Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

SIÊU QUẬY 10

(ĐC sưu tầm trên NET)

Chia phòng ở trong một căn hộ nhỏ tại Bankstwon (Úc), lái một chiếc xe cũ, làm nghề chạy bàn và sống bằng tiền trợ cấp – đó là thế giới đạm bạc của tay chơi bạc khét tiếng gốc Việt tên Peter Hoang, hay còn gọi là Peter Tan Hoang.
peter-hoang-tay-choi-bac-khet-tieng-goc-viet-hinh-anh_HITE
Điều đáng nói là tình trạng sống nói trên lại hoàn toàn ngược lại với 1 tỉ USD hắn ta đã chơi tại sòng bạc lớn nhất nước Úc, Crown Melbourne, trong hơn 10 năm qua.
Peter Hoang, 36 tuổi, đã bị bắn vào giữa mặt hồi tháng 9 khi đang đứng đợi (ai đó) tại một con phố vắng vùng ngoại ô Sydney.
Kẻ giết người không để lại tung tích gì cho cảnh sát, nhưng lại cho thấy manh mối đến một đường dây rửa tiền toàn cầu từ châu Á sang Mỹ và vấn nạn rửa tiền ngay tại Úc.
Sống bằng ma túy và cờ bạc
Câu chuyện về Hoang, từ một đứa trẻ mồ côi sống ở Úc với visa tị nạn trở thành một trong nhưng tay chơi bạc khét tiếng gốc Việt và rửa tiền lớn nhất nước Úc, làm dấy lên lo ngại về việc làm sao hắn có thể thoát được hệ thống kiểm soát an ninh trong thời gian dài và với số tiền lớn như vậy – đặc biệt là ở một trong những sòng bạc lớn nhất nước Úc.
Giấy của tòa án từ vụ việc gần đây cho thấy Hoàng đã rửa đến 1 tỉ USD tiền “đen” qua Crown từ năm 2000 đến 2012.
Hắn cũng được phép đánh bạc dưới 4 tên khác nhau và nhận được “một đống” lợi ích như đi du lịch nước ngoài, tiền thưởng lên đến cả 100.000 USD và ‘hoa hồng’ đánh bạc hàng trăm ngàn USD.
Ủy ban Tội phạm Úc (ACC) ước tính có khoảng 15 tỉ USD được rửa trên toàn nước Úc mỗi năm, nhưng những báo cáo khác còn cho thấy con số này còn cao hơn.
Hầu hết số tiền đó là kết quả của buôn lậu ma túy.
Các cơ quan phòng chống tội phạm liên bang của Úc thừa nhận rằng, họ đang phải đối đầu với việc ngày càng có các tổ chức quốc tế tìm cách rửa tiền cho khoản lợi nhuận hàng tỉ USD.
Mặc dù bị điều tra từ chuyên án với tên gọi Operation Gordian của ACC từ năm 2005 -2006, với một loạt báo cáo tình báo cho thấy vai trò của Hoang là một kẻ buôn lậu ma túy và rửa tiền, Hoàng vẫn là một tay chơi lớn tại Crown trước khi bị bắt vì tội rửa tiền cuối năm 2012.
Hoàng cũng có liên quan đến một số đường dây buôn lậu ma túy của người Việt ở Úc tại Sydney và Melbourne.
Sĩ quan Mick Willing thuộc cơ quan cảnh sát New South Wales cho biết, họ không nghi ngại gì về vai trò của Hoàng trong các đường dây ma túy và tội phạm châu Á chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết của hắn.
peter-hoang-tay-choi-bac-khet-tieng-goc-viet-hinh-anh-2_kfrf
 Peter Hoang trước tòa án Melbourn hồi tháng 4.2014 – Ảnh:  Ken Irwin từ TSMH
Từ trẻ mồ côi đến tội phạm xuyên quốc gia
Sinh ra ở Việt Nam năm 1977, là một trẻ mồ côi, Hoàng đến Úc năm 1997 theo visa du học và hộ chiếu Indonesia dưới cái tên Petrus Keyn Peten. Sau vài tháng, hắn nộp đơn xin tị nạn dưới cái tên Minh Tan Nguyen.
Đến năm 2001 hắn trở thành công dân Úc và đổi tên hai lần. Tại thời điểm nhận quốc tịch Úc hắn đã bị sòng bạc ở Sydney là The Star cấm cửa.
Một số nhân viên thi hành luật chấp nhận nói chuyện với ABC News và Fairfax với điều kiện danh tính của họ không bị tiết lộ cho biết, hắn trở thành tay rửa tiền chuyên nghiệp, đánh bạc cả triệu đô trên số tiền lợi tức từ heroin và các loại ma túy khác, biến chúng thành tiền thắng bạc hợp lệ.
Thông tin mật thám của các nhân viên thi hành luật của tiểu bang và liên bang cho thấy Hoàng có liên quan đến một nhóm người Úc – Việt có địa phận ở Úc, thuộc một tổ chức tội phạm có trụ sở ở Hồng Kông được biết với tên Ông Ngoại.
Ông Ngoại là một đường dây buôn bán ma túy dọc châu Á sang Bắc và Nam Mỹ. Cảnh sát Úc đã xác định được ít nhất hơn 20 đường dây ma túy tại đây có liên quan đến nó.
Michael Purchas là bộ óc phía sau Chuyên án Gordian, dành nhiều tháng trời để theo dõi những tội phạm Úc gốc Việt như Hoàng bán ma túy và rửa khoản tiền thu lợi từ việc này.
“Hắn được biết đến là một tay chơi ở các sòng bài, Hoàng rõ ràng là sử dụng tiền của người khác tại các sòng bài theo sự chỉ huy của một người khác nữa”, ông Purchase nói.
Chuyên án Gordian đã điều tra được kết quả mang tính đột phá về việc rửa tiền, buộc tội đực một nhóm người Úc gốc Việt về việc rửa 93 triệu USD tiền thu lợi được từ ma túy mỗi năm.
Tại thời điểm đó, Hoàng chỉ là một nhân vật ngoại biên và tìm cách thoát khỏi sự chú ý của cảnh sát.
Hắn vẫn tiếp tục tham gia vào việc vận chuyển heroin và các chất ma túy khác. Số tiền hắn rửa qua các sòng bạc, chủ yếu là Crown Melbourne, cũng tăng lên.
Tháng 5.2012, Hoàng một lần nữa bị cấm cửa tại sòng bại The Star ở Sydney và Jupiter ở Brisbane.
May mắn của hắn kết thúc vào tháng 10.2012, khi hắn bị bắt tại một phòng cấp cao của sòng bài Crown, định đánh bạc với tiền mặt trị giá 1,5 triệu USD thì bị cảnh sát bắt giữ.
12 năm đánh bạc cả tỉ đô
Thông tin từ phiên tòa cho thấy hắn đã mua khoảng 75 triệu USD chip đánh bạc tại Crown từ năm 2000 đến 2012, tương đương với số tiền đánh bạc luân chuyển khoảng 225 triệu USD, có thể lên đến 1 tỉ USD.
Giáo sư về xã hội nhân văn của Đại học Deakin Linda Hancock là tác giả của quyển sách về sòng bài Crown, bà cho biết số vốn luân chuyển của Hoàng là một con số ‘đáng kinh ngạc’. Mặc dù Crown có báo cáo lại một số giao dịch của Hoang cho nhân viên liên bang theo quy định, nhưng sòng bài này cũng cho Hoang rất nhiều những lợi ích mà không phải tay chơi bài nào cũng được.
Hắn được phép dùng 4 tên khác nhau tại sòng bài – Peter Hoang, James và John Ho hay Patrick Lu – cũng như nhận những vé máy bay hạng doanh nhân, chỗ ở, rượu và phần thưởng bằng tiền mặt lên đến 100.000 USD.
Vụ án cũng cho thấy cách chơi bài đáng chú ý của hắn.
Tại một phiên xử vào tháng 6 năm nay, một bằng chứng cho thấy trong tháng 9.2012, hắn đã mua hơn 9 triệu USD vào chip và chơi bài đặt cược mỗi lần khoảng 106.000 USD.
Sòng bài đã trả hoa hồng theo số tiền mà hắn đã đánh bạc và tháng đó hắn nhận 199.000 USD tương đương với mức đánh bạc của hắn.
Sòng bài Crown từ chối trả lời các câu hỏi về mức độ đối xử đặc biệt với Hoang, nhưng nói: “Crown đã và đang dành thời gian để hỗ trợ các cơ quan thi hành luật của bang và tiểu bang về ông Hoang và chúng tôi sẽ tiếp tục làm điều đó”.
14K là băng nhóm lớn nhất trong “tứ đại hắc bang” của Hội Tam Hoàng ở Hong Kong, được đánh giá như con mãng xà nhiều đầu, chặt đầu này lại mọc ra đầu khác.
Hội Tam Hoàng hay Tam Hợp Hội là tên mà người dân đặt cho giới Xã hội đen ở Hong Kong từ hàng trăm năm nay. Trong đó, băng nhóm 14K hình thành từ những năm 50 của thế kỷ 20 tại Hong Kong, sau này mở rộng sang Macau và các khu vực khác trên thế giới như Tây Âu, Bắc Mỹ, Australia và Đông Nam Á…
Zing_14K1

14K được đánh giá là một trong những băng nhóm lớn nhất và bạo lực nhất trong thế giới xã hội đen Hong Kong.

Nó có liên hệ mật thiết với nhóm Yamaguchi-gumi ở Nhật Bản, băng nhóm Trúc Liên, Tứ Hải ở Đài Loan, nhóm Hoa Thanh ở Mỹ và Đảng hội tư ở Đông Nam Á… Hiện nay, 14K cùng với Tân Nghĩa An, Hòa Thắng Hòa và Hòa Hợp Đào là 4 băng đảng xã hội đen lớn nhất Hong Kong hay còn gọi là “Tứ đại hắc bang” hay “Tứ đại gia tộc” trong xã hội đen Hong Kong.
Nguồn gốc tên gọi 14K
Tiền thân của 14K là “Hội Hồng Môn trung nghĩa” do tướng quân Cát Triệu Hoàng của Quốc dân đảng sáng lập. Vào năm 1949, tổ chức này tháo chạy sang Hong Kong và lấy tên là 14K.
Có một số tài liệu cho rằng, tổ chức này ban đầu có 14 thành viên đều là người của Quốc dân đảng (Kuomintang), nên được đặt tên là 14K. Tuy nhiên, cũng có một số người nói rằng tên 14K xuất phát từ số nhà nơi đặt tổng hành dinh cũ của tổ chức này (số 14 đường Bảo Hoa, Quảng Châu), còn thêm chữ “K” bên cạnh số 14 có nghĩa là kiên cường, cứng rắn. Bên cạnh đó còn có quan điểm cho rằng tên của tổ chức có thêm chữ “K” là viết tắt tên người sáng lập hội, là Cát Triệu Hoàng (KE, Chao-Huang).
Quy mô và quá trình phát triển
Băng đảng 14K có ảnh hưởng rất lớn, chiêu binh mãi mã không chỉ ở Hong Kong, mà còn rất nhiều khu vực khác ở Trung Quốc và trên thế giới. Đầu những năm 50 thế kỷ 20, khi băng đảng Thanh và nhóm chữ Hòa của Hong Kong đang đấu đá nhau thì 14K luôn ở trạng thái trung lập, ngồi quan sát thời thế, ngấm ngầm mở rộng địa bàn.
Sau khi băng đảng Thanh bị xóa sổ, thế lực của 14K dần lớn mạnh. Thêm vào đó, được Quốc dân đảng đứng sau làm người đỡ đầu, 14K lớn mạnh nhanh chóng, cuối cùng dẫn tới cuộc bạo động Cửu Long giữa phe phái của Quốc dân đảng (kẻ ra mặt và bị bắt đại bộ phận là người của nhóm 14K) và chính phủ. Chính cuộc bạo động này đã khiến tên tuổi của 14K càng trở nên nổi bật.
Zing_14K

14K là băng đảng có lượng thành viên lớn nhất hội Tam Hoàng.

Đầu những năm 60 thế kỷ trước, thành viên của băng đảng đã lên tới 80.000, bắt đầu từ những năm 70, 14K vươn “vòi bạch tuộc” ra nước ngoài, mở rộng thế lực ra các nước khu vực Âu Mỹ và Đông Nam Á. Những năm này, người ta phát hiện ra tổ chức 14K xuất hiện tại Nhật Bản. Tại Macau, 14K trở thành băng đảng mạnh nhất trong thế giới ngầm. Trong hoạt động buôn bán ma túy ở Đông Nam Á, Nam Phi và Hà Lan, 14K là lực lượng chủ đạo thao túng Thị trường.
Từ những năm 1980 trở đi, địa vị giang hồ của 14K bắt đầu đối mặt với nhiều thách thức đến từ các thế lực mới nổi như băng đảng Tân Nghĩa An, Hòa Thắng Hòa …
Sina dẫn thống kê của cảnh sát Hong Kong cho hay, hiện nay lượng hội viên của 14K dao động từ 120.000 đến 200.000 người, gồm 45 nhánh nhỏ hay còn gọi là “nhóm”, chủ yếu bao gồm nhóm chữ Tín, nhóm Hiếu Tử, nhóm chữ Đức, nhóm chữ Nghị, nhóm chữ Kiện, nhóm Nghĩa Thắng Đường… cắm chốt ở khắp nơi của Hong Kong, Trung Quốc đại lục và trên thế giới.
Ngoài ra, 14K còn huấn luyện một đội biệt động nữ có tên “12K Kim thoa (Trâm vàng)” gồm 12 sát thủ “Mỹ nữ rắn”, sử dụng mỹ nhân kế để làm “cá cắn câu”. Những năm 1990, 14K đã từng được mệnh danh là băng Tam Hoàng lớn nhất thế giới. …
Cả nước Mỹ đang rúng động trước vụ việc 4 nữ cán bộ quản giáo cùng mang thai với một tù nhân là trùm băng đảng tại nhà tù ở Baltimore, bang Maryland, Mỹ.
prison-gang-members4
ảnh minh họa
Phạm nhân Tavo White là nhân vật có nhiều ảnh hưởng tại nhà tù kể trên và thường khoe khoang rằng gã là “luật pháp” ở nơi này. Gã thường tặng các nhân tình nhiều món quà xa xỉ như xe hơi và nhẫn kim cương. Gã cũng khai nhận mỗi tháng đã kiếm khoảng 16.000 USD nhờ buôn lậu ma túy và điện thoại di động vào trong nhà tù, nhờ sự giúp đỡ của đồng bọn.
Bốn nữ cán bộ quản giáo nêu trên được xác định là Jennifer Owens, Katera Stevenson, Chania Brooks và Tiffany Linder. Họ đã bị khởi tố vì có quan hệ tình cảm cá nhân với phạm nhân đang trong thời gian thi hành án. Owens thậm chí còn xăm chữ “Tavon” lên cổ mình còn Stevenson có hình xăm tương tự ở cổ tay.
Vụ việc chỉ được đưa ra ánh sáng sau khi nhà chức trách triệt phá một ổ buôn lậu lớn trong tù, bắt giữ 13 nữ cán bộ quản giáo, 7 phạm nhân cùng 5 đồng phạm là dân thường. Các cán bộ quản giáo đã có hành vi buôn lậu ma túy đá và điện thoại di động vào bên trong nhà tù, bằng cách để những món hàng cấm này trong giày của họ. Đường dây buôn lậu này chịu sự điều khiển của Black Guerrilla, một băng đảng tội phạm lớn ở Baltimore.
Trong khuôn khổ hoạt động phá án, Cục điều tra liên bang Mỹ đã tiến hành nghe lén và ghi được một câu nói đầy chất tự đắc của White: “Đây là nhà tù của tao. Chúng mày phải hiểu điều đó”. Gã còn tuyên bố có thể kiểm soát tất cả mọi thứ, từ buôn lậu hàng hóa cho tới việc xử lý các phạm nhân khác trong nhà tù.
Toàn bộ 13 cán bộ quản giáo liên quan tới vụ bê bối trên hiện đều đã bị đình chỉ công tác không lương. Họ chắc chắn sẽ bị sa thải và phải đối diện với pháp luật vì hành vi của mình.


Đằng sau vẻ hào nhoáng của cuộc sống giàu sang, những người vợ của các trùm mafia phải chịu đựng nhiều luật lệ khắc nghiệt và chấp nhận chồng có nhiều nhân tình.
Im lặng và chịu đựng
Các gia đình mafia thường đặt ra nhiều nguyên tắc bất biến cho phụ nữ. Ảnh: Choix Magazine.
Các gia đình mafia thường đặt ra nhiều nguyên tắc cho phụ nữ. Ảnh: Choix Magazine.
Những người vợ của các ông trùm xã hội đen thường phải sống với nguyên tắc tối cao là im lặng và chịu đựng. Theo lời kể của nhiều nhân chứng sống, họ có thể biết rõ các hoạt động phi pháp của chồng nhưng thường lừa dối bản thân, người trong gia đình và bạn bè rằng chồng mình là một doanh nhân thành đạt với những công việc chính nghĩa.
Các bà vợ cho biết quy định ngầm của mafia cấm họ chia sẻ những câu chuyện về tội phạm, thậm chí họ không được phép đề cập đến chúng với mọi thành viên của băng đảng. Khi những người vợ của trùm mafia gặp gỡ nhau trong các bữa tiệc của chồng, họ cũng hầu như không chia sẻ công việc riêng của các đức lang quân.
Một số người sẽ có mối quan hệ thân thiết hơn, như cùng mua sắm, chia sẻ chuyện chăm sóc con cái hay những vấn đề cá nhân nhưng họ hiếm khi nói đến các vấn đề của mafia.
“Tôi đã gặp gỡ nhiều người vợ của các trùm mafia khác nhưng chúng tôi không bao giờ nhắc đến những việc chồng mình làm hay tại sao chồng chúng tôi lại kết thúc cuộc đời trong nhà tù. Thay vào đó, chúng tôi cùng buộc tội các công tố viên và cảnh sát vì chính họ đã tống bố của các con chúng tôi vào tù”, Keren Hill, vợ của Henry Hill, trùm mafia nổi tiếng với những vụ cướp máy bay, xe tải và mua bán ma túy trong thập niên 1970, chia sẻ trong cuốn nhật ký về gia đình mafia.
Bên cạnh sự im lặng và ảo tưởng về cuộc sống gia đình, nhiều bà vợ mafia còn phải chấp nhận chồng mình có những người đàn bà khác. Theo các nghiên cứu của điều tra viên, tội phạm hiếm khi chung thủy với một người vợ. Nhiều người vợ sẽ phản ứng dữ dội trong thời gian đầu khi họ phát hiện chồng mình ngoại tình. Sau đó họ hiểu rằng những cô bồ kia cũng là một phần trong cuộc đời họ và họ phải chịu đựng và chấp nhận.Họ lao vào mua sắm và sống một cuộc sống giàu sang để gạt suy nghĩ chồng đang trong vòng tay của người tình. Trong khi một số bộ phận chấp nhận hoàn cảnh thì một số người khác quyết định dằn mặt đối phương và rơi vào hoàn cảnh mà họ không hề mong đợi.
Ralph Natale, một tay trùm mafia ở Philadelphia, bang Pennsylvania, Mỹ, lên nắm quyền vào năm 1994, thay thế vị trí trùm băng đảng Bruno Scarfo của John Stanfa. Theo báo cáo của cảnh sát, Ruthann Seccio là bạn thân của con gái Ralph. Cô này từng nghiện ma túy và gia nhập nhiều băng nhóm xã hội đen trên đường phố Philadelphia trước khi gặp Ralph.
Cựu trùm xã hội đen có mối quan hệ bất chính với cô ta mặc dù y hơn cô 34 tuổi và thấp hơn 8 cm. Hắn chuyển “người vợ hờ” này đến một căn hộ tại Voorhees, bang New Jersey, cách ngôi nhà mà hắn sống cùng vợ, Lucy, 17 km. Ralph nói rằng Lucy đang mắc hai bệnh Parkinsons và Alzheimers khi nhân tình yêu cầu hắn bỏ vợ. Tuy nhiên, Ruthann đã phát hiện hắn nói dối và tỏ ra rất giận dữ. “Bố tôi liên tục tặng những món quà đắt tiền nên cô ta đã bỏ qua”, bạn thân của Ruthann nói.
Đến năm 1988, tòa tuyên án Ralph phải ngồi tù vì những hoạt động làm ăn phi pháp khiến mối quan hệ của hai người chấm dứt. Lo sợ với án tù chung thân, hắn quyết định làm nhân chứng chống lại tổ chức mafia Bruno Scarfo và tham gia chương trình bảo vệ nhân chứng của Mỹ sau khi cục Điều tra liên bang FBI cáo buộc hắn buôn bán ma túy.
Công khai
zing_mafia_1_2
Các bà vợ của trùm mafia quyết định phá vỡ luật lệ im lặng để phơi bày cuộc sống chân thực của họ. Ảnh: Daily Mail.
Trong chương trình thực tế “Tôi đã kết hôn với một tên cướp” trên kênh Investigation Discovery, 8 người phụ nữ từng là vợ của các ông trùm mafia ở Mỹ, đã phá vỡ nguyên tắc im lặng kể trên và tiết lộ cuộc sống gia đình thăng trầm của họ.
Cheryl Caruso, sống tại King Point, Long Island, cho hay cô không biết chồng có liên quan đến tổ chức tội phạm. “Tôi vẫn nghĩ lợi nhuận từ công ty in của chồng hoàn toàn đủ để phục vụ cho cuộc sống giàu sang. Tuy nhiên, tôi cảm thấy sụp đổ khi tòa kết tội chồng tôi gian lận và buôn ma túy”, Cheryl chia sẻ.
Cô khẳng định bước ngoặt này đã tàn phá cuộc đời cô. “Tôi không biết phải làm gì khi thẩm phán tuyên án chồng tôi với 15 năm tù giam. Tôi chưa bao giờ nghĩ sẽ thấy những lời đó. Cuộc đời hạnh phúc của tôi chính thức chấm dứt và chuyển sang địa ngục”, New York Post dẫn lời Cheryl nói. Cô rơi vào cảnh tay trắng và một mình nuôi hai con gái.
“Chồng tôi luôn yêu thương và chăm sóc những người xung quanh, đặc biệt là tôi. Tuy nhiên, nếu anh ấy phát hiện ra ai đó phản bội, người đó sẽ không thể thoát khỏi cái chết”, Big Linda Schiro, vợ của trùm tội phạm khét tiếng Greg Scarpa nhưng hắn đã qua đời vào năm 1994 vì AIDS, thừa nhận.
Ngoài ra, nếu người phụ nữ được sinh ra trong một gia đình tội phạm, họ dường như không thể thoát khỏi vòng kìm kẹp đó. Angela Calvacante nỗ lực chạy trốn từ Howard Beach, New York, tới Maspeth để cắt đứt quan hệ với tội phạm có tổ chức. Song cô lại kết hôn với Sal Bonia, con trai của ick “The Baron” Bonina, thuộc gia đình tội phạm sừng sỏ Luchese.

Cứ nhắc tới mafia, phần lớn người ta sẽ nghĩ tới các tổ chức mafia chuyên nghiệp và quy mô rộng lớn ở Italia. Điều đó thường gây ra một số điều nhầm lẫn.
Khá nhiều cuốn sách, tạp chí, báo hay các bộ phim viết về Al Capone nhưng phần lớn là sai. Người ta thường biết đến ông trùm này như là một trùm mafia của Italia. Nhưng điều đó hoàn toàn sai.
Al Capone
Al Capone
Đã có rất nhiều người Italia di cư, giống như các dân tộc khác trên thế giới, đổ về Tân Thế Giới với một số tài sản nhỏ bé của mình. Nhiều người trong số đó đánh cược với mạng sống với hi vọng có trốn thoát được sống ở vùng nông thôn Italia. Khi họ tới các thành phố cảng rộng lớn ở Mỹ và làm công nhân vì họ không rành ngôn ngữ và thiếu những kỹ năng công việc thì đã là cả ước mơ to lớn mà nhiều người trả giá bằng mạng sống cũng không có được. Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp của Al Capone.

Mẹ của trùm Al Capone: Teresina Capone.
Gia đình di cư đến Tân Thế Giới
Gabriele Capone ( không phải là Caponi như nhiều tờ báo viết), bố của ông trùm Al Capone sau này, là một trong 43.000 người Italia di cư tới Mỹ vào năm 1894. Anh sinh ra trong làng Castellmarre di Stabia, cách thành phố Naples 16 dặm về phía Nam.
Gabriel, 30 tuổi, đã mang người vợ, 27 tuổi, đang mang thai là Teresina (thường gọi là Teresa) cùng với cậu con trai 2 tuổi Vincenzo và bé Rafaele di cư về Mỹ. Tuy nhiên không giống như nhiều người Italia di cư khác chỉ chăm chú tìm việc làm thuê, anh có kế hoạch riêng cho cuộc đời mình. Đó là làm hết sức với bất kỳ việc gì có thể để mở riêng cho mình một tiệm cắt tóc.
Thế là cùng với hàng ngàn người Italia di cư khác, gia đình nhà Capone chuyển về Brooklyn, gần khu vực hải quân Brooklyn. Đó là khung cảnh ảm đảm của những năm đầu ở Tân Thế Giới. 95 con đường ở đâyvới những căn hộ chung cư không có nhà vệ sinh và đồ đạc nội thất đáng giá nào. Cuộc sống vô cùng khó khăn, từ đồ ăn cũng chỉ có thể đủ để duy trì mạng sống.
Nhờ biết đọc và viết tiếng Anh, Gabriel đã có một công việc ở tiệm bán tạp phẩm cho tới khi anh có thể mở tiệm cắt tóc cho riêng mình. Teresina, ngoài thực hiện các công việc nội trợ của một người vợ còn làm thêm nghề may vá để tăng thu nhập cho gia đình. Đứa con thứ ba của họ, Slavator Capone ra đời vào năm 1895.
Và đứa con thứ tư, người con đầu tiên sinh ở Tân Thế Giới là Alphonse Capone (17/1/1899). Cậu nhóc sau này đã khiến cả thế giới phải biết đến vì băng đảng mafia khét tiếng của mình, với những vụ thanh toán không thương tiếc những đối thủ, thậm chí là bạn làm ăn, nếu chúng nghi ngờ kẻ đó cản đường mình.
Như vậy, Al Capone mặc dù có gia đình là người Italia, nhưng hắn là một gangster người Mỹ chính hiệu. Hắn chỉ lấy mô hình tổ chức tội phạm của Italia và biến nó thành một nghiệp đoàn tội phạm theo kiểu Mỹ.
Thời thơ ấu
Bố mẹ của ông trùm tội phạm trong tương lai này là những người như thế nào? Phương thức giáo dục của họ ra sao? Liệu họ có luôn đối xử với Al Capone bằng bạo lực và lạm dụng không để hắn phải chịu đựng và lớn lên trong tội lỗi rồi trở thành tên tội phạm khét tiếng như thế không? Al Capone có sống thời thơ ấu giữa những tên trộm và những kẻ sát nhân không?
Hoàn toàn không. Gia đình nhà Capone khá ít nói và hiền lành. Ông bố Don Gabriele thì được bạn bè đánh giá là “cao, đẹp trai, rất dễ nhìn”. Ông không bao giờ đánh con cái mà chỉ nói chuyện với chúng, ông dạy dỗ con hằng ngày và các con nghe bố của chúng”.
Tháng 5/1906, Gabriele được nhập quốc tịnh và thành công dân Mỹ, và cả gia đình theo đó đổi sang tên Mỹ, Alphonse trở thành Al Capone.
Sau khi Al chào đời, gia đình họ chuyển tới một khu phố sung túc hơn, phía trên cửa hàng của Gabrieleông ở số 69 đại lộ Park tại Brooklyn. Cư dân quanh đó thuộc về nhiều quốc tịch khác nhau – Đức, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc… Việc giao tiếp với những người thuộc chủng tộc khác nhau không khiến A; Capone tách rời nhưng càng làm tăng thêm tình đồng hương với những người gốc Italia. Và đó chính là nền tảng sâu xa cho những hoạt động tội phạm trong tương lai.
“Cho đến khi được 10 tuổi, Al Capone có cuộc sống khá vất vả nhưng ổn định và không nhiều trắc trở. Đám trẻ con làm khu phố luôn sôi động, vì chúng chơi bóng, chạy tránh xe cộ trên đường, cãi vã và đánh nhau trong lúc đợi mẹ đi chợ về. Những cửa hàng bán hoa quả và rau tạo thành mùi đặc trưng cho cả khu phố. Những chiếc thang lên tầng hai ở phía trước mỗi căn nhà rung lên bần bật mỗi khi xe lửa chạy qua đại lộ Myrthe gần đó”.
Năm 1904, khi được 5 tuổi, Al vào học tại trường phổ thông số 7 đường Adams. Việc học rất chán nản vì lúc đó có nhiều sự phân biệt đối xử với dân nhập cư. Nhưng Al học rất khá cho tới năm lớp 6 rồi bắt đầu mải mê với các vụ đánh nhau. Năm 14 tuổi, Al bỏ học.
Bố mẹ buồn rầu, còn Al thì bắt đầu bộc lộ chiều hướng phạm tội, nhất là khi gia đình chuyển về số 21, quảng trường Garfield, sống cùng cặp vợ chồng hàng xóm tội phạm là Johnny Torrio và Mae. Cặp đôi của thế giới ngầm này có những ảnh hưởng đầu tiên tới cuộc đời tội phạm của Al Capone.
Học “việc”
Cách nhà gia đình Capone một vài dãy là một tòa nhà nhỏ khá khiêm tốn nằm trên quảng trường Garfield. Đó là trụ sở của một trong những trùm tội phạm khá nổi tiếng của khu Biển Đông, đứng đầu là Johnny Torrio. Hắn là trùm mới nổi nhưng lại đi tiên phong trong việc phát triển mô hình tập đoàn tội phạm hiện đại. Tài năng tổ chức và điều hành của Torrio đã khiến cả băng từ việc hành động bột phát, manh động trở thành bộ máy có tổ chức và đoàn kết. Chính yếu tố này đã khiến băng đảng của Torrio ngày càng lớn mạnh, thị trường của việc kinh doanh cũng như bảo kê của băng luôn được mở rộng với tốc độ rất nhanh. Chính Torrio là bậc thầy đầu tiên của cậu nhóc Al Capone, người cho hắn những bài học quí giá để làm nền tảng cho một lãnh đạo của đế chế tội phạm sau này ở Chicago.
Là người có vóc dáng nhỏ bé, Torrio nhanh chóng biết được rằng trong thế giới khắc nghiệt này, để sống sót cần phải biết dùng cái đầu, khéo léo và đặc biết biết tạo đồng minh cho mình. Nhờ có phong cách của một quí ông, Torrio chỉ bộc lộ mình là một giang hồ bình thường, tuyệt nhiên giấu đi thân phận ông trùm bảo kê của gái điếm và các giang hồ đàn em.
Torrio sớm trở thành một hình mẫu cho đám thanh niên trẻ tuổi trong khu phố. Capone, giống như nhiều bạn bè cùng tuổi, luôn ngưỡng mộ và tìm cách làm quen với Johnny Torrio. Theo thời gian, Torrio bắt đầu thấy tin tưởng Al và giao cho ngày càng nhiều trọng trách trong các hoạt động phi pháp. Trong khi đó, Al đã học được rất nhiều nhờ sự quan sát từ hành vi đến cách tư duy của ông trùm giàu có và được nhiều người kính nể này cũng như các đàn em của hắn. Một trong những bài học lớn nhất là phải biết sống và phân biệt rõ ràng giữa bề ngoài và bản chất. Bề ngoài phải lịch lãm, có giáo dục, trong khi bên trong vẫn làm những gì mình nghĩ như hoạt động trong giới tội phạm. Chính tư tưởng này đã ngấm vào máu và trở thành bản năng của Johnny Torrio.
Năm 1909, Torrio chuyển tới Chicago làm ăn. Al Capone chia tay người thầy đầu tiên và tiếp tục rơi vào tầm ảnh hưởng của băng nhóm khác.
Những thanh niên trong khu nhập cư Brooklyn có tư tưởng phân biệt chủng tộc rất lớn, từ đó dẫn đến việc thường có các nhóm học đòi làm gang-tơ như nhóm Ý, nhóm Do Thái, Nhóm Ai-len. Chúng không phải là các băng nhóm tội phạm đường phố thực sự nhưng là vì cảm thấy hợp và thích nhau, lại thêm sự ngưỡng mộ từ các đàn anh đàn chị trong giới tội phạm nên lập nhóm cùng nhau.
Nhưng Capone lại là một trường hợp khác. Hắn rất “khó nhai”, lỳ lợm và thay đổi qua nhiều “băng”của các thanh niên này như: Những máy khoan của Brooklyn, 40 tên cướp, hay 5 sát thủ đẳng cấp…
Vào thời điểm đó, tội phạm đường phố thì không bị cảnh sát sờ tới vì mang tính nhỏ lẻ. Các tổ chức chỉ cố gắng và mong muốn đưa các trẻ em đường phố vào các trường học hoặc nhà thờ nhưng họ thiếu nhiều yếu tố và không đủ năng lực làm việc đó. Thành ra, việc tụ tập thành phe nhóm lại trở thành một “hoạt động bình thường” của thanh thiếu niên sau giờ học. Chúng tự lập thành những băng nhóm trên phố của riêng mình, độc lập với thế giới người lớn và đôi khi còn trái ngược với họ. Các nhóm này do một cậu nhóc lớn tuổi, lỳ lợm và đủ cứng đầu để lãnh đạo cả nhóm. Những nhóm này thường cùng nhau thực hiện các cuộc phiêu lưu, đua ngựa, khám phá, chơi cờ bạc, ăn cắp vặt, phá hoại của công, hút thuốc, uống rượu, tiến hành đánh nhau để “học” và khẳng định sự hiếu chiến của mình.
Trước biến cố thay đổi cuộc đời
Mặc dù hay giao du với nhiều tay giang hồ đường phố và cả Johnny Torrio, Al Capone vẫn không hề có dấu hiệu nào cho thấy “yêu thích” hay sẽ chọn cuộc sống của một tên tội phạm. Hằng ngày chú bé Al vẫn sống cùng gia đình và làm những việc mà cha mẹ luôn mong muốn sau khi cậu bỏ học: đi làm việc và phụ giúp gia đình. Đầu tiên là công nhân trong xưởng sản xuất đạn, sau đó là thợ cắt giấy trong một nhà máy. Al luôn làm việc tốt, rất có ý thức và chan hoà với mọi người. Đặc biệt không bao giờ động tới súng đạn. Dù trở thành một ông trùm lạnh lùng và có cái đầu cực lạnh trong tương lai nhưng chú bé Al Capone lại là người dễ thương, có giọng nói ấm áp và khiêu vũ khá giỏi.
Dưới bàn tay chăm chỉ và có đầu óc của ông bố Gabriele, gia đình Capone càng ngày càng làm ăn khấm khá. Gabriele đã đạt được ước mong của mình là mở được 1 tiệm cắt tóc cho riêng mình. Bà mẹ Teresa thì tiếp tục nuôi dạy những cậu con trai và 2 cô con gái, trong đó có 1 bé chết sớm.

Johnny Torrio
Tuy nhiên, Torrio đã có ảnh hưởng khá lớn tới Al để rồi tới khi gặp một ông trùm khác, bản năng và khao khát thống trị của hắn mới trỗi dậy và ngày càng phát triển.
Ông trùm mới lần này mà Al có “cơ duyên” gặp là Frankie Yale, tên thật là Francesco Ioele, rất được giới giang hồ nể sợ.
Hoàn toàn trái ngược với phong cách bình tĩnh và “đầu lạnh” của Johnny Torrio, quan điểm tội phạm của Yale được tóm gọn bằng 2 chữ: “cơ bắp và sự thù hận”. Hắn mở 1 quán bar Harvard ở đảo Coney, và tuyển Al Capone vào làm tại đó theo lời khuyên của Torrio. Lúc đó Al mới 18 tuổi.
Vết sẹo
Al Capone làm rất nhiều việc tại quán rượu Harvard: phục vụ quầy, bảo vệ, và cả phục vụ bàn khi cần thiết. Trong năm đầu tiên, hắn trở thành người tin cậy của ông chủ và những khách hàng quen thuộc. Nhưng một sự cố xảy ra khi hắn phục vụ một đôi nam nữ. Người phụ nữ rất trẻ đẹp và Capone không làm sao kìm lại được. Hắn lại gần cô và nói: “Thưa bà, bà có cặp mông rất đẹp và tôi xin có lời ngợi khen bà”.
Người đàn ông đi cùng là anh trai cô gái, tên Frank Gallucio. Không nói nửa lời, anh ta bật dậy, đập thẳng vào mặt tên hầu bàn hỗn xược vừa xúc phạm em gái mình. Capone nổi điên lao vào. Cùng lúc Gallucio rút trong người ra con dao găm loại nhỏ, đâm Capone 3 nhát vào mặt trước khi kéo em gái mình thoát nhanh khỏi quán. Vụ đổ máu diễn ra rất nhanh, nhưng những vết sẹo xấu xí kéo dài trên mặt đã ám ảnh Al mãi mãi.
Vụ gây sự của Capone không gây ra nhiều xáo động trong cộng đồng dân cư tại đây. Gallucio tới gặp Lucky Luciano để dàn xếp và tên này thì tới gặp Frankie Yale. Capone bị bắt buộc phải xin lỗi Gallucio. Lúc này hắn mới nhận ra bài học quí giá nhất cuộc đời, bài học giúp hắn đủ nhẫn nhịn để tránh được nhiều nguy hiểm và trở thành ông trùm khét tiếng: luôn phải làm chủ sự tức giận, không bao giờ để nó thống lĩnh mình.
Trở về với Torrio, mọi cơ hội “làm ăn” mở ra cho Al: cờ bạc, bảo kê, rượu lậu…
Mặc dù không bảo vệ cho Al Capone vụ rạch mặt, lại còn bắt cậu nhóc phải xin lỗi nhưng Yale luôn che chở và dạy dỗ cậu học trò nhỏ những phương thức để “kinh doanh” dựa trên sự tàn bạo của mình.
Yale là một kẻ rất bạo lực và tháo vát, giàu có và có tầm ảnh hưởng nhờ những chiến lược “bàn tay thép” của mình. Hắn là “chuyên gia” trong các lãnh vực tống tiền, cho vay nặng lãi, bảo kê cho gái bán dâm và các lầu xanh, và dĩ nhiên là kiêm cả chức năng “bảo vệ” cho các cơ sở kinh doanh địa phương. Đàn em của hắn phải là những kẻ không chỉ biết làm người khác đổ máu mà còn phải biết giết người. Hắn nhìn thấy ở Al Capone một tố chất sẽ trở thành “cái đầu lạnh” có đôi tay rắn rỏi, đủ sức để quật ngã và bẻ gãy bất kỳ đối thủ nào sau này.
Yale ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển theo chiều hướng cứng rắn của Al Capone. Ngoài ra, còn có nhiều người khác cũng là cột mốc khá lớn trong cuộc đời chú nhóc. Năm 19 tuổi, Al gặp một cô gái người Ai-len rất duyên dáng có mái tóc vàng tên là Mae Coughlin. Cô gái ít hơn Al 2 tuổi, sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. Gia đình nhà Mae đã phản đối rất mạnh mẽ mối tình của 2 người, mãi cho tới khi cặp đôi vẫn tới với nhau và sinh con, bên nhà vợ mới chấp nhận chàng rể.
Ngày 4/11/1918, Albert Francis Capone ra đời, thường được gọi là Sony và nhận Johnny Torrio làm bố đỡ đầu. Sony bị bệnh giang mai từ bố. Nhiều năm sau này Al mới thú nhận với bác sỹ rằng mình đã bị nhiễm trước khi cưới vợ và luôn tin rằng bệnh tình sẽ khỏi.
Có một gia đình nhỏ với người vợ đẹp và một đứa con nhỏ cần chăm sóc, Al tập trung làm việc nghiêm túc. Hắn không làm cho Frankie Yale nữa mà chuyển tới Baltimore, làm kế toán cho công ty xây dựng của Peter Aiello. Và Al Capone đã làm rất tốt. Với bản tính thông minh, có cái đầu lạnh và sắc sảo, Al làm việc rất hiệu quả với những con số và được nhiều người tin cậy. Cuộc sống gia đình của Al Capone khá ổn định.
Nhưng vào ngày 14/11/1920, cha của Al Capone đã qua đời vì bệnh tim ở tuổi 55. Đau buồn vì chưa có cơ hội làm cha hài lòng, Al Capone nhận thấy làm nghề kế toán đơn giản như thế này không giàu được nên hắn kết nối lại quan hệ với Johnny Torrio. Lúc này ông trùm Torrio đã mở rộng địa bàn, xây dựng một “đế chế” mở rộng trên nhiều vùng. Tại Chicago, đặc biệt là trên các con phố ở Brookyn đã là lãnh địa của “lãnh chúa” Torrio. Cơ hội mở ra cho Al Capone rất là lớn trên các lãnh vực: chơi bài, bảo kê, và cả rượu lậu… 
Chicago
Chicago vào thời điểm đó là một mảnh đất hoàn hảo để xây dựng một đế chế tội phạm. Nơi đây thường xuyên xảy ra tình trạng rối loạn trật tự, các phe nhóm liên tục tranh chấp và đánh nhau, đặc biệt lượng tiêu thụ rượu “như nước” của người dân là yếu tố quan trọng nhất, mang lại khối tài sản kếch sù cho bất kỳ kẻ thức thời nào. Những tờ báo hàng đầu nói về Chicago như sau: “Đó là một bang luôn đầy sức sống và bạo lực, những phe nhóm kích động và nhẫn tâm, không hề kiên nhẫn trước bất kỳ tình huống nào”. Một thành phố đầy máu me và tàn bạo, nơi dung thân của hơn 10 triệu “bò cái”, “lợn thiến” và “những con thiêu thân” được chăn dắt bởi các ông trùm khét tiếng và mưu mô. Nhưng đó cũng là một thành phố thương mại không có chỗ cho những đầu óc ngu dốt, thói trịnh thượng và không thức thời”.
Sự thối rữa về chính trị đã tạo nên một “thảo nguyên” xanh tươi, béo tốt cho thế giới tội phạm sung sướng tung hoành. Thành phố này nổi tiếng vì sự phồn thịnh, kéo theo nạn mại dâm đến hỗn loạn. Khi Al Capone tới Chicago vào năm 1920, nền kinh doanh “thân thể” trở nên “ngành công nghiệp” mang lại lợi nhuận tột đỉnh cho giới tội phạm. Ông trùm thâu tóm mạng lưới mại dâm của thành phố là Jim Colosimo “lớn” và cùng với vợ của lão là Victoria Moresco, một “tú bà” tột đỉnh thành công. Hệ thống nhà thổ đã mang lại 50.000 đô la một tháng cho cặp mèo mả gà đồng này. Một số tiền “khủng khiếp” trong thời đại đó.
Jim “lớn” sở hữu cả quán cà phê mang tên của mình: Colosimo, một trong những quán bar đêm nổi tiếng nhất thành phố. Không ai quan tâm tới việc hắn là ma cô, là tú ông hay là bất cứ ai. Các đại gia và những người nổi tiếng thường tới quán và mang lại cho y một vị thế lớn trong giới tội phạm. Jim “lớn”, với những chiếc nhẫn kim cương to tướng trên các ngón tay béo tốt là một sản phẩm “hoàn hảo” của xã hội Chicago lúc đó: đẹp trai, hào phóng, lòe loẹt và to lớn.
Khi nền kinh doanh của gia đình ngày càng phát triển, Jim “lớn” cẩn trọng và khéo léo đẩy ông trùm Johnny Torrio ra khỏi Brooklyn để tiếp tục hoạt động và đẩy mạnh đế chế của mình. Đó là một quyết định sáng suốt nhất mà Jim “lớn” từng làm bởi vì Torrio đã bành trướng việc “kinh doanh” của chúng mà không bị soi mói bởi bất kỳ vị chính khách nào. Torrio là một doanh nhân rất cẩn trọng, không quan tâm tới rượu. Trái ngược với Jim “lớn”, Torrio không uống rượu, không hút thuốc, chửi thề hay lừa đảo vợ của mình là Ann. Biết vị thế của mình đang thua Jim “lớn”, Torrio nằm đợi thời cơ.
Và cuối cùng điều Torrio mong đợi cũng đến. Anh hùng không qua ải mỹ nhân. Điểm yếu của Jim “lớn” là Dale Winter, một cô ca sỹ rất xinh đẹp đã “đánh cắp” trái tim hắn. Ông trùm quỷ quyệt này đã ngu ngốc ly dị Victoria để cưới cô ca sỹ trẻ này ngay lập tức, sau khi mới gặp người đẹp có vài tuần. Tin tức về sự điên rồ này của Jim “lớn” bay tới Frankie Yale tại Brooklyn. Tên trùm này lợi dụng luôn thời cơ để dành lấy “vương quốc” của Jim. Ngày 11/5/1920, Yale ám sát Jim trong hộp đêm Colosimo.
Tuy nhiên, ám sát được Jim “lớn” không có nghĩa là mọi việc đã nằm trong tay Yale. Torrio lúc này mới lộ diện, chiến đấu để giữ lại cả một gia tài mà hắn đã dày công giúp Jim gây dựng nên. Torrio trở thành kẻ thắng chung cuộc. Hắn nắm giữ vô số nhà thổ và quán rượu trong thành phố.
Chính trong giờ phút huy hoàng đó, Torrio gặp lại Capone, lúc đó 22 tuổi, đang làm kế toán tại Baltimore.
Từ khi Al điều hành mạng lưới tội phạm, xung đột giữa các băng nhóm trùng xuống.
Gặp lại Torrio đang khi “sự nghiệp” tội phạm của tên này đang lên như diều gặp gió, Al Capone dường như anh hùng có đất dụng võ. Không còn là cậu nhóc chạy lon ton như những ngày đầu tiên hắn tiếp xúc với giới tội phạm, Al giờ này đã 22 tuổi và rất có “tài năng” trong lãnh vực kinh doanh phi pháp. Tới năm 1921, Al Capone đã thực sự trở thành cánh tay đắc lực của Torrio, được ông trùm này hoàn toàn tin tưởng giao cho cầm đầu các đường dây và phi vụ làm ăn lớn. Al được giao chức quản lý của the Four Deuces, một tổng hành dinh điều hành các hoạt động đánh bạc, bảo kê, rửa tiền và gái mại dâm ở vùng Levee. The Four Deuces là sòng bạc đem lại siêu lợi nhuận cho băng nhóm này. Sau này em trai của Al là Ralph cũng gia nhập vào nghiệp đoàn của Torrio.
Vào khoảng thời gian này, Al cũng trở nên thân thiết với một người, người này sẽ là bạn tâm giao và trung thành suốt đời hắn: Jack Guzik. Dù tên này theo Do Thái giáo nhưng hắn là một tú ông chính hãng, chuyên sống bằng nghề môi giới mại dâm. Có phong cách và vai trò gần giống như Torrio, Guzik là một bậc đàn anh trong nghề của Capone.

Nhà của Al Capone trên đại lộ Prairie.
Sau khi đã cưới một cô vợ là người Ireland, Capone lại có một người bạn thân thiết là người Do Thái để chứng minh rằng hắn mãi mãi muốn ly khai với cộng đồng người Italy. Chính sự thoải mái trong lựa chọn đồng minh của Al đã giúp hắn trở thành ông trùm trong giới tội phạm. Giờ đây hắn là người bạn thân thiết của nhóm người Do Thái.
Có đủ lực về tài chính, Al mua một căn nhà sang trọng hàng đầu tại số 7244 đại lộ Prairie, rồi đưa Mae và Sonny, mẹ và anh chị của mình tới sống. Trong cộng đồng dân cư Al sống, hắn luôn cố gắng gầy dựng danh tiếng, ra tay giúp người để thu phục về làm cho mình. Càng dấn sâu vào con đường phạm tội, hắn càng lý tưởng hóa gia đình mình trong con mắt những người hàng xóm.
Trong công việc, nhờ có sự chỉ bảo của Torrio, cùng phong cách vượt trên những định kiến, sẵn sàng kết bạn và thu phục người tài mà không hề phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp…, Al Capone ngày càng có vị thế trong việc quản lý. Dần dần hắn được Torrio giao cho toàn quyền tại vùng Levee. Từ khi Al điều hành mạng lưới tội phạm, xung đột giữa các băng nhóm trùng xuống.

Yakuza (Nhật Bản) được coi là một trong những tổ chức tội ác có quyền lực ngầm mạnh nhất trên toàn cầu…
Được sánh ngang với những băng đảng tội phạm nổi tiếng trên thế giới như mafia ở Mỹ, La Cosa Nostra tại Italy, Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc… Yakuza (Nhật Bản) được coi là một tổ chức tội ác có quyền lực ngầm mạnh nhất trên toàn cầu. Yakuza trong lịch sử…
Với lịch sử hoạt động hơn 300 năm và những nguyên tắc chặt chẽ tương tự mafia, Yakuza vẫn đang ngày càng lớn mạnh và mở rộng thêm tầm ảnh hưởng.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 1
Vào thời kỳ Edo (1603 – 1867), Yakuza gồm những nhóm tội phạm nhỏ, chuyên bảo kê cho các chợ phiên, sau đó làm lính đánh thuê cho các sứ quân.
Năm 1881, Yakuza được tập hợp lại trong một tổ chức có tên “Thương hội Biển đen” – chuyên hoạt động trên biển và giết người thuê.
Đánh mất tinh thần thượng võ, những người này hành động với mục đích duy nhất là kiếm tiền. Không những vậy, sự tàn ác cùng với bản chất xấu biến họ trở thành ác quỷ dưới sự sai khiến của đồng tiền.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 2
Trang phục của Yakuza thường là màu đen.
Tuy nhiên, khi lượng “binh sĩ hắc ám” không còn được quan phủ sử dụng vào thời Tokugawa (1543 – 1616) , họ trở thành đội quân cướp phá khổng lồ, sẵn sàng tàn phá, cướp bóc bất kể vùng đất nào mà họ đi qua. Đây chính là tiền thân cho mafia Nhật Bản sau này.
Yakuza với góc nhìn thời hiện đại
Mới đây, Anton Kusters – nhà báo, nhiếp ảnh gia người Hà Lan đã đem đến cho độc giả những bức ảnh chân thực với cái nhìn mới, hiểu hơn về thế giới mafia ngầm ở Nhật Bản – Yakuza.
Anton đã không ngần ngại sống chung gần 2 năm với Yakuza Nhật, mọi hành động của ông đều bị giám sát, ông được phép chụp hình nhưng chỉ được đưa những hình mà Yakuza cho phép ra trước công chúng.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 3
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 4
Yakuza đẩy mạnh các hoạt động cướp bóc, bảo kê và tống tiền.
Đầu thế kỷ XX, nhiều ông trùm Yakuza ngả dần về phía chủ nghĩa dân tộc cực hữu. Kể từ đó, từ chỗ chỉ là những tên tội phạm đường phố, Yakuza đã chính thức tham gia vào những biến cố chính trị.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 5
Khi trở thành tổ chức và hoạt động quy củ, Yakuza đẩy mạnh các hoạt động cướp bóc, bảo kê và tống tiền. Khi tới thời điểm này, tinh thần thượng võ hoàn toàn biến mất bên trong những chiến binh tàn bạo. Thậm chí, họ còn tự hào khi nhận cái tên Yakuza – những kẻ thất bại, bị xã hội ruồng bỏ.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 6
Giống như các tổ chức tội phạm khác, Yakuza có mặt ở các lĩnh vực phi pháp của đời sống xã hội. Những tổ chức này đứng sau hàng loạt tội ác, từ tống tiền, bảo kê đánh bạc, buôn lậu, cho vay nặng lãi, rửa tiền, buôn ma túy, mại dâm, buôn vũ khí tới kinh doanh bất động sản, thể thao hay giải trí.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 7
Tuy nhiên, những kẻ cặn bã của xã hội không dễ dàng được dung nạp vào hàng ngũ Yakuza. Không đơn thuần chỉ là sự tàn ác và manh động, kẻ muốn gia nhập Yakuza phải thực sự mang trong mình bản lĩnh hơn người.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 8
Thử thách đầu tiên đối với những kẻ được chọn vào hàng ngũ Yakuza là việc xăm mình. Những hình xăm cầu kỳ chiếm phần lớn diện tích cơ thể khiến khổ chủ vô cùng đau đớn. Nếu không thể vượt qua thử thách này, kẻ đó không có tư cách gia nhập Yakuza.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 9
Phần lớn những người đến xăm đều muốn sở hữu hình rồng, hình phượng hay hình cá chép, những biểu tượng từng là quyền lực trong giới Yakuza Nhật Bản.
Do hoạt động theo phương thức gia đình mà ông chủ chính là người cha, các thành viên của Yakuza phải tuyệt đối trung thành với người thủ lĩnh. Khi lễ kết nạp kết thúc, những thành viên của Yakuza có nghĩa vụ gắn bó cả cuộc đời với tổ chức và phải tuyệt đối trung thành.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 10
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 11
Thông thường các Yakuza gặp nhau trong buồng tắm. Tại đây họ để lộ các vết xăm và chứng minh, họ không mang vũ khí.
Không những vậy, cả gia đình của Yakuza đều có nghĩa vụ phục vụ tổ chức, phục tùng ông trùm. Nếu một Yakuza không may thiệt mạng, cả băng nhóm có trách nhiệm giúp đỡ, bao bọc gia đình của người đó.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 12
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 13
Một điều đặc biệt của các thành viên Yakuza giúp ta có thể nhận dạng dễ dàng đó là phần lớn đều có ngón tay út ngắn hơn bình thường hoặc mất hẳn.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 14
Nguyên do của điều này là theo luật của mafia Nhật, bất kỳ thành viên nào không tuân lệnh cấp trên, lệnh của các ông trùm đều phải tự chặt một đốt ngón tay út. Những lần vi phạm sau sẽ lần lượt lấy đi đốt tiếp theo của cả 2 ngón tay út và có khi ở các ngón khác.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 15
Vì hoạt động theo hình thức gia đình nên mâu thuẫn giữa các thành viên trong cùng băng nhóm gần như không xảy ra. Tuy nhiên, với số lượng lên tới hàng trăm nghìn thành viên cùng hàng nghìn gia đình, việc chém giết tranh giành địa bàn của Yakuza xảy ra khá thường xuyên.
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 16
Thế giới ngầm đáng sợ của mafia Nhật Bản 17
Tuy nhiên, ít người biết rằng, trong hai thảm họa ghê gớm động đất Kobe 1995 và động đất, sóng thần Tohoku 2011, Yakuza là những người đầu tiên gửi hàng cứu trợ đến cho các nạn nhân của thảm họa. Họ làm điều này một cách lặng lẽ và nhanh chóng. Một nhà nghiên cứu về Yakuza cho biết, họ làm điều này hoàn toàn tự nguyện chứ không phải để quảng bá tên tuổi.

Đứng hàng thứ ba trong danh sách 10 tên tội phạm bị truy nã nguy hiểm nhất thế giới, Mogilevich không chỉ cộm cán trong giới mafia khắp châu Âu và Mỹ mà còn nổi tiếng với các hoạt động kinh doanh bẩn. Mogilevich còn được cho là người rất nhạy bén thương trường, điều này đã mang lại cho ông trùm này khối tài sản kếch xù hơn 10 tỉ USD.
Ông trùm của các ông trùm
Semion Yudkovich Mogilevich sinh ngày 30/6/1946 tại Ukraina và tốt nghiệp ngành kinh tế tại đất nước này song y lại chọn kiếm sống ở Mát-cơ-va (Nga). Cơ quan thực thi pháp luật châu Âu và Mỹ gọi Mogilevich là ông “trùm của các ông trùm” hay còn gọi là siêu bố già đối với mafia tại Nga. Hơn nữa, y còn trực tiếp chỉ đạo một đế chế tội phạm rộng lớn từ nhiều vùng đất trên thế giới, trong đó có Mỹ. Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) gán cho y biệt danh “tên cướp nguy hiểm nhất thế giới”.
Không chỉ nổi tiếng là một tên tội phạm siêu cao thủ, Mogilevich còn được biết đến là người rất nhạy bén trong kinh doanh. Y đang điều hành RosUkrEnergo, một công ty liên quan đến tranh chấp khí đốt giữa Nga và Ukraina. Bên cạnh đó y còn điều hành cả Ngân hàng Raiffeisen và liên quan đến công ty năng lượng Gazprom của Nga. Sau thời cải tổ của M.Gorbachev, Mogilevich đã phỉnh phờ một số người Nga gốc Do Thái di cư về Israel, rằng cứ để lại nhà cửa nhờ y bán hộ rồi chuyển tiền cho họ sau.
Trong mắt của FBI và cơ quan tình báo Israel, Mogilevich là mối đe dọa đối với sự ổn định của Israel và Đông âu. Một loạt những hoạt động tội phạm nguy hiểm của Mogilevich được đề cập trong các báo cáo của FBI và tình báo Israel, trong đó phải kể đến hoạt động buôn bán nguyên liệu hạt nhân, ma túy, gái điếm, đá quý và tác phẩm nghệ thuật bị đánh cắp.
Ông trùm của băng đảng mafia này có một đội quân tay chân khét tiếng là tàn bạo, được huấn luyện bài bản. Trong nhiều năm tổ chức này đã thống trị các hoạt động buôn bán vũ khí, rửa tiền, buôn lậu ma túy và tác phẩm nghệ thuật trên khắp thế giới. Những hoạt động tội ác của băng đảng tội phạm này tàn bạo đến mức các băng nhóm tội phạm khác trong khu vực không dám ra mặt đương đầu. Mặc dù, băng đảng gia đình tội phạm này có trụ sở Budapest (Hungary), nhưng chúng lại đặt các trung tâm hoạt động chính ở các thành phố lớn như của Mỹ như New York, Pennsylvania, California, thậm chí tận đất nước New Zealand. Cùng với đó tổ chức do y cầm đầu có cả một mạng lưới đâm thuê chém mướn hoạt động ở khắp châu âu và Mỹ.
nguoiduatin-Mogilevich1
Siêu bố già Mogilevich.
Lũng đoạn ở cấp độ đa quốc gia, đa lĩnh vực
Giới điều tra quốc tế ước tính tài sản của Mogilevich xê dịch cỡ từ 10-12 tỉ USD, kết quả từ những mánh làm ăn đầy ám muội. Các chân rết kinh doanh của Mogilevich hoạt động tại 30 quốc gia trải rộng cả 3 châu lục gồm nhiều quốc gia: Nga, Ukraina, Anh, Hungary và Czech ở châu Âu, hay Israel, Pakistan và Nhật Bản. Mogilevich cũng bành trướng thế lực bằng việc liên kết với các tổ chức tội phạm Nam Mỹ nhằm lũng đoạn thị trường làm ăn trong thế giới ngầm ở Hoa Kỳ.
Vốn liếng ban đầu Mogilevich gây dựng được chủ yếu qua các phi vụ lừa đảo bất động sản. Khác với giới mafia Nga còn lại, Mogilevich không mở rộng hoạt động tại các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, mà còn mở mang lãnh địa ra nhiều nước khác nhau trên thế giới. Năm 1990, y định cư tại Israel và rửa tiền bằng cách đầu tư vào một loạt cơ sở kinh tế trọng yếu. Chính trong giai đoạn này, siêu bố già đã trực tiếp tiến hành các phi vụ bán tên lửa vác vai, cũng như súng phòng không 12 ly cho Iran.
Tới năm 1992, Mogilevich chuyển qua sống ở Hungary, bỏ tiền ra mua các công ty chế tạo vũ khí và kim hoàn, các hộp đêm và nhà hàng sang trọng… Tại Budapest, kế đến là tại Prague, Mogilevich cho khai trương mạng lưới mại dâm chuyên nghiệp phi pháp đầu tiên ở Đông âu. Văn phòng Budapest của FBI cho biết dưới trướng Mogilevich là một băng nhóm chừng 250 tên, hoạt động theo mô hình mafia Italia chuyên tẩy rửa tiền qua hình thức đầu cơ cổ phiếu.
Rồi tới lượt Cơ quan mật vụ Anh (Scotland Yard) nghi ngờ siêu bố già rửa tiền từ việc buôn bán vũ khí, thuốc phiện và hoạt động mại dâm vào các ngân hàng Anh. Bằng chứng là đầu năm 1995, giới chức tài chính London đã quyết định tịch thu 80 triệu USD thuộc tài khoản của một trong những công ty do Mogilevich cầm trịch. Lệnh truy nã y được ban bố, nhưng 2 năm sau chuyển thành lệnh cấm nhập cảnh vào Vương quốc Anh.

Mogilevich trong một lần bị cảnh sát bắt.
Trong khi người Nga đang nghi ngờ rằng chủ nhân đích thực của Arbat Prestiz chính là Mogilevich, nhằm truy tố y tội dùng tiền bẩn tạo nên một thương hiệu trứ danh. Từ khoản 2 triệu USD trốn thuế ắt sẽ phanh phui thêm nhiều điều mờ ám khác…
Báo giới Nga thậm chí còn đề cập đến đường dây khí đốt liên quan đến siêu bố già này. Theo như lời khẳng định từ giới hữu trách, chính Mogilevich đã chu cấp vốn pháp định để thành lập Công ty Rosukrenergo, một hãng trung gian môi giới chuyên mua khí đốt của Nga để bán cho Ukraina. Nhật báo điện tử Lenta.ru bình luận: “Nếu như vụ bắt giữ Mogilevich có liên quan đến các hoạt động của Rosukrenergo, hẳn các thỏa thuận đã ký thuộc hiệp định giữa Nga và Ukraina về khí đốt có thể phải sửa đổi lại”.
Chân dung siêu bố già qua các “tiền án”
Năm 1974, Mogilevich bị kết án 3 năm tù vì buôn bán ngoại tệ chợ đen. Cuối năm 1977, Semion lại nhận thêm bản án 4 năm về tội lừa đảo tín dụng. Năm 1995, nhóm tội phạm do y cầm đầu từng tung hoành ở các quốc gia Đông Âu và đặt trụ sở chính ở Budapest. Hồi đóỏ, Solntsevskaya là tổ hợp của hoạt động buôn bán ma túy, vũ khí, gái mại dâm và rửa tiền. Năm 2003, hồ sơ của Semion Mogilevich được trình lên tòa án ở Philadelphia vì y cùng với đồng bọn tiến hành lừa đảo buôn bán cổ phiếu của một công ty có tên là YBM Magnex Inc. Năm 2005, Mogilevich từng bị nhà chức trách Ukraina sờ gáy vì có liên quan đến việc gian lận xuất khẩu khí gas.
Angela Kostoyeva, phát ngôn viên của cơ quan chống tội phạm có tổ chức thuộc Bộ Nội vụ Nga cho biết, Mogilevich sử dụng tới 17 tên họ khác nhau và có trong tay nhiều hộ chiếu. Bên cạnh đóỏ, FBI còn nghi ngờ y liên quan đến rửa tiền và cung cấp cho lực lượng khủng bố, buôn lậu vũ khí ở châu Phi.
Trước đó, Semion Mogilevich đã bị cảnh sát Nga bắt giữ ngay trên đường phố Mát-cơ-va vào ngày 24/1/2008. Ban đầu, giới chức nước này ra lệnh bắt Semion Mogilevich vì tội trốn thuế do y là chủ một cửa hàng mỹ phẩm. Cho đến khi tiến hành kiểm tra các dữ liệu có liên quan đến y, cảnh sát Nga mới biết đây là nhân vật từng tham gia trong các vụ lừa đảo tín dụng, buôn bán vũ khí mà FBI đang tiến hành điều tra.
Tuy nhiên, vào tháng 7/2009, Bộ Nội vụ Nga nói rằng các cáo buộc đối với Mogilevich “không có tính chất đặc biệt nghiêm trọng” và phóng thích siêu bố già sau đó. Cho đến nay, FBI đã có trong tay bằng chứng về những vụ lừa đảo của Semion Mogilevich. Cái mà cơ quan này đang tìm kiếm là khả năng Semion Mogilevich chính là kẻ đứng đầu mạng lưới gian lận tài chính toàn cầu và là chỉ huy của Solntsevskaya – nhóm tội phạm có tổ chức lớn nhất ở Nga.
FBI choáng váng vì ông trùm Đông Âu FBI lại phát hiện ra một sự thật choáng váng: Trong vòng 2 năm, năm 1998 và 1999, gần 10 tỉ USD đã luân chuyển qua tài khoản do Mogilevich mở tại Ngân hàng Bank of New York. Đây rất có thể là khoản tiền y tẩy rửa từ những phi vụ liên quan đến vũ khí và thuốc phiện. Nhưng mãi tới năm 2003 Mogilevich mới chính thức nằm trong sổ đen của FBI, cùng lệnh truy nã quốc tế đặc biệt về các tội rửa tiền, bảo kê và lừa đảo cổ phiếu. Điển hình là giới cổ đông thuộc hãng YBM Magnex Inc của Canada, với trụ sở tại tiểu bang Pennsylvania (Mỹ) đã bị y lừa mất 150 triệu USD vào giữa năm 2002 và cao chạy xa bay. Giới tư pháp Hoa Kỳ từng chuẩn bị sẵn mức án tổng cộng lên đến… 390 năm tù cùng 17 triệu USD tiền phạt, nếu như họ có cơ hội xét xử Mogilevich trên đất Mỹ. Tuy nhiên, có một khó khăn là giữa Nga và Mỹ chưa có hiệp định về dẫn độ tội phạm, do vậy không dễ gì khiến Moskva sẵn sàng trao siêu bố già Mogilevich cho Washington xét xử.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét