Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 6 (Nguyễn Thiếp)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Nguyễn Thiếp - một ẩn sĩ tài cao, đức trọng
 
Thủ thư của Nguyễn Huệ gởi La Sơn Phu Tử
Năm 1775, Trần Văn Kỷ, một cận thần của Nguyễn Huệ - Quang Trung ra Thăng Long để chiêu mộ sĩ phu Bắc Hà về với nhà Tây Sơn. Khi Trần hỏi Nguyễn Nghiễm, một bậc nguyên lão khả kính về nhân tài của đất Việt thì được trả lời: "Đạo học sâu xa thì Lạp Phong Cư Sỹ, văn phong phép tắc thì Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, còn thiếu niên đa tài đa nghệ chỉ có Nguyễn Huy Tự". Nhân vật mà "đạo học sâu xa", có danh hiệu Lạp Phong Cư Sỹ chính là Nguyễn Thiếp, người đã có những đóng góp cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp của nhà Tây Sơn.
Nguyễn Thiếp (tự là Khải Xuyên) sinh ra và lớn lên ở làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, trấn Nghệ An (nay là Đức Thọ - Hà Tĩnh) vào năm Quý Mão (1723), cách đây vừa tròn 280 năm. So với những danh sĩ cùng thời, Nguyễn Thiếp là người có khá nhiều danh hiệu, trong đó tên hiệu được biết nhiều hơn cả là La Sơn Phu Tử, Hạnh Am và Lạp Phong Cư Sỹ. Năm 21 tuổi (1743), Nguyễn Thiếp thi đỗ Hương Cống nên được bổ làm Huấn Đạo rồi thăng Tri Huyện Thanh Chương (Nghệ An). Tuy chỉ đỗ Hương Cống nhưng Nguyễn Thiếp nổi tiếng là một danh sĩ tài cao, đức trọng. Ra làm quan giữa thời buổi nhiễu nhương, với cảnh tượng "chúa ác, vua hèn", giặc giã liên miên, càng ngày Nguyễn Thiếp càng chán ngán. Ông tâm sự: Nghĩa còn, đỉnh hoạc thơm tho/Đạo suy, ẩn với giang hồ cũng thanh. Năm 1786, Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo, từ quan, lên núi Thiên Nhẫn lập trại và bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử.
Mặc dù là một "ẩn sĩ" nhưng uy danh của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp vẫn lan tỏa khắp cả nước. Năm 1786, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ ra Thăng Long thực hiện kế hoạch "Phù Lê, diệt Trịnh". Ông được vua Lê phong làm Đại nguyên soái Phù chinh dực vũ Uy quốc công. Với mục đích thu phục nhân tâm, nhất là tầng lớp sĩ phu Bắc Hà, Nguyễn Huệ đã sử dụng Trần Văn Kỷ trong vai trò "tham mưu", làm cầu nối. Chính họ Trần đã tiến cử La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp với Nguyễn Huệ. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đồng ý ngay và quyết tâm "chiêu mộ" bằng được Nguyễn Thiếp về với nhà Tây Sơn.
Có thể nói cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Huệ và La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một cuộc gặp hiếm có trong lịch sử. Ngày mồng 4 tháng giêng năm 1787, Nguyễn Huệ sai 2 viên quan cao cấp ở bộ Binh và bộ Hình mang thư đến mời Nguyễn Thiếp. Bức thư có đoạn: "Đã lâu nay nghe tiếng Phu tử, đức tuổi đều cao, kinh luân sẵn có. Chính tôi muốn tới nhà gặp mặt, để thỏa lòng tìm kiếm khó nhọc…". Vốn là một ẩn sĩ, lại chưa hiểu Nguyễn Huệ, nên lần đầu nhận thư, Nguyễn Thiếp đã khéo léo đưa ra 3 lý do để từ chối. Tháng 8 năm 1787, Nguyễn Huệ lại cử quan Lưu Thủ là Nguyễn Văn Phương đưa thư mời La Sơn Phu Tử. Lời lẽ trong thư lần này thống thiết, chân tình: "Phu tử là danh sĩ hơn đời: vì định bụng không chịu cùng quả đức chứng khởi thiên hạ, nên mới nêu ba lẽ không ra. Nhưng nay thiên hạ loạn như thế này, sinh dân khổ như thế này, mà Phu tử nhất định ẩn không ra, thì sinh dân thiên hạ làm sao… Mong Phu tử nghĩ đến thiên hạ với sinh dân, vụt dậy đi ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có thầy mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra kẻ giỏi". La Sơn Phu Tử lại từ chối. Ngày 13 tháng 9 năm Thái Đức thứ 10 (1787), Nguyễn Huệ lại sai quan Thượng thư bộ Hình là Hồ Công Thuyên dâng lá thư thứ ba lên Nguyễn Thiếp. Phần kết của lá thư có đoạn: "Mong Phu tử soi xét đến tấm lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng; lấy lòng vì Nghiêu Thuấn quân dân mà ra dạy bảo, giúp đỡ. Quả đức xin im nghe lời dạy bảo, khiến cho quả đức thỏa được lòng ao ước tìm thầy, và đời này được nhờ khuôn phép của kẻ tiên giáo. Thế thì may lắm lắm". Nhưng, một lần nữa La Sơn Phu Tử vẫn chối từ.
Song, Nguyễn Huệ không nản lòng. Cuối năm 1787, ở ngoài Bắc Hà, Vũ Văn Nhậm cậy thế lộng quyền. Trên đường kéo quân ra Bắc trị tội Nhậm, Nguyễn Huệ nghỉ lại tại Nghệ An, đồng thời cho người đưa thư mời và rước La Sơn Phu Tử tới. Đây là lần đầu tiên Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp gặp nhau. Theo sách Lê mạt tiết nghĩa lục, trước khi chia tay La Sơn Phu Tử, Nguyễn Huệ đã phải thốt lên: "Người ta đồn rằng Tiên sinh là kẻ sĩ của thiên hạ. Tiếng ấy thật không ngoa".
Thế nhưng, La Sơn Phu Tử vẫn chưa đồng ý ra giúp Nguyễn Huệ, phụng sự nhà Tây Sơn. Mãi đến khoảng cuối năm 1788 Nguyễn Thiếp mới bắt đầu trở thành "quân sư" cho Nguyễn Huệ - Quang Trung. Sau khi lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Huệ kéo đại quân Tây Sơn ra Bắc quyết chiến với quan xâm lược Mãn Thanh. Trên đường hành quân, Quang Trung ghé lại Nghệ An thăm hỏi La Sơn Phu Tử. Nhà vua hỏi: "Quân Thanh sang đánh, nay ta đem quân chống cự, về kế công thủ và số được thua, tiên sinh cho biết thế nào?". Nguyễn Thiếp bình thản: "Nay trong nước trống không, lòng người ly tán. Quân Thanh ở xa lại, tình hình quân ta sức mạnh sức yếu không biết, thế công thế thủ không hay. Chúa công ra chuyến này chẳng qua mươi ngày là giặc Thanh sẽ tan". Nhận định của La Sơn Phu Tử thật sâu sắc. Dựa vào sự phân tích này vua Quang Trung đã không ngần ngại tuyên bố trước ba quân, tướng sĩ: "Nay ta tới dây thân đốc việc binh, kế chiến thủ ra sao đều đã có phương lược định sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh". Đồng thời, đức vua quả quyết: "Nay hãy ăn Tết Nguyên đán trước, đợi đến mồng bảy tháng giêng, vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không".
Quả nhiên, nhận định của La Sơn Phu Tử giống như lời tiên tri. Đúng vào ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đã đập tan 29 vạn quân Mãn Thanh, tiến vào giải phóng Thăng Long. Sau ngày đại thắng, Quang Trung không quên ơn La Sơn Phu Tử. Trong bức thư gửi Nguyễn Thiếp, nhà vua thổ lộ: "Trẫm ba lần xa giá Bắc thành, Tiên sinh đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ. Lời Tiên sinh hẳn có thế thật". Đồng thời, ngài ban chiếu cấp cho Nguyễn Thiếp thuế xã Nguyệt Ao để làm tuế bổng và ban lộc dưỡng lão cho ông.
La Sơn Phu Tử chính thức hợp tác với nhà Tây Sơn vào năm 1791. Tháng 8 năm ấy, vua Quang Trung ban chiếu lập Viện Sùng Chính và cử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng. Kể từ đó, La Sơn Phu Tử đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với nhà Tây Sơn và Quang Trung nói riêng. Với cương vị Viện trưởng Viện Sùng Chính, Nguyễn Thiếp đã đề ra những cải cách về văn hóa, giáo dục của nước nhà cuối thế kỷ thứ XVIII. Trong đó, công lao lớn nhất của Nguyễn Thiếp là thực hiện chủ trương của Quang Trung: chấn hưng, đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước Việt. Cùng với các đồng sự ở Viện Sùng Chính, La Sơn Phu Tử đã dịch nhiều bộ sách quan trọng từ Hán tự sang Nôm, như các bộ: Tiểu Học, Tứ Thư (gồm 32 tập) và các bộ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch… Đồng thời, La Sơn Phu Tử còn là một nhà giáo có công lớn đối với nền giáo dục nước nhà. Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung (tổ chức ở Nghệ An vào năm 1789), Nguyễn Thiếp được cử làm Chánh Chủ khảo. Đáng lưu ý, La Sơn Phu Tử đã được Quang Trung tin tưởng giao cho việc thẩm định đức độ và tài năng của những người mới ra hợp tác với nhà Tây Sơn. Đặc biệt, ngoài Viện Sùng Chính, La Sơn Phu Tử còn được vua Quang Trung giao phó một nhiệm vụ cực kỳ hệ trọng. Đó là việc chọn địa điểm để xây dựng kinh đô mới của triều đại nhà Tây Sơn tại khu vực giữa núi Kỳ Lân và núi Phượng Hoàng (Nghệ An). Kinh đô mới được đặt tên Phượng Hoàng Trung Đô. Tiếc rằng công việc đang tiến hành dang dở thì vua Quang Trung đột ngột băng hà.
Quang Trung qua đời, Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, mọi quyền bính rơi vào tay Bùi Đắc Tuyên. Đáng lo ngại là nội bộ của triều đại nhà Tây Sơn ngày càng rạn nứt, "chia 5 xẻ 7". Trước bối cảnh đó La Sơn Phu Tử quyết định xin trả lại lộc dưỡng lão mà Quang Trung ban cho trước đây. Chuyện kể rằng, sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh - Gia Long có cho người mời La Sơn Phu Tử đến và hỏi: "Ngụy Tây Sơn mời Tiên sinh làm thầy, Vậy Tiên sinh dạy nó ra sao?". Nguyễn Thiếp ung dung trả lời: "Có tám điều trong sách Đại Học, có chín điều trong sách Trung Dung, người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được". Thế rồi, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp lại trở về vùng núi Thiên Nhẫn làm một ẩn sĩ. Gia phả họ Nguyễn ở Mật Thôn - Nguyệt Ao, chép rằng: "Cụ ở lại trên núi, tự lấy làm vui, không bận lòng đến việc trần ai nữa".
. Viết Hiền
(baobinhdinh.com.vn)

Nguyễn Thiếp (1723 - 1804)

VietnamDefence - “Học cho rộng rồi ước lược cho gọn, theo điều học biết mà làm” - Lời đáp của Nguyễn Thiếp đối với Quang Trung về việc học (Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử.-Paris: Minh Tân xuất bản, 1950.-Tr.146)
Nguyễn Thiếp sinh năm Quý Mão (1723) tại làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, nay thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông vốn có tên là Nguyễn Minh, nhưng sau vì húy Minh Đô Vương tức Chúa Trịnh Doanh (1740-1767) nên mới đổi gọi là Nguyễn Thiếp. Trong số các danh sĩ sống vào giai đoạn lịch sử này, ít ai có nhiều tên hiệu như Nguyễn Thiếp: Hạnh Am, Khai Xuyên, Điền Ẩn, Cuồng Ẩn, Lạp Phong Cư sĩ, Bùi Phong Cư sĩ, Lục Niên Tiên sinh, Hầu Lục Niên, Lam Hồng Dị nhân, La Giang Phu Tử, La Sơn Phu Tử... Tuy nhiên, tên hiệu được đời biết đến nhiều hơn cả vẫn là La Sơn Phu Tử và sau đó là Hạnh Am.
TIỂU DẪN
Cơn bão quật khởi của phong trào Tây Sơn đã thực sự tạo nên sức mạnh rung trời chuyển đất. Sức mạnh vĩ đại đó đã cuốn hút sự tham gia của hàng chục vạn nông dân khắp cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài. Sức mạnh vĩ đại đó đã lần lượt đè bẹp tất cả thù trong lẫn giặc ngoài, làm rạng rỡ truyền thống ngoan cường và bất khuất của tổ tiên ta. Và cũng chính sức mạnh vĩ đại đó đã có tác dụng phân hóa sâu sắc đối với đội ngũ giai cấp phong kiến thống trị đương thời. Không ít sĩ phu yêu nước và thức thời đã hiên ngang đứng hẳn về phía Tây Sơn, có nhiều cống hiến lớn lao đối với Tây Sơn, cũng là cống hiến lớn lao cho lịch sử dân tộc. Tuy đến với Tây Sơn sớm muộn có khác nhau và tuy mức độ cống hiến cũng không đồng nhất, nhưng, hình ảnh của tất cả những sĩ phu yêu nước và thức thời ấy đều được sử sách ghi lại một cách rất trân trọng. Ba gương mặt tiêu biểu của những sĩ phu yêu nước và thức thời này là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Thiếp. Ba nhân vật đặc biệt này tuy chưa bao giờ trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, nhưng, với tầm nhìn và phép ứng xử tuyệt vời của mình, họ đã có ảnh hưởng rất quan trọng đối với hoạt động và thắng lợi chung của phong trào Tây Sơn.
Năm 1743, Nguyễn Thiếp đỗ Hương cống (học vị này về sau đổi gọi là Cử nhân). Sau khi dỗ, ông được Chúa Trịnh Doanh bổ làm Huấn đạo và chẳng bao lâu thì thăng làm Tri huyện của huyện Thanh Chương (Nghệ An). Thời Nguyễn Thiếp bước vào hoạn lộ cũng là thời tàn tạ thảm hại của chế độ phong kiến Đàng Ngoài. Buồn nản vì cảnh mục ruỗng của triều đình, cảnh đen bạc của nhân tình thế thái, Nguyễn Thiếp liền từ quan, về núi Thiên Nhẫn của quê nhà để sống cuộc đời thanh bạch của bậc ẩn cư.
Tuy chỉ đỗ Hương cống nhưng nhờ có thực tài và đức độ lại giàu khí khái, Nguyễn Thiếp có uy tín xã hội rất rộng lớn. Tên tuổi của ông có ảnh hưởng khá lớn đối với đội ngũ sĩ phu đương thời. Nguyễn Huệ sớm biết tiếng Nguyễn Thiếp, chủ yếu cũng bởi lý do này.
Cuối năm 1788, sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Nguyễn Huệ đã dẫn đại quân thần tốc tiến ra Bắc để đánh trận quyết định với quân Mãn Thanh xâm lược. Dọc đường hành quân, dù vô cùng vội vàng và bận rộn với không biết bao nhiêu việc trọng đại, Nguyễn Huệ vẫn dành thời gian để cho mời Nguyễn Thiếp tới hỏi ý kiến. Tuy quyết chí xa lánh công danh và hoạn lộ, nhưng, Nguyễn Thiếp vẫn luôn luôn cố gắng theo dõi thật chặt chẽ mọi diễn biến của thời cuộc, bởi vậy, ý kiến của bậc ẩn sĩ này sắc sảo đến lạ lùng. Chuyện kể rằng, trong buổi gặp gỡ đầu tiên này, Nguyễn Huệ hỏi:
- “Quân Thanh sang đánh, nay ta đem quân chống cự, về kế công thủ và số được thua, tiên sinh cho biết thế nào?
Nguyễn Thiếp đáp rằng:
- “Nay trong nước trống không, lòng người ly tán. Quân Thanh ở xa lại, tình hình quân ta sức mạnh sức yếu không biết, thế công thế thủ không hay. Chúa công ra chuyến này chẳng qua 10 ngày là giặc Thanh sẽ tan” (Hoàng Xuân Hãn. La Sơn Phu Tử.-Paris: Minh Tân xuất bản, 1950).
Trước khi hành quân ra Bắc đánh quân Thanh, Quang Trung vấn kế Nguyễn Thiếp
Nhận định của Nguyễn Thiếp rất phù hợp với nhận định của Nguyễn Huệ, bởi vậy, Nguyễn Huệ rất lấy làm vui. Ý định đánh nhanh thắng nhanh vốn đã được hình thành trước đó, đến đây càng được khẳng định, niềm tin ở thắng lợi to lớn và triệt để vốn đã mạnh mẽ, đến đây, càng trở nên mạnh mẽ gấp bội hơn. Trên cơ sở ý định vững chắc và niềm tin sắt đá đó, Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên bố với quân sĩ của mình tại Tam Điệp-Biện Sơn rằng: Nay ta tới đây thân đốc việc binh, kế chiến thủ ra sao đều đã có phương lược định sẵn. Chỉ nội 10 ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch giặc Thanh” (Ngô gia văn phái. Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ 14). Và: “Nay hãy ăn Tết Nguyên Đán trước, đợi đến mồng 7 tháng giêng, vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không (Đại Nam chính biên liệt truyện, Sơ tập, quyển 30).
Diễn biến của trận quyết chiến chiến lược với quân xâm lược Mãn Thanh quả đúng như dự biến thiên tài của Nguyễn Huệ, như nhận định chính xác và sâu sắc của Nguyễn Thiếp. Bởi lý do này, Nguyễn Huệ càng trân trọng và đánh giá cao tài năng của Nguyễn Thiếp. Về phần mình, Nguyễn Thiếp cũng rất khâm phục Quang Trung Nguyễn Huệ cả về đức độ dày dặn lẫn trí dũng phi thường, vì thế, ông đã từ bỏ cuộc sống ẩn dật để ra cộng tác với chính quyền của Quang Trung. Nguyễn Thiếp được Quang Trung Nguyễn Huệ tin cậy, trao phó cho hai nhiệm vụ lớn.
Nhiệm vụ thứ nhất là làm Viện trưởng Viện Sùng Chính. Bấy giờ, Viện Sùng Chính là cơ quan trông coi về giáo dục, đồng thời, phụ trách việc dịch các tác phẩm kinh điển và giáo khoa của nho gia ra chữ Nôm. Cùng làm việc với ông trong Viện Sùng Chính còn có một số danh sĩ khác như Nguyễn Thiện (1763-1818) (người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Hương cống năm 1782), Nguyễn Công (hiện chưa rõ lai lịch), Phan Tố Định (hiện chưa rõ lai lịch),... Cơ quan Viện Sùng Chính đã dịch xong bộ Tiểu học (bộ sách giáo khoa, gồm các tác phẩm như Dương tiết, Minh Tâm, Thuyết ước...) và bộ Tứ thư (một trong 2 bộ kinh điển chủ yếu của nho gia (Ngũ kinh Tứ thư). Bộ Tứ thư gồm 4 tác phẩm: Luận ngữ, Trung dung, Đại học Mạnh Tử. Cả hai bộ Tiểu học Tứ Thư được Viện Sùng Chính dịch xong vào tháng 7/1792. Rất tiếc là chúng tôi chưa được tham khảo 32 tập bản dịch của Viện Sùng Chính nên không dám có một nhận định nhỏ nào) từ chữ Hán ra chữ Nôm. Hai bộ sách dịch này gồm tất cả 32 tập. Bản dịch chuyển về Phú Xuân, được Quang Trung khen ngợi, ban thưởng cho 100 quan tiền, ngoài ra, Quang Trung còn sai Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận cấp thêm cho Nguyễn Thiếp đến vài ba chục viên thư lại để giúp việc biên chép ở Viện Sùng Chính. Quang Trung còn yêu cầu dịch gấp Ngũ kinh (gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch Kinh Xuân Thu) ra chữ Nôm mà trước hết là Kinh Thi, Kinh Thư Kinh Dịch, hạn trong 3 tháng là phải xong! Nhưng, công việc đang tiến hành dở dang thì ngày 16 tháng 9 năm 1792, Quang Trung đột ngột qua đời và sau đó không bao lâu thì Nguyễn Thiếp cũng rời bỏ chức vụ Viện trưởng Viện Sùng Chính để trở về với cuộc sống ẩn dật như cũ (Trong La Sơn Phu Tử (Paris: Minh Tân xuất bản, 1950.-Tr.149-158), Hoàng Xuân Hãn có giới thiệu bộ Thi kinh giải âm khắc năm Quang Trung thứ năm (tức là năm 1792) và đoán rằng, có thế đó là bản dịch bộ Kinh Thi của Viện Sùng Chính. Chúng tôi không có bộ Thi kinh giải âm trong tay nên không dám lạm bàn. Còn Nguyễn Thiếp, sau khi Quang Trung mất một thời gian ngắn, đã quay về ẩn dật như cũ vì ông không đủ lòng tin, càng không thể phục đối với Quang Toản).
Tuy tồn tại không lâu nhưng cơ quan Viện Sùng Chính do Nguyễn Thiếp đứng đầu đã có những ảnh hưởng tốt đẹp và to lớn đối với chính quyền của Quang Trung nói riêng cũng như đối với sự phát triển của văn hóa nước nhà cuối thế kỷ thứ XVIII nói chung. Bấy giờ, Quang Trung chẳng những rất đề cao chữ Nôm mà còn muốn biến chữ Nôm thành văn tự chính thức của nước nhà. Nhiều văn kiện của nhà nước, bài làm của sĩ tử trong các khoa thi và một số giấy tờ quan trọng đã được viết bằng chữ Nôm. Việc làm táo bạo đó của Quang Trung đã được sự đồng cảm và ủng hộ mãnh liệt của Nguyễn Thiếp. Hai con người, hai thế hệ, hai chí hướng khác nhau, nhưng vẫn có sự gặp gỡ rất tương đắc với nhau. Văn học chữ Nôm thời Tây Sơn phát triển, một phần cũng bởi lý do này.

Nhiệm vụ thứ hai mà Nguyễn Thiếp đảm nhận là chọn nơi đóng đô cho chính quyền của Quang Trung Nguyễn Huệ. Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế ở Phú Xuân (nay thuộc Huế). Địa điểm được chọn làm nơi đăng quang của Nguyễn Huệ là núi Bân. Và cũng từ đó, kinh đô của chính quyền do Quang Trung Nguyễn Huệ đứng đầu được xác định là Phú Xuân. Sau cũng có lúc Nguyễn Huệ dự kiến dời đô ra vùng Yên Trường (nay thuộc Ninh Bình), nhưng cuối cùng, Nghệ An mới là đất được chọn lựa chính thức. Bấy giờ, người được ủy thác chọn địa điểm cụ thể trên đất Nghệ An để định đô là Nguyễn Thiếp. Đích thân Nguyễn Huệ viết thư bằng chữ Nôm gởi cho Nguyễn Thiếp để đốc thúc việc thực hiện quyết định quan trọng này. Thư có đoạn:
Núi Bân, nơi Nguyễn Hêụ lên ngôi Hoàng Đế cuối năm 1788 
Hành cung sao cho hậu cận sơn, kỳ chính địa, phỏng tại dân cư ư gian, hay là đâu cát địa khả đô, duy Phu Tử đạo nhãn giám định. Tảo tảo bốc thành. Ủy cho Trấn thủ Thận tạo lập cung điện, kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự”.
Đoạn văn Nôm cổ ở trên xin tạm diễn nghĩa như sau: “Nơi vua ở sao cho phía sau thì gần núi, đất được chọn hoặc là ở giữa chốn dân cư, hoặc là đâu đất tốt có thể làm kinh đô được, tùy con mắt tinh tường của Phu Tử xét và định đoạt. Chọn nhanh nhanh lên. Ủy cho quan Trấn thủ là (Nguyễn Văn) Thận xây dựng cung điện, nội trong 3 tháng phải xong để tiện cho vua ra ở”.
Bút tích của Nguyễn Huệ
Nguyễn Thiếp đã chọn địa điểm đóng đô mới cho chính quyền Quang Trung Nguyễn Huệ ở khoảng giữa núi Kỳ Lân và núi Phượng Hoàng của Nghệ An. Kinh đô mới này được đặt tên là Phượng Hoàng Trung Đô. Núi Phượng Hoàng tức là núi Dũng Quyết hay núi Quyết, còn núi Kỳ Lân tức núi Mèo. Phía trước của Phượng Hoàng Trung Đô là sông Lam. Công cuộc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô đang tiến hành dở dang thì Quang Trung Nguyễn Huệ đột ngột qua đời. Vua kế vị là Quang Toản không tiếp tục sự nghiệp này nữa, vì thế, Phượng Hoàng Trung Đô chưa bao giờ thực sự là kinh đô cả. Ngày nay, Phượng Hoàng Trung Đô vẫn còn một số những dấu tích.
Như vậy, Nguyễn Thiếp là một trong số những nhân vật đặc biệt, để lại dấu ấn khá rõ rệt trong thời Quang Trung trên nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau.

Cuộc gặp gỡ giữa Quang Trung Nguyễn Huệ với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng là một trong những cuộc gặp gỡ khá độc đáo của thế kỷ thứ XVIII. Nguyễn Huệ tỏ ra rất trân trọng tài năng của Nguyễn Thiếp, nhiều lần sai quan lại cao cấp đến mời Nguyễn Thiếp (Năm 1786, Nguyễn Huệ sai hai viên quan cao cấp của bộ Binh và bộ Hình ra mời Nguyễn Thiếp.

Năm 1787, lại hai lần cử quan cao cấp tới mời. Một lần do quan Lưu thủ là Nguyễn Văn Phương đi và một lần do quan Binh bộ Tả Thị lang là Lê Tài đi), sau lại tự mình đến gặp Nguyễn Thiếp.

Và, cảm động trước sự ân cần thật sự chân tình đó, Nguyễn Thiếp đã dốc lòng vì Quang Trung Nguyễn Huệ, vì sự nghiệp cao cả của Tây Sơn.
Phượng Hoàng Trung Đô
Dưới thời Quang Trung, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một nhà giáo lớn, một người có công đối với nền giáo dục. Chính ông là Chánh Chủ khảo trong khoa thi Hương đầu tiên của chính quyền Quang Trung tổ chức tại Nghệ An năm 1789 và cũng chính ông là người được Quang Trung tin cậy giao phó cho việc khảo xét tài năng và đức độ của những người mới ra hợp tác với Tây Sơn để làm cơ sở cho việc bổ dụng. Nói tóm lại, nếu Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích là những văn thần được Quang Trung tin cậy ủy thác trông coi các hoạt động ngoại giao, thì La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là người được Quang Trung tin cậy ủy thác trông coi các hoạt động về văn hóa và giáo dục. Đóng góp của Nguyễn Thiếp thực sự là một phần sự nghiệp của Tây Sơn.
Nhiều thư tịch cổ còn cho biết thêm rằng, Nguyễn Thiếp còn có nhiều ý kiến xuất sắc, có ảnh hưởng khá mạnh mẽ đến những cải cách kinh tế của Quang Trung.
Ngày 25 tháng chạp năm Quý Hợi (nhằm ngày 6-2-1804), La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp qua đời tại quê nhà, hưởng thọ 81 tuổi.

Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 3 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
ĐC chép từ  http://vietnamdefence.com

Hoang tàn đền thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp (02/10/2013)
Theo  http://daidoanket.vn
La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp là một nhà tư tưởng, nhà thơ, học giả nổi tiếng, là vị quân sư tối cao của Hoàng đế Quang Trung. Thanh thế, công lao, đóng góp của ông được muôn đời ghi nhớ, thế nhưng đền thờ của ông ở xã Kim Lộc (Can Lộc – Hà Tĩnh) ngày nay lại trở nên tiêu điều, xơ xác, hoang tàn. Một di tích lịch sử mang tầm quốc gia nhưng lại đang xuống cấp trầm trọng.


Đền đã xuống cấp trầm trọng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét