Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2014

CÂU CHUYỆN BÓNG ĐÁ 2

(ĐC sưu tầm trên NET)


World Cup 1954: Số phận cay đắng của “Đội bóng Vàng” Hungary

Kinh Thi (http://bongdaplus.vn)
Chủ nhật, ngày 05-01-2014 - 08:17:37
Đành rằng thua Đức trong trận chung kết World Cup 1954 là bất ngờ quá lớn, khiến “Đội bóng Vàng” Hungary trắng tay. Nhưng số phận của những Puskas, Kocsis, Czibor, Hidegkuti... nghiệt ngã không chỉ ở trận thua ấy.
Ngôi sao Ferenc Puskas bất lực trong việc giúp ĐT Hungary đánh bại ĐT Đức trong trận chung kết duy nhất mà “Đội bóng Vàng” có cơ hội góp mặtNgôi sao Ferenc Puskas bất lực trong việc giúp ĐT Hungary đánh bại ĐT Đức trong trận chung kết duy nhất mà “Đội bóng Vàng” có cơ hội góp mặt
Cả một thế hệ xuất sắc và đồng đều do HLV Gusztav Sebes gầy dựng rút cuộc chỉ được nhớ đến như một đoàn quân trắng tay, vì quá nhiều chi tiết trớ trêu khác của lịch sử - không chỉ gồm lịch sử bóng đá.

“ĐỘI BÓNG VÀNG” MẠNH NHƯ THẾ NÀO?
Từ năm 1950 đến năm 1956, đội tuyển Hungary thi đấu 50 trận, với thành tích xưa nay không có đội tuyển nào khác theo kịp: thắng 42, hòa 7, thua 1. Tỷ lệ thắng 91% trong một giai đoạn kéo dài 6 năm là một kỷ lục ở làng cầu quốc tế. Từ tháng 4/1949 đến tháng 6/1957, Hungary ghi bàn trong 73 trận liên tiếp. Đấy cũng là một kỷ lục khó phá.

Trong vòng 4 năm và 1 tháng (6/1950 đến 7/1954), Hungary bất bại, đấy cũng là kỷ lục, tính từ đầu thế kỷ 20 trở đi. Với 84 bàn thắng chỉ trong 85 lần khoác áo đội tuyển, Ferenc Puskas là cây làm bàn số 1 thế giới ở tầm ĐTQG trong thế kỷ 20. Puskas lại cùng Sandor Kocsis làm nên cặp bài trùng huyền thoại, với kỷ lục ghi 159 bàn cho ĐTQG...


Ở cuộc chạm trán lịch sử trên sân Wembley vào năm 1953 mà báo chí Anh gọi là “trận đấu của thế kỷ”, Hungary thắng đậm 6-3, và thắng theo hình ảnh hủy diệt (4-1 sau 27 phút). Ở trận chung kết Cúp Trung Âu 1953, Hungary đè bẹp Italia với tỷ số 3 bàn không gỡ. Rồi họ thắng Anh 7-1 trong trận đấu vốn được sắp xếp để “quê hương bóng đá” phục thù.

Sau khi trở thành đội đầu tiên ngoài Vương quốc Anh chiến thắng ngay tại Wembley, Hungary lại trở thành đội đầu tiên thắng Uruguay ở trận địa World Cup. Tại World Cup 1954, Hungary toàn thắng 2 trận vòng bảng, ghi đến... 17 bàn, một trong hai trận ấy là thắng Đức 8-3. Trước khi tái ngộ Đức ở trận chung kết của kỳ World Cup ấy, Hungary thắng cả Brazil lẫn Uruguay, ghi đến 4 bàn vào lưới mỗi đội, tổng cộng là 25 bàn trong 4 trận đấu...

ĐẤU PHÁP SIÊU VIỆT
Tóm lại, nếu chỉ dùng những con số để nói về sức mạnh của đội tuyển Hungary trong những năm trước và sau World Cup 1954, người ta sẽ có cảm giác nhàm chán, hoặc giả nghĩ rằng đấy là thời kỳ bóng đá đỉnh cao hãy còn mông muội, nên Puskas và đồng đội mới ghi bàn dễ như vậy.

Tất nhiên, không phải như vậy. Cả thế giới ngưỡng mộ Hungary, gọi đấy là “Đội bóng Vàng”, còn vì những nguyên nhân quan trọng khác. Chiến thuật tiên tiến là một trong những chi tiết quan trọng nhất. HLV Sebes không chỉ nghĩ ra sơ đồ chiến thuật mới trong thời kỳ mà cả thế giới còn đang ngưỡng mộ sơ đồ WM. Cái mới của ông còn mang tính đột phá, rất sáng tạo và có cả triết lý nữa.


Có 3 điều quan trọng mà HLV Sebes đi trước thời đại. Thứ nhất, ông khuyến khích các cầu thủ chơi theo nhiều vai trò khác nhau - 20 năm trước khi Hà Lan gây tiếng vang bằng thứ “bóng đá tổng lực” nổi tiếng, mà thực chất Sebes đã nghĩ ra một phần. Thứ hai, ông quản lý ĐTQG theo mô hình của một CLB, làm các thành viên hiểu nhau cả trong lẫn ngoài sân cỏ.

Cuối cùng dĩ nhiên là đấu pháp. Ông kéo lùi trung phong cắm về khu giữa sân, khiến hậu vệ đối phương không biết phải kèm người thế nào cho đúng cách. 60 năm đã trôi qua, cách dùng tiền đạo lùi vẫn còn phổ biến trong bóng đá đỉnh cao, đủ biết cách cầm quân của HLV Sebes ngày xưa có giá trị như thế nào.

TRẬN THUA DUY NHẤT LẠI LÀ TRẬN QUAN TRỌNG NHẤT
Tiếc thay, trận thua duy nhất trong suốt 6 năm của “đội bóng vàng” Hungary lại chính là trận đấu quan trọng nhất trên đời: trận chung kết World Cup 1954, như mọi người đã biết. Bây giờ, người ta nói rằng đội bóng của HLV Sepp Herberger vô địch World Cup 1954 nhờ những chiếc đinh giày mà nhà tài trợ ruột của họ là hãng Adidas nghĩ ra như một phát minh vĩ đại (các tuyển thủ Đức có thể gắn hoặc không gắn đinh vào giày, tùy theo điều kiện mặt sân, và đấy là một ưu thế quan trọng). Nghe cũng hay. Nhưng, thế sao Đức thua Hungary đến 3-8 ở vòng bảng?

Có chút bí ẩn, khi sau này người ta công bố những chiếc xi lanh tìm được trong phòng thay đồ của Đức. Vô nghĩa, bởi nghi vấn doping mãi mãi chỉ là nghi vấn. Hungary còn có thể thua vì một vài tình huống tranh cãi thường thấy, như bàn gỡ 2-2 của Helmut Rahn cho Đức có thể đã phạm luật, hoặc Ferenc Puskas có thể chưa việt vị khi ông bị phủ nhận bàn gỡ 3-3 cho Hungary. Chứng cớ qua phim, ảnh đều không rõ ràng.

Nhưng thật ra, đấy cũng đều là những chi tiết không có giá trị (dù sao đi nữa, trọng tài vẫn có quyền sai). Tóm lại, Hungary đã bất ngờ thua Đức 2-3 ở trận chung kết World Cup 1954, sau khi dẫn trước 2 bàn, và sau khi đã thắng Đức 8-3 ở vòng bảng. Mọi chuyện đều có thể xảy ra trong môn bóng đá, kể cả... phép lạ!

TRẮNG TAY VỀ MỌI MẶT
Trong nửa đầu thập niên 1950, chưa có EURO, nghĩa là “Đội bóng Vàng” Hungary... chẳng có gì khác ngoài cơ hội duy nhất tại World Cup 1954 - cơ hội mà họ đã bỏ lỡ một cách quá đáng tiếc. Khi ấy, cũng chưa có Cúp C1 châu Âu để các tuyển thủ Hungary trong màu áo Honved hoặc MTK gây một tiếng vang “chính thức”, và chưa có giải thưởng “Quả Bóng Vàng” để người ta tôn vinh Puskas, Hidegkuti hay Kocsis.

Tất cả đều sẽ lần lượt xuất hiện, chỉ vài năm sau đó. Nhưng biến cố chính trị xảy ra vào năm 1956 đã làm cho “Đội bóng Vàng” tan rã hoàn toàn, ngay khi các thành viên đang ở đỉnh cao phong độ. Họ trở thành đội bóng “lưu vong”, đi du đấu khắp nơi để kiếm tiền và để... chờ thời.

Họ bị treo giò, vì một hoàn cảnh mà họ hoàn toàn không có lỗi gì. Cuối cùng, tất cả tan đàn xẻ nghé. Puskas “làm lại từ đầu” ở Real Madrid, nơi ông có một sự nghiệp sáng chói (trong độ tuổi 31-39). Czibor và Kocsis cũng thành công như thế ở Barcelona. Hidegkuti và Bozsik về Hungary làm HLV...

Giả sử họ vẫn là một tập thể gắn bó, và giả sử không xảy ra biến cố 1956? Giả sử EURO ra đời sớm hơn chỉ khoảng chục năm? Lịch sử bóng đá chắc chắn sẽ khác.

                                         

Bóng đá tại Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bóng đá, môn thể thao vua được nhiều người yêu thích, đã theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam vào khoảng năm 1896. Đầu tiên, môn bóng đá phát triển tại Nam Kỳ, sau đó lan ra Bắc KỳTrung Kỳ. Đó là những dấu ấn đầu tiên của Lịch sử bóng đá Việt Nam.

Từ sơ khai đến 1954

Bóng đá Nam Kỳ

Những người chơi bóng đầu tiên ở Sài Gòn là những công chức, thương gia hay binh lính người Pháp, sau đó, một số ít người Việt Nam cũng bắt đầu tham gia. Họ tập hợp nhau lại thành câu lạc bộ, lấy tên là Cercle Sportif Saigonnais. Quả bóng bầu dục xuất hiện lúc đầu sau được thay hẳn bằng bóng tròn, sân chơi là công viên thành phố, còn gọi là Jardin de la Ville, nay là sân Tao Đàn.
Năm 1905, đội bóng của chiến hạm Anh mang tên King Alfred ghé thăm Sài Gòn, và đã đấu giao hữu với một đội gồm những cầu thủ người Pháp và Việt, đây là trận bóng quốc tế đầu tiên tại Việt Nam.
Năm 1906, E. Breton, một uỷ viên Pháp trong L'Union des Sociétés Francaises des Sports Athlétiques đem luật bóng đá sang Việt Nam phổ biến, và trong vai trò hội trưởng, ông đã chấn chỉnh lại Cercle Sportif Saigonnais theo cách tổ chức của các câu lạc bộ bóng đá bên Pháp. Nhiều câu lạc bộ khác được bắt chước thành lập và hoạt động, như: Infanterie, Saigon Sport, Athletic Club, Stade Militaire, Tabert Club... Các giải bóng đá cũng bắt đầu được tổ chức từ đó. Đội Cercle Sportif Saigonnais do được tổ chức, huấn luyện có bài bản, nên đã liên tiếp thắng nhiều mùa giải trong các năm: 1907, 1909, 1910, 1911, 1912, 1916...
Nhiều người Việt nắm được luật và kỹ thuật bóng đá nên tự lập đội bóng của mình. Hai đội bóng Việt Nam đầu tiên thành lập năm 1907 là Gia Định Sport do các ông Ba Vẻ, Phú Khai dẫn dắt và đội thứ hai là Ngôi sao Xanh (Etoile Bleue) của ông huyện Nguyễn Đình Trị, về sau hợp nhất lại thành đội Ngôi sao Gia Định. Trước năm 1920, đội Ngôi sao Gia Định đã thắng tất cả các đội bóng kể cả đội Cercle Sportif Saigonnais của ông Breton (1917), giành Cúp vô địch.
Ngoài ra còn có các đội như: Victoria Sportive, Commerce Sport, Jean Comte, Sport Cholonaise, Khánh Hội Sport, Tân Định Sport, Gò Vấp, Hiệp Hoà, Chợ Quán, Phú Nhuận, Đồng Nai, Enfants de Troupe...; ở các tỉnh có các đội: Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Châu Đốc, Mỹ Tho...
Sân bãi cũng được phát triển thêm như sân Citadelle (tức sân Hoa Lư), sân Renault (tức Sân vận động Thống Nhất); sân Fourières (ở Bà Chiểu, gần lăng Lê Văn Duyệt), sân Mayer (góc đường Võ Thị Sáu - Trần Quốc Thảo), sân Marine (ở gần Trung tâm Mắt Thành phố Hồ Chí Minh)...
Sau đó, giới hâm mộ và những nhà dẫn dắt hợp tác thành lập một Tổng cuộc Bóng Đá riêng cho người Việt, bầu ông Nguyễn Đình Trị làm Trưởng ban Trị sự, và mua đất làm sân riêng. Lúc ấy đã có một Tổng cuộc Bóng Đá do người Pháp chủ trì, nên việc hợp tác giữa hai Tổng cuộc không thể thực hiện, nhưng hai bên vẫn hợp tác tổ chức những cuộc thi đấu, như giải Vô địch Nam Kỳ. Trong trận đấu giữa Cercle Sportif Saigonnais và Ngôi sao Gia Định năm 1925, trọng tài người Pháp đã đuổi cầu thủ Paul Thi ra khỏi sân, khiến cầu thủ này của đội Ngôi sao Gia Định bị treo giò vĩnh viễn làm cho việc hợp tác thêm khó khăn. Giải Vô địch Nam Kỳ bị gián đoạn trong nhiều năm, chỉ bắt đầu lại năm 1932, với 6 đội người Việt và 3 đội người Pháp.
Giai đoạn 1925-1935, đội Ngôi sao Gia Định tiếp tục nổi tiếng với các cầu thủ như: Sách, Thơm, Nhiều, Quý, Tịnh, Xường, Trung, Thi, Vi, Mùi, Tiếc, Rớt, Tài, Út, Danh, Giỏi, E. Quang... Trong thời gian này, có khoảng 29 giải bóng đá đủ loại được tổ chức, đội Ngôi sao Gia Định đăng quang vô địch 8 lần, số còn lại chia đều cho các đội Victoria, Khánh Hội, Cercle Sportif Saigonnais, Jean Comte, Auto-Hall (Nam), Commerce Sport, Thủ Dầu Một...
Khoảng năm 1932, ở Cần Thơ xuất hiện đội bóng đá nữ đầu tiên là đội Cái Vồn do ông bầu Sửu (tức Trần Khắc Sửu) thành lập, vài năm sau, có thêm đội Bà Trưng ở Rạch Giá - Long Xuyên. Năm 1933, đội nữ Cái Vồn thi đấu với đội nam Paul Bert tại sân Mayer và hòa 2-2, lập nên một kỳ tích trong lịch sử bóng đá Việt Nam.
Giai đoạn 1945-1954, đội Ngôi sao Gia Định tiếp tục ngự trị trên bóng đá Nam Bộ với những cầu thủ xuất sắc khác như: Maurice Tài, Coón, Lý Đức, Dương Văn Quới (Trụ Đồng), Hiếu, Thọ 2, Tư (Mũi tên Vàng),Dương Bạch Mai, Mỹ (Cọp Đông nam Á), Đỗ quang Thách (thuật sỹ bóng đá), Thọ Ve, Bùi Nghẻn, Khê...
Ngoài các giải, Cup được tổ chức tại Sài Gòn và ở các tỉnh, Tổng cuộc Bóng Đá An Nam còn tổ chức tiếp đón nhiều đội bóng nước ngoài, và cử đội tuyển đi thi đấu tại Thái Lan, Campuchia, Malaysia,... cao trào ấy đã làm môn thể thao vua này lan rộng ra cả nước.

Bóng đá Bắc Kỳ và Trung Kỳ

Bóng đá xâm nhập Bắc Kỳ khoảng năm 1906-1907. Báo thời đó đề cập năm 1909, hai đội Lê Dương Đáp Cầu (Legion Đáp Cầu) và đội Olympique Hải Phòng đã thi đấu với nhau. Trận đầu đội Olympique Hải Phòng thắng 2-1, nhưng ở lần sau đội Lê Dương Đáp Cầu đã thắng lại đội Olympique Hải Phòng 8-1 trên sân Hải Phòng.
Tại Hà Nội, tháng 2 năm 1912, Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội (Stade Hanoien) ra đời, gồm các cầu thủ người Việt và một số người Pháp như Menin, Megy, Bernard, Bonardi... Về phía quân đội Pháp có các đội như Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa (Régiment d'Infanterie Coloniale, RIC), Ngôi Sao Xanh (Étoile Bleue), Lê Dương Đáp Cầu, Lê Dương Việt Trì... Ngày 1 tháng 11 năm 1913, đội Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội đá với Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa, kết quả đội bộ binh Pháp thắng 5-3.
Những năm 1910-1920, các đội bóng ở Bắc Kỳ phát triển nhưng các trận đấu thường diễn ra ở các bãi trống, như các ngã ba, ngã tư phố vắng... Về sau, đội Chớp Nhoáng (Eclair) và Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội mới hợp tác lập ra sân Nhà Dầu (gần cầu Long Biên). Còn sân Mangin (nay là sân Cột Cờ) là do Quân đội Pháp quản lý và dùng cho các giải đấu chính thức.
Giai đoạn 1930-1940, Hà Nội có các đội bóng như: Chớp Nhoáng (do Trần Văn Quý đứng đầu), Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội, Racing Club, Lạc Long Ngọn giáo (La Lance), Hoả Xa (Usaga), Trường Bưởi (Chu Văn An hiện nay), Đại học (Université Club), Ngân Hàng, Ô-tô Han (Auto Hall). Hải Phòng có các đội Voi vàng Đất cảng, Olympique Hải Phòng, Mũi Tên (La Flèche), Radium (Trung Học), Thanh niên Bắc Kỳ (La Jeunesse Tonkinoise). Nam Định có đội Hồng Bàng; Phủ Lý có đội Phủ Lý Thể thao; Lạng Sơn có đội Le Semeur.
Miền Trung Việt Nam có các đội như ASNA (Vinh); Sept (Huế); Touranne và Faifo Cheminot của Nha Trang.

Giai đoạn 1954-1975

Thế chiến thứ hai và chiến tranh Việt - Pháp đã làm gián đoạn sự phát triển bóng đá Việt Nam. Cho đến năm 1954, sau khi hiệp định Genève được ký kết, phong trào bóng đá ở cả hai miền mới được phục hồi và phát triển trở lại.

Miền Bắc: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Tại miền Bắc Việt Nam đội bóng đá Thể Công của Quân đội Nhân dân Việt Nam thành lập ngày 23 tháng 9 năm 1954, nhiều năm liền đoạt chức vô địch.
Năm 1960 Đội tuyển Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (do cầu thủ của Trường Huấn luyện quốc gia và đội Thể Công) được sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc, Đức... đã thi đấu ở các giải GANEFO (Indonesia, 1963) và GANEFO Châu Á (Campuchia, 1966).
Những cầu thủ nổi tiếng giai đoạn này: Thọ, Long, Phàn, Ngọc, Chính, Vinh, Từ Hiển, Hùng (xồm), Khánh, Giáp, Thế Anh...

Miền Nam: Việt Nam Cộng hòa

Tại miền Nam Việt Nam, vào cuối thập kỷ 1950, đội bóng của Việt Nam Cộng hòa đã trở thành 1 trong 4 cường quốc bóng tròn châu Á, khi lọt vào vòng chung kết giải Vô địch châu Á 1960 cùng với Nam Hàn, Ấn Độ, Trung Hoa (do Hồng Kông đại diện).
Năm 1954, đội Ngôi sao Gia Định giải tán, nhóm cầu thủ về đầu quân cho AJS (Association de la Jeunesse Sportive), hoặc đội Cảnh Sát.
Từ năm 1960 đến năm 1966, đội bóng của Việt Nam Cộng hoà thường được xếp hạng từ thứ ba đến thứ nhất trong các giải bóng đá tại châu Á. Đội bóng của Việt Nam Cộng hòa đã đoạt chiếc huy chương vàng bộ môn bóng đá tại SEA Games 1959 và dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên Karl-Heinz Weigang người Đức, đã đoạt Cúp Merdeka lần thứ 10 do Malaysia tổ chức năm 1966, với sự tham dự của 12 đội bóng của 12 nước.
Đội AJS, đội Cảnh Sát, đội Tổng Tham Mưu (của Quân lực Việt Nam Cộng hòa) và đội Quan Thuế luân phiên thống trị bóng đá miền Nam cho đến năm 1975.

Từ 1975 

Trận cuối cùng của đội Việt Nam Cộng hoà là vào năm 1975. Sau khi đất nước thống nhất, đội tuyển Việt Nam không được triệu tập trong suốt thời gian từ 1975 đến 1991. Trong một số giải đấu như SKDA của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, đội tuyển Việt Nam được triệu tập một cách không chính thức với nòng cốt là các cầu thủ Thể Công và tăng cường thêm một số cầu thủ khác từ các câu lạc bộ trong nước. Mãi đến năm 1991 đội tuyển mới bắt đầu tham gia đấu trường quốc tế. Giải đấu quốc tế đầu tiên mà đội tuyển Việt Nam thống nhất tham gia thi đấu là SEA Games 1991 được tổ chức tại Manila. Trong trận đầu tiên đội gặp đối thủ nước chủ nhà Philippines và đã hòa với tỉ số 2–2.
Tuy nhiên, trong lần tập trung đi dự SEA Games lần đó, tình hình đất nước còn rất khó khăn. Các điều kiện tập trung ở Nhổn rất thiếu thốn nên chỉ sau một tuần tập trung, 11 cầu thủ phía Nam (thành viên các đội Công nhân Quảng Nam-Đà Nẵng, Hải Quan, Cảng Sài Gòn) cùng "đào ngũ". Sau năm 1991, đội tuyển Việt Nam bắt đầu được triệu tập thường xuyên hơn để thi đấu các giải đấu chính thức trong khu vực và một số trận giao hữu không chính thức. Trận giao hữu đầu tiên của đội tuyển Việt Nam là trước câu lạc bộ Adelaide của Australia tại Hà Nội(hòa 1-1).
Tính đến nay, đội tuyển Việt Nam chưa lần nào vượt qua vòng loại World Cup. Năm 2007, khi là quốc gia đăng cai, đội tuyển Việt Nam lần đầu tham dự vòng chung kết Cúp bóng đá châu Á và đã bất ngờ vào tới vòng tứ kết. Ở giải khu vực Đông Nam Á, đội tuyển giành ngôi vô địch một lần vào năm 2008 khi vượt qua Thái Lan ở trận chung kết. Chiến thắng có phần bất ngờ này của tuyển Việt Nam được trang thông tin điện tử Goal.com xếp vào top 10 sự kiện bóng đá châu Á năm 2008, cũng như được độc giả Vietnamnet bình chọn là một trong 10 sự kiện nổi bật của Việt Nam trong năm.
Vào cuối năm 2011, dù không có thành tích gì đáng kể, đội tuyển Việt Nam bất ngờ tăng 35 bậc, xếp hạng 99 trong Bảng xếp hạng FIFA, trở lại top 100 sau 7 năm. Đây lần đầu tiên Việt Nam xếp đầu Đông Nam Á trong bảng xếp hạng này

Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 13:45, ngày 11 tháng 6 năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét