Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

CÂU CHUYỆN VỤ ÁN 2 (Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ)

(ĐC chép từ .24h.com.vn)


    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 1)
    Clarence Earl Gideon, 51 tuổi

    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ 

    Quá nghèo để có thể thuê luật sư, một người đàn ông 51 tuổi đã tự bào chữa cho mình khi bị cáo buộc liên quan đến một vụ trộm.
    Ngày 3/6/1961, Clarence Earl Gideon, 51 tuổi bị bắt vì nghi ngờ đột nhập vào một cửa hàng ở Florida. Quá nghèo để có tiền thuê luật sư, Clarence đã tự bào chữa cho mình tại tòa, và nhận mức án cao nhất cho khung hình phạt của tội trộm cắp.
    Không chấp nhận bản án đó, Clarence đã dành nhiều thời gian nghiên cứu về những điều luật có liên quan và nộp đơn kháng cáo lên Tòa án Tối cao với hi vọng thay đổi được bản án của mình và của hàng ngàn người đang bị kết án tương tự vào thời điểm đó.
    8h sáng ngày 3/6, khi Ira Strickland, chủ cửa hàng đến mở cửa, cảnh sát đã có mặt ở đó.
    Cảnh sát Deull Pitts thông báo với Ira Stickland rằng quán của ông đã bị kẻ trộm đột nhập trong đêm. Tên trộm đã phá vỡ một cánh cửa kính và trèo vào bên trong. Ira Trickland không quá bất ngờ khi nghe thông tin này.
    Cửa hàng của Ira Trickland nằm ở một góc cảng, gần khu nhà máy giấy ở vùng ngoại ô tồi tàn của thành phố Panama, Florida.
    Không mất quá nhiều thời gian để Ira Strickland xác định được tên trộm đã lấy đi những gì bên trong cửa hàng, 65 đô la tiền mặt, hầu hết là tiền xu trong các máy chơi game tự động,  12 chai bia, 12 lon cô ca và một chai rượu vang rẻ tiền gần hết. Tổng giá trị những thứ bị mất khoảng 100 đô la.
    Cảnh sát Deull Pitts cho biết, một thanh niên 22 tuổi tên là Henry Cook, sống ở gần đấy đã nhìn thấy tên trộm.
    Nhân viên cảnh sát của thành phố Panama trong khi đi tuần đã thấy cửa chính của cửa hàng đã mở và Henry Cook ở gần đấy.  Nghi ngờ có điều bất thường, nhân viên này đã hỏi Henry một vài thông tin, Henry cho biết anh vừa ở nơi làm về, hôm qua do uống say nên giờ anh mới về nhà.
    Henry cho biết thêm, anh nhìn thấy có bóng người di chuyển bên trong cửa hàng nên đứng lại quan sát. Một người đàn ông rời khỏi cửa hàng, tay xách một chai rượu. Người này đến quầy  điện thoại gần đó gọi điện. Một chiếc taxi xuất hiện, người đàn ông này nhanh chóng rời đi.
    Henry  nhận ra người đàn ông đó là Clarence Gideon, người đàn ông gầy gò, khuôn mặt hốc hác, nhân viên của cửa hàng. Clarence sống  gần khách sạn Bay Harbor, với mức giá thuê 6 đô la một tuần.
    Một giờ sau đó, cảnh sát đã tìm thấy Clarecen ở một quán rượu trung tâm thành phố Panama.  Clarence bị bắt giữ, trong túi có hơn 25 đô la tiền xu.
    Clarence bị cáo buộc đã đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland và lấy đi một số đồ đạc, kể cả số tiền xu trong những máy chơi tự động. Tuy nhiên, Clarence khẳng định số tiền xu trong túi mình là tiền thưởng do ông chơi được, không phải do lấy trộm.
    Quá nghèo để có thể thuê luật sư riêng cho mình, Clarence quyết tâm chống lại những lời cáo buộc từ phía cảnh sát. Ở tuổi 51, Clarence không còn lạ gì những phòng xử án và ông biết những kiến thức về pháp luật của mình đủ để ông thanh minh trước tòa.
    Thẩm phán Robert McCrary cho biết, theo luật pháp bang Florida, Clarence không thể tự bào chữa cho mình trong phiên tòa này.
    Clarence phản đối điều đó, “Tòa án Tối cao Hoa kỳ cho phép tôi có quyền được đại diện cho mình như một luật sư.”
    Quyết định của thẩm phán và việc tự chứng minh mình vô tội của Clarence trong vụ án này đã giúp cho 949.600 trường hợp tương tự Clarence thoát án tại các bang ở Mỹ năm 1961.
    Ngày 4/8, hai tháng sau khi đột nhập vào cửa hàng của Ira Strickland, Clarence phải đối mặt với phiên tòa xét xử cho tội danh trộm cắp. Clarence tự đại diện cho mình. “Đối thủ” của ông là công tố viên William Harris.
    Thấm phán McCrary làm chủ tọa phiên tòa, một đoàn bồi thẩm gồm 6 thành viên.  Hai người được triệu tập đến phiên tòa theo công tố viên Harris, Ira Strickland, chủ cửa hàng và nhân chứng Henry Cook.
    Theo lời khai của Ira, chính anh là người đã khóa cửa cửa hàng vào nửa đêm ngày 2/6 và quay lại đó lúc 8h. Anh xác nhận khóa cửa chính đã bị mở và một số tiền xu, đồ đạc trong cửa hàng mình đã bị lấy đi.
    Henry Cook lặp lại lời khai như anh đã khai nhận vào sáng sớm ngày 3/6. Anh thấy Clarence bước ra khỏi cửa hàng sáng sớm hôm đó với một chai rượu vang trên tay, đến quầy điện thoại gần đó gọi điện, sau đó lên taxi đi mất.

    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 2)
    Nhà tù Raiford, Florida, nơi giam giữ Gideon.

    Gideon đã thất bại trong lần đầu tiên tự bào chữa trước tòa với vai trò là luật sư "bất đắc dĩ".
    Thất bại
    Trong phiên tòa, Gideon đã làm hết sức mình với vai trò là một luật sư "bất đắc dĩ". Anh đưa ra những nhận định gây tranh cãi, tranh luận với Cook và gọi 7 nhân chứng biện hộ khác.
    Nhưng việc tranh luận với Cook đã thể hiện sự kém cỏi của Gideon. Phần lớn cuộc đối thoại giữa hai người kết thúc theo kiểu:
    Gideon: Anh có biết tư thế mà tôi mang rượu lúc đó không?
    Cook: Tôi biết.
    Gideon: Sao anh biết?
    Cook: Bởi vì tôi nhìn anh rất rõ lúc đó.
    Những nhân chứng của Gideon bao gồm Deputy Pitts, người lái xe taxi đã đưa anh tới thành phố Panama, và một người phụ nữ là khách hàng thường xuyên của cửa hàng, người chứng thực về tính cách của Gideon.
    Diễn biến của phiên tòa không có phần ghi âm hai lời khai mạc và kết thúc phiên tòa. Nhưng bản ghi âm có ghi lại rằng Gideon đã nói trong 11 phút trong phần của mình, dài hơn 2 phút so với bên công tố viên.
    Anh tranh luận rằng Cook và một số bạn cùng hội đã đột nhập vào cửa hàng. Khi cảnh sát vô tình đi ngang qua và phát hiện, Cook đã đổ tội cho Gideon bởi vì hắn đã nhìn thấy Gideon đứng ở quầy thanh toán và gọi taxi vào buổi sáng hôm đó để tới thành phố Panama.
    Lời biện hộ của Gideon không thay đổi được quan điểm của Bồi thẩm đoàn, những người nắm quyền quyết định đối với cuộc đời anh. Ngày 27/8, 3 ngày trước sinh nhật thứ 52 của Gideon, thẩm phán McCrary đã tuyên phạt mức án cao nhất cho tội trộm cắp dành cho anh: 5 năm tù giam.
    Học luật trong tù
    Với phán quyết của tòa, cuộc đời của Gideon đã bị đóng cũi sau song sắt nhà tù. Gideon phải di chuyển tới 4 nhà tù khác nhau của bang.
    Nhưng Gideon quyết không cam chịu. Anh căm phẫn và khao khát giành lại công bằng. Khi bị giam giữ tại nhà tù Raiford, Gideon trút cơn tức giận của mình lên thẩm phán McCrary.
    “Ngọn lừa uất hận vẫn bùng cháy trong Clarence Earl Gideon. Anh không bao giờ từ bỏ ý định giành lại tự do, không để bị buông xuôi trước bất công. Trong anh luôn có khao khát cháy bỏng tự do và cảm nhận rất rõ sự sai lầm của bang Florida. Anh quyết tâm phải làm gì đó”, một cuốn sách sau này viết về Gideon.
    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 2) - 1
    Bức thư của Gideon
    Gideon đọc một cuốn sách về lịch sử của hệ thống pháp luật Mỹ và nhận ra rằng thẩm phán McCrary đã vi phạm nghiêm trọng quyền của mình, dựa theo luật điều 14 của hiến pháp Mỹ.
    Dùng bút chì được nhà tù cung cấp, Gideon viết rất nhiều thư và gửi đi. Tuy nhiên, Gideon phải tuân theo luật của nhà tù: chỉ được gửi 2 bức thư mỗi tuần và chỉ được sử dụng tiếng Anh.
    Bức thư đầu tiên Gideon gửi cho văn phòng FBI tại Florida và sau đó gửi tới tòa án tối cao. Nhưng những nỗ lực của Gideon bị từ chối.
    Tháng 1/1962, Gideon viết bức thư dài 5 trang cho Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, hỏi về tính pháp lý của những bức thư kháng cáo của anh. Sau đó, dựa theo một cuốn sách luật, Gideo viết đơn xin có luật sư cho mình trong phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, đơn thỉnh cầu bị từ chối.
    Ngày nay, Tòa án Tối cao hoa Kỳ chỉ từ chối tất cả chừng 100 trong số 7.000 đơn kháng cáo họ nhận được mỗi kỳ. 40 năm trước, tòa chấp nhận khoảng 1/3 số đơn.
    Clarence Gideon không may mắn được trong thời kỳ đó. Trong nhiều năm, những nhà làm luật đã tranh cãi gay gắt về việc có nên chỉ định luật sư bào chữa cho những bị cáo nghèo không đủ tiền thuê luật sư.
    Điều 6 có nhắc tới việc chỉ định một luật sư miễn phí cho bất kỳ ai không có đủ tiền thuê luật sư. Nhưng quyền đó không được áp dụng trong phần lớn các phiên xử. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã xét xử vụ án nổi tiếng về nhóm thanh niên Scottsboro. Trong đó, 7 thanh niên gia đen đã bị buộc tội cưỡng hiếp hai người phụ nữ da trắng năm 1932. Trong vụ án này, nhiều luật sư đã được chỉ định để làm luật sư bào chữa.
    Nhưng trong năm 1942, tòa án đã đưa ra quyết định gây tranh cãi rằng một thẩm phán ở Maryland đã đúng khi từ chối luật sư bào chữa miễn phí cho người công nhân nông trại tên là Smith Betts. Người này bị buộc tội trộm cắp. Họ cho rằng tòa có quyền từ chối luật sư miễn phí chỉ trừ một số trường hợp đặc biệt như bị cáo là người mù chữ, là trẻ em hay khuyết tật…
    Vào năm 1961, 37 bang và nhiều thành phố đã chấp nhận việc chỉ định luật sư cho những bị cáo nghèo khổ. Florida không nằm trong số đó.

    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ 3)
    Gideon nghiên cứu luật

    Tòa án Tối cao đã chấp nhận đơn kháng cáo của Gideon. Một luật sư nổi tiếng của Washington sẽ bào chưa cho ông.
    Năm 1961, 37 tiểu bang và nhiều thành phố đã chấp nhận việc chỉ định luật sư cho những bị cáo không có đủ khả năng thuê luật sư cho mình. Tuy nhiên Florida chưa thông qua điều này.
    Một số luật sư cho rằng Tòa án Tối cao dưới quyền của chánh án Earl Warren đang chờ đợi một điều luật khác được áp dụng cho Florida và các bang khác.
    Tòa án Tối cao đã đề nghị luật sư Richard Ervin trả lời những đơn kiên nghị của Gideon. Một bản tài liệu gồm 13 trang, do trợ lý của Ervin, Bruce Jacob chuẩn bị có cho biết Gideon đã không có quyền được có luật sư bào chữa cho mình.
    Bản tài liệu này đã được gửi cho Gedion. Gedion lần nữa viết thư thể hiện sự không công bằng trong phiên tòa xét xử mình trước đó. Theo Gedion, “Tôi đã không được xét xử công bằng, tôi yêu cầu có luật sư cho mình nhưng tòa án đã từ chối.”
    Lần này, Tòa án Tối cao đã bị  thuyết phục bởi Gideo, họ chấp nhận đơn kháng cáo của ông.
    Trước tiên, Gideon cần một luật sư. Luật sư Abe Fortas được chỉ định nhận vụ án này.
    Fortas là người gốc Memphis, con trai của một người Nga nhập cư. Fortas tốt nghiệp đại học Luật Yale và hiện đang làm biên tập cho một tạp chí Luật. Ông đã từng làm việc tại sở Nông nghiệp, sau đó là Bộ Nội vụ.
    Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Fortas thôi làm việc cho chính phủ, ông mở công ty luật riêng, công ty của ông nhanh chóng trở thành một trong những công ty luật có tầm ảnh hưởng nhất ở Washington.
    Mùa hè năm 1962, Gideon được thông báo việc luật sư Fortas sẽ bào chữa cho ông trong phiên tòa tới. Vài ngày sau đó, Fortas nhận được một lá thư viết tay từ Gedion, trong đó, ông trình bày tất cả những vẫn đề liên quan đến mình và vụ án của mình.
    Clarence Earl Gideon sinh năm 1920 ở Hannibal, bang Missouri,  bằng tuổi với luật sư Fortas. Cha Gideon qua đời khi Gideon mới 3 tuổi.  Sống trong sự giáo dục và quản lý nghiêm khắc của mẹ, Gedion luôn có ý định nổi loạn.
    Lớp 8, Gedion nghỉ học và bỏ nhà đi bụi, sống như một đứa trẻ lang thang ở các khu đường sắt. 16 tuổi, Gedion đã bị bắt nhiều lần vì tội trộm cắp.
    Gedon bị giam trong trại cải tạo gần một năm, sau đó làm việc cho một nhà máy giày. Không lâu sau đó, Gedion bị đuổi việc do trộm tiền của công ty.
    18 tuổi, Gedion bị bắt tại Missouri vì tội trộm cắp.  10 năm tù giam là bản án dành cho Gedion trong vụ này, tuy nhiên, chỉ 3 tháng sáu khi bị bắt, Gedion đã được phóng thích.
    Gedion đã kết hôn 4 lần, 3 cuộc hôn nhân đầu nhanh chóng kết thúc, ông không có con với những người phụ nữ này.  Ruth là vợ thứ 4 của ông.
    Ruth và Clarence Gideon định cư tại Orange, Texas  giữa những năm 1950, ông làm thuê cho một xưởng đóng tàu trước khi nằm liệt giường vì bệnh lao.
    Gedion không cảm thấy xấ hổ khi kể lại cuộc đời mình cho luật sư Fortas nghe.
    Ngày 15/1/193, luật sư Fortas xuất hiện tại Tòa án Tối cao ở Washington để tham ra buổi điều trần về vụ án của Gedion, tham gia còn có chánh án Earl Warren.
    Những lập luân của Fortas khá đơn giản nhưng chặt chẽ và lô-gic.  “Fortas như đang thực hiện bài thuyết trình của mình, mạnh mẽ và đầy sức thuyết phục.”
    Fortas khẳng định một phiên tòa không có luật sư cho bị cáo là một phiên tòa thiếu sư công bằng, không đúng theo quy định của án hình sự.
    Buổi điều trần kết thúc sau 3 giờ.  Trợ lý Jacob có chút nghi ngờ về kết quả kháng cáo sau này sẽ khác.
    Gideon, Fortas, Jacob và nhiều nhân viên phá lý khác đã đợi chờ hơn 2 tháng trước khi có phán quyết chính thức.
    Các thẩm phán đã tổ chức một cuộc bỏ phiêu kín sau khi lắng nghe những tranh luận từ phía các bên. 

    Tòa án Tối cao đưa ra phán quyết mang tính bước ngoặt trong lịch sử luật pháp nước Mỹ vào ngày 18/3/1963 dựa trên những bản kháng cáo của Gedion.
    Với sự giúp đỡ của Fortas, một luật sư có tiếng, Gideon hi vọng vụ án của mình sẽ có phán quyết mới trong phiên kháng cáo này.
    Chánh án Earl Warren đã chỉ định thẩm phán Hugo Black theo sát và chịu trách nhiệm về trường hợp của Gideon.
    Thẩm phán Hugo Black, 77 tuổi, là một người gốc Alabaman, ông chính thức được bổ nhiệm làm thẩm phán vào năm 1937 bởi ngài Roosevelt, tổng thống thứ 32 của Hoa Kỳ sau hơn 10 năm ông làm Thượng nghị sỹ. Hugo Black là một trong những thẩm phán nhiều năm kinh nghiệm nhất tính cho đến thời điểm ông qua đời vào năm 1971.
    Năm 1942, Black đã phản đối việc không cho phép chỉ định luật sư bào chữa cho những bị cáo không có khả năng chi trả. Nhưng mãi cho đến trường hợp của Gideon, 19 năm sau, ông lại mới có dịp bày tỏ quan điểm của mình. Ông rất quan tâm đến những bản kháng cáo của Gideon và phán quyết từ phía Tòa án Tối cao.
    Tòa án tối cao nhất trí ủng hộ đề nghị của Gideon và đưa ra phán quyết mang tính bước ngoặt trong lịch sử luật pháp nước Mỹ vào ngày 18/3/1963.
    Phán quyết quy định rằng, “Quyền của các bị đơn không có khả năng chi trả là được chỉ định luật sư bào chữa cho mình. Đó là một quyền tối thiếu của bị cáo tại phiên tòa để đảm bảo cho việc xét xử công bằng.”
    Vụ trộm làm thay đổi luật pháp nước Mỹ (Kỳ cuối) - 1
    Bia đã tưởng niệm Clarence Earl Gideon 
    Ngay lập tức, phán quyết này có hiệu lực ở nhiều tiểu bang nước Mỹ, chỉ riêng ở Florida, đã có hơn 2000 tù nhân bị kết án được trả tự do dựa trên những kết quả do phán quyết mang lại. Tuy nhiên, Gideon không nằm trong danh sách những tù nhân may mắn đó. Ông sẽ phải đối mặt với phiên tòa thứ hai. Khi đó Gideon đã chịu án hơn 2 năm.
    Gideon chọn luật sư W. Fred Turner, 41 tuổi, làm luật sư cho mình trong phiên tòa này. Phiên tòa diễn ra ngày 5/8/1963, năm tháng sau khi phán quyết của Tòa án Tối cao có hiệu lực.
    Turner đã dành nhiều ngày để chuẩn bị cho phiên tòa có tính chất quyết định này. Anh đã lựa chọn một phần lời khai của Henry Cook tại phiên tòa trước. Luật sư Turner cho rằng một nhóm các thanh nhiên đã phá cửa chính của cửa hàng, đột nhập và lấy rượu trước khi lấy số tiền xu tại các máy tự động.
    Turner cũng đưa ra một chi tiết quan trọng dựa trên lời khai của tài xế taxi đưa Gideon đến Panama. Theo người này, Gideon không mang theo rượu, bia hay bất cứ đồ uồng nào lên xe khi ông bắt taxi vào sáng sớm hôm đó gần khu vực của hàng như Gideon kể.
    Không thể buộc tội Gideon dựa trên một vài lời khai của nhân chứng. Tòa tuyên bố Gideon trắng án. Gideon không liên quan đến vụ mất trộm năm đó. Phán quyết được thông báo sau 1h thảo luận. Như vậy, Gideon đã chịu án oán sau hơn 2 năm.
    Sau tuyến bố trắng án của tòa án, Gideon trở về với công việc hàng ngày của mình. Gideon qua đời ở Fort Lauderdale ngày 18/1/1972 khi mới 61 tuổi. Ông được chuẩn đoán chết vì bệnh ung thư. Những người thân của Gideon ở Missiouri đã thống nhất mang về Missiouri án tang.
    Trên một tấm bia được gửi đến từ những người hâm mộ và quan tâm đến Gideon có khắc dòng chữ tưởng niệm, “Mỗi thời đại đều có những con người làm thay đổi luật pháp.”
    Tuy không trực tiếp đứng ra bào chữa tại phiên tòa, nhưng "kết quả tốt đẹp" của nó ảnh hưởng đến nhiều người, trong đó có luật sư Fortas.
    Sự nghiệp của luật sư Abe Fortas ngày càng phát triển. Năm 1965, Tổng thống John Kenndy bổ nhiệm Fostas làm chánh án Tòa án Tối cao Hoa Kỳ sau khi Earl Warren nghỉ hưu.
    Bốn thập kỷ kể từ khi Tòa án Tối qua thông qua phán quyết của dựa trên đề xuất của Gideon, nhiều nhà làm luật đã cố gắng “lách” phán quyết này.
    Mai Tân (Theo Trutv) (Khampha.vn

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét