Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 29

(ĐC sưu tầm trên NET)

Những nhà sáng chế nổi tiếng trong lịch sử VN


(Kiến Thức) - Trí tuệ người Việt đã nhiều lần tỏa sáng dưới hình hài các sáng chế qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau.
    Cao Lỗ - cha đẻ của nỏ liên châu

    Cao Lỗ (? - 179 TCN) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

    Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu, bắn một lần được nhiều phát. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi loại nỏ này là: "Linh Quang Thần Cơ". Do là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi Cao Lỗ là Ông Nỏ.
    Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn ở Cổ Loa.

    Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, chết như rạ và phải lui binh. Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.

     Mô hình nỏ liên châu được phục chế.

    Với sáng tạo của mình, Cao Lỗ đã trở thành một là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước.

    Lương Thế Vinh và chiếc bàn tính “Made in Vietnam”

    Lương Thế Vinh (1441 – 1496), dân gian gọi là Trạng Lường, sinh ra trong một gia đình nông dân có học ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, tỉnh Nam Định.

    Từ thời niên thiếu ông đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh, nhanh trí. Lớn lên, Lương Thế Vinh càng học giỏi, chưa đầy 20 tuổi đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 23 tuổi, ômg đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi (1463).

    Lương Thế Vinh được lịch sử Việt Nam ghi nhận như một nhà toán học lỗi lạc, với tác phẩm để lại cho hậu thế là cuốn Đại thành toán pháp để tiện dùng - cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Trong cuốn sách, ông đã tổng kết những kiến thức toán thời đó và cả những sáng chế của mình.

    Ở Việt Nam lúc đó công cụ tính toán chủ yếu vẫn là hai bàn tay bằng cách “bấm đốt ngón tay”. Khi phải tính toán phức tạp hơn thì người dùng một sợi dây với những nút thắt làm công cụ đếm...

    Lương Thế Vinh đã sáng chế ra một công cụ tính toán lợi hơn, đó là chiếc bàn tính gẩy – loại bàn tính đầu tiên của Việt Nam. Lúc đầu ông nặn những hòn bi bằng đất có khoan lỗ ở giữa, xâu vào một cái đũi, các xâu buộc cạnh nhau thành một bàn tính.

    Sau này ông cải tiến những “viên tính” bằng đất thành những đốt trúc ngắn, rồi những viên tính bằng gỗ sơn màu khác nhau để dễ tính, dễ nhớ…

    Hồ Nguyên Trừng - ông tổ của nghề đúc súng thần công

    Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446) là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa), con trai cả của vua Hồ Quý Ly. Ông nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam với tư cách một nhà kỹ thuật quân sự, công trình sư lỗi lạc, ông tổ của nghề đúc súng thần công của người Việt.

    Thời ấy, do yêu cầu chống giặc ngoại xâm, muốn có nhiều súng trang bị cho các thành trì và các hạm đội, Hồ Nguyên Trừng đã phải gấp rút tổ chức những xưởng đúc súng lớn. Ông đã đúc kết những kinh nghiệm cổ truyền, trên cơ sở đo, phát minh, chế tạo ra nhiều loại súng có sức công phá sấm sét.

    Từ việc cải tiến súng, chế thuốc súng, hiểu rõ sức nổ của thuốc đạn Hồ Nguyên Trừng phát minh ra phương pháp đúc súng mới gọi là súng "thần cơ". Đây là loại súng có đầy đủ các bộ phận cơ bản của loại súng thần công ở những thế kỷ sau này.

    Nòng súng là một ống đúc bằng sắt hoặc bằng đồng. Phía đuôi súng được đúc kín có bộ phận ngòi cháy ở chỗ nhồi thuốc nổ. Đạn pháo là mũi tên bằng sắt lớn. Khi bắn, người ta nhồi thuốc súng vào phía đáy rồi đặt mũi tên vào giữa và nhồi loại đạn ghém bằng sắt và chì.

    Súng thần cơ có nhiều loại, to nhỏ khác nhau. Hồ Nguyên Trừng chú trọng chế tạo loại thần cơ lớn gọi là “thần cơ pháo”, chất là súng thần công cỡ lớn được đặt cố định trên thành hoặc trên xe kéo cơ động.

    Khi đối mặt với nhà Hồ, quân Minh bao phen kinh hoàng về loại súng này. Nhưng cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại vì không được dân ủng hộ. Giặc Minh đã bắt được nhiều súng thần cơ và cả Hồ Nguyên Trừng - nhà sáng chế ra nó.

    Hồ Nguyên Trừng đã bị đưa về Trung Hoa để phục vụ việc phát triển hỏa lực của nhà Minh. Trong Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn cho biết: "Quân Minh khi làm lễ tế súng đều phải tế Trừng".

    Ngoài súng thần cơ, Hồ Nguyên Trưng còn là nhà sáng chế của thuyền cổ lâu (thuyền chiến lớn có hai tầng) và là tổng công trình sư của nhiều công trình kiến trúc, thủy lợi hoành tráng thời Hồ.

    Cao Thắng “copy” hoàn hảo súng trường tối tân của Pháp

    Cao Thắng (1864-1893) quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Lễ huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh), là một lãnh tụ trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng khởi xướng cuối thế kỷ 19.

    Không chỉ là một nhà chỉ huy quân sự đầy mưu lược, ông còn là một kỹ sư quân giới tài năng, một nhà sáng tạo xuất chúng.

    Nhận thức được vai trò của vũ khí trong đấu tranh, Cao Thắng chủ trương bằng mọi cách phải chế tạo được súng như của Tây. Cơ hội đã đến với ông sau khi nghĩa quân thu được 17 khẩu súng theo kiểu 1874 của Pháp và 600 viên đạn sau một trận phục kích quân địch.

     Mẫu súng trường kiểu 1874 do nghĩa quân sản xuất.

    Ông đã cho tháo rời các bộ phận của một khẩu súng chiến lợi phẩm ra nghiên cứu và mau chế tạo một loại súng tương tự. So với súng kíp, đây thực sự là “siêu phẩm” của nền quân sự châu Âu.

    Cao Thắng đã cho tập trung các thợ rèn giỏi về lò rèn đúc sung. Chẳng bao lâu những kho vũ khí lớn của nghĩa quân đã được trang bị hàng trăm khẩu súng cùng rất nhiều đạn dược. Súng bắn rất hiệu quả, dù tầm bắn có kém hơn súng Pháp do ruột gà ngắn và không có rãnh bên trong.

    Đại uý Pháp Goselin từng tham dự vào cuộc chinh phạt ở Nghệ Tĩnh đã viết về các khẩu súng của Cao Thắng trong cuốn Nước Nam như sau: “Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về Pháp, nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nỗi tôi đưa cho các quan pháo thủ xem các ông cũng phải sửng sốt lạ lùng”.

    Trần Đại Nghĩa – người đặt nền móng nền công nghiệp quốc phòng VN

    Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa (1913–1997) tên thật là Phạm Quang Lễ, sinh ra trong một gia đình nhà giáo nghèo tại xã Chánh Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Bằng nỗ lực vượt khó, ông đã đỗ đạt trên con đường học vấn và đi du học Pháp năm 1935.

    Suốt 11 năm du học ở nước ngoài, ông đã âm thầm nghiên cứu kỹ thuật, công nghệ và hệ thống tổ chức chế tạo vũ khí. Được giác ngộ cách mạng, năm 1946 ông trở về nước phục vụ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.

    Bắt đầu từ số không, chỉ sau gần 3 tháng, các chiến sĩ quân giới dưới sự chỉ đạo của Trần Đại Nghĩa đã sản xuất thành công súng bazôka với sức mạnh xuyên thủng 75cm tường thành gạch xây, tương đương bazôka do Mỹ chế tạo.

    Ngày 5/3/1947, đạn bazôka vừa xuất xưởng đã bắn cháy 2 xe tăng của quân Pháp tại Quốc Oai, Hà Đông. Trong chiến dịch Thu Đông năm 1947, súng bazôka còn bắn chìm cả tàu chiến Pháp trên sông Lô.

    Sau súng bazooka, Trần Đại Nghĩa tiến hành chế tạo một loại súng nhẹ, nhưng lại có sức công phá ngang như một cỗ đại bác hạng nặng – đó là súng không giật SKZ, loại vũ khí hiện đại, mới xuất hiện cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Ông cùng với các cộng sự đã phải lặp lại quá trình sáng chế SKZ, và nỗ lực này đã thành công. 

    SKZ Việt Nam xuất trận lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá tan tành các lô cốt địch có tường bê tông cốt thép dày hơn 1m. Năm 1950, tại chiến trường Nam Trung Bộ, trong một đêm, với loại súng không giật này ta đã nhổ 5 đồn giặc. Địch hoảng sợ tháo chạy khỏi hàng loạt đồn bốt khác.

    Có SKZ rồi, Trần Đại Nghĩa tiếp tục nghiên cứu và chế tạo đạn bay. Ông cũng sáng chế thành công loại tên lửa nặng 30 kilôgam có thể đánh phá các mục tiêu ở cách xa 4km.

    Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Trần Đại Nghĩa đã góp phần to lớn trong cuộc chiến chống máy bay B-52 , phá hệ thống thủy lôi của địch và chế tạo những trang thiết bị đặc biệt cho Bộ đội Đặc công.

    Tiếp nối truyền thống sáng tạo của cha ông, những thành quả mà GS Trần Đại Nghĩa để lại thực sự là những tài sản vô cùng to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Những tướng Việt thành danh nơi xứ người

    Lý Ông Trọng được người phương Bắc dựng tượng

    Lý Ông Trọng tên thật là Lý Thân, là một nhân vật truyền thuyết sống vào cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu thời An Dương Vương, gốc làng Chèm, Từ Liêm, Hà Nội. Vào thời Hùng Vương thứ 18, Ông Trọng giữ một chức nhỏ ở huyện ấp, đời sau truyền rằng ông cao hai trượng ba thước. 

     Ảnh minh họa.

    Với bản tính cương trực, trung hậu, thương dân nên có lần thấy một tên lính huyện ác ôn đánh đập dân phu dã man, ông đã nổi giận đánh chết tên lính đó và bị triều đình khép tội chết. Nhưng vua thấy ông là người có tài đức, khỏe mạnh nên không nỡ giết. Sau đó ông bỏ chức, đi cầu học phương xa.

    Đến thời Thục Phán An Dương Vương, ông là một tướng giỏi giúp vua và được cử đi sứ nước Tần.

    Bấy giờ nhà Tần hay có nạn giặc Hung Nô đánh phá phía Bắc. Tuy Tần Thủy Hoàng đã cho đắp Vạn Lý Trường Thành nhưng vẫn không yên. Nhân có tướng tài của nước Âu Lạc là Lý Ông Trọng sang sứ nên vua Tần ngỏ ý mời ông giúp Tần trừ giặc Hung Nô, phong ông làm Vạn Tín Hầu.

    Ông Trọng cầm quân ra giữ đất Lâm Thao (vùng Cam Túc, Trung Quốc hiện nay), hễ quân Hung Nô kéo đến bao nhiêu là bị đập tan bấy nhiêu. Giặc Hung Nô kinh sợ và từ đó không dám xâm phạm biên ải nhà Tần nữa. Vua Tần hết sức khâm phục, phong tước cao, thưởng hậu và gả cả công chúa cho Lý Ông Trọng, muốn lưu ông ở lại Tần lâu dài. Sau đó một thời gian, Lý Ông Trọng nhớ quê hương xin vua Tần cho về nước nghỉ ngơi.

    Khi biết tin Lý Ông Trọng đã về nước, quân Hung Nô lại kéo sang đánh Tần. Vua Tần lại sai sứ sang Âu Lạc mời Ông Trọng. Ông Trọng không muốn đi nên vua Thục nói rằng ông đã mất. Vua Tần bất đắc dĩ phải đúc một pho tượng đồng khổng lồ hình Lý Ông Trọng (bên trong rỗng, chứa được mấy chục người, có máy giật để cử động chân tay như thật) đặt ở cửa Kim Mã, kinh thành Hàm Dương.

    Giặc Hung Nô ngỡ là ông lại sang Tần nên không dám xâm phạm nước này. Từ đó người phương Bắc thường gọi những pho tượng lớn là "Ông Trọng".

    Hoàng tử Lý Long Tường bảo vệ độc lập của Triều Tiên

    Năm 1226, sau khi nhà Lý sụp đổ, để tránh sự tiêu diệt của nhà Trần và bảo toàn tính mạng, Đô đốc Lý Long Tường - hoàng tử thứ bảy của vua Lý Anh Tông - đã cho đóng hải thuyền mang theo đồ tế lễ của nhà Lý cùng gia quyến và tùy tùng rời cảng Vân Đồn ra biển.

    Vì các mối hiềm khích giữa nhà Lý với Chăm Pa và nhà Tống nên Lý Long Tường đã dong thuyền hướng về phía Đông Bắc. Đoàn hải thuyền của ông đã cập bến quận Khang Linh, nước Cao Ly (lãnh thổ của CHDCND Triều Tiên ngày nay), rồi lập nghiệp, sinh sống tại vùng Châu Sơn của đất nước này.

    Từ năm 1231, quân Nguyên - Mông bắt đầu những nỗ lực xâm lấn Triều Tiên. Năm 1253, chúng chiếm được thành phố Kaesong khiến vua Cao Tông của Cao Ly phải chạy ra đảo Kanghwa. Trước tình hình ngày càng nguy kịch, nhà vua đã yêu cầu Lý Long Tường ra giúp sức.

    Nhờ có những kinh nghiệm chiến đấu khi còn ở quê nhà, Lý Long Tường cho đắp thành lũy kiên cố, luyện tập binh sĩ thuần thục. Sau 5 tháng vây thành không có kết quả, quân Nguyên - Mông bị bệnh chết đến 1/3, chúng bèn áp dụng kế trá hàng, cho gửi sang phía Cao Ly 5 “rương vàng” để tỏ ý cầu hòa nhưng trên thực tế trong đó là những thích khách có vũ trang để ám sát các lãnh đạo của Cao Ly.

    Biết trước ý đồ của địch, Lý Long Tường cho đổ nước sôi vào kẽ rương rồi sai người mang trả lại cho quân Nguyên - Mông. Khi mở rương, quân xâm lược vô cùng khiếp đảm khi thấy các thích khách của mình bị chết thảm.

    Dùng vũ lực cũng như mưu kế đều không được, quân Nguyên – Mông đành rút quân trở về nước, và trên đường về đã bị quân Cao Ly phục kích đánh tan tác.

    Sau chiến công hiển hách, Lý Long Tường được vua Cao Ly trọng thưởng, cấp cho thái ấp để con cháu đời sau có nơi sinh cơ lập nghiệp. Vì ở Việt Nam có núi Hoa Sơn nên vua đã cho đổi tên Châu Sơn thành Hoa Sơn và phong tước cho Lý công làm Hoa Sơn quân. Dân trong vùng còn tôn thờ ông làm tổ và dựng lên một chiếc cổng lớn gọi là Thụ hàng môn để khắc ghi công tích và ca ngợi công lao vĩ đại của ông khi đánh đuổi quân Nguyên - Mông.

    Sự nghiệp của Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn

    Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn (1908–1956) tên thật là Vũ Nguyên Bác, quê tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Sinh ra trong một gia đình đại tư sản, khi mới lên 5 tuổi ông đã bắt đầu học tiếng Pháp tại một trường Dòng ở Hà Nội, 14 tuổi ông thi đậu vào Trường Sư phạm Hà Nội.

    Được giác ngộ cách mạng, năm 1925, ông sang Trung Quốc hoạt động và đầu năm 1926, được cử đi học Trường Sĩ quan Hoàng Phố cùng với các nhà cách mạng Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên, Lê Thiết Hùng.

    Tháng 8/1927 ông gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc và tháng 12 cùng năm tham gia khởi nghĩa Quảng Châu. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, để tránh khủng bố, ông phải rời Quảng Châu sang Thái Lan và tổ chức Việt kiều tham gia cách mạng.
     Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn.

    Năm 1928, ông trở lại Trung Quốc, tham gia lực lượng Hồng quân, đổi tên mới là Hồng Thủy. Tháng 10/1934, ông tham gia cuộc Vạn lý trường chinh và là người Việt Nam duy nhất đã đi hết cuộc hành trình này.

    Tháng 7/1937, bắt đầu thời kỳ chiến tranh chống Nhật, ông cùng sư đoàn 115 Bát Lộ Quân vượt sông Hoàng Hà đến Sơn Tây lập căn cứ chống Nhật ở Ngũ Đài Sơn. Từ năm 1939, ông làm giảng viên chính trị tại các trường đại học vùng giải phóng.

    Tháng 11/1945, ông trở về nước hoạt động, lấy tên mới là Nguyễn Sơn. Năm 1948, ông được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phong quân hàm Thiếu tướng trong đợt phong quân hàm đầu tiên, cùng 8 quân nhân khác.

    Năm 1950, tướng Nguyễn Sơn trở lại Trung Quốc công tác. Được xem là một trong 72 đại công thần Trung Quốc, ngay trong đợt phong quân hàm đầu tiên của nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 27/9/1955, ông được phong quân hàm Thiếu tướng.

    Vì là người Việt Nam duy nhất được phong quân hàm tướng của hai quốc gia, và đều ngay trong đợt phong quân hàm đầu tiên, nên ông được mệnh danh là "Lưỡng quốc tướng quân".

    Năm 1956, do khối u ác tính nằm bên phổi trái, ông xin trở về quê hương và mất tại Hà Nội sau đó không lâu. Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét