CÂU CHUYỆN VỤ ÁN 113
(ĐC sưu tầm trên NET)
Xác chết thai phụ nơi đồi vắng
Tội ác của gã thợ giày máu lạnh
11:00 | 11/11/2015
Bảy người trong một gia đình bị khống chế bởi một gã đàn ông da ngăm đen, dáng vẻ lôi thôi và đứa con trai nhỏ gầy gò.
Chiều ngày 8-1-1975, cảnh sát Leonia bất ngờ
nhận được cuộc điện thoại từ một người phụ nữ tên là Lucy Bevacqua sống
ở đại lộ Glenwood. Bà Lucy thông báo người hàng xóm đang la hét không
ngừng, có chuyện gì đã xảy ra với họ.
Edwinna Romaine hốt hoảng chạy ra khỏi
nhà, miệng la hét. Từ xa, bà Bevacqua chỉ nghe thấy Romaine hét và nhắc
hai từ, “súng”, “tầng hầm”. Romaine ngã gục xuống đường, chân vẫn còn bị trói. Bevacqua đã chứng kiến mọi chuyện và gọi điện cho cảnh sát.
Phòng khách nhà Romaine |
Trung sĩ Robert MacDougall cùng đồng
nghiệp có mặt khi Romaine vẫn nằm gục trên đường, chân bị trói.
MacDougall tiến lại gần hơn. Ngay khi nhìn thấy McDougall, Romaine đã
khóc nức nở, “Chúa ơi, cả gia đình tôi đã bị giết”.
MacDougall giữ lấy Romaine, cố gắng trấn an bà trong cơn hoảng loạn. Những nhân viên khác đột nhập vào bên trong nhà Romaine.
Theo bà Romaine, những kẻ đột nhập vào nhà bà có mang súng và dao, bà nghĩ có ai đó đã bị giết.
MacDougall tháo sợi dây buộc ở chân
Romaine, sau đó tìm cách tiếp cận vào ngôi nhà qua lối cửa sau. Cửa đã
được mở sẵn, MacDougall dễ dàng vào được bên trong. MacDougall đi dọc
theo hành lang dẫn đến bếp, rồi đến phòng khách. Ai đó đã tắt hết điện
trong nhà. Trên sàn nhà, có vài sợi dây giống như loại dây hung thủ buộc
chân bà Romaine.
Ngay khi bước chân lên cầu thang, MacDougall nhìn thấy một cánh tay đưa ra từ phía sau chiếc ghế dài trong phòng khách.
Một người phụ nữ khác chân bị trói, khó
khăn lê từng bước về phía MacDougall. Cô ta đang khóc, và không thể nói
thành tiếng. MacDougall gặng hỏi, những người này chỉ chỉ tay lên phía
tầng trên. MacDougall hiểu được có điều gì đó rất khủng khiếp đã xảy ra
phía trên. Anh cởi trói cho người ấy và đưa cô ấy ra ngoài trước khi
bước lên cầu thang.
Bước vào phòng ngủ lớn, MacDougall phát
hiện có ba người, hai người phụ nữ và một cậu bé trong phòng, cả ba
không mảnh vải che thân.
Một người phụ nữ nằm trên sàn, hai tay
bị trói, có băng dính dính chặt trên miệng. Một người phụ nữ nữa và một
cậu bé bị trói cùng nhau trên giường, miệng cũng dính băng dính. Cả ba
người còn sống.
Theo lời khai họ, có một người đàn ông
đã đột nhập vào trong, khống chế và đe dọa họ bằng dao và súng ngắn. Gã
đã trói từng người một bằng những sợi dây được chuẩn bị sẵn. Điều đặc
biệt, có một cậu bé khoảng chừng 14, 15 tuổi đi cùng gã.
MacDougall rời khỏi phòng, theo lời họ
anh cùng đồng nghiệp men theo cầu tháng tối tới căn phòng phía bên dưới,
căn phòng này được thiết kế như một tầng hầm.
Khi đèn tầng hầm được bật lên, họ thấy
một người phụ nữ mặc váy trắng, tay chân bị trói nằm gục bên tường.
Người này đã chết, trên quần áo nhiều vết máu, một vết rạch dài trên cổ.
Không có dấu hiện bị lạm dụng trước khi chết.
Phía gần lò sưởi, một người đàn ông bị trói nằm sấp, người này cũng là nạn nhân, anh ta còn sống.
Khi được tháo băng dính trên miệng, người này cho biết mình là Frank Welby, khách của gia đình.
Một trong những nạn nhân chưa rõ hung thủ |
Khi các nạn nhân đã được đưa ra khỏi ngôi nhà, cảnh sát bắt đầu thu thập lời khai. Không ai trong nhà biết kẻ đột nhập là ai.
Theo thông tin thu được, hôm đó, Didi
Wiseman, 28 tuổi cùng cậu con trai 4 tuổi của mình tới thăm ông bà
Edwinna và DeWitt Romaine. Ông Romaine vừa phục hồi sau cuộc phẫu thuật
tim. Hai cô em gái sinh đôi của Wiseman, Randi và Retta 21 tuổi vẫn
sống ở đây.
Sáng hôm đó, Retta cùng bạn trai là
Frank Welby ra ngoài chơi, tuy nhiên họ quay về rất sớm, Randi cũng đến
viện. Trong nhà có bà ngoại Didi, 90 tuổi, bà bị liệt phải nằm một chỗ.
Khoảng 1.30 phút, qua cửa sổ, Didi nhìn
thấy một người đàn ông da ngăm đen, tóc xoăn, đen dắt một cậu bé gầy gò
với mái tóc dài, đi chân đất gần khu vực nhà cô. Người đàn ông trông có
vẻ lôi thôi, không giống như những nhân viên bán hàng, hay tiếp thị.
Didi thấy bất ngờ khi hai cha con gõ cửa
nhà mình. Chính cô là người chạy ra mở cửa. Có mùi khó chịu từ hai cha
con người này, Didi không thể nhận ra đó là mùi gì.
Người đàn ông giới thiệu mình là John
Hancock, nhân viên bán hàng. Didi chưa kịp hỏi thêm gì thì đã bị người
đàn ông này khống chế bằng 1 khẩu súng ngắn. Gã đẩy Didi về phía trước.
Cậu bé đi cùng chỉ đứng quan sát.
(Còn tiếp)
Hòa ThuTội ác của gã thợ giày máu lạnh (Phần 2)
19:00 | 11/11/2015
Nhiều bằng chứng quan trọng được tìm thấy tại hiện trường, nhưng cảnh sát vẫn chưa thể tìm ra hung thủ.
Bất ngờ bị người đàn ông lạ mặt dùng súng khống chế, Didi tỏ ra rất sợ hãi, cô ngoan ngoãn nghe theo lời hắn.
Cậu bé đi cùng chỉ đứng nhìn, không hề tỏ thái độ gì.
Con trai Didi, cậu bé Bobby 4 tuổi bất
ngờ xuất hiện trong phòng khách. Cậu bé khóc lớn khi thấy có người lạ và
nhìn thấy mẹ mình đang sợ hãi. Người đàn ông lạ chĩa súng về phía cậu, những hắn không bắn. Bobby sợ hãi chạy vào phòng, đóng chặt cửa theo lời của Didi. Lúc này, Didi thực sự cảm thấy lo lắng.
Ngôi nhà của Edwinna Romaine |
Hắn túm tóc Didi, hỏi cô trong nhà hiện
có những ai. Didi bị khống chế, cô dẫn hắn lên tầng trên. Ngay khi vừa
bước lên vài bậc, Bobby đã mở cửa phòng, chạy lại túm lấy áo Didi và
khóc lớn.
Hai mẹ con Didi và Bobby bị nhốt vào
phòng ngủ, bị ép cởi bỏ quần áo và trói cùng nhau trên giường. Cả hai bị
dính băng dính trên miệng để không thể kêu khóc. May mắn cho Didi, cô
không bị hãm hiếp.
Cửa phòng ngủ vừa khóa, Didi nghe thấy
tiếng chuông cửa reo. Có người vừa về. Didi hi vọng hai kẻ đột nhập sẽ
sợ hãi và rời khỏi đây.
Em gái Didi trở về từ bệnh viện, cô ngạc
nhiên khi thấy một người đàn ông lạ ra mở cửa cho mình. Hắn tỏ ra khá
bình tĩnh và tự nhiên. Randi không biết chuyện gì đang xảy ra, cô không
hiểu người lạ này đang làm gì trong nhà mình.
Randi bất ngờ bị hắn túm lấy, khống chế
bằng dao. Hắn ép cô lên tầng, nhốt chung cùng với Didi và Bobby. Randi
cũng bị ép cởi bỏ quần áo và bị dính băng dính trên miệng.
Khi cả ba không thể chống cự được, hắn
rời khỏi phòng, cậu bé đi cùng bắt đầu lục soát toàn bộ căn phòng để lấy
những món đồ có giá trị.
Tiếng chuông cửa lại kêu lên, cậu bé vội vã rời khỏi phòng. Randi biết chắc chắn mẹ cô về.
Bà Romaine trở về nhà cùng lúc với Retta
và Frank. Nhìn thấy người lạ trong nhà mình với khẩu súng, bà Romaine
sợ hãi tới mức ngất ngay tại chỗ. Chân bà cũng bị trói lại ngay sau đó.
Retta bị khống chế, nằm úp xuống sàn nhà, cậu bé đi cùng trói chân cô trong khi hắn khống chế Frank.
Frank dẫn hắn xuống căn phòng nhỏ phía
dưới, nơi bà ngoại Didi nằm. Frank nằm sấp bên cạnh lò sưởi, bị trói
chân, miệng bịt bằng dính. Chiếc đồng hồ anh đang đeo bị lột bỏ.
Chiếc áo sơ mi dính máu trên cánh tay hung thủ vứt lại. |
Bà ngoại Didi kêu lên nhưng không nghe
rõ tiếng, bà cố gắng làm gì đó. Kẻ lạ mặt lạnh lùng lôi bà ra khỏi
giường, thẳng tay rạch một vết dài ngang cổ. Đây là nạn nhân duy nhất
trong nhà bị giết.
Hai người rời khỏi căn phòng, lục soát khắp nhà và đập phá một số đồ đạc.
Bà Romaine tỉnh dậy, sợ hãi khi thấy con gái nằm bất động dưới sàn. Bà nghĩ rằng từng người đã bị giết.
Cố gắng nởi lỏng chiếc dây buộc ở chân,
bà Romaine lao ra cửa, miệng không ngừng la hét cho đến khi người hàng
xóm nghe tiếng và gọi cho cảnh sát.
Hai kẻ lạ mặt vội vã rời khỏi căn nhà qua lối cửa sau cùng với tiền và những đồ có giá trị vừa lấy được.
Không xa ngôi nhà của gia đình Romaine,
một người phụ nữ khi đang đi dạo nhìn thấy một người đàn ông và một cậu
bé chạy xuống dưới ngọn đồi, dáng vẻ vội vã, họ có cúi xuống nhặt một
cái gì đó.
Người đàn ông cởi chiếc áo của mình vứt xuống đất, trên chiếc áo có dính máu. Người phụ nữ này đã liên hệ với cảnh sát.
Cảnh sát vào cuộc
Tại nhà Romaine, thám tử Robert Roseman
đang cố gắng tìm những bằng chứng liên quan. Rất nhiều thứ đã bị lấy đi,
có vết chân dính đầy máu trên sàn, nhiều đoạn dây và một cuộn băng dính
có dính một vài sợi tóc được tìm thấy.
Một số người dân cho biết họ đã nhìn
thấy một người đàn ông trung tuổi cùng một cậu bé ngày hôm đó, nhưng
không ai biết họ là ai.
Một tài xế xe taxi cho biết hôm đó anh
đã trở hai người khách như miêu tả của cảnh sát đến New York. Hai người
có thể là cha con, họ tỏ ra vội vàng, cả hai không nói gì với nhau khi
ngồi trên xe.
Dọc theo con đường từ nhà Romaine đến
điểm đón xe, cảnh sát tìm thấy một con dao dính máu, một khẩu súng cỡ
nòng 0.32 bị vứt lại trong bụi cây ven đường. Những người trong gia đình
Romaine nhận ra đó là khẩu súng kẻ lạ mặt dùng để khống chế họ.
(Còn tiếp)
Hòa Thu
Tội ác của gã thợ giày máu lạnh (Phần 3)
07:00 | 12/11/2015
Con dao và khẩu súng tìm
được không đủ thông tin để có thể tìm ra chủ nhân của nó, chiếc áo sơ mi
để lại có dán nhãn sản xuất ở Philadelphia, trong túi có tờ giấy ghi
địa chỉ một tiệm giặt là.
Khám nghiệm tử thi cho biết, nạn nhân duy nhất bị giết do một nhát rạch ngang cổ và một vết đâm vào tim đó là bà của Didi.
Con dao và khẩu súng tìm được không đủ
thông tin để có thể tìm ra chủ nhân của nó, chiếc áo sơ mi để lại có dán
nhãn sản xuất ở Philadelphia, trong túi có tờ giấy ghi địa chỉ một tiệm
giặt là.
Kết quả đối chiếu dấu vân tay |
Công tố viên Larry McClure cho rằng, hai
người lạ này đã từng tham gia các vụ trộm cắp trước đó, miêu tả của
những người trong gia đình Romaine về hung thủ giống với miêu tả hai kẻ
đã từng phạm tội ở New Jersey, Maryland và một vài thị trấn ở
Pennsylvania.
Xuất hiện nghi phạm
Có dấu vân tay lạ được tìm thấy tại nhà
Romaine. Nghi phạm là người đàn ông trung tuổi làm nghề đóng giày cùng
cậu con trai 12 tuổi.
Rất nhiều bằng chứng liên quan được tìm thấy tại hiện trường, nhưng cảnh sát vẫn chưa thể tìm ra hung thủ.
Ngày 14-1, tại Margate, New Jersey, cảnh
sát nhận được cuộc điện thoại của một người phụ nữ thông báo có một
người đàn ông trung tuổi cùng một cậu bé đã đột nhập vào nhà cô. Tuy
không có đồ đạc gì bị lấy đi nhưng người phụ nữ này đã bị khống chế
bằng dao và bị đánh bất tỉnh. Theo thông tin của người nay, hai kẻ lạ
đột nhập có mùi rất lạ trên cơ thể.
Sự việc diễn ra chỉ một tuần sau khi xảy
ra vụ giết người tại nhà Romaine. Cảnh sát nhận định hai đối tượng này
rất táo bạo và liều lĩnh.
Cảnh sát hi vọng có thể kết nối thông
tin giữa hai vụ án. Tuy nhiên, khi điều tra, cảnh sát phát hiện đây chỉ
là trò lừa bịp gây sự chú ý của người phụ nữ này. Tất cả thông tin người
này cũng cấp cho cảnh sát đều dựa trên những thông tin từ vụ án tại nhà
Romaine. Cuộc điều tra lại rơi vào bế tắc.
Joseph Kallinger trên đường bị dẫn giải ra tòa |
Sau khi xác minh tờ giấy ghi địa chỉ
tiệm giặt là được tìm thấy trong túi áo sơ mi hung thủ để lại khi bỏ
trốn, cảnh sát biết được chủ nhân chiếc áo là Kalinger. Nhưng cái tên
này không có trong hồ sơ quản lý của cảnh sát Philadelohia và New York.
Thám tử Roseman quyết định điều tra theo
thông tin có được từ nhãn mác của chiếc áo. Roseman mang chiếc áo tới
Philadelphia, sau một thời gian tìm hiểu, anh phát hiện công ty sản xuất
loại áo này chỉ phân phối cho cửa hàng Berg Brothers.
Roseman hi vọng nhân viên bán hàng tại
cửa hàng Berg Brothers có thể giúp ông cung cấp thông tin về một người
đàn ông da ngăm đen, có mùi khó chịu như mô tả của nạn nhân trong danh
sách khách hàng. Tuy nhiên, Roseman đã thất bại, không ai ở cửa hàng nhớ
người đàn ông đó.
Xác định chiếc áo được mua ở đấy,
Roseman nghĩ chủ nhân của nó sống tại đây hoặc vùng lân cận. Anh đã dành
nhiều thời gian để tìm cái tên Kalinger trong cuốn danh bạ điện thoại,
đó là một công việc mất rất nhiều thời gian.
Roseman gọi điện cho cảnh sát trong khu
vực để xác định lại thông tin về Kalinger trong hồ sơ quản lý của họ.
Anh phát hiện ra một điều thú vị rằng, trong hồ sơ có một nghi phạm tên
là Kallinger, không phải Kalinger.
Với cái tên mới này, Roseman đã đến một
cửa hàng giặt theo thông tin ghi trên mảnh giấy và xác nhận được tên đầy
đủ của chủ nhân chiếc áo là Joseph Kallinger.
Ông chủ tiệm giặt nhận ra mùi đặc biệt
từ chiếc áo được mang tới. Đó là mùi hóa chất được sử dụng trong việc
đóng giày. Ông chủ tiệm giặt là nhớ ra người đàn ông đã mang chiếc áo
đến là Joseph Kallinger, sống ở Kensington, phía đông bắc Philadelphia.
Kallinger có một cửa hàng đóng giày dép tại đây.
Cảnh sát hỏi thăm gã thợ giày
Kallinger hiện đang sống cùng vợ và 5
người con trai. Một trong số đó đã chết một cách bí ẩn vào năm 1974. Tuy
không có bằng chứng chứng minh Kallinger liên quan đến việc này nhưng
cảnh sát trong khu vực luôn để ý đến hắn.
Kallinger có hai vợ và bảy người con, hai đứa lớn không sống cùng. Hắn sống với người vợ thứ hai cùng những cậu con nhỏ.
Kallinger từng bị buộc tội liên lạm dụng
trẻ em và có lần phải ra tòa. Sau vụ li hôn với người vợ đầu tiên,
Kaliinger không còn tin vào phụ nữ và luôn tỏ ra đề phòng họ. Hắn được
chuẩn đoán rối loạn thần kinh, mất trí nhớ tạm thời, dấu hiện của bệnh
tâm thần phân liệt.
Kallinger thoát án nhờ kết quả giám định của các bác sĩ và được cảnh sát địa phương giám sát.
Sau cái chết bất ngờ của cậu con trai 12 tuổi, vụ cháy nhà và nhận tiền bảo hiểm, Kallinger đã thực sự bị cảnh sát chú ý.
Roseman và cảnh sát địa phương đã đến
nhà Kallinger. Mọi người xác nhận hắn ta có rất nhiều những đặc điểm
ngoại hình như miêu tả của các nạn nhân. Cậu bé đi cùng hắn trong các vụ
án là một trong hai cậu con trai còn ít tuổi. Cả hai đều gầy với mái
tóc vàng hoe.
Cảnh sát đã có đủ bằng chứng để khởi tố vụ án.
(Còn tiếp)
Hòa Thu
Tội ác của gã thợ giày máu lạnh (Phần 4)
19:00 | 12/11/2015
Theo thông tin từ cảnh
sát Philadelphia, hai cha con nhà Kallinger có thể là hung thủ đã đột
nhập vào một gia đình ở Susquehanna vào ngày 12-3, khống chế, làm bị
thương bốn người phụ nữ có mặt tại nhà, lấy đi 20.000 đôla tiền mặt và
đồ trang sức
9.45 phút tối 17-1, cảnh sát đã bắt giữ Joseph Kallinger và cậu con trai 12 tuổi của hắn ngay tại nhà.
Khi phát hiện cảnh sát đến,
biết không thể trốn chạy, Killinger gọi điện cho luật sư của mình. Hắn
nói với cảnh sát sẽ không cung cấp bất kỳ thông tin gì cho đến khi luật
sư của hắn đến. Điều duy nhất hắn nói đó là hắn vô tội.
Joseph Killinger trong một cuộc trả lời phỏng vấn truyền thông. |
Theo thông tin từ cảnh sát Philadelphia,
hai cha con nhà Killinger có thể là hung thủ đã đột nhập vào một gia
đình ở Susquehanna vào ngày 12-3, khống chế, làm bị thương bốn người phụ
nữ có mặt tại nhà, lấy đi 20.000 đôla tiền mặt và đồ trang sức
Trong suốt phiên tòa xét xử, Kallinger luôn đọc kinh cầu nguyện và không quan tâm đến điều gì đang xảy ra.
Hai cha con nhà Joseph Killinger có thể
bị truy tố vì liên quan đến nhiều vụ trộm cắp và hiếp dâm xảy ra gần
Harrisburg. Con trai Killinger được chuyển đến trại tạm giam cho trẻ vị
thành niên đợi ngày xét xử.
Dấu vân tay của cả hai cha con trùng với những dấu vân tay được tìm thấy tại hiện trường một số vụ án.
Elizabeth, vợ Kallinger không tin vào
những thông tin cảnh sát cung cấp. Bà cho rằng đã quá nhiều bi kịch xảy
đến với gia đình bà: con trai vừa mất một năm trước, em gái cũng mất
không lâu sau đó vì bệnh tật, mẹ đẻ hiện đang phải phẫu thuật, và bây
giờ là chồng và con đối diện với pháp luật.
“Đó là một sự nhầm lẫn tai hại, chồng
tôi không làm những điều này”, Elizabeth khẳng định như vậy. “Tôi không
thể mất thêm người thân nào nữa.”
Cảnh sát đã lục soát nhà Kallinger và
nhà mẹ đẻ của hắn ngay bên cạnh. Họ thu được nhiều đồ có giá trị, trong
đó có cả những đồ trang sức được thông báo mất cắp trong một số vụ trộm
cắp gần đây. Đây chính là bằng chứng buộc tội cha con Kallinger.
Phóng viên tờ The Philadelphia Inquirer
đã phỏng vấn nhiều người hàng xóm của Kallinger. Một điều ngạc nhiên là
tất cả đều khẳng định Kallinger vô tội, không thể là kẻ giết người.
Tại đồn cảnh sát, các nhân viên điều tra
đã thẩm vấn Kallinger. Họ đã có được rất nhiều bằng chứng để buộc tội
hắn, và chắc chắn Kallinger là hung thủ mà họ đang truy lùng. Điều họ
cần làm bây giờ là tìm ra động cơ gây án. Kallinger làm vậy là vì tiền?
Khi Kallinger được đưa tới phòng riêng
để phỏng vắn, hắn bất ngờ nhìn thấy con trai đang bị nhốt ở một khu gần
đó đợi điều tra. Kallinger tức giận quay sang nói với các nhân viên điều
tra, “Nếu con trai tao có vấn đề gì. Tao sẽ giết chúng mày.”
Con trai Kallinger đã bị thẩm vấn một
ngày trước đó, khi các nhân viên điều tra hỏi cậu bé đã làm gì vào những
ngày nghỉ học. Cậu bé đã không trả lời. Điều trùng hợp, những vụ án có
liên quan đến cha con nhà Kallinger đều xảy ra vào những hôm cậu bé nghỉ
học.
Bà Elizabeth đã tìm luật sư Malcolm
Berkowitz để bào chữa cho chồng. Bà cũng khai nhận với cảnh sát tất cả
đồ nữ trang họ tìm thấy là của mình.
Quá trình điều tra kéo dài nhiều tháng,
đủ cho các nhân viên điều tra nhận ra rằng Kallinger là một kẻ hoang
tưởng. Hắn luôn nói rằng Chúa đã tạo ra hắn, giao cho hắn một sứ mệnh
đặc biệt, hắn xuất hiện để giúp mọi người khai sáng bộ não của họ.
Một thời gian sau khi Kallinger bị giam
giữ, bà Elizabeth cũng thừa nhận rằng bà cảm thấy thoải mái hơn, được tự
do hơn thời gian bà ở nhà. Elizabeth không muốn chồng mình trở về nữa.
“Ông ấy đã từng quản lý tôi rất chặt và không muốn thành viên nào trong
gia đình có bạn bè.”
Joseph Kallinger khi ở trong tù |
Tháng 8-1974, Kallinger đã được giám định tâm thần trước khi bị đem ra xét xử.
Tiến sĩ tâm thần John Hume đã kết luận
Kallinger mắc chứng rối loạn nhân cách, khác với chứng rối loạn tâm thần
thường gặp. Kallinger có thể nhận biết đúng sai, và phải chịu trách
nhiệm trước những việc làm của mình.
Ngày 8-9-1975, Kallinger bị đưa ra xét xử. Hắn bị buộc tội liên quan đến nhiều vụ trộm cắp, hiếp dâm, giết người
Có bốn nạn nhân xuất hiện tại phiên tòa
xác nhận Kallinger là kẻ đã tấn công họ. Kết quả xác định dấu vân tay
tại hiện trường khớp với dấu vân tay của Kallinger, đồ trang sức tìm
thấy tại nhà riêng của hắn là đồ trang sức của nạn nhân. Những bằng
chứng này đã đủ để buộc tội hắn.
(Còn tiếp)
Tội ác của gã thợ giày máu lạnh (Phần 5)
07:00 | 13/11/2015
Theo các chuyên gia, vấn
đề tâm lý không ảnh hưởng đến việc gây án của Kallinger. Phản ứng kì
quặc của hắn tại tòa chỉ hòng thoát tội.
Trong suốt phiên tòa, Kallinger không ngừng cầu nguyện. Hắn không quan tâm đến điều gì đang xảy ra, chỉ quay sang trả lời khi luật sư của hắn đặt câu hỏi.
Phía luật sư của Kallinger cho rằng không thể buộc tội một người tâm thần, không thể kiểm soát hành vi của mình như Kallinger.
Tuy nhiên, các công tố viên đã đưa ra được những bằng chứng xác thực chứng minh hắn là một người hoàn toàn bình thường.
Joseph Kallinger có nhiều hành động kỳ quặc khi ở trong tù |
Khi con gái út của Kallinger có vấn đề
về sức khỏe, hắn đã viết thư cho rất nhiều chuyên gia trên khắp đất nước
với hi vọng họ sẽ tìm ra phương pháp cứu con mình.
Kallinger cũng đã chăm sóc tốt gia
đình mình suốt những năm qua, lo tất cả chi phí cho gia đình, duy trì
hoạt động của cửa hàng đóng giày, chăm sóc mẹ già bị bệnh…. Đây là hành
động của một người hoàn toàn bình thường, hiểu biết và nhận thức được
mọi chuyện.
Kallinger có thể nhớ được mọi chuyện
liên quan đến gia đình mình, nhưng lại không nhớ được cách hắn đột nhập
vào các gia đình, trộm cắp đồ và mang cất giữ tại nhà mẹ đẻ. Kallinger
tự nhận hắn làm những điều này khi hắn là con người khác.
Theo các chuyên gia, vấn đề tâm lý không
ảnh hưởng đến việc gây án của Kallinger. Phản ứng kì quặc của hắn tại
tòa chỉ hòng thoát tội.
Phiên tòa xét xử Kallinger được mở công
khai. Rất nhiều bằng chứng được đưa ra trước tòa, đủ để khẳng định
Kallinger là hung thủ gây nên những vụ trộm cắp, hiếp dâm. Phía luật sư
chỉ có thể biện minh cho những hành động phạm pháp của Kallinger là do
hắn không bình thường về tâm lý.
Đoàn bồi thẩm đã mất hơn một giờ đồng hồ
để đưa ra phán quyết liệu là Kallinger có phải chịu tội hay không. Theo
họ, vấn đề tâm lý không ảnh hưởng đến việc gây án của Kallinger, tại
phiên tòa, phản ứng của hắn chủ yếu nhằm thoát tội.
Phía luật sư của Kallinger có 7 ngày để kháng cáo.
Luật sư Malcolm Berkowizt cũng thừa nhận
những bằng chứng buộc tội Kallinger là đúng và đáng tin cậy, Kallinger
phải chịu tội. Tuy nhiên, theo luật sư Berkowizt, cần xem xét hoàn cảnh
gia đình của Kallinger trước khi định tội hắn.
Cái chết của cậu con trai một năm trước,
mẹ hắn qua đời hai tuần sau khi hắn bị bắt, con gái xác định mắc bệnh
hiểm nghèo…tất cả những điều này đã khiến Kallinger bị ảnh hưởng rất
nhiều về tâm lý.
Luật sư Berkowizt đề nghị phía quan tòa “thương xót” Kallinger.
Tranh cãi về trạng thái tâm lý của hung thủ
Đoàn bồi thẩm cho rằng Kallinger là một
người độc ác, không chỉ độc ác trong cách ra tay với những nạn nhân, hắn
còn lôi kéo cậu con trai mới 12 tuổi của mình vào tội ác. Kallinger bị
coi là một kẻ bạo lực và nguy hiểm, bản án dành cho hắn có thể từ 30 đến
80 năm tù giam.
Kallinger đã từ chối nói điều cuối cùng
trước khi nhận bản án. Mọi thủ tục cho việc dẫn độ Kallinger đến New
Jersey xét xử về tội giết người đã được chuẩn bị.
Trong thời gian chờ bị dẫn độ, Kallinger
đã có những hành động kì quặc hơn nữa như muốn chứng minh hắn thực sự
có vấn đề về tâm lý. Tuy nhiên, những việc làm của hắn được giám sát
hằng ngày bởi các bác sĩ tâm thần, họ kết luận Kallinger đã cố làm vậy.
Paul Giblin sẽ là luật sư của Kallinger
tại phiên tòa ở New Jersey. Ginlin đã mời Tiến sĩ Irwin Perrs từ trường
đại học Y Rutgers đến để xác định lại tình trạng tâm lý của Kallinger.
Sau hơn 14 tiếng nói chuyện với Kalllinger, Tiến sĩ Irwin Perrs kết luận Kallinger bị tâm thần phân liệt.
Tuy nhiên, Perrs cũng thừa nhận một số
hành vi của Kallinger thể hiện không phải là kết quả của chứng rối loạn
tâm thần, “nhiều hành vi như trò chơi”.
Theo Perrs, Kallinger tỏ ra thích thú khi những người trò chuyện với hắn lúng túng.
Trong khi đợi phiên tòa xét xử về tội
giết người, Kallinger đã gửi thư cho Giáo sư Flora Chreiber, hiện đang
là giảng viên tiếng Anh, đồng thời là người phát ngôn của sở tư pháp
Manhattan.
Mặc dù Flora là giáo viên tiếng Anh, và
không có kỹ năng trong việc phân tích, đánh giá những vấn đề liên quan
đến chứng rối loạn tâm thần, nhưng bà đã có một cuốn sách nhắc nhiều đến
vấn đề này.
Mục đích của Kallinger và luật sư Giblin là “nhờ” Flora tuyên truyền thông tin bệnh tình của hắn cho truyền thông.
Kallinger được đưa ra xét xử tại
Hackensack, New Jersey ngày 13-9-1976 cho tội danh giết Maria Fasching,
và tham gia môt số vụ trộm cắp, hành hung…
Phải mất 9 ngày để lựa chọn đoàn bồi thẩm trước khi phiên tòa bắt đầu. Kallinger vẫn một mực không nhận tội.
Ngày 13-10, sau hơn hai giờ bàn bạc căng
thẳng, đoàn bồi thẩm đã tuyên Kallinger có tội. Ngày hôm sau, tòa tuyên
án chung thân không khả năng phóng thích đối với hắn.
Một số thông tin cho biết năm 1977,
Kallinger đã đốt phòng giam của mình, sau đó được chuyển đến bệnh viện
tâm thần ở Trenton và được theo dõi 3 tuần tại đây.
Kallinger bị chuyển đến bệnh viện hình
sự ở Waymart, Pennsylvania. Tại đây, hắn đã cố gắng phóng hỏa đốt phòng
giam của mình nhiều lần.
Trong suốt những năm chịu án tại các nhà
tù, Kallinger đã làm thơ và sữa chữa những đôi giày của nhân viên nhà
tù. Năm 1986, Kallinger chết do một cơn động kinh.
Hòa Thu
Nhận xét
Đăng nhận xét