ma Cao và các lãnh thổ do
Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) quản lý.
Lịch sử
Trung Quốc là một trong những cái nôi
văn minh nhân loại sớm nhất. Văn minh Trung Quốc cũng là một trong số ít các nền văn minh, cùng với
Lưỡng Hà cổ (
người Sumer),
Ấn Độ (
Văn minh lưu vực sông Ấn Độ),
Maya và
Ai Cập Cổ đại, tự tạo ra
chữ viết riêng.
Triều đại đầu tiên theo các thư tịch lịch sử Trung Quốc là
nhà Hạ;
tuy nhiên chưa có bằng chứng khảo cổ học kiểm chứng được sự tồn tại của
triều đại này (khi Trung Quốc tăng trưởng kinh tế và cải cách chính trị
đồng thời có đủ nhân lực và trí lực để theo đuổi mạnh mẽ hơn nhằm minh
chứng về một lịch sử cổ đại, có một số di chỉ
đá mới
được đưa ra cũng như một vài bằng chứng được gom lại theo thời gian,
thể hiện rõ bản sắc, sự thuần nhất và niềm tự hào dân tộc, hay nói cách
khác là thể hiện chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đại Hán tộc). Triều đại
đầu tiên chắc chắn tồn tại là
nhà Thương, định cư dọc theo lưu vực
Hoàng Hà, vào khoảng thế kỷ 18 đến thế kỷ 12 TCN. Nhà Thương bị
nhà Chu
lật đổ (thế kỷ 12 đến thế kỷ 5 TCN), đến lượt nhà Chu lại bị yếu dần do
mất quyền cai quản các lãnh thổ nhỏ hơn cho các công hầu bá tước; cuối
cùng, vào
thời Xuân Thu, nhiều
nước chư hầu đã trỗi dậy và liên tiếp giao chiến, và chỉ coi triều đình nhà Chu là trung tâm quyền lực trên danh nghĩa. Cuối cùng
Tần Thủy Hoàng đã thâu tóm tất cả các quốc gia và tự xưng là
hoàng đế vào năm
221 TCN, lập ra
nhà Tần,
quốc gia Trung Quốc thống nhất về thể chế chính trị, chữ viết và có một
ngôn ngữ chính thống đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
Tuy nhiên, triều đại này không tồn tại lâu do nó quá độc đoán và tàn bạo và đã tiến hành "
đốt sách chôn nho"
trên cả nước (đốt hết sách vở và giết những người theo nho giáo) nhằm
ngăn chặn những ý đồ tranh giành quyền lực của hoàng đế từ trứng nước,
để giữ độc quyền tư tưởng, và để thống nhất chữ viết cho dễ quản lý. Sau
khi nhà Tần sụp đổ vào năm
207 TCN thì đến thời
nhà Hán kéo dài đến năm
220 CN. Sau đó lại đến thời kỳ phân tranh khi các lãnh tụ địa phương nổi lên, tự xưng "Thiên tử" và tuyên bố
Thiên mệnh đã thay đổi. Vào năm
580, Trung Quốc tái thống nhất dưới thời
nhà Tùy. Vào thời
nhà Đường và
nhà Tống,
Trung Quốc đã đi vào thời hoàng kim của nó. Trong một thời gian dài,
đặc biệt giữa thế kỷ thứ 7 và 14, Trung Quốc là một trong những nền
văn minh tiên tiến nhất trên thế giới về kỹ thuật, văn chương, và nghệ thuật.
Nhà Tống cuối cùng bị rơi vào tay quân xâm lược
Mông Cổ năm 1279.
Đại hãn Mông Cổ là
Hốt Tất Liệt lập ra
nhà Nguyên. Về sau một thủ lĩnh nông dân là
Chu Nguyên Chương đánh đuổi chính quyền
người Mông Cổ năm 1368 và lập ra
nhà Minh, kéo dài tới năm 1644. Sau đó
người Mãn Châu từ phía
đông bắc kéo xuống thay thế nhà Minh, lập ra
nhà Thanh, kéo dài đến vị hoàng đế cuối cùng là
Phổ Nghi thoái vị vào năm 1912.
Đặc điểm của phong kiến Trung Quốc là các triều đại thường lật đổ
nhau trong bể máu và giai cấp giành được quyền lãnh đạo thường phải áp
dụng các biện pháp đặc biệt để duy trì quyền lực của họ và kiềm chế
triều đại bị lật đổ. Chẳng hạn như
nhà Thanh của
người Mãn Châu
sau khi chiếm được Trung Quốc thường áp dụng các chính sách hạn chế
việc người Mãn Châu bị hòa lẫn vào biển người Hán vì dân họ ít. Tuy thế,
những biện pháp đó đã tỏ ra không hiệu quả và người Mãn Châu cuối cùng
vẫn bị văn hóa Trung Quốc đồng hóa.
Vào thế kỷ thứ 18, Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng kể về công nghệ so với các dân tộc ở
Trung Á
mà họ gây chiến hàng thế kỷ, tuy nhiên lại tụt hậu hẳn so với châu Âu.
Điều này đã hình thành cục diện của thế kỷ 19 trong đó Trung Quốc đứng ở
thế phòng thủ trước
chủ nghĩa đế quốc châu Âu trong khi đó lại thể hiện sự bành trướng đế quốc trước Trung Á.
Tuy nhiên nguyên nhân chính của sự sụp đổ của đế quốc Trung Hoa không
phải do tác động của châu Âu và Mỹ, như các nhà sử học theo
chủ thuyết vị chủng
phương Tây vẫn hằng tin tưởng, mà có thể là kết quả của một loạt các
biến động nghiêm trọng bên trong, trong số đó phải kể đến cuộc nổi dậy
mang tên
Thái Bình Thiên Quốc kéo dài từ
1851 đến
1862.
Mặc dù cuối cùng lực lượng này cũng bị lực lượng triều đình dập tắt,
cuộc nội chiến này là một trong số những cuộc chiến đẫm máu nhất trong
lịch sử loài người - ít nhất hai mươi triệu người bị chết (hơn tổng số
người chết trong
Thế chiến thứ nhất). Trước khi xảy ra nội chiến này cũng có một số cuộc khởi nghĩa của những người theo
Hồi giáo,
đặc biệt là ở vùng Trung Á. Sau đó, một cuộc khởi nghĩa lớn cũng nổ ra
mặc dù tương đối nhỏ so với nội chiến Thái Bình Thiên Quốc đẫm máu. Cuộc
khởi nghĩa này được gọi là
khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn với mục đích đuổi người phương Tây ra khỏi Trung Quốc. Tuy đồng tình thậm chí có ủng hộ quân khởi nghĩa,
Từ Hi Thái hậu lại giúp các lực lượng nước ngoài dập tắt cuộc khởi nghĩa này.
Năm
1912, sau một thời gian dài suy sụp, chế độ
phong kiến Trung Quốc cuối cùng sụp đổ hẳn và
Tôn Trung Sơn thuộc
Quốc Dân Đảng thành lập
Trung Hoa Dân Quốc (THDQ). Ba thập kỷ sau đó là giai đoạn không thống nhất — thời kỳ Quân phiệt cát cứ,
Chiến tranh Trung-Nhật, và
Nội chiến Trung Quốc. Nội chiến Trung Quốc chấm dứt vào năm 1949 và
Đảng Cộng sản Trung Quốc nắm được
đại lục Trung Quốc. ĐCSTQ lập ra một
nhà nước cộng sản—nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH)— tự xem là
nhà nước kế tục
của Trung Hoa Dân Quốc. Trong khi đó, chính quyền THDQ do Tưởng Giới
Thạch lãnh đạo thì rút ra đảo Đài Loan, nơi mà họ tiếp tục được
khối phương Tây và
Liên Hiệp Quốc công nhận là chính quyền hợp pháp của toàn Trung Quốc mãi tới
thập niên 1970, sau đó hầu hết các nước và Liên Hiệp Quốc chuyển sang công nhận CHNDTH.
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và
Bồ Đào Nha đã lần lượt trao trả hai nhượng địa là
Hồng Kông và
Ma Cao ở bờ biển phía đông nam về cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào
1997 và
1999. "Trung Quốc" trong văn cảnh ngày nay thường chỉ lãnh thổ của CHNDTH, hay "
Đại lục Trung Quốc", mà không tính Hồng Kông và Ma Cao.
CHNDTH và THDQ (từ năm 1949 đến nay) không
công nhận ngoại giao
lẫn nhau, vì hai bên đều tự cho là chính quyền kế tục hợp pháp của THDQ
(thời Tôn Trung Sơn) bao gồm cả Đại lục và Đài Loan, CHNDTH liên tục
phản đối những người theo
phong trào đòi độc lập cho Đài Loan. Những tranh cãi chủ yếu xoay quanh bản chất và giới hạn của khái niệm "Trung Quốc", khả năng
tái thống nhất Trung Quốc và
vị thế chính trị Đài Loan.
Lịch sử chính trị
Trước khi
nhà Tần thống nhất vào năm
221 TCN,
"Trung Quốc" chưa hề tồn tại như một thực thể gắn kết. Văn minh Trung
Quốc hình thành từ nhiều văn minh các nước khác nhau, các nước này do
các
vương,
công tước,
hầu tước, hay
bá tước trị vì. Mặc dù vẫn có một ông vua nhà Chu nắm giữ quyền lực trung ương trên danh nghĩa, và
chủ nghĩa bá quyền đôi lúc có ảnh hưởng nhất định, trên thực tế mỗi nước là một thực thể chính trị độc lập. Đây cũng là thời điểm mà triết lý
Nho giáo cũng như tư tưởng của các triết gia khác có ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng chính trị-triết lí Trung Quốc.
Sau khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, khi đó người đứng đầu Trung Quốc được gọi là
hoàng đế và một hệ thống hành chính trung ương tập quyền
quan liêu được thiết lập. Sau khi nhà Tần sụp đổ, Trung Quốc lại có khoảng 13 triều đại khác nhau tiếp tục hệ thống các
vương quốc,
công quốc,
hầu quốc, và
bá quốc. Lãnh thổ Trung Quốc khi đó mở rộng hoặc thu hẹp theo sức mạnh của mỗi triều đại.
Hoàng đế
nắm quyền lực tối thượng, toàn năng và là người đứng đầu về chính trị
và tôn giáo của Trung Quốc. Hoàng đế cũng thường tham khảo ý kiến các
quan văn võ, đặc biệt là
quan đại thần. Quyền lực chính trị đôi khi rơi vào tay các quan lại cao cấp,
hoạn quan, hay
họ hàng hoàng đế.
Quan hệ chính trị với các nước
chư hầu
xung quanh được củng cố thông qua các hình thức kết hôn với người hoàng
tộc nước ngoài, hỗ trợ quân sự, điều ước, và ràng buộc về chính trị
(trên danh nghĩa phải chịu thần phục và thụ phong vương nếu không sẽ bị
cấm vận hoặc chịu họa chiến tranh).
Lạc Dương,
Trường An,
Nam Kinh, và
Bắc Kinh từng là
thủ đô của Trung Quốc trong lịch sử.
Tiếng Trung Quốc
khi đó là ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong các văn bản của triều
đình, còn vào thời người Mông Cổ và Mãn Châu vào Trung Quốc thì
tiếng Mông Cổ và
tiếng Mãn Châu cũng được coi là
ngôn ngữ chính thức dùng trong văn thư của triều đình.
Vào
1 tháng 1,
1912, Trung Hoa Dân Quốc (THDQ) được thành lập, sự chấm dứt của Đế chế nhà Thanh.
Tôn Trung Sơn và [nhóm] lãnh đạo
Quốc Dân Đảng được công bố là tổng thống lâm thời của Nhà nước cộng hòa. Tuy nhiên,
Viên Thế Khải,
cựu đại thần nhà Thanh đào ngũ theo cách mạng, sau đó đã thương thuyết
để Tôn Dật Tiên bước sang bên nhường quyền cho họ Viên. Viên Thế Khải
lên làm đại tổng thống, sau đó xưng đế; tuy nhiên, ông ta chết sớm trước
khi thực sự nắm trọn vẹn quyền lực trên khắp Trung Hoa.
Sau khi họ Viên sụp đổ, Trung Quốc lại phân rã về chính trị với một
chính phủ đặt tại Bắc Kinh được quốc tế công nhận nhưng không có thực
quyền. Các Thủ lãnh quân sự địa phương ở các vùng khác nhau thực sự nắm
quyền lực trong vùng đất cát cứ của họ.
Vào cuối
thập niên 1920, Quốc Dân Đảng do
Tưởng Giới Thạch
lãnh đạo đã tái thống nhất Trung Quốc và dời đô về Nam Kinh đồng thời
thi hành kế hoạch cải tổ chính trị do Tôn Trung Sơn vạch ra nhằm đưa
Trung Quốc thành một quốc gia hiện đại, dân chủ. Cả Quốc Dân Đảng và
Cộng Sản Đảng đều chủ trương chế độ đơn đảng và chịu ảnh hưởng từ
chủ nghĩa Lenin.
Năm 1945,
Hồng quân Liên Xô
đã đánh tan quân Nhật, giải phóng vùng Đông Bắc Trung Quốc, xóa bỏ
Chính quyền Mãn châu quốc, bàn giao lại Vua Phổ Nghi cho phía Cộng sản
Trung Quốc và qua đó xóa bỏ cố gắng cuối cùng của giới quý tộc nhà Mãn
Thanh ly khai nhằm giành độc lập dân tộc cho người Mãn.
Năm 1947, hiến pháp THDQ ra đời nhưng do
nội chiến giữa hai phe Quốc Dân Đảng và Cộng Sản Đảng nên trên thực tế hiến pháp này không được đưa vào thực thi trên đại lục Trung Quốc.
Đầu năm 1950, ĐCSTQ đánh bại QDĐTQ và chính phủ THDQ phải dời ra đảo Đài Loan. Vào cuối
thập niên 1970,
Đài Loan mới bắt đầu thực hiện đầy đủ kiểu chính trị
dân chủ đại diện
đa đảng với sự tham gia tương đối tích cực của mọi thành phần xã hội.
Tuy nhiên không như xu hướng của các nền dân chủ khác là phân chia chính
trị theo hai thái cực
bảo thủ-
tự do, phân chia hiện tại ở THDQ chủ yếu là thống nhất với Trung Quốc về lâu dài hay là theo đuổi một nền độc lập thực sự.
Trong khi đó tại Đại lục,
Mao Trạch Đông, lãnh tụ của ĐCSTQ tuyên bố thành lập nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) vào ngày
1 tháng 10 năm
1949
tại Bắc Kinh. Chính quyền này kiểm soát chặt chẽ mọi mặt của đời sống.
Tuy nhiên, kể từ sau 1978, những cải tổ đã được đề xướng và mang lại một
sự cởi mở đáng kể đối với nhiều khía cạnh của đời sống xã hội, chủ yếu
trên các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, và văn hóa. Đặc biệt là sự thay đổi
về chính sách đối ngoại, từ chỗ chủ trương dùng vũ lực giải quyết vấn
đề, đưa quân xâm chiếm các vùng đất lân cận, và các quần đảo như
Hoàng Sa và
Trường Sa của nước CHXHCN Việt Nam trong
thập niên 1950 và
thập niên 1980,
Trung Quốc đã chuyển sang chính sách đàm phán thương lượng, tạo sự tin
cậy vào "sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc" để hướng tới một nước lớn,
tuân thủ pháp luật quốc tế và là nhân tố hòa bình ổn định an ninh khu
vực.
Địa lí Trung Quốc
Đồi núi
Bản đồ tự nhiên của Trung Quốc.
Hầu như 67% diện tích Trung Quốc là cao nguyên và núi cao; ở phía tây,
cao nguyên Thanh Hải -
Tây Tạng
chiếm hơn 25% diện tích đất nước. Tuy độ cao trung bình của cao nguyên
này là 4000m, thế nhưng từ bề mặt có các hồ nằm rải rác đó đây các
dãy núi vươn cao tới hơn 6000m. Trong số
12 đỉnh núi cao nhất thế giới, Trung Quốc có đến tám đỉnh. Dọc theo ven rìa phía bắc của cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng là dãy núi
Côn Luân. Ven ría phía nam là
dãy Himalaya (
Hi Mã Lạp Sơn), tạo thành biên giới giữa Trung Quốc và
Nepal. Các đỉnh núi cao có tuyết phủ quanh năm. Băng giá và nhiều loại băng tích đã khắc họa nên quang cảnh núi cao kì thú.
Các vùng đất thấp và sa mạc
Chỉ gần 25% lãnh thổ Trung Quốc nằm ở độ cao dưới 500m.
Bình nguyên Hoa Bắc, chủ yếu nằm thấp hơn dưới 100m, là khu vực đất thấp rộng nhất ở Trung Quốc. Đồng bằng này được tạo thành bởi
phù sa lắng đọng của
Hoàng Hà. Các đồng bằng thấp khác của Trung Quốc chỉ có ở dọc trung lưu, hạ lưu
Trường Giang và ở một vùng châu thổ có diện tích nhỏ hơn nhiều là châu thổ
Châu Giang.
Khu vực tây - bắc của Trung Quốc là miền đất của các vùng
sa mạc, chiếm trên 20% tổng số diện tích đất bằng phẳng của đất nước. Sa mạc cát lớn nhất Trung Quốc là
sa mạc Taklamakan.
Con đường tơ lụa
chạy ven rìa phía bắc sa mạc này. Một số thương gia đã bị lạc trong
hành trình vì bão cát và cái đói khát làm cho họ hoang mang.
Sông ngòi
Trung Quốc có nhiều sông, nhưng cho đến nay Trường Giang và Hoàng Hà vẫn là những con sông quan trọng nhất. Chúng bắt nguồn từ
cao nguyên Thanh Tạng và có dòng chảy nhìn chung đổ về phía đông.
Trường Giang là con sông dài nhất Trung Quốc với chiều dài 6380 km.
Đoạn thượng nguồn trên cao nguyên, dốc đổ nên nước sông chảy siết. Sông
phải len qua những
hẻm núi sâu và hẹp nên có nhiều
ghềnh đá. Sau khi chảy qua các dãy núi nằm ở phía đông của
Đập Tam Hiệp
nổi tiếng, con sông bắt đầu xuôi về miền đồng bằng. Lòng sông tỏa rộng,
chảy quanh co, uốn khúc qua miền đồng bằng bằng phẳng. Vùng
châu thổ bao la của Trường Giang trải rộng từ
Nam Kinh đến
biển Hoa Đông.
Hoàng Hà là sông dài thứ hai ở Trung Quốc, đo được 5464 km. Ở vùng
thượng lưu, sông chảy qua những hẻm núi sâu trước khi lượn quanh thành một vòng cung khổng lồ ôm lấy
cao nguyên Hoàng Thổ. Đoạn sông này cuốn theo lượng đất vàng dưới dạng
phù sa trên hành trình ra biển. Với nguồn đất đó, Hoàng Hà là con sông nặng phù sa nhất thế giới; mỗi năm tải tới 1,6 tỷ tấn
phù sa. Ở
hạ lưu lòng sông bị bồi cao nên có đoạn lòng sông còn cao hơn vùng đồng bằng xung quanh đến 10m. Địa hình tiêu biểu của
bình nguyên Hoa Bắc là hệ thống đê điều dài 700 km chạy dọc hai bên bờ Hoàng Hà.
Hoàng Hà đổ ra biển ở
Bột Hải, tuy nhiên vì lũ lụt cửa sông không cố định mà đã thay đổi nhiều lần. Lụt lớn từng gây thiệt hại lớn đến sinh mạng và
nông nghiệp; khi đã mất mùa thì nạn đói hoành hành. Vì lẽ đó mà Hoàng Hà còn được gọi là "Nỗi buồn của Trung Hoa."
Lãnh thổ
Đại thể lịch sử
Bản đồ hành chính nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Vào thời
nhà Chu, lãnh thổ Trung Quốc chỉ là vùng đất quanh
Hoàng Hà. Sau khi
Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc, lãnh thổ đã mở rộng tối đa về xung quanh, nhất là vào thời
nhà Đường,
Nguyên, và
Thanh. Nhà Thanh thì lấy luôn các vùng đất thuộc
Viễn Đông Nga và
Trung Á ngày nay (phía tây
Tân Cương).
Người Trung Quốc thường coi hoàng đế Trung Quốc là bá chủ thiên hạ và các dân tộc "
man,
di,
nhung,
địch" xung quanh là chư hầu. Do vậy, một số
quốc vương các nước xung quanh cùng với thái thú các địa phương thường phái
sứ thần sang
triều cống
cho các Hoàng đế Trung Quốc để tỏ ý chịu sự ràng buộc của nước lớn, vua
tiểu quốc chỉ có được tính chính danh khi được hoàng đế Trung Quốc
phong vương. Kể từ cuối thế kỷ 19, những quan hệ kiểu này đã không còn
tồn tại nữa do Trung Quốc đã mất đi uy lực bá chủ của mình.
Nhà Thanh sau đó đã sát nhập quê hương của họ (
Mãn Châu) nằm ở phía bắc ngoài
Vạn lý trường thành là ranh giới với
Trung Quốc bản bộ vào Trung Quốc. Năm
1683 sau khi
Vương quốc Đông Ninh do
Trịnh Thành Công lập nên tuyên bố đầu hàng,
Đài Loan và
quần đảo Bành Hồ đã bị sát nhập vào đế chế nhà Thanh. Ban đầu Đài Loan chỉ được coi như một
châu, sau đó thành hai châu và sau nữa thành một
tỉnh. Sau đó Đài Loan được nhường cho
Nhật Bản sau
chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm
1895. Kết thúc
chiến tranh Trung-Nhật lần hai năm 1945, Nhật Bản mất
chủ quyền lãnh thổ hòn đảo này theo
Hiệp ước San Francisco, và chủ quyền quần đảo này thuộc về
Trung Hoa Dân Quốc. Sau này,
chủ quyền Đài Loan luôn là vấn đề gây tranh cãi giữa CHNDTH và những người theo
phong trào đòi độc lập cho Đài Loan.
Các đơn vị hành chính trong lịch sử
Các đơn vị hành chính cấp cao của Trung Quốc thay đổi tùy theo từng chế độ hành chính trong lịch sử. Đơn vị cấp cao gồm có
đạo hay
lộ và
tỉnh. Dưới đó thì có các
phủ,
châu, sảnh,
quận,
khu và
huyện. Cách phân chia hành chính hiện nay là
địa cấp thị hay thành phố trực thuộc tỉnh (cấp địa khu),
huyện cấp thị hay thị xã,
trấn hay thị trấn và
hương, tương đương cấp xã ở
Việt Nam.
Trong lịch sử, các triều đại Trung Quốc đều đặt kinh đô tại
vùng đất trung tâm lịch sử của Trung Quốc với tên gọi chính xác về mặt chính trị là
Trung Quốc bản thổ (vì tên gọi này không tính đến các vùng đất mà nó không quản lý như Mông Cổ hay Đài Loan). Nhiều triều đại còn thể hiện
tư tưởng bành trướng khi đánh chiếm các vùng đất xung quanh như như
Nội Mông Cổ,
Mãn Châu,
Tân Cương, và
Tây Tạng.
Nhà Thanh do người
Mãn Châu lập ra cũng như các chính thể sau đó là
Trung Hoa Dân Quốc và
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
cũng củng cố việc sát nhập các lãnh thổ này vào Trung Quốc. Biên giới
chia cắt các lãnh thổ này truớc đây tương đối mơ hồ và không gắn với
cách phân chia hành chính hiện nay. Trung Quốc bản bộ thường được coi là
bao bọc bởi
Trường Thành và dọc theo viền
cao nguyên Thanh Tạng;
Mãn Châu và
Nội Mông Cổ nằm ở phía bắc của
Vạn Lý Trường Thành, và biên giới giữa hai vùng này có thể là biên giới hiện tại giữa Nội Mông Cổ và các tỉnh
đông bắc Trung Quốc, hoặc biên giới lịch sử của
Mãn Châu quốc vào
Thế chiến thứ hai; ranh giới của
Tân Cương
vẫn là Khu tự trị dân tộc Uyghur (Duy Ngô Nhĩ) Tân Cương ngày nay; còn
Tây Tạng lịch sử thì coi như bao phủ gần như toàn bộ cao nguyên Thanh
Tạng. Theo truyền thống, Trung Quốc được chia thành hai miền
Bắc và
Nam, với ranh giới địa lý là
sông Hoài và dãy
Tần Lĩnh.
Con người
Tại Trung Quốc có 56
dân tộc, trong đó đông nhất là
người Hán,
là dân tộc với sắc thái ngôn ngữ và văn hóa có nhiều khác biệt vì thực
ra là kết hợp của nhiều dân tộc khác nhau được coi là cùng chia sẻ một
thứ ngôn ngữ và văn hóa. Trong lịch sử Trung Quốc, nhiều dân tộc bị các
dân tộc xung quanh đồng hóa hoặc biến mất không để lại dấu tích. Một số
dân tộc khác biệt lập lọt vào trong vùng sinh sống của dân tộc Hán đã bị
Hán hóa và được coi là
người Hán,
khiến cho dân tộc này trở nên đông một cách đáng kể; và trong cộng đồng
người Hán thực ra có nhiều người được coi là người Hán nhưng có truyền
thống văn hóa và đặc điểm ngôn ngữ khác hẳn. Thêm vào đó trong lịch sử
cũng có nhiều sắc dân vốn là người ngoại tộc đã làm thay đổi văn hóa và
ngôn ngữ của sắc dân Hán như trường hợp người Mãn Châu bắt đàn ông người
Hán phải để tóc đuôi sam. Đôi khi người ta dùng thuật ngữ
dân tộc Trung Hoa để chỉ người Trung Quốc nói chung.
Chính phủ nước
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện chính thức công nhận tổng cộng
56 dân tộc,
trong đó người Hán chiếm đa số. Với số dân hiện nay là 1,3 tỉ người
trên tổng số dân toàn thế giới là 6,4 tỉ, Trung Quốc là nơi có xấp xỉ
20%
loài người (
homo sapiens) sinh sống.
Vào thời
Mao Trạch Đông,
tình hình phát triển dân số không được kiểm soát tốt đã khiến cho số
dân Trung Quốc bùng nổ nhanh chóng và đạt đến con số 1,3 tỉ người hiện
nay. Để giải quyết vấn nạn này, chính phủ CHNDTH đã áp dụng một chính
sách
kế hoạch hóa gia đình dưới tên gọi
chính sách một con.
Người Hán nói các thứ tiếng mà các nhà ngôn ngữ học hiện đại coi là
những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, tuy nhiên tại Trung Quốc nhiều người
coi đấy là các phương ngôn của
tiếng Trung Quốc. Tuy có nhiều ngôn ngữ nói khác nhau nhưng kể từ đầu
thế kỷ 20, người Trung Quốc bắt đầu dùng chung một chuẩn viết là "
Bạch thoại" được dựa chủ yếu trên văn phạm và từ vựng của
Phổ thông thoại là ngôn ngữ nói được dùng làm chuẩn. Ngoài ra từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung Quốc dùng một chuẩn viết chung là
Văn ngôn.
Ngày nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên
trong chương trình học nó vẫn tiếp tục được dạy và như vậy người Trung
Quốc bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Không như Phổ
thông thoại, các ngôn ngữ nói khác chỉ được nói mà không có cách viết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét