Thứ Ba, 22 tháng 7, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 7 (Nguyễn Sơn)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Nguyễn Sơn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Nguyễn Sơn
Thiếu tướng QĐNDVN Nguyễn Sơn.jpg

Ngày sinh và ngày mất

Đa số các tư liệu đều ghi ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1908 và mất ngày 21 tháng 10 năm 1956. Ngày 21 tháng 10 năm 2006, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã tổ chức Lễ tưởng niệm 50 năm ngày mất của ông. Tại lễ này, ngày sinh của ông được ghi là 1 tháng 10 năm 1908.

Tuổi trẻ

Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Ông là con cụ Vũ Trường Xương, một nhà đại tư sản ở Hà Nội. Khi mới lên 5 tuổi ông đã bắt đầu học tiếng Pháp tại một trường Dòng ở Hà Nội. Mười bốn tuổi ông thi đậu vào Trường Sư phạm Hà Nội . Tính tình nghịch ngợm, cùng với tinh thần chống Pháp được gia đình truyền thụ, ông thường tổ chức học sinh trường Sư Phạm và trường Bảo Hộ sang đánh nhau với học sinh con Tây tại các trường khác. Để khống chế sự nghịch ngợm của ông, cha mẹ ông đã cho ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Giệm, hơn ông bốn tuổi. Sau khi được Nguyễn Công Thu (người của Nguyễn Ái Quốc cử về Việt nam) giác ngộ, ông bày trò giả vờ uống rượu say, gây sự với cha vợ để lấy cớ bỏ người vợ trẻ cùng cô con gái mới 6 tháng tuổi là Vũ Thanh Các để ra đi.

Tham gia cách mạng ở Trung Quốc

Năm 1925, ông theo Nguyễn Công Thu đến Quảng Châu. Ông được nhập vào gia đình họ Lý của Lý Thụy (Hồ Chí Minh), gồm Lý Tống (Phạm Văn Đồng), Lý Tự Trọng, Lý Quý (Trần Phú), Lý Trí Phương (Nguyễn Thị Minh Khai) và một số người khác. Ông được Hồ Chí Minh đặt tên cho là Lý Anh Tự và được học lớp chính trị khóa hai cùng Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan. Tại đây, Vũ Nguyên Bác gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đầu năm 1926, ông được cử đi học Trường Sĩ quan Hoàng Phố cùng với Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng. Trong thời gian học, ông gia nhập Quốc Dân Đảng Trung Quốc.
Tháng 4 năm 1927, Quốc Dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo làm chính biến, đàn áp Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Ông bỏ khỏi hàng ngũ Quốc Dân Đảng, gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc vào tháng 8 năm 1927. Tháng 12 năm 1927, ông tham gia khởi nghĩa Quảng Châu, gia nhập Đoàn giáo đạo 4, Phương diện quân số 2 do Diệp Kiếm Anh chỉ huy. Sau ba ngày chiến đấu, cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị lộ là đảng viên cộng sản. Để tránh khủng bố trắng, ông phải rời Quảng Châu sang Thái Lan và tổ chức Việt kiều tham gia cách mạng.
Năm 1928 ông trở lại Trung Quốc, tham gia Hồng quân (红军). Năm 1929, ông giữ chức vụ chính trị viên đại đội trong Trung đoàn 47, chỉ huy đại đội đánh nhiều trận ở Đông Giang. Trong thời gian này ông đổi tên mới là Hồng Thủy (洪水).
Ông là sĩ quan người nước ngoài duy nhất của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, từng làm Chính ủy trung đoàn, Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 34 thuộc Quân đoàn 12 Hồng quân Trung Quốc. Do có nhiều kinh nghiệm thực tiễn và trình độ lý luận, ông được điều động đến giảng dạy tại Trường Quân sự Chính trị Trung ương của Hồng quân mới được thành lập ở Thụy Kim. Cuối năm 1932 ông còn tham gia thành lập đoàn kịch đầu tiên của Hồng quân công nông và làm Đoàn trưởng.
Tháng 1 năm 1934, tại đại hội đại biểu toàn quốc nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa lần thứ hai, Hồng Thủy được bầu là Ủy viên ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản nước Cộng hòa Xô viết Trung Hoa với tư cách là đại biểu "dân tộc ít người", Ủy viên Chính phủ dân chủ công nông ở Khu Xô viết Trung ương.
Do đường lối tả khuynh thắng thế trong Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong thời kỳ 1933-1938 ông đã từng ba lần bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc, rồi lại được phục hồi đảng tịch.
Tháng 10 năm 1934, ông tham dự cuộc Vạn lý trường chinh. Thời gian này, ông bị Trương Quốc Đào vu cáo là "gián điệp quốc tế", bị khai trừ khỏi Đảng và suýt bị giết hại. Ông may mắn được Chu ĐứcLưu Bá Thừa che chở nên thoát nạn. Hồng Thủy là người Việt Nam duy nhất đã đi hết cuộc Vạn lý Trường chinh của Hồng quân.
Tháng 12 năm 1935, ông về đến Diên An sau nhiều ngày bị lạc. Tiếp đó ông được vào học khóa một Trường Đại học Hồng quân Trung Quốc tại Ngõa Gia Bào, Thiểm Bắc (sau chuyển về Bảo An, Thiểm Tây), trực tiếp nghe Mao Trạch ĐôngChu Ân Lai giảng bài.
Tháng 7 năm 1937, bắt đầu thời kỳ chiến tranh chống Nhật, ông theo Tổng tư lệnh Chu Đức cùng Sư đoàn 115 Bát Lộ Quân vượt sông Hoàng Hà đến Sơn Tây lập căn cứ chống Nhật ở Ngũ Đài Sơn. Ông được bổ nhiệm làm bí thư khu ủy Đông Dã, Trưởng Ban Tuyên truyền Địa ủy Đông bắc Sơn Tây. Tại Ngũ Đài Sơn, năm 1938 ông đã gặp và kết hôn với bà Trần Kiếm Qua, (tên thật là Trần Ngọc Anh, tên Kiếm Qua do chính ông gợi ý đổi cho bà). Ông bà sinh được hai người con trai, không kể một người con gái mất sau khi mới một tuần tuổi.
Cũng tại Ngũ Đài Sơn, vì phản đối Diêm Tích Sơn, một "lãnh chúa" ở Sơn Tây, ông bị vu oan, lần thứ ba bị khai trừ Đảng, chuyển về trường Quân chính Hồng quân, nhưng đã được khôi phục đảng tịch ngay trong cuối năm đó.
Năm 1938 ông được giao đảm nhận chức Tổng Biên tập báo Kháng Địch biên khu Tấn Sát Ký.
Tháng 2 năm 1939 ông được điều về làm Phó Chủ nhiệm Khoa giáo dục chính trị tại Phân hiệu 2 Đại học kháng Nhật ở Hàn Tín Đài, Linh Thọ, Hà Bắc, Trung Quốc.

Về Việt Nam và được phong tướng

Tháng 11 năm 1945, ông trở về nước hoạt động theo đề nghị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, lấy tên mới là Nguyễn Sơn và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội và chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ. Ông từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính miền Nam Việt Nam (từ tháng 12 năm 1945 đến khi giải thể vào tháng 12 năm 1946), Tư lệnh kiêm Chính ủy hai Liên khu 4 và 5, Hiệu trưởng trường Lục quân Trung học Quảng Ngãi (1946), Cục trưởng Cục Quân huấn Bộ Tổng Tham mưu (1947), Tư lệnh kiêm Chính ủy Liên khu 4 (1948-1949).
Năm 1947, ông được tin bà Trần Kiếm Qua và hai con trai của ông chết do bị máy bay Quốc Dân Đảng oanh tạc khi sơ tán khỏi Diên An. Ông cưới bà Huỳnh Thị Đổi. Hai người sinh được cô con gái Nguyễn Mai Lâm, do nhiều nguyên nhân hai người đã chia tay.
Cũng trong năm này, ông kết hôn với bà Lê Hằng Huân. Ông có 4 người con với bà: Nguyễn Thanh Hà, Nguyễn Cương, Nguyễn Việt Hồng và Nguyễn Việt Hằng. Trong đó bà Nguyễn Thanh Hà học tại Học viện Kỹ thuật Quân sự ra trường công tác tại Bộ Tư lệnh Thông tin và về hưu với quân hàm trung tá. Bà Nguyễn Việt Hồng thì mắc bệnh tâm thần được điều trị dài hạn tại bệnh viện.
Năm 1948, ông được Nhà nước Việt Nam phong quân hàm thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên. Cùng được phong thiếu tướng trong đợt này có 8 quân nhân khác. Khi biết mình chỉ được phong thiếu tướng, ông không hài lòng và không muốn nhận (khi có người chúc mừng, ông nói: chúc mừng cái gì, tao thừa tướng nhưng thiếu sao!). Ông gửi công văn hỏa tốc cho Hồ Chí Minh để từ chối nhận quân hàm. Nhận được công văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết lên tấm các của mình: "Tặng Sơn đệ" với 12 chữ Hán: "Đảm dục đại, tâm dục tế, trí dục viên, hạnh dục phương"(đại ý: cái gan cần phải lớn; cái tâm nên tế nhị, chín chắn; cái trí phải suy nghĩ trước sau, toàn diện; cái đức hạnh phải đầy đủ, ngay thẳng) khiến ông chấp nhận. Thứ trưởng Phạm Ngọc Thạch thay mặt Chính phủ vào tận Thanh Hóa làm lễ tấn phong ông.

Trở lại Trung Quốc và được phong tướng

Năm 1950, ông trở lại Trung Quốc công tác, làm Phó Cục trưởng Cục Điều lệnh Tổng giám bộ huấn luyện Quân Giải phóng Nhân dân. Được xem là một trong 72 đại công thần Trung Quốc, ngay trong đợt phong quân hàm đầu vào ngày 27 tháng 9 năm 1955, ông được nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phong quân hàm thiếu tướng. Ông cũng được chính phủ Trung Quốc tặng Huân chương Giải phóng hạng nhất.
Ông được mệnh danh là "Lưỡng quốc tướng quân".

Về với quê hương

Năm 1956, do khối u ác tính nằm bên phổi trái, ông xin trở về quê hương. Ông rời Bắc Kinh ngày 27 tháng 9, được Bành Đức Hoài, Diệp Kiếm Anh và nhiều tướng lĩnh, cán bộ cao cấp Trung Quốc ra ga tiễn và về đến Hà Nội ngày 30 tháng 9. Ông mất tại Hà Nội sau đó không lâu. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Viết về ông có hồi ký Hoàng Hà luyến, Hồng Hà tình của bà Trần Kiếm Qua. Cuốn này đã được dịch ra tiếng Việt, nhan đề Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:00, ngày 15 tháng 7 năm 2014.
 

Tướng Nguyễn Sơn



Bao quanh cuộc đời của Thiếu tướng Nguyễn Sơn(*) là vô số huyền thoại. Dân ở Kiêu Kỵ, Gia Lâm, Hà Nội đề nghị rước sinh phần của ông về quê, lập đền thờ, coi ông như một danh tướng thời hiện đại. Nhiều tầng lớp nhân dân ở Nghệ An, Thanh Hóa còn lưu truyền nhiều giai thoại về ông. Ở Hà Tĩnh, vùng phía Nam núi Hồng Lĩnh, dân lập đền thờ ông do một quân báo cũ trông nom.
Những người cùng thời với ông đánh giá: Ông là một vị tướng tài ba, năng động, xông xáo, quyết đoán, giàu cá tính. Tuy vậy cũng có nhiều người cho rằng ông gai góc, kiêu ngạo, có tài nhưng có tật, nên cuộc đời cũng lắm gian truân. Dù ở mức độ nào, Thiếu tướng Nguyễn Sơn cũng để lại trong lòng quân dân ta một sự kính nể thật sự.
Rất tiếc đời ông quá ngắn, không vượt qua ngưỡng tuổi 49 (ông sinh năm 1908 mất năm 1956). Ông lại hoạt động cách mạng phần nhiều ở nước ngoài, thời gian làm việc trong nước không quá 5 năm, trong đó có 4 năm làm Tư lệnh trưởng Quân khu IV (1946-1950), nhưng ông đã hoàn thành một khối lượng công việc đồ sộ ít người sánh kịp.
Ông ra đời ở phố Yên Ninh, Ba Đình, Hà Nội, là con thứ tư của một gia đình nông dân kiêm tiểu thương gốc ở Kiêu Kỵ, Gia Lâm với tên khai sinh Vũ Nguyên Bác. Cụ thân sinh ra ông là người cương trực, hay chống đối bọn cường hào nên bị chúng sách nhiễu luôn. Bỏ quê ra tỉnh (lúc này Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh) vẫn không thoát được cảnh bị ức hiếp, tức quá, cụ đặt tên cho 5 người con trai những tên rất ngộ nghĩnh: Tôi, Tớ, Tao, Bác, Sư và cô con gái út là To nhằm “để không ai chửi mình được”.

Trong 5 anh em trai thì Bác được học hành chu đáo hơn cả. Học xong trung học, Bác học Trường Sư phạm Bắc Kỳ (ENT- Ecole Normale du Tonkin) - nay là địa điểm Trường Phổ thông trung học Phan Đình Phùng. Bác tổ chức học trò Trường Bưởi (Trường Phổ thông trung học Chu Văn An bây giờ) đánh nhau với học trò Trường Tây (Trường Albert Saraut). Mật thám truy lùng kẻ cầm đầu. Vì vậy Bác nhiều lúc vắng nhà, thường thì 12 giờ đêm Bác về. Thế nhưng có lần Bác không về, chờ hết ngày này qua ngày khác, sau đó cả nhà lấy ngày ông đi để làm giỗ. Hai mươi năm làm giỗ cúng ông, đến năm 1945 thì ông về thật. Cả nhà sững sờ, ông về đúng nhà mình, mặc dù lúc này gia đình đã khấm khá, xây thành 5 căn liền nhau “tam đại đồng đường”, căn thứ 4 bố mẹ ở, có bàn thờ ông.
Ông lần này về mặc quân phục đeo súng lục, đội mũ sao vàng viền kim tuyến. Ông là một trong những vị được thụ phong cấp tướng đầu tiên và nhận chức Tư lệnh Quân khu IV. Thì ra 20 năm qua, Vũ Nguyên Bác cùng một số thanh niên sang Trung Quốc, được Bác Hồ trực tiếp dìu dắt làm cách mạng. Nguyên Bác mang bí danh Lý Anh Tự, cùng 9 anh em khác như Lý Tống (Phạm Văn Đồng), Lý Tự Trọng... hình thành “một gia đình họ Lý” do Bác Hồ với bí danh Lý Thụy đứng đầu. Lý Anh Tự tốt nghiệp Trường võ bị Hoàng Phố sau đó vào Bát lộ quân, tham gia Vạn lý trường chinh, chỉ huy đến sư đoàn.
Năm 1945, ông cùng một số cán bộ cao cấp người Việt trong Giải phóng quân Trung Quốc về nước với tên mới Nguyễn Sơn. Năm 1950, Tướng Nguyễn Sơn lại được lệnh trở lại Trung Quốc làm cố vấn quân sự cho Quân ủy Trung Quốc, chi viện Việt Nam và tham gia kháng Mỹ viện Triều. Sau đó làm Cục trưởng Cục Điều lệnh Giải phóng quân Trung Quốc.
Năm 1956, ông lâm bệnh nặng, mặc dù được chăm sóc đặc biệt, nhưng ông biết mình khó qua khỏi nên tích cực đề nghị về nước. Về nước được 20 ngày, ông từ trần, đó là ngày 21-10-1956 theo âm lịch là ngày 18 tháng 9. Có điều lạ là “giỗ” trước và giỗ chính thức chênh nhau 4 ngày, cho nên dòng họ Vũ ở Kiêu Kỵ, bà con, bạn bè xa gần trong những ngày này lại gặp nhau để tưởng nhớ ông.
Thực ra tầm vóc và vị trí của ông đã vượt khỏi phạm vi gia tộc, làng xã và cả đất nước nữa. Trước đây hàng năm gia đình ông đều nhận được điện thăm hỏi của các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước và quân đội Trung Quốc. Các đoàn đại biểu cấp cao do các vị Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Diệp Kiếm Anh đến thăm Việt Nam đều đến viếng ông.
Đánh giá một vị tướng trước hết phải tập trung vào phần chỉ đạo chiến lược. Tướng Nguyễn Sơn làm Tư lệnh Quân khu IV vào thời gian ấy phải gánh vác hai nhiệm vụ chiến lược nặng nề: Mặt trận Huế vỡ, phải chặn đứng tổ chức đánh trả địch, bảo vệ lực lượng mình.

Nguyễn Sơn tổ chức lực lượng đánh địch trên đồn 18, xây dựng truyền thống cho Trung đoàn 18 Quảng Bình, lập Trung đoàn 95 Quảng Trị. Đánh trận Ưu Điềm – Thanh Hương, tạo đà xây dựng Trung đoàn 101 Thừa Thiên. Từ 3 trung đoàn con em Bình-Trị-Thiên lập nên Sư đoàn 325 anh hùng. Cùng với quân chủ lực, lực lượng quân địa phương cũng lớn mạnh, dân quân tự vệ phát triển, các làng xã chiến đấu theo mẫu Cảnh Dương, Cự Nẫm, Ba Lòng, Nam Đông phát triển. Trục đường chiến lược Ba Rèn, U Bò, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong vẫn giữ vững, nối liền Bắc Nam.
Cùng với Bình-Trị-Thiên khói lửa, Thanh-Nghệ-Tĩnh được củng cố vẫn vững vàng làm hậu phương trực tiếp. Sư đoàn 304 lừng danh cũng được thành lập, làm nhiệm vụ chi viện cho cả nước.

Giới quân sự truyền tụng về ông là lẽ đương nhiên, các giới dân sự cũng hết sức ca ngợi ông. Có người nói chưa ai yêu chiều, quý trí thức, văn nghệ sĩ bằng Tướng Nguyễn Sơn. Việc quân căng thẳng, ngổn ngang như vậy mà ông thường xuyên tiếp xúc với trí thức, văn nghệ, tập hợp được họ trong Hội Nghiên cứu chủ nghĩa Mác và Hội Văn nghệ, đặc biệt là tạo mọi điều kiện cho họ phục vụ cách mạng.
Trình độ ngoại ngữ của Thiếu tướng ngoài tiếng Trung Quốc đặc biệt xuất sắc, Thiếu tướng còn giỏi tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga. Tù binh và hàng binh Âu Phi đều do Thiếu tướng trực tiếp khai thác nên quân ta nắm địch rất chắc. Trại tù binh do Thiếu tướng lập ra đặt tên là đồn Cộng Hòa. Thiếu tướng còn là một nhà hùng biện, đi diễn thuyết nhiều lần, nhiều nơi…

Kết thúc bài viết này, xin mượn lời một nhà khoa học: Nếu có Đại bách khoa toàn thư Việt Nam, tập quân sự nhất định phải có mục từ Nguyễn Sơn. Còn ở Trung Quốc, từ điển danh tướng Trung Hoa đã đánh giá cao Tướng Hồng Thủy (tên của Thiếu tướng Nguyễn Sơn) trong lịch sử quân sự Trung Quốc.
(*)  Theo tài liệu “Nguyễn Sơn lưỡng quốc tướng quân” – NXB Thông tấn 2006.
THÁI AN

 

Chuyện giật mình của Lưỡng Quốc tướng quân

Thứ Năm, ngày 10/12/2009 
Tháng 8/2009, Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh cho Tướng Nguyễn Sơn.
Trong buổi lễ đón nhận tại Bảo tàng Cách mạng, nhiều vị khách kể lại những hồi ức về vị tướng này.
Tướng Quân đội giảng tuyệt hay về Lôi Vũ, Truyện Kiều
Giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm, ngày Tướng Sơn đưa bộ đội về Thanh, mới có 22 tuổi, đang dạy văn tại trường Đào Duy Từ. Ông nhớ lại: “Khi được  đọc bản dịch của giáo sư Đặng Thái Mai về vở kịch “Lôi  Vũ”, chúng tôi đã thấy rất thích, nhưng trong buổi nghe Tướng Sơn giảng về “Lôi Vũ”, chúng tôi thấy hấp dẫn vô cùng.
Ông hiểu tường tận cả về tác giả, cả từng nhân vật trong tác phẩm. Sau đó, ông còn giảng về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ông “xuất khẩu thành thơ”, tôi nghe rất mê, ghi nhớ từng lời.
Chuyện giật mình của Lưỡng Quốc tướng quân - 1

Buổi trò chuyện với 3 hàng binh người Đức tại Chiến khu Việt Bắc. (Từ trái qua, hàng đứng: các ông Lưu Văn Lợi, Nguyễn Sơn, Hoàng Văn Thái... Hàng ngồi: ông Tạ Quang Bửu, 2 hàng binh, vợ chồng Võ Đại tướng).

Tuy ông là tướng quân nhưng tôi chẳng có mấy kỷ niệm với ông về quân sự. Là giáo viên dạy văn, thông qua những buổi xem đoàn chèo, đoàn kịch của quân khu tập làm cho tôi hiểu rõ và biết yêu nghệ thuật tuồng, chèo. Vở chèo đầu tiên gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi là vở "Súy Vân giả dại"...”.
Cuối những năm 40, khi ta còn nhiều khó khăn, Nguyễn Sơn cho mời các văn nghệ sĩ (Nguyễn Công Hoan, Trần Văn Cẩn, Phạm Duy, Hồ Dzếnh...) vào quân khu, chu cấp cho gạo, tiền để họ có thời gian sáng tác, phục vụ bộ đội. Khu Bốn được coi là nơi tập trung nhiều văn nghệ sĩ và có nhiều tác phẩm bất hủ cho công cuộc kháng chiến.
Học trò giỏi nhất của Bác Hồ về "đường lối chiến tranh nhân dân"
Trung tướng Đỗ Văn Đức, nguyên Phó Tổng tham mưu trưởng QĐNDVN, cựu học viên khóa 1 Võ bị Trần Quốc Tuấn (1946) và là giáo viên từ khóa 2; ông còn được theo Hiệu trưởng Võ bị khóa 2 Nguyễn Sơn cho tới ngày quay trở lại Trung Quốc (1950). Ông Đỗ Văn Đức nhớ lại:
- Anh Nguyễn Sơn trông bên ngoài đúng là “râu hùm hàm én, mặt vuông chữ điền, rất dữ dằn”, nhưng ai đã sống với anh thì mới thấy anh yêu lính vô cùng, yêu đồng đội đồng chí,  thương anh em. Anh là con người sống rất tình cảm.

Chuyện giật mình của Lưỡng Quốc tướng quân - 2
Tướng Nguyễn Sơn.

Theo tôi, anh là học trò giỏi nhất của Bác Hồ về “đường lối chiến tranh nhân dân”. Có nhiều kỉ niệm về việc này... Chẳng hạn bấy giờ ở thôn Mậu,  làng Cổ Định, bọn phản động khống chế, chèn áp, dọa nạt nhân dân. Bà con lo lắng, không an tâm làm ăn, sinh sống.
Nghe báo cáo, anh Sơn quyết định đưa hẳn 1 đại đội Thiếu sinh quân về đóng quân. Lính trẻ như con em họ, về sống “ba cùng” với dân, làm tốt “công tác dân vận” nên dần dần bà con hiểu và quyết tâm đi theo kháng chiến.
Trong huấn luyện bộ đội, anh là người đầu tiên áp dụng “Đại hội tập”. Khi thực hiện, chúng tôi cũng chỉ nghĩ đơn giản là anh cho luyện quân thôi. Quân đi đến đâu thì tiến hành “Đại hội tập” ở đó.
Ngày đóng quân ở Thanh Hóa, “bộ đội ông Sơn” hành quân từ Tĩnh Gia vòng ra bờ biển, trở về Nông Cống. Luyện tập xong là giúp ngay địa phương xây dựng lực lượng kháng chiến.
Bộ đội rút quân đi thì cử lại 1 cán bộ của quân khu triển khai thực hiện. Đến khi tổng kết mới hiểu ra rằng, mục đích của “Đại hội tập” là:
1. Giáo dục nhân dân tích cực kháng chiến, dũng cảm đánh Pháp.
2. Răn đe thực dân Pháp: Kháng chiến toàn dân mạnh như vậy đấy, hãy coi chừng!
3. Rèn luyện cán bộ, rèn luyện bộ đội chịu đựng gian khổ trong chiến tranh. Qua đó nhiều cán bộ trưởng thành. Quân khu đào tạo cán bộ không chỉ cho Liên khu 4 mà cho cả toàn quân. Nhiều sư đoàn đã về xin cán bộ.
“Đại hội tập” ngày nay gọi là “Hội thao”. Luyện tập xong là phải thi thố, đánh giá kết quả huấn luyện, có khen thưởng, có phê bình.
Ngày “Đại hội tập”, đêm hội diễn văn nghệ. Các đơn vị phải tự biên, tự diễn các tiết mục của mình. Quân ông Sơn đến đâu sôi nổi cả một vùng, làm dân thêm tin tưởng vào đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện của Cụ Hồ.
Cậu Nguyễn Sơn đi xe đạp bằng... mông
Ông Vũ Ngọc Phan và bà Lê Hằng Phương (chị của bà Lê Hằng Huân - vợ ông Sơn) có 2 người con trai là Vũ Tuyên Hoàng và Vũ Huyền Giao. Hôm đó, anh Giao xúc động nhớ tới "cậu Sơn":
“Chiều chiều, bộ đội ở Quân khu bộ của cậu Sơn đều chơi bóng chuyền. Tôi con bé thích ra xem. Nghịch lắm, thấy bóng là đá văng mạng. Có lần đá vào cả phòng họp, nhưng cậu chỉ nhắc nhẹ nhàng. Rồi cậu bảo với bố mẹ tôi: “Anh chị phải dạy thằng Giao cẩn thận, không sau này thành tướng cướp!”.
Bố mẹ tôi lúc đó  nuôi 8 chị em chúng tôi và nuôi thêm 2 anh Phan Vịnh, Phan Diễn (giúp bác Lê Thị Xuyến đang công tác ở Việt Bắc). Tổng cộng 10 nhóc, kiếm miếng ăn rất vất vả. Thấy  vậy, cậu Sơn giúp bố mẹ tôi bằng cách cho tôi và anh Phan Diễn vào học  trường Thiếu sinh quân Khu 4 (mặc dù  chúng tôi chưa phải là giao liên và bố mẹ cũng  không phải cán bộ quân đội).
Cậu Sơn có cái xe Stec-ling và đi xe đạp rất tài, bọn trẻ con rất bái phục. Cậu ít khi cầm ghi-đông mà  đút 2 tay vào túi quần, lái xe bằng mông. Dù đường ngoài đồng, hay trên bờ nông giang chỉ rộng khoảng 30 phân, hai bên là gờ cỏ mà cậu vẫn đi xe điêu luyện.
Có lần đang chăn trâu dưới cánh đồng, thấy cậu phóng xe qua mà không dám gọi. (Gọi lỡ làm cậu ngã xuống nông giang, sâu những 6-7m thì nguy hiểm!). Còn cậu thì chăm chú nhìn xuống đường, chẳng để ý đến ai. Có lần phóng nhanh quá, gặp barie chắn đường của dân quân không kịp  dừng, tay cũng không kịp bỏ ra, cứ thế dùng mông lái xe lượn ra ngoài rào chắn. May không ngã. Anh dân quân tức giận, quát:
- Đi thế à? Cứ làm như ông tướng ấy!
Cậu Sơn cười xòa: “May mà tớ vừa được phong tướng!”. Tôi nể phục tính ngang tàng của cậu. Sau này, tôi cũng tập đi xe đạp theo kiểu của  cậu và  1 lần bị ông lái xe buýt mắng, lần khác bị công an giao thông phạt.
... Năm 1954, anh Vũ Tuyên Hoàng và tôi được sang học tại Bắc Kinh. Đến nơi  đúng dịp Quốc khánh 2/9, bọn tôi được mời đến Sứ quán. Đại sứ Hoàng Văn Hoan giới thiệu: “Hôm nay có một vị khách đặc biệt đến dự là Tướng Nguyễn Sơn”. Chúng tôi mừng quá.
Rồi cứ chủ nhật, cậu lại cùng dì Huân và các em Hà, Cương đến thăm chúng tôi ở trường Đại học Bắc Kinh (lúc đó lưu học sinh Việt Nam tại đây có  khoảng 100).
Khoảng tháng 10/1956, tôi đến thăm cậu tại một ngôi nhà cổ của Thành cổ Bắc Kinh. Dì Huân không có nhà. Cậu Sơn ngồi trên ghế bành, tay cầm tờ báo, mồm  ngậm thuốc lá. Trước mặt đủ các loại báo chí. Tôi ngồi bên cạnh mà không biết cậu vừa mổ xong. Đến khi cậu rút cặp sốt trong người ra, mới giật mình: 41 độ rưỡi! Sợ quá, tôi nhắc cậu phải “bảo trọng!”.
Cậu hút thuốc rất nhiều. Cậu rải thuốc ra các đĩa, để khắp nơi - bàn làm việc, cửa sổ, đầu giường... tiện tay là lấy hút, không cần phải rút ra từ bao. Cho tới nay tôi chưa gặp ai hút thuốc ghê như vậy.
Lúc ra về, cậu tiễn tôi ra cổng. Vài  tuần sau, đọc báo thấy tin: Cậu mất tại Hà Nội! Thế là chúng tôi mất cậu!”.
24H.COM.VN (Theo Bee.net)

Gặp con gái lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn

Khâm phục tài nghệ quân sự, ngoại giao, kính nể sự đào hoa lãng mạn của tướng Nguyễn Sơn, chúng tôi tìm gặp người con gái của tướng Nguyễn Sơn (trung tá Nguyễn Thanh Hà) để hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp của ông. Tướng Nguyễn Sơn là người được cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc cùng phong tướng, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã gọi ông là lưỡng quốc tướng quân.
    Tự hào vì cha mình
    Cha mất khi cô bé Nguyễn Thanh Hà mới 7 tuổi. Nhưng giờ đây, khi đã ngoại lục tuần, người phụ nữ ấy vẫn vẹn nguyên tình yêu, niềm tự hào về cha mình. Trong cuộc đời như huyền thoại của tướng Nguyễn Sơn, chị Thanh Hà không giấu được tự hào khi nói rằng chị là đứa con may mắn trong 8 người con của tướng Nguyễn Sơn, được sống cùng cha nhiều nhất. Nghĩ về người cha, giờ đây chị luôn thấy tự hào và nuối tiếc.
    Tôi tìm gặp chị trong một buổi chiều đông Hà Nội, nghe chị kể những câu chuyện thật tự nhiên, đầy nhiệt thành về người cha kính yêu, mới thấy rõ người phụ nữ giàu nội lực này. Trong câu chuyện với chúng tôi, chị rất tự hào vì cha mình là một vị tướng có công với nước và được nhiều người yêu kính. Nhưng chị cũng tiếc lắm vì khi chị còn trẻ, còn nhiều cơ hội kiếm tìm thông tin về cha thì chị chưa biết quý hóa mỗi cơ hội ấy. Chị bảo: Mấy chục năm trước, bao nhiêu nhân chứng sống đang còn khỏe mạnh thì mình lại bận công tác, không tìm hiểu, khai thác. Đến khi tìm thông tin về cha thì các chú đã già rồi, nhiều chú đã qua đời. Đến nay có ai còn, thì cũng yếu lắm vì ngoài 90 tuổi cả rồi.
    Chị tâm sự: "Không hiểu sao bố tôi sống cùng mọi người chỉ khoảng 1 - 2 năm thôi nhưng tới 50 - 60 năm sau, người ta vẫn nhắc về ông. Vẫn yêu ông cụ lắm. Khi tôi mang cuốn sách tập hợp những bài viết về bố đến tặng. Có chú trên 90 tuổi, mắt đỏ hoe, cầm cuốn sách lên hôn”.
    Hai mươi năm nay, theo dấu chân của cha mình, chị Hà và những người thân trong gia đình đã tìm về những nơi mà tướng Nguyễn Sơn đã sống hoạt động và công tác những năm nào. Trong quá trình miệt mài kiếm tìm những tư liệu về người cha kính yêu, chị Hà đã nhận được sự giúp đỡ của nhiều người. Họ là đồng đội của cha chị, cũng có khi là những người dân mà tướng Nguyễn Sơn từng gặp. Mắt chị sáng lấp lánh khi chia sẻ về những thông tin mới nhất. Chị bảo: "Vừa hồi tháng 10 đây thôi. Tôi được biết thông tin về một người ở Thanh Hóa đã biếu cha tôi hai con ngựa trong những năm 1947 - 1948 để bố tôi cưỡi đi công tác. Vì như nhiều người đã biết, bố tôi rất quý ngựa và cưỡi ngựa giỏi. Lần đầu tiên tôi được nghe nói rõ về con ngựa ô được biếu trước, nó có thể phi nhanh. Sau khi con ngựa này bị chết, người có tấm lòng vì cách mạng và rất kính trọng bố tôi, lại tặng ông một con ngựa bạch".
    "Con ngựa bạch tuy không phi nhanh được nhưng dai sức. Bố tôi cho chị Giáng Hương (cố chủ tịch hội Mỹ Thuật Việt Nam) mượn đi công tác, không may đi qua cầu tre, ngựa bị thụt chân xuống khe cầu nên bị thương. Bố tôi đã thương con ngựa đó lắm. Sau, bố tôi lại được tặng một chiếc xe đạp để tiếp tục hành trình công việc", chị Hà kể.
    Tâm sự về niềm vui của bố mẹ khi sinh ra chị trên cõi đời này, chị bảo đó là lúc bố mẹ chị đang rất hạnh phúc, bố chị đã làm một bài thơ: "Bé bé Hà xinh xinh/ Đúc lại khối chung tình/Hình bé hồn hạnh phúc/Tình bé vòm trời xanh". Chị nói, bài này bố tôi đã đọc nhiều lần cho các chú bộ đội ở cùng tại Liên khu bộ (Liên khu 4) nghe. Mới đây, chị gặp lại cậu Vinh (sinh năm 1971) là cháu đích tôn của người biếu ngựa hơn nửa thế kỷ trước, cậu ta còn đọc lại bài thơ và bảo: "Bố cháu đã đọc cho cháu nghe nhiều lần bài thơ của bố cô viết mừng cô chào đời, nên cháu thuộc!".
    Gặpcon gái lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn - Ảnh 2
    Bác Hồ cùng gia đình ông Nguyễn Chí Thanh, Trần Đăng Ninh và Nguyễn Sơn.
    Những kỷ niệm xa quê
    Đọc những dòng tâm sự của chị Hà chúng tôi như cuốn vào những tháng năm gia đình chị theo cha sống nơi đất khách. Những kỷ niệm ấu thơ đã được chị tái hiện rất sống động: "Năm 1950, vào cuối năm tôi cùng mẹ và em Cương sang Trung Quốc với bố Sơn. Năm 1953, tại Nam Kinh mẹ tôi sinh em Nguyễn Việt Hồng".
    Năm 1954 bố tôi học xong khóa I của học viện Quân sự Nam Kinh và về Bắc Kinh nhận nhiệm vụ mới. Đầu năm 1955, gia đình tôi có thêm cô em út Việt Hằng ra đời ở Bắc Kinh. Khi ấy, mới 6 tuổi, tôi đã là chị gái của ba đứa em. "Mặc dù sống ở Trung Quốc nhưng bố mẹ luôn dạy chị em tôi nói tiếng Việt, trong nhà chỉ được nói tiếng Việt vì bố sợ chị em tôi quên tiếng Việt Nam. Bố mẹ thường xuyên đưa tôi và em Cương đến sứ quán Việt Nam, đến các trường đại học có các anh Vũ Tuyên Hoàng, Vũ Huyền Giao con bác Phan, anh Phan Diễn con bác Lê Thị Xuyến... để nói tiếng Việt", chị Hà nhớ lại. Với tướng Nguyễn Sơn, tiếng Việt là máu thịt, "Truyện Kiều và sân khấu truyền thống như Chèo là tài sản vô giá. Ông sẵn sàng bảo vệ và tuyên truyền về những vốn quý đó ở mọi nơi", chị tự hào kể về người cha thân yêu. 
    Chị Nguyễn Thanh Hà cho biết: "Những năm sau này, việc khiến tôi say mê là sưu tầm tư liệu, nghiên cứu về cuộc đời của cha mình. Nhưng để làm được việc này tôi đã được rất nhiều người giúp rất vô tư, chân thành và hết sức mình. Tôi biết ơn vô cùng những người đã giúp tôi trọn nghĩa đạo làm con". Chị xúc động cho biết: Những người đầu tiên chị muốn nhắc đến là đại tá - tiến sĩ sử học Nguyễn Văn Khoan và giáo sư sử học Đinh Xuân Lâm. Các chú ấy đã sưu tầm được nhiều tài liệu quý giá về bố tôi, đã tổ chức rất nhiều cuộc hội thảo, làm hàng chục cuốn sách về tướng Nguyễn Sơn. Chú Nguyễn Văn Khoan nhiều năm công tác tại cục Chính trị của Binh chủng Thông tin Liên lạc, nhà đông con không khá giả gì mà chú giúp tôi vô tư nhiệt tình, đầy sức thuyết phục. Bên cạnh đó còn có sự giúp đỡ của các chú từng là học sinh trường "Lục quân Quảng Ngãi", các chú các anh trường "Thiếu sinh quân Liên khu IV". 
    Gặpcon gái lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn - Ảnh 3
    Tướng Nguyễn Sơn.
    Mặc dù nhiều người đã trở thành cán bộ cao cấp, các tướng lĩnh, Bộ - Thứ trưởng, các giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học, anh hùng quân đội, anh hùng lao động... nhưng họ rất nhớ và luôn tri ân thầy hiệu trưởng của mình. Như chú Trần Hồng Lạc, từng là học sinh trường “Thiếu sinh quân khu IV” đã tận tình với thầy, với gia đình thầy đến hơi thở cuối của cuộc đời. Đặc biệt, tôi còn nhớ chú Cao Bá Sanh, nguyên là học sinh "Lục quân Quảng Ngãi" rồi làm trưởng ban Tác chiến của Liên khu IV thời bố tôi là Tư lệnh. Một trong những nguyện vọng cuối đời của chú là: "Làm cho mọi người hiểu đúng về con người tướng Nguyễn Sơn".
    Những đồng đội của bố tôi nhiều người đã mất, số còn lại cũng già yếu, bệnh tật. Tết mới đây, mấy chị em tôi tới thăm chú Sanh. Chú vừa bị tai biến mạch máu não. Thấy chúng tôi, chú cầm tay mấy chị em khóc và chỉ vào đầu giường, nơi có quyển sách ảnh của bố tôi: "Chú rất nhớ bố cháu. Thật thân, thật thương, thật quý".
    Trong nhật ký "Làm con" của mình, chị Hà đã viết: "Sáng 21/10/1956 các chú đưa cả năm chị em vào thăm bố, trên đường vào bệnh viện các chú hẹn thăm bố xong sẽ cho đi chơi Bờ Hồ, nhưng bố bảo: "Đưa ngay chúng nó về, nhìn thấy chúng nó lít nhít thế này đau lòng quá". Hồi tưởng lại lúc đó, chị xúc động kể: "Mẹ tôi bảo các chú cho về nhà. Thế là chị Lâm dắt mình đi chơi vì chị rất thạo đường phố Hà Nội. Hôm ấy tại Bờ Hồ có cuộc đua thuyền, người rất đông, tôi thì lần đầu tiên được thấy Bờ Hồ nên cứ đi theo chị Lâm... Chiều muộn về đến phố Lý Nam Đế gần đến số nhà 91 thì phải, cô bảo mẫu nhìn thấy bọn mình vội nói: Về ngay bố các cháu mất rồi!". Mắt đỏ hoe, chị Hà nhớ lại kỷ niệm đau lòng.
    "Khi tổ chức tang lễ, tôi còn nhớ, Bác Hồ đến, mẹ tôi chạy ra ôm lấy Bác, khóc và nói: Bác ơi anh Sơn mất rồi. Các đoàn người đến viếng nhiều lắm! Lúc đó chị em chúng tôi chẳng biết gì cứ chạy chơi lung tung trong CLB quân đội, nhất là khu vực bể bơi. Mãi đến khi hạ huyệt, tôi mới chạy đến bên mẹ và khóc vì để bố nằm dưới đất thế này thì từ đó trở đi bố không thể về để gọi: Con Hà gà tồ, thằng Cương chúa phá, con Hồng mắm tôm, con Hằng út ít (tên của bố Sơn đặt cho mấy chị em) được nữa rồi. Vì thế tôi mới khóc", chị Thanh Hà giải thích về việc bé Hà 7 tuổi, khóc cha muộn.
    Đó là những ký ức tuổi thơ mà đến sau này, sau hành trình hơn nửa thế kỷ trải nghiệm, chị Hà mới càng thấm thía công cha nghĩa mẹ. Chị tự hào vì là con của tướng Nguyễn Sơn giỏi giang, được sinh thành, nuôi nấng và sáng soi trong những lời dạy của người mẹ: "Con bố Sơn thì phải thế này, con bố Sơn thì không được thế kia”. Và lòng kính yêu của chị, đã đi từ bến bờ ngây thơ qua trải nghiệm, đến miền lắng đọng, nên thực sâu đậm, nồng đượm.    
     Hương Anh 
    (.nguoiduatin.vn)

    Bốn người vợ của Lưỡng quốc tướng quân

    TP - “Lưỡng quốc tướng quân” Nguyễn Sơn, người thầy của nhiều vị tướng. Sau này, nhiều người khi gặp lại con gái ông vẫn thốt lên: “Bố Sơn là người dạy chú biết đạo làm tướng”. Lừng lẫy ở cả hai nước Việt Nam - Trung Quốc về tài trận mạc, nhưng về đời tư, ông bị đồn thổi rất nhiều điều bất lợi vào thời đó.
    Tiếng đồn nói, ông có tới 13 người vợ và con thì không kể hết. Sự thật thì sao? Trung tá Nguyễn Thanh Hà, con gái đầu với người vợ thứ 4 của tướng Nguyễn Sơn trò chuyện với chúng tôi.
    Dù thế nào cũng không bao giờ bỏ con
    Thưa chị, cha chị là vị tướng tài nổi tiếng thì nhiều người đã biết, nhưng về đời sống của ông cũng có nhiều tin đồn hư thực lẫn lộn, chị có thể chia sẻ đôi điều về đời tư của ông?
    Chị Nguyễn Thanh Hà (N.T.H): Con người có số phận, mà cha tôi lại sống đúng thời loạn lạc nhất của cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Cuộc đời cha tôi có gần 50 năm thì gần một nửa thời gian đó sống ở Trung Quốc. Tham gia quân đội ở cả hai nước và đều được phong tướng.
    Nói vậy để thấy cuộc đời ông không chỉ thành công mà còn đầy gian nan thử thách với bao sinh ly và tử biệt. Phải đặt vào hoàn cảnh ấy mới hiểu được tại sao ông lại nhiều vợ và có con ở nhiều nơi như thế.
    Đầu tiên, theo sắp đặt của gia đình, bố tôi lấy bà Hoàng Thị Diệm, bà lớn hơn ông 5 tuổi. Sau này, trước khi đi thoát ly hoạt động cách mạng ông đã có cuộc chia tay và“mở lối” để bà có thể đi bước nữa. Năm ông 16 tuổi, ông có với bà Hoàng Thị Diệm một người con gái, chị cả Vũ Thanh Các của chúng tôi (họ Vũ là họ gốc của bố tôi). Về sau, chị Các cũng vất vả, vì bên bố có một đàn em và bên mẹ cũng có một đàn em.
    Bố tôi sang hoạt động ở Trung Quốc năm 1925. Đến năm1938, bố tôi lấy bà Trần Ngọc Anh (Trần Kiếm Qua là tên bố tôi đặt cho bà). Bà là người Sơn Tây, Trung Quốc. Ông bà có con gái tên là Phong Ba, nhưng chị Phong Ba chỉ sống được có 6 tháng. Thời đó, rất đói khổ, thiếu thốn.
    Tôi được kể lại rằng, bố tôi đã đau buồn lâu lắm, bố tôi luôn đi vòng để tránh qua ngôi mộ con gái nhỏ của ông. Sau chị Phong Ba, bố tôi và mẹ Kiếm Qua đã sinh được hai người con trai là Trần Hàn Phong (tháng 1-1944) và khi bố tôi về nước thì mẹ Kiếm Qua đang mang thai anh Trần Tiểu Việt. Tháng 1-1946, anh Việt ra đời. Cả hai anh cùng mang họ Trần của mẹ Kiếm Qua.
    Người phụ nữ thứ ba sinh con cho bố tôi là bà Ba Đổi (Nguyễn Thị Đổi). Bà sinh ra chị Mai Lâm. Sau này, hai người không hợp nhau nên đã chia tay. Cha tôi đã đón chị Lâm về cho mẹ tôi - người vợ thứ tư (cũng là người vợ cuối cùng của ông) nuôi.
    Với mẹ tôi, bà Lê Hằng Huân, ông đã sinh ra bốn chị em tôi, tôi là con cả, sau đó đến Nguyễn Cương, Nguyễn Việt Hồng, Nguyễn Việt Hằng. Cả chị Mai Lâm khi về sống cùng chúng tôi, mẹ tôi cũng đặt tên cho chị là Nguyễn Mai Lâm. Như vậy, chúng tôi đều mang họ Nguyễn. Mẹ tôi bảo: Đã là con bố Nguyễn Sơn thì phải là họ Nguyễn.
    Chị có nghe được những câu chuyện gì của những người cùng thời về người cha tài ba - tướng Nguyễn Sơn của mình?
    Chị N.T.H: Khi lớn lên tôi được nghe nói nhiều về bố tôi. Mọi người nói, tướng Nguyễn Sơn là người có tài nhưng rất kiêu. Điểm thứ hai là ông nhiều vợ, nhiều con.
    Tuy nhiên, bố tôi dù thế nào cũng không bao giờ bỏ con. Ông rất quý con. Có con nào là nhận và nuôi tất. Và nuôi dạy theo con đường cách mạng mà ông đã chọn.
    Người ta quý nể bố tôi nên kể rất nhiều chuyện hay, thậm chí có phần thêu dệt như huyền thoại. Và trong những chuyện ấy có chuyện nhiều vợ. Họ bảo ông có tới 13 người vợ và con thì không kể hết. Nhưng sự thực ông chỉ có 8 chị em chúng tôi.
    Mẹ tôi là người phụ nữ nhân hậu, nên khi chị Mai Lâm của tôi được đưa về cho mẹ, mẹ tôi đã chăm lo và nuôi chị còn chu tất hơn cả chúng tôi. Chị luôn được may quần áo mới. Tôi phải mặc thừa của chị.
    Mẹ tôi luôn hiểu cho bố tôi. Dù là người vợ thứ tư, nhưng mẹ tôi biết rõ vì hoàn cảnh nên bố tôi mới có những ly tán, đổi thay. Mặt khác, bây giờ thì chúng ta cũng cùng biết rõ rằng với một người tài giỏi thì dễ có nhiều người yêu mến. Và chuyện đó cũng không có gì ghê gớm ở thời trước.
    Khi bố tôi về Việt Nam thì có tin dữ là vợ ông - bà Trần Kiếm Qua cùng hai con đã bị bom chết ở Trung Quốc. Một thời gian dài, bố tôi đã sống trong đau buồn.
    Sau này, bố tôi được những người bạn quý mai mối cho ông lấy mẹ tôi ở Việt Nam. Mẹ tôi là em gái của bà Lê Hằng Phương - vợ của nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa Vũ Ngọc Phan. Đến chơi với gia đình Vũ Ngọc Phan nhiều, bố tôi khiến mọi người cảm mến, vun vào cho mối lương duyên của cha mẹ tôi.
    Được biết, khi trở lại Trung Quốc học tập và công tác, gặp lại bà Trần Kiếm Qua, bố tôi đã rất buồn và khó xử. Nhưng mẹ Kiếm Qua là người tốt, mẹ hiểu những gì mà loạn ly có thể gây ra cho thân phận con người.
    Sau khi cha chị qua đời, gánh lo cho con chồng, con mình trên vai mẹ chị hẳn là rất nặng?
    Chị N.T.H: Sau tang lễ của cha, tôi trở thành người bạn nhỏ của mẹ, giúp mẹ đi chợ, giặt quần áo của cả nhà, trông các em.
    Từ bé tôi đã là cô học sinh giỏi và ngoan, là niềm tự hào cũng như chỗ dựa nhỏ nhoi của người mẹ góa bụa mới bước vào tuổi 30.
    Năm nào tôi cũng được giấy khen ở nhà trường và năm nào cũng được viết thư chúc mừng sinh nhật Bác vào dịp 19-5, thư viết vào mặt sau tờ giấy khen.
    Hồi lớp vỡ lòng và lớp một, tôi cùng chị Mai Lâm, em Nguyễn Cương học ở trường mở trong thành (khu của Quân đội). Tan học tôi thường rủ chị Lâm, em Cương đi nhặt cành củi khô và quả phượng vĩ khô để về đun.
    Hồi đó cả nước khó khăn. Nhớ mãi những tuần hết gạo, phải ăn ngô khoai não nề, đến ngày đong gạo được ăn cơm mà như một bữa tiệc của lũ trẻ mồ côi chúng tôi. Thế mới biết những đứa con mồ côi luôn biết thân biết phận. Chẳng dám đòi hỏi gì, vẫn cố chịu đựng, thương mẹ.
    Những hôm thấy mẹ lầm bầm đi từ trên nhà xuống hành lang bên cạnh nhà lá của bọn tôi rồi lại lầm rầm đi lên là tôi biết mẹ hết tiền tiêu. Tôi bèn chia số tiền ít ỏi mà tôi dành dụm được cho mẹ.
    Nhận tiền xong, mẹ cười hớn hở nói với tôi:“Bố thiêng thật con ạ, mẹ vừa khấn bố là mẹ hết sạch tiền mua thức ăn cho các em Hồng, em Hằng ăn thì con mang tiền lên cho mẹ vay”. Cụ chỉ vay thôi, không xin, có tiền là trả ngay cho tôi. Thật thương!
    Mở trường quân sự và giúp dân... lấy vợ
    Tướng Nguyễn Sơn cùng gia đình (Hàng trên từ trái sang: Tướng Nguyễn Sơn, con gái Nguyễn Thanh Hà, bà Lê Hằng Huân, hàng dưới: các con của ông bà Nguyễn Việt Hồng, Nguyễn Cương, Nguyễn Việt Hằng
    Tướng Nguyễn Sơn cùng bà Lê Hằng Huân và con gái Nguyễn Thanh Hà (chụp tại Thọ Xuân- Thanh Hóa).
     
    Chị có thể kể vài kỷ niệm mà đồng đội hoặc cấp dưới của cha chị đã chia sẻ với chị?
    Chị N.T.H: Nhiều lắm, tôi đã tham gia làm cả chục cuốn sách về cha tôi và thời của ông, nên biết rất nhiều câu chuyện về ông cụ. Cụ được cả người giàu và người nghèo yêu quý. Bố tôi dạy người nghèo phải biết tiết kiệm và bố tôi cũng quý cái giỏi của người biết làm ra và giữ gìn của cải.
    Có lần bố tôi gặp một người ngồi khóc vì nghèo quá không lấy được vợ. Bố tôi hỏi chuyện và bảo về thịt con chó (mà nhà đó có sẵn). Sau đó, bố tôi mời các ông nhà giàu quanh đó đến chơi bài. Tiền của người được bạc, bố tôi gợi ý ủng hộ cho bà cụ nghèo có con chưa cưới được vợ. Với nhà giàu, chỗ tiền ấy không đáng gì nên mọi người vui vẻ ngay. Thế là số tiền gom nhặt đã đem lại hạnh phúc cho anh chàng muộn vợ.
    Chỉ về Việt Nam có 5 năm (1945-1950) mà bố tôi mở 4 trường: lục quân Quảng Ngãi, Thiếu sinh quân khu 4, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn (khóa 2,3) và Trường Văn nghệ khu 4. Ông còn tham gia giảng bài tại nhiều trường...
    Năm 1993, tôi gặp các cựu học sinh Lục quân Quảng Ngãi, có nhiều chú đã già yếu. Các chú đến nói:“Cho chú nắm tay cháu, vì chú nhớ bố cháu quá!”. Nhiều vị tướng gặp tôi đều nói: “Bố Sơn là người dạy chú biết đạo làm tướng”.
    Trân trọng cảm ơn chị!
    Trung Tá Nguyễn Thanh Hà
    Trung Tá Nguyễn Thanh Hà.
     
    “Gia đình chị đặc biệt lắm, bố chị có tất cả 4 người vợ, 8 người con. Các con của ông mang ba họ và theo hai quốc tịch Việt Nam và Trung Quốc. Nhưng bọn chị rất yêu thương nhau”.
    Trung tá Nguyễn Thanh Hà 
    (tienphong.vn) 

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét