Bùi Giáng (
1926-
1998), là
nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của
Việt Nam. Các bút danh khác của ông là:
Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng...Ông nổi tiếng từ năm
1962 với tập thơ
Mưa nguồn.
Tiểu sử
Bùi Giáng sinh ngày
17 tháng 12 năm 1926 tại
làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện
Duy Xuyên, tỉnh
Quảng Nam.
Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ
Bùi
ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà
Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con đầu của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền,
nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào
Sài Gòn, ông được gọi theo cách gọi miền Nam là
Sáu Giáng.
Năm
1933, ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Năm
1936, ông học trường Bảo An (
Điện Bàn) với thầy
Lê Trí Viễn.
Năm
1939, ông ra
Huế học tư tại Trường trung học
Thuận Hóa. Trong số thầy dạy ông có
Cao Xuân Huy,
Hoài Thanh,
Đào Duy Anh.
Tháng 3 năm
1945,
Nhật đảo chính
Pháp, nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
Năm
1949, ông tham gia
kháng chiến chống Pháp, làm
bộ đội Công binh.
Năm
1950, ông thi đỗ
tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới
Hà Tĩnh để tiếp tục học. Từ
Quảng Nam
phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì
ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng
rừng núi Trung Phước.
Năm
1952, ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào
Sài Gòn ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì
sau
khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt
việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học
tại các trường tư thục .
Năm
1965, nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Năm
1969, ông "bắt đầu điên rực rỡ" (
chữ của Bùi Giáng). Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh" (
chữ của Bùi Giáng), trong đó có
Long Xuyên,
Châu Đốc...
Năm
1971, ông trở lại sống ở
Sài Gòn. Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2
giờ chiều ngày 7
tháng 10 năm
1998, sau một cơn tai biến mạch máu tại
bệnh viện Chợ Rẫy (
Thành phố Hồ Chí Minh, tức
Sài Gòn cũ) sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang" (
chữ của Bùi Giáng). Ông được chôn cất tại
nghĩa trang Gò Dưa, quận
Thủ Đức.
Tác phẩm
Theo thống kê chưa đầy đủ, tác phẩm của Bùi Giáng có (tạm phân theo thể loại):
Tập thơ
- Mưa nguồn (1962)
- Lá hoa cồn (1963)
- Màu hoa trên ngàn (1963)
- Ngàn thu rớt hột (1963)
- Bài ca quần đảo (1963)
- Sa mạc trường ca (1963)
- Sa mạc phát tiết (1969)
- Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
- Rong rêu (1995)
- Đêm ngắm trăng (1997)
- Thơ Bùi Giáng (Montréal, 1994)
- Thơ Bùi Giáng (California, 1994)…
- Mười hai con mắt (2001)
- Thơ vô tận vui (2005)
- Mùa màng tháng tư (2007)
Nhận định
Tất cả đều được xuất bản năm 1957.
Giảng luận
Tất cả đều được xuất bản năm 1957-1959.
Triết học
- Tư tưởng hiện đại (1962)
- Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại I và II (1963)
- Sao gọi là không có triết học Heidgger? (1963)
- Dialoque (viết chung, 1965)
Tạp văn
Các sách xuất bản năm 1969, có:.
- Đi vào cõi thơ
- Thi ca tư tưởng
- Sa mạc phát tiết
- Sương bình nguyên
|
- Trăng châu thổ
- Mùa xuân trong thi ca.
- Thúy Vân
Các sách xuất bản năm 1970, có:
- Biển Đông xe cát
- Mùa thu trong thi ca.
Các sách xuất bản năm 1971, có:
- Ngày tháng ngao du
- Đường đi trong rừng
- Lời cố quận
- Lễ hội tháng Ba
- Con đường ngã ba-Bước đi của tư tưởng…
Sách dịch
Các sách xuất bản năm 1966, có:
- Trăng Tỳ hải
- Cõi người ta
- Khung cửa hẹp
- Hoa ngõ hạnh
- Othello
Các sách xuất bản năm 1967, có:
- Bạo chúa Caligula
- Ngộ nhận
- Kim kiếm điêu linh
Các sách xuất bản năm 1968, có:
- Con đường phản kháng
- Mùa hè sa mạc
- Kẻ vô luân
Các sách xuất bản năm 1969, có:
- Nhà sư vướng luỵ
- Ophélia Hamlet
- Hòa âm điền dã
Các sách xuất bản năm 1973 và 1974, có:
Hiện nay, nhiều tác phẩm của ông đã và đang được tái bản và xuất bản trong và ngoài nước. |
Đánh giá
Trước và sau năm
1975,
đã có nhiều bài viết về ông và sự nghiệp văn chương của ông. Ở đây chỉ
trích giới thiệu thêm ý kiến của nhà nghiên cứu T. Khuê được in trong
Từ điển văn học (bộ mới):
- Bùi Giáng viết rất nhiều, nhưng những gì còn lại chính là thơ.
Thơ ông, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ
nhàng, hóm hỉnh, luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời,
về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất khía cạnh dục
tình khép mở của Hồ Xuân Hương...Từ Nguyễn Du,
ông tạo nên một môtip bạc mệnh hiện đại, có màu sắc siêu thực qua tính
cách tạo hình, có chất hoang mang của con người bất khả tri về mình, về
người khác trong cuộc sinh tồn hiện hữu...
- Bùi Giáng đã tái dựng lục bát
trong bối cảnh mới của thời đại hiện sinh. Nguồn thơ của ông phát tiết
trong khoảng thời gian ngắn, chỉ hai năm 1962-1963 đã có tới 6 tập
thơ…Chuyện hạ bút thành thơ của ông được xác định như là một hiện tượng
độc đáo…Tuy nhiên bi kịch của Bùi Giáng là ông lập lại chính mình, ngay
cả trong thơ, cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều
khi được dùng lại nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa...
- Nhưng dù sao chăng nữa, ông cũng đã tạo được một mẫu ngông thời
đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ 20, khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ 19 hoặc Tản Đà ở đầu thế kỷ 20.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 04:29, ngày 4 tháng 8 năm 2014.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét