BÍ ẨN LỊCH SỬ 64
(ĐC sưu tầm trên NET)
Tuy nhiên, nhà điều tra tự nguyện và người sáng lập hãng công nghệ quốc phòng Unicorn Aerospace, ông Andrey Milne, tin rằng mình đã phát hiện dấu hiệu của một hành khách khác.
Trong phần cuối của một báo cáo chính thức về vụ MH370 - một bản liệt kê hàng hoá trên máy bay – thông tin ghi rằng có 228 hành khách lên máy bay.
"Từng có những bản tuyên bố nói rằng 4 người đã không lên máy bay. Điều đó có nghĩa là số ghế cuối cùng được sử dụng chỉ là 224.
"Thêm 2 đứa trẻ và bạn có 226 hành khách. Bây giờ thêm 12 thành viên phi hành đoàn. Bạn chỉ có 238 người mất tích, không phải là 239 như con số được công bố chính thức.
"Vì vậy, chúng tôi đang nghĩ rằng có một “người” nào đó khác trên chuyến bay MH370."
Ông Milne khẳng định người “bí ẩn” có thể là không tặc và gây ra vụ biến mất chưa có lời giải.
Ông nói thêm: "Hành khách này có thể hành động cùng với sự hỗ trợ lớn từ bên ngoài để chiếm quyền chỉ huy và kiểm soát buồng lái của MH370."
"Báo cáo đó được gửi đi khoảng 2 giờ trước khi máy bay cất cánh. Con số thực tế có thể khác với con số được in trên báo cáo vì những thay đổi vào phút chót”.
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra về vụ mất tích MH370.
Các chuyên gia tin vào siêu nhiên cho rằng người ngoài hành tinh có thể đã cho nổ tung máy bay. Nhiều người thì nói MH370 đã hạ cánh xuống một căn cứ của CIA gần đó.
Một số người thậm chí còn tuyên bố sự cố từng được tiên đoán bởi ca sĩ hát rap Pitbull trong lời bài hát “Get it started” năm 2012 của anh.
>>> Bấm xem thêm: Cơ trưởng MH370 đâm xuống biển để cứu hàng ngàn người?
Theo Trà My - Express (Dân Việt)
Hình ảnh mang tính chất minh họa.
Đường phố Strasbourg - nơi "điệu nhảy tử thần" tàn phá thành phố này.
Nhắc tới cụm từ đại dịch, hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới những căn bệnh đáng sợ cướp đi sinh mạng của rất nhiều người trong lịch sử. Đó là "Cái chết đen" thời Trung Cổ, là HIV/AIDS cuối thế kỷ XX và mới đây nhất là Ebola ở châu Phi.
Tuy nhiên, có những dịch bệnh không chỉ đáng sợ mà còn vô cùng bí ẩn đến mức cho tới nay, con người vẫn chưa thể lý giải được nguyên nhân. Đó chính là "đám đông điên loạn" hay "phát điên tập thể".
Đây là một thuật ngữ mô tả tình huống trong đó các triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý xuất hiện hàng loạt và lây lan nhanh chóng trên khắp các cộng đồng, các làng xóm, thị trấn, và thậm chí còn lan qua nhiều quốc gia.
Trong mỗi đợt bùng phát, một cá nhân có thể có triệu chứng nói cười mất kiểm soát, chóng mặt, cơ bắp rã rời, ngất xỉu hoặc những triệu chứng khác mà không phải do bất kỳ tác động cơ học nào. Nhiều trường hợp điên loạn đã được ghi chép lại từ nhiều thế kỷ qua trên khắp thế giới.
Tới thời trung cổ, người ta thay thế lý thuyết này và đổ lỗi cho phù thủy, ma quỷ chiếm xác, hoặc do bệnh điên thực sự. Trong khi các triệu chứng đám đông điên loạn tiếp tục khiến cộng đồng y học bối rối, ngày nay người ta thường cho rằng hiện tượng đó có liên quan tới khả năng căng thẳng về cảm xúc và thần kinh.
Nhảy múa điên loạn thời Trung Cổ (thế kỷ XIII - XVII)
Mùa hè tháng 7/1518, người phụ nữ có tên Frau Troffea bước vào một con hẻm nhỏ ở Strasbourg (Pháp). Trước sự chứng kiến của đám đông, cô bắt đầu nhảy múa "dữ dội".
Tranh khắc của Hendrik Hondius mô tả ba người phụ nữ mắc “chứng khiêu vũ” –
(Dancing Plague), dựa vào bức tranh của Peter Brueghel, người được cho là nhân
chứng đã chứng kiến căn bệnh bùng phát ở Flanders vào 1564.
Không hề có tiếng nhạc, cũng không lấy một cảm xúc trên khuôn mặt nhưng cô ấy cứ vô tư nhảy như thể có cả dàn nhạc vây quanh. Đặc biệt hơn, Troffea nhảy liên tục cả ngày lẫn đêm mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Cho tới ngày thứ sáu, điệu nhảy đã dừng lại khi cô gái kiệt sức mà chết.
Ban đầu, mọi người nghĩ rằng cô có vấn đề về thần kinh hay do bị quỷ ám nên mới có những hành động bất thường như vậy. Nhưng sau khi Troffea nhảy múa, một người khác bắt đầu nhảy theo, rồi thêm một người nữa. Một tuần sau, người ta đếm được 34 người đã bắt chước hành động giống hệt như Troffea tại khắp các con đường của thành phố.
Chứng nhảy múa điên loạn nhanh chóng lan rộng khắp nơi.
Sự việc càng ngày càng trở nên kì lạ khi chỉ sau một thời gian ngắn, khoảng 400 người dân ở Strasbourg tham gia vào điệu nhảy này. Và giống như những trường hợp trước, họ nhảy múa điên cuồng cho tới chết. Theo các ghi chép của cơ quan y tế thời đó, các nạn nhân tử vong do đau tim và kiệt sức.
Những cư dân thời đó cho rằng, họ hoàn toàn có thể chữa được căn bệnh lạ có tên gọi "dịch bệnh nhảy múa" trên bằng cách lấy độc trị độc. Vì vậy, họ dựng các sân khấu bằng gỗ và mời nhạc công đến để giúp các nạn nhân nhảy múa.
Kết quả là, họ không những không dập tắt được "dịch bệnh", mà ngược lại còn khiến hàng chục người nhảy múa không ngừng và tạm biệt cuộc sống vì nhồi máu cơ tim.
Chứng Bệnh Nhảy này xảy ra ở Châu Âu nhiều lần vào thời Trung Cổ, bùng phát ở Ý, Luxembourg, Pháp, Đức, Hà Lan, và Thụy Sĩ. Đầu tiên bệnh được cho là do lời nguyền từ một vị thánh có tên là John The Baptist, hoặc là thánh Vitus.
Rất nhiều người chết vì bệnh này.
Cái tên này sau cũng được dùng để gọi cho tình trạng này. Những người mắc chứng này phải đi tới những nơi thờ phượng những vị thánh nói trên để cầu xin được giải thoát khỏi các phiền não. Và có vẻ như phương cách này đã có hiệu quả giúp nhiều người thời đó phục hồi lại một cơ thể khỏe mạnh.
GS John Waller Đại học bang Michigan cho rằng căn bệnh rối loạn tâm lý quần chúng này bắt nguồn tự sự mê tín dị đoan. Nạn nhân của chúng phần lớn đều là những người đang chết đói, họ chẳng còn gì, không biết nương tựa vào đâu ngoài tín ngưỡng, sự sợ hãi tràn ngập trong tâm trí họ. Vì vậy, có thể họ đã nhảy múa với mong muốn được Đấng Tối cao giúp đỡ cho tới khi qua đời.
Nữ tu Pháp kêu như mèo (Thế kỷ XIX)
Trong quyển sách viết năm 1844 “Dịch bệnh thời kỳ Trung Cổ” của J.F.C. Hecker, có kể về một trường hợp các nữ tu kêu như mèo ở một tu viện ở Pháp.
Trước năm 1900 cũng có nhiều báo cáo về sự phát cuồng tập thể diễn ra bên trong các cơ sở tôn giáo. Đặc biệt, các nữ tu viện châu Âu thường là nơi bùng phát hiện tượng này. Trong một vụ, các triệu chứng bệnh được thể hiện bằng một hành động tập thể kỳ quặc. Một nguồn tin từ năm 1844 đưa tin rằng “một nữ tu sĩ, tại một nữ tu viện rất lớn ở Pháp, bắt đầu kêu meo meo như mèo; không lâu sau đó, các nữ tu sĩ khác cũng kêu meo meo không ngừng”.
Ít nhất, tất cả các nữ tu sĩ cũng cùng nhau kêu meo meo mỗi ngày, vào một thời điểm nhất định trong nhiều giờ liền. Việc kêu như mèo tiếp diễn cho tới khi những người hàng xóm lên tiếng phàn nàn và các binh sĩ được triệu đến, đe dọa đánh roi các nữ tu sĩ cho tới khi họ ngừng kêu tiếng mèo.
Trong thời kỳ này, niềm tin vào sự chiếm hữu (ví dụ như bị động vật hay quỷ ám) rất phổ biến và mèo đặc biệt bị nghi kỵ là có liên quan đến quỷ Satan. Các vụ bùng phát gây tiếng kêu hoặc cử chỉ như động vật thường kéo dài một vài ngày tới vài tháng, mặc dù một số trường hợp tiếp diễn tới hàng năm.
Bệnh cười ở Tanganyika (1962)
Chứng bệnh cười ở Tanganyika bắt đầu vào ngày 30/1/1962, tại một trường nữ sinh do các nữ tu quản lý ở Kashasha, Tanzania.
Chứng bệnh cười bắt đầu từ ba nữ sinh nhưng nhanh chóng lây lan ra toàn trường, kéo dài nhiều giờ, thậm chí hàng tuần, dẫn tới việc trường phải đóng cửa vào ngày 18/4/1962.
Nhưng không dừng ở đó, sau khi trường bị đóng cửa, chứng loạn thần kinh lây lan ra các ngôi làng gần đó. Hàng ngàn trẻ em bị ảnh hưởng, và 14 trường học buộc phải đóng cửa. Chứng loạn thần kinh cuối cùng cũng kết thúc 18 tháng sau đó.
Phiên tòa phù thủy Salem (1692 – 1693)
Một trong những trường hợp ghê rợn nhất của chứng loạn thần xảy ra ở Salem (Massachusett, Hoa Kỳ) năm 1692. Hàng chục nữ sinh có triệu chứng la hét và nhăn nhó, làm dấy lên những cáo buộc phù thủy ở địa phương.
Kết quả là hàng loạt phiên tòa hành hình những người bị cáo buộc có dính dáng tới ma thuật phù thủy, gọi là "Những phiên tòa phù thủy" ở Salem. Có 25 người đã bị chết ở Salem và các thị trấn lân cận.
Các phiên tòa phù thủy ở Salem, vốn rất có ảnh hưởng trong lịch sử Hoa kỳ, đã được dùng trong chính trị và văn chương để nhấn mạnh về sự nguy hiểm của chủ nghĩa cô lập, cực đoan tôn giáovà kẽ hở của tư pháp.
Theo Khỏe & Đẹp
Hình minh họa.
Ngày 19/5/1997, Bộ cảm biến âm thanh dưới nước ở vùng Xích đạo Thái Bình Dương của Cục quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ (NOAA) phát hiện một âm thanh kỳ lạ. Các nhà khoa học gọi nó là "Slow Down" (giảm dần) vì tần số âm thanh giảm dần theo chu kỳ 7 phút. Đến nay, con người vẫn chưa xác định được nguồn phát của Slow Down. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là âm thanh băng ở Bắc cực di chuyển từ từ. Tuy nhiên, họ không có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận về Slow Down.
EVP - âm thanh của linh hồn
EVP là hiện tượng giọng nói điện tử, ghi âm giọng nói của thế giới tinh thần. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng kỳ bí cho rằng họ đã phát hiện những cuộc trò chuyện kỳ lạ khi tua đi tua lại nhiều lần các cuộn băng ghi âm, máy ghi kỹ thuật số hoặc video.
EVP có thể là một từ, cụm từ, câu hoặc cả đoạn hội thoại. Một số người tin đây là tiếng nói của các linh hồn. Nhưng một số khác cho rằng đây chỉ là hiện tượng nhiễu âm thanh do tự nhiên. Giả thuyết apophenia (ảo quan) cho rằng EVP xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Còn theo giả thuyết pareidolia (ảo giác bổ sung), EVP sinh ra từ việc não người cố biến những âm thanh vô nghĩa thành có nghĩa.
Quacker - tiếng vịt kêu
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các thiết bị công nghệ cao thu nhận
tín hiệu từ lòng đại dương của Liên Xô đặt tại Bắc cực và Đại Tây Dương
đã ghi lại một tiếng động lạ tương tự âm thanh một con ếch bị ngập nước.
Họ gọi nó là "Quacker" (tiếng vịt kêu). Nhiều người cho rằng đây là âm
thanh của một loại tàu ngầm. Quacker tự động tránh các tàu ngầm và sóng
siêu âm. Tốc độ của nó lên đến 200 km/h, lớn hơn nhiều so với tốc độ tàu
ngầm. Giả thuyết trên bị phủ nhận. Đến những năm 1980, Quacker dần ít
xuất hiện. Các nhà khoa học đặt ra nhiều giả thuyết khác như đây là âm
thanh của loài sinh vật biển kỳ lạ, của người ngoài hành tinh hay tiếng
động từ các công nghệ quân sự bí mật. Tuy nhiên, không ai đưa ra lời
giải thích hợp lý cho Quacker.
Âm thanh của hành tinh
Các hành tinh không thể tạo ra âm thanh, hay ít nhất, âm thanh không thể truyền qua các hành tinh vì giữa chúng là môi trường chân không. Tuy nhiên, sóng radio lại có thể truyền đi trong vũ trụ. Trong quá trình các tàu vũ trụ phát sóng radio gửi thông tin về trái đất, một số âm thanh lạ lẫn vào trong đó.
Nhiều người cho rằng các hành tinh và mặt trăng đã phát ra âm thanh tương tự như tiếng huýt sáo hoặc tiếng hú. Các thiết bị thu âm trên tàu vũ trụ ghi lại chúng, chuyển thành sóng âm khiến con người có thể nghe được. Dù vậy, những âm thanh này vẫn là điều bí ẩn.
Tiếng hú bí ẩn
Một video đăng tải trên Youtube ghi lại những tiếng hú kỳ lạ đã thu
hút hơn nửa triệu lượt xem. Nhiều người cho rằng âm thanh đó phát ra từ
sâu bên trong một khu rừng gần thị trấn nhỏ Conklin, tỉnh Alberta,
Canada.
Âm thanh tương tự cũng xuất hiện ở thị trấn Pass, tỉnh Manitoba. Những âm thanh này gây ra nhiều cuộc tranh cãi với hàng loạt các ý kiến khác nhau. Nhiều người nghĩ đây là tiếng nhạc, số khác lại tin đây là tiếng hú từ ngoài trái đất, thậm chí, có ý kiến cho rằng nó là âm thanh của địa ngục. Người dân ở thành phố Glasgow (Scotland), Chicago (Mỹ) và Đan Mạch cũng ghi lại được những tiếng hú tương tự. Tuy nhiên, khoa học vẫn chưa xác định được nguồn gốc của chúng.
Mistpouffer
Mistpouffer là tên gọi chung cho những âm thanh kỳ lạ và ngẫu nhiên phát ra từ những vùng nước lớn như Great Lakes (Hồ Lớn) ở Bắc Mỹ, sông Hoàng Hà ở Ấn Độ. Một số người cho biết chúng nghe như tiếng sấm. Tuy nhiên, Mistpouffer lại phát tại thời điểm không có bão.
Mistpouffer có thể tạo ra sóng xung kích mà con người đứng cách xa nhiều dặm vẫn cảm nhận được. Các nhà khoa học đã đưa ra hàng loạt giả thuyết về nguồn gốc của Mistpouffer như do khí nén, hang động dưới nước sụp đổ, các thiên thạch rơi xuống hay do áp suất không khí tăng nhanh. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra lý giải thích hợp.
Âm thanh bí ẩn ở Trung tâm Thương mại Một Thế giới
Một âm thanh bí ẩn đã khiến cư dân ở khu vực gần Trung tâm Thương mại
Một Thế giới sững sờ. Nó giống như một tiếng vo ve buồn bã hay tiếng
khóc yếu ớt. Những người đi bộ có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ các
tòa nhà trong khu vực. Khi âm thanh được phát hiện lần đầu tiên trong
cơn bão Sandy, năm 2012, người ta cho rằng đây là tiếng máy hút gió ở
các tòa nhà đang xây dở. Tuy nhiên, sau cơn bão và cả khi các tòa nhà đã
xây xong, họ vẫn nghe thấy các âm thanh bí ẩn. Thậm chí nhiều người tin
đây là tiếng nói của linh hồn người chết.
Bloop
Hình minh họa.
Trong đó, Francis J. Tumblety
là một lang băm người Mỹ. Kẻ này đã bị bắt vào tháng 11/1888 vì tội
quấy rối tình dục. Về sau, hắn đã chuồn khỏi nước Anh sau khi được bảo
lãnh tại ngoại.
Vi phim về các đốm sáng Lubbock kỳ dị. (Ảnh: USAF)
Một trong các vị giáo sư mô tả, các vật thể "dường như có kích cỡ tương đương một chiếc đĩa thức ăn và phát tỏa ánh sáng huỳnh quang yếu ớt màu xanh dương pha xanh lục". Người này nói, các UFO trông nhỏ hơn mặt trăng tròn ở đường chân trời và chắc chắn có hình tròn.
USAF kết luận, nhiều khả năng nhất các đốm sáng này do một loài chim có tên gọi là chim choi choi gây ra, vì phần ngực màu trắng của có thể phản xạ ánh sáng từ các thành phố phía dưới. Tuy nhiên, đây vẫn hoàn toàn là một phỏng đoán.
Nghi án UFO ở Oklahoma cho tới nay vẫn chưa có lời giải đáp. (Ảnh: Wikipedia)
Cảnh tượng UFO tương tự cũng xảy ra ở Tulsa, bang Oklahoma, chỉ một tháng sau đó vào ngày 12/7/1947.
"Chúng bay theo một hình chéo, trải dài khoảng 8km từ đầu tới cuối và giật lắc thất thường. Ông Arnold ước tính chúng di chuyển với vận tốc hơn 1.609km/h khi bay từ núi Rainier tới núi Adams. Ông ấy mô tả các vật thể lạ giống như một chiếc đĩa lúc bạn ném chúng qua mặt nước. Thuật ngữ đĩa bay vì thế bắt nguồn từ mô tả chuyển động của vật thể lạ, thay vì hình dạng của chúng.
Đã có rất nhiều cách lý giải cho vụ việc, từ ảo ảnh, máy bay bí mật tới sự di trú của bồ nông, nhưng chúng đều không thuyết phục. Đây vẫn là một bí ẩn hóc búa", ông Watson viết.
Thông tin rò rỉ qua đường điện tín bị giới báo chí chộp đường, và thế là
mùa hè năm đó, không chỉ riêng Roswell mà ngay cả nước Mỹ nóng hừng hực
bởi những câu chuyện kể đụng độ đĩa bay. Rùm beng nhất trong số đó là “lần chạm trán” ở trại nuôi gia súc Foster ngoại ô Corona, New Mexico.
Profile: Vật Thể Bay Không Xác Định:
UFO là chữ viết tắt của cụm từ " Unidentified Flying Object" tức " Vật Thể Bay Không Xác Định", đây là một cụm từ tiếng Anh dùng để chỉ những vật thể bay hoặc hiện tượng thị giác bay lơ lửng trên trời mà không thể xác định được đó là gì, thậm chí sau khi được qua nhiều quá trình nghiên cứu kỹ càng.
Trong nhiều trường hợp, UFO mang đặc tính lạ như có thể lơ lửng trong không trung mà không phát ra âm thanh ( Điều này nền văn minh của Trái Đất vẫn chưa đạt đến được), có gia tốc cực lớn mà không có thiết bị máy móc nào ở Trái Đất hiện nay có thể đạt đến được,... Vì thế, nhiều người cho rằng UFO đến từ một nền văn minh ngoài Trái Đất với công nghệ tiên tiến hơn công nghệ chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên vẫn chưa có chứng cứ nào trong lĩnh vực Khoa Học Tự Nhiên có thể chứng minh rằng tàu vũ trụ có thể tồn tại như vậy, dù đã qua nhiều chứng cứ dấu vết được tranh cãi trong cộng đồng.
Nhiều nhà nghiên cứu UFO cho rằng chính phủ đang che dấu những chứng cứ tồn tại nhằm tránh sự sợ hãi lan rộng và sự chia rẽ nếu để lộ những thông tin như vậy.
[Lịch sử]
Từ những sự kiện bắt nguồn từ xa xưa....
Trong lịch sử, có rất nhiều vụ mục kích sở thị UFO ở trên bầu trời lẫn mặt đất được ghi lại:
+ Cuốn kinh Cựu Ước Ezekiel đã mô tả hình ảnh tựa như sự lên xưống của một vật thể trên bầu trời với khói và các bánh xe lồng vào nhau.
+ Trong suốt thời kỳ ngự trị của Pharaoh Thutmose III khoảng những năm 1450 trước công nguyên, đã lời mô tả về nhiều "vòng tròn lửa" sáng hơn cả mặt trời, kích thước chừng 5 mét xuất hiện trong nhiều ngày . Cuối cùng chúng biến mất sau khi bay cao lên trời.
+ Nhà thơ La Mã Julius Obsequens đã viết như thế này vào năm 99 trước công nguyên: "ở Tarquinia lúc chạng vạng tối, một vật thể tròn giống một khối cầu, một cái khiên tròn, bay lên bầu trời từ hướng tây sang hướng đông".
+ Quân đội của Alexander Đại đế năm 329 TCN khi băng qua một con sông để tới Ấn Độ đã từng nhìn thấy "hai cái khiên bằng bạc" trên bầu trời. Năm 322 trước công nguyên, khi Alexander đang vây hãm Týros ở Phoenicia, một "cái khiên bằng bạc" khác lại chuyển động theo dạng tam giác nhỏ hơn "những cái khiên" đã xuất hiện nhưng khả năng câu chuyện này đã được thần hóa là rất cao.
+ Trong những ghi chép La Mã cổ thỉnh thoảng cũng đề cập đến "những cái khiên" hay thậm chí "những tên lính" được nhìn thấy trên bầu trời.
+ Ngày 24 tháng 11 năm 1235, đại tướng Yoritsume và quân lính nhìn thấy những quả cầu sáng bay theo đội hình bất thường trên bầu trời ban đêm gần Kyoto, Nhật Bản. Quân sư của ông nói rằng ông đừng bận tâm - đó chỉ đơn thuần là gió thổi làm các ngôi sao đung đưa mà thôi.
+ Một bản báo cáo riêng đã được dâng lên Nhật hoàng, và những sự xuất hiện khác cũng xảy ra tương tự ở Nhật Bản vào năm 1361.
+ Ngày 14 tháng 4 năm 1561, bầu trời vùng Nürnberg bị che phủ bởi nhiều vật thể hình khối trụ và cầu, hệt như một trận chiến trên không trung. Sự kiện này đã được hàng trăm người làm chứng, nó cũng giống như sự kiện ở Basel năm 1566, khi mà vô số quả cầu đen, cháy sáng rực xuất hiện
Những hiện tượng đó đều được gán cho là điềm báo tương lai, về mặt tôn giáo tâm linh, những hiện tượng ấy được gán với những vị thần hay sự hiển linh của thánh... Theo một số nhà nghiên cứu, chúng gần như tương đồng với những báo cáo về UFO hiện nay.
.... cho đến những báo cáo đầu tiên ở thời hiện đại....
Trước khi thuật ngữ " Đĩa bay" hay " UFO" ra đời, đã có nhiều vụ chứng kiến về hiện tượng kỳ lạ trên không trung xuyên suốt thế kỷ 19 và 20:
+ Tháng 7 năm 1868 được coi là báo cáo lần đầu tiên trong thời hiện đại về UFO, ghi nhận ở thành phố Copipapo, Chile.
+ Ngày 25 tháng 1 năm 1878, nhật báo Denison đăng tin một nông dân địa phương là John Martin đã nhìn thấy một vật thể rất lớn, tối, hình tròn giống như một cái khí cầu bay với tốc độ "kinh khủng".
+ Ngày 17 tháng 11 năm 1882, nhà thiên văn E.W.Maunder của đài thiên văn Greenwich mô tả trên báo cáo quan sát "một vị khách từ bầu trời" với "dạng đĩa", "hình cá đuối". Nó có nhiều đặc điểm khác so với một quả sét hòn. Nhiều năm sau, Maunder viết rằng nó trong y hệt khí cầu Zeppelin. Vật thể lạ đó cũng được nhiều nhà thiên văn châu Âu quan sát thấy.
+ Năm 1896–1897, những con tàu bay bí ẩn được ghi nhận ở Mỹ, mặc dù một vài trong số các báo cáo này ngày nay đã biết là do những trò đùa cố ý. Bí ẩn đĩa bay cũng xuất hiện ở Anh trong suốt Thế chiến thứ nhất. Nó được cho là những khí cầu do thám của Đức trước khi tham chiến trên bộ. Nỗi sợ hãi tương tự cũng có ở New Zealand và Úc năm 1909.
+ Có rất nhiều báo cáo về những con tàu biết bay bí ẩn ở các nước vùng Scandinavia vào những năm 1930. Ở châu Âu, suốt Thế chiến thứ hai, "Foo-fighter" (những quả bóng sáng chói trong đêm tối đuổi theo máy bay) được phi công của cả phe Đồng Minh và phe Trục báo cáo. Năm 1946, có một "làn sóng" xôn xao về những chứng kiến "những quả rocket ma" xuất hiện trên bầu trời vùng Scandinavia.
+ Giai đoạn UFO hiện đại bắt đầu với sự kiện thương gia người Mỹ Kenneth Arnold khẳng định rằng mình đã tận mắt trông thấy UFO gần đỉnh Rainier, tiểu bang Washington. Arnold nói rằng ông ta đã nhìn thấy chín vật thể bay với "tốc độ không thể tin nổi" và ở độ cao ít nhất cũng phải 10.000 ft (3.000 m). Tuy nhiên, những UFO mà Arnold miêu tả chưa hoàn toàn đúng là dạng đĩa, ông ta miêu tả sự chuyển động của nó tương tự như cái đĩa nhảy vụt lên khỏi mặt nước, đó là nguồn gốc của thuật ngữ đĩa bay.
Một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu UFO đó là sự ra đời của quyển sách " Chariots of the Gods " vào năm 1970 của tác giả " Erich von Däniken ". Quyển sách đã nói rằng " Những sinh vật ngoài hành tinh và UFO đã từng viếng thăm Trái Đất rất nhiều năm trước đây" và đưa ra dẫn chứng từ thời Ai Cập cổ đại đã có nhiều hình ảnh " giống UFO" được lấy từ nhiều tư liệu khảo cổ " bí ẩn đến mức không thể giải thích nổi" ( chẳng hạn như quá trình xây và dựng nên những Kim Tự Tháp Ai Cập với những con số Toán học cực kỳ chính xác ).
Giả thuyết " Những Nhà Du Hành Vũ Trụ Cổ Xưa" đã tạo cảm hứng cho nhiều người đọc, mở ra cho họ những suy diễn tiếp theo, trong đó có một quyển sách với tựa đề " Kinh Thánh và Đĩa Bay" ( The Bible and Flying Saucers) của Barry Dowing đã làm sáng tỏ được nhiều hiện tượng kỳ lạ trên không trung được ghi lại trong Kinh Thánh mà thực tế có thể đây là những dấu vết đã từng tiếp xúc với người ngoài hành tinh. Cũng có nhiều giả thuyết cho rằng người ngoài hành tinh là chất xúc tác để tạo nên quá trình tiến hoá của con người ( nôm na là abcxyz với người cổ đại ấy).
Từ Nguyên:
Ngày 25 tháng 1 năm 1978, nhật báo Deninson viết rằng John Martin, một nông dân địa phương, ngày hôm trước đã báo cáo về sự kiện mình nhìn thấy một vật thể to, đen, dạng đĩa bay giống với cái khí cầu đang bay "với vận tốc kinh khủng", và cũng sử dụng từ "cái đĩa" để miêu tả vật thể bay không xác định. Khoảng 70 năm sau đó, năm 1947, phương tiện truyền thông sử dụng thuật ngữ "đĩa bay" để miêu tả những vật thể bay không xác định như Kenneth Arnold đã thấy.
Chín vật thể mà Kenneth Arnold đã nói tới chưa hẳn là có hình dạng "đĩa bay". Arnold lúc đầu miêu tả và vẽ hình tám vật thể mỏng, phẳng, phía đầu thuôn tròn còn phía sau vát cụt trở thành một điểm.
Hình vẽ vật thể thứ chín, có phần to hơn, dạng boomerang hoặc hình lưỡi liềm. Dù sao đi nữa, nhiều năm sau, Arnold đã đề nghị sửa cụm từ "giống một cái đĩa" thành "đĩa bay".
( Trong tiếng Anh, một thuật ngữ khác được dùng để mô tả đĩa bay là Flying Disks , nó cũng đồng nghĩa với Flying Saucers )
"Đĩa bay" là thuật ngữ thông dụng dùng cho hầu hết mọi vật thể bay không xác định trên không trung suốt từ cuối thập niên 1940 đến thập niên 1960, thậm chí ngay cả khi chúng không thật sự có dạng đĩa. Thuật ngữ này càng trở nên phổ biến hơn vào cuối thập niên 1960. Việc sử dụng "UFO" thay cho "đĩa bay" được đề nghị lần đầu tiên năm 1952 bởi Edward J.Ruppelt - chủ biên Project Blue Book của không quân Hoa Kỳ, ông ta cảm thấy "đĩa bay" không đủ khả năng nắm bắt mọi khác biệt trong các hiện tượng đang nói tới. Đề nghị của ông ta nhanh chóng được lực lượng không quân chấp nhận.
Thuật ngữ UFO đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về ngữ nghĩa. Những người hoài nghi cho rằng "UFO" chỉ đơn giản nghĩa là vật thể "không xác định" khi quan sát chứ không phải là không thể giải thích được, như vậy thì ít liên quan đến sự sống ngoài Trái Đất. Ngược lại, có nhà nghiên cứu lại cho rằng thuật ngữ trên hoàn toàn đã giới hạn trong những gì nhìn thấy, mở ra đòi hỏi phải nghiên cứu tiếp, đặt ra thách thức cho những lời giải thích thông thường.
Trong qui chế của không quân Mỹ năm 1954, có định nghĩa về UFOB (Undentified Flying Obbject) là các vật được chuyên chở bằng máy bay trong những nhiệm vụ, có tính khí động học hoặc có những điểm đặc biệt, không chuyên dụng cho máy bay, tên lửa hiện hành, không được nhận diện chính xác như các loại thông thường, hơn nữa UFOB dành riêng cho mục đích bí mật quốc gia và chắc chắn "mang tính chất chuyên môn". Rõ ràng UFBO không thể áp dụng để giải thích những sự kiện nhìn thấy UFO, chẳng hạn hiện tượng ảo giác tự nhiên hay vật thể nhân tạo, ngoại trừ, có lẽ máy bay chưa từng được biết đến có nguồn gốc từ nước khác.
Như vậy, chữ "U" trong UFO, thay vì "không xác định (unidentified) thì thích hợp hơn phải là chưa thể giải thích được (unexplained) hay bất thường (unconventional).
Trong tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp, thuật ngữ tương ứng với UFO là OVNI (tiếng Tây Ban Nha: Objeto Volador No Identificado; tiếng Bồ Đào Nha:Objeto Voador Não Identificado; tiếng Pháp: Objet Volant Non Identifié).
Về phát âm:
Ruppelt đề nghị rằng "UFO" nên được phát âm thành một từ – "you-foe". Điều này chỉ phổ biến ở Anh, còn ở Mỹ, người ta thích đọc theo cách viết tắt hơn, rõ từng chữ một: "U.F.O.". Nhà vật lý Eward Condon đề nghị nên phát âm là "ooh-foe", song điều này hầu như bị bác bỏ.
UFO và Văn Hoá:
Không cần đợi đến những lời giải thích cuối cùng, UFO đã trở thành một hiện tượng văn hóa toàn thế giới. Kể từ giữa những năm thập niên 1900, UFO đã là một chủ đề rộng rãi của nhiều cuốn sách, điện ảnh, bài hát, phim tài liệu và các phương tiện truyền thông khác. Chủ đề UFO là chủ đề phổ biến sớm nhất trên phương tiện truyền thông máy tính. Hàng triệu người có những mức độ ưa thích khác nhau về chủ đề này.
UFO đóng một phần vai trò trong du lịch, chẳng hạn ở Roswell, New Mexico, nơi một UFO có thể bị rơi vào năm 1947. ( Bài này đã được đăng rất nhiều lần trong page, các bạn có thể tìm lại và đọc)
Một báo cáo thống kê năm 1996 chỉ ra rằng 71% người Mỹ tin rằng chính phủ đang che giấu thông tin về UFO. Một kết quả báo cáo khác năm 2001 nói rằng 33% số người được hỏi tin rằng "người ngoài Trái Đất đã từng viếng thăm Trái Đất một vài lần trong quá khứ". Hai kết quả khảo sát dường như đã làm lộn xộn và mâu thuẫn khi xem xét rằng chỉ có giả thuyết sự sống ngoài Trái Đất mới là lời giải thích cho UFO.
Năm 2002, khảo sát do kênh truyền hình Sci Fi thực hiện cho kết quả tương tự nhưng tăng thêm số người tin UFO là khí cụ bay ngoài Trái Đất. Lại có khoảng 70% cảm thấy chính phủ không chia sẻ mọi thông tin mà họ biết về UFO và sự sống ngoài Trái Đất. 56% nghĩ UFO là thật và 48% tin UFO đã từng viếng thăm Trái Đất. Dường như người càng trẻ lại càng có niềm tin đó.
UFO trong Khoa Học:
UFO học là ngành khoa học khảo sát, nghiên cứu các báo cáo, nhân chứng về UFO.
Trong khi đa số mọi người đều muốn lờ đi về vấn đề này thì một số khác, trong đó có một số nhà khoa học nghiệp dư ( không chuyên), những người đam mê ( điển hình là Admin và đồng bọn) và những nhà khoa học chuyên nghiên cứu về UFO vẫn còn tiếp tục nghiên cứu mặc cho dư luận mỉa mai. Tuy nhiên, chất lượng của những người nghiên cứu không chuyên nghiệp lại không đồng đều.
Có một lỗi phổ biến khi cho rằng chỉ có một câu hỏi duy nhất được đặt ra trong chủ đề này là liệu sự xuất hiện của UFO có phải là đại diện cho sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất hay không (như thế sẽ làm thu hẹp lĩnh vực này và hạn chế tranh luận). Đặt tính xác đáng vật lý của UFO ra một bên, khi nghiên cứu UFO trong lĩnh vực văn học dân gian và nhân chủng học thì ít nhất cũng có thể tìm thấy những khám phá mới trong lĩnh vực tâm lý học (cá thể và xã hội).
Từ cuối thập niên 1940, mọi người trên khắp thế giới đã trở nên quen thuộc với báo cáo về UFO. Các báo cáo có phạm vi rộng lớn với nhiều trường hợp, gồm có các hành tinh, ngôi sao, hệ thống sắp xếp các đám mây, sét hòn, trò đùa cố ý, thử nghiệm máy bay chiến đấu, ảo giác và tàu vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất. Bất chấp số lượng lớn các báo cáo và sự chú ý của dư luận, cộng đồng khoa học rất ít quan tâm đến UFO. Một phần là do trên thực tế không có những quỹ hỗ trợ cộng đồng hay chính phủ nhằm trợ giúp việc nghiên cứu UFO lẫn sự bác bỏ, chê cười của dư luận lên những nhà nghiên cứu này. ( Đừng ai dạy con cái rằng những cái như đĩa bay hay ma quỷ là không tồn tại, đôi khi bản thân bạn giết chết 1 nhà khoa học thiên tài tương lai đấy :3 )
UFO là chủ đề của nhiều nghiên cứu khác nhau trong suốt nhiều năm và đang được mở rộng phạm vi sang khoa học chính xác. Một số cơ quan chính phủ và quân đội của Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Thụy Điển, Bỉ, Brasil, Mexico, Tây Ban Nha và Liên bang Xô Viết đã nhiều lần đưa ra các báo cáo nghiên cứu UFO. Mặc dù gặp vô cùng bối rối trong nhiều trường hợp, song không chính phủ nước nào dám công khai đề xuất rằng UFO đại diện cho dạng sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất.
Bất chấp nhiều trường hợp không giải thích được, ý kiến nói chung của cộng đồng khoa học là có thể tất cả mọi chứng kiến về UFO, về cơ bản là kết quả do nhầm lẫn khi quan sát hiện tượng tự nhiên hay nhân tạo, trò đùa cố ý hoặc hiện tượng tâm lý như ảo giác hoặc bệnh lý trong giấc ngủ (thường giải thích hiện tượng thấy bị người ngoài Trái Đất bắt cóc). Thống kê của lực lượng Không quân Hoa Kỳ cho biết những giải thích như thế chỉ chiếm 1% trong tổng số các trường hợp. Song vẫn còn nhiều giảng viên, giáo sư cảm thấy chủ đề này thật là lãng phí thời gian, các chứng cứ thiếu độ tin cậy, vì thế thường bỏ qua những chi tiết này.
Mặc dù vậy, cũng có ít giáo sư, giảng viên đang tự nghiên cứu chủ đề này. Theo một cuộc khảo sát, do việc ít tìm hiểu, nghiên cứu chủ đề đã làm tăng số người theo phe phản đối, đồng thời tạo nên một xu hướng "không chịu chấp nhận".
Có lẽ giả thuyết nổi trội hơn cả giữa những người ủng hộ là giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm mặc dù giả thuyết huyền bí về UFO cũng có khi được đưa ra.
Dưới đây là những trích dẫn, thể hiện thái độ coi thường về vấn đề này:
+ Lý luận rằng sinh vật ngoài Trái Đất không thể có lúc đó bởi lẽ khoảng cách và năng lượng đòi hỏi cho việc di chuyển qua không gian, giữa các hành tinh trong thời gian hợp lý (theo như các định luật vật lý đã biết hiện nay).
+ Nhiều báo cáo không đáng tin cậy hoặc thiếu thỏa đáng về mặt vật lý nói riêng và khoa học nói chung.
Nhiều hoàn cảnh có thể dẫn đến nhầm lẫn khi quan sát vật thể thông thường, chẳng hạn khi nhìn qua một khoảng cách trên bầu trời - cách tiếp cận như thế có thể gây nên ấn tượng mạnh ngay từ cái liếc nhìn ban đầu.
+ Sự cảm tính nói chung bao trùm khắp chủ đề, trong đó có thể kể đến cách nhìn nhận của nhiều người nghiên cứu nghiệp dư thiếu những trang bị kiến thức khoa học đúng đắn.
Nhiều nhà khoa học đồng ý rằng hình ảnh tàu vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất là không có thật, lại có ý kiến cho rằng thái độ báo cáo thiếu suy luận cá nhân mà chỉ hiểu được nguyên theo giả thuyết đó. Tại sao, ví dụ, hiện tượng xuất hiện với tần số lớn trong hàng thập kỷ mà lại không thấy nỗ lực cố gắng của sinh vật ngoài Trái Đất nhằm thể hiện sự xuất hiện mơ hồ của chúng? Hay là, nếu một nền văn minh ngoài Trái Đất đã dự định vẽ bản đồ hoặc khảo sát Trái Đất, như giả thuyết, tại sao nó phải thực hiện trong thời gian dài đến thế, trong khi với kỹ thuật của chúng lúc nay, chẳng hạn vệ tinh, có thể làm việc đó rất nhanh chóng?
+ Phần nhiều trong số lý lẽ nghi ngờ chỉ dựa vào việc đoán chừng, giả thuyết về ý đồ và kỹ thuật của sinh vật ngoài Trái Đất. Tại sao chúng phải che giấu sự tồn tại của chúng? Tại sao mối quan tâm của chúng chỉ hạn chế hướng vào các quan sát vật lý đơn giản? Tại sao việc di chuyển giữa các hành tinh gần như không thể, tóm lại, về căn bản chỉ biết thừa nhận kỹ thuật và khoa học của chúng hiện đại, cao cấp hơn nhiều so với nhân loại ngày nay.
+ Một số lý lẽ thiếu sự hiểu biết. Rất nhiều các hiện tượng, ví dụ "ánh sáng kỳ lạ trên bầu trời", có thể dễ dàng là do nhầm lẫn đơn giản, còn cấu trúc vật thể thay đổi ở mức độ hẹp, thường do hiệu ứng vật lý
Theo một cuộc khảo sát chính thức năm 1977 của Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ (American Astronomical Society) thì đa số người trả lời (1356 người, hơn một nửa số thành viên cơ quan) nghĩ UFO xứng đáng được nghiên cứu và tỏ ý muốn đóng góp thời gian và chuyên môn cho cho việc nghiên cứu. Dưới đây là chi tiết cụ thể:
+ 53% cảm thấy UFO chắc chắn hoặc có thể là một chủ đề đáng được nghiên cứu khoa học trong tương lai, đối lập với 20% cảm thấy chắc chắn hay có lẽ không phải vậy.
+ 80% bày tỏ thiện chí đóng góp trong việc giải đáp bí ẩn UFO.
+ Việc thiếu kiến thức đã làm cho những người theo phe phản đối thiếu ham muốn nghiên cứu. Chỉ 29% trong số người dành ít hơn 1 giờ để đọc chủ đề cảm thấy nghiên cứu sâu hơn nữa là hợp lí, đối lập với 68% số người đã dành trên 300 giờ.
+ Những nhà khoa học trẻ có đam mê hơn những nhà khoa học lớn tuổi.
+ Số người theo phe phản đối chống giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm tăng cao. Có lẽ cách giải thích thông thường như trò lừa đảo hoặc máy bay thông dụng/không thông dụng hay hiện tượng tự nhiên đã tăng số người theo phe hoài nghi từ 30% đến 23%, đối lập với 3% tin UFO thực sự là phi thuyền của sinh vật ngoài Trái Đất.
Một khảo sát khác thực hiện năm 1973 trên 400 thành viên Viện Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ, khoảng 2/3 nghĩ rằng UFO có thể có thật, có lẽ hoặc nhất định là một vấn đề có ý nghĩa khoa học. 5% nói rằng họ đã từng chứng kiến UFO, 10% nghĩ UFO đến từ vũ trụ.
Tác giả khảo sát đã trên chú ý tính chất nghiêm túc trong những người trả lời, có thể họ sợ sự chỉ trích từ phía các đồng nghiệp và danh tiếng bị nhạo báng. Nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu UFO nhưng thích làm việc yên tĩnh một mình hơn bởi sợ bị nhạo báng.
Những ghi chép về hình dạng tiêu biểu của UFO:
+ Dạng đĩa, phía trước thóp nhỏ.
+ Những ánh sáng chuyển động nhanh - mà đã được ghi nhận sớm nhất rằng chuyển động của nó như "chiếc đĩa nhảy vụt lên khỏi mặt nước". Đĩa bay đôi khi được ghi nhận là có chuyển động "lảo đảo" ở tốc độ thấp.
+ Dạng hình tam giác lớn hoặc nguồn sáng hình tam giác
+ Hình điếu thuốc với những cửa sổ sáng.
+ Các dạng khác: hình chữ V, hình cầu, vòm, hình thoi, khối không có hình dạng xác định màu đen, hình trứng và hình trụ.
Dưới đây là phân loại theo Valee:
Loại I:
Bao gồm những vật thể lạ hình cầu, đĩa hoặc dạng khối hình khác, đáp trên hoặc gần mặt đất (chừng độ cao cây, hoặc thấp hơn, có thể đi kèm dấu vết như nhiệt độ cao, chói sáng hoặc có hiệu ứng lên máy móc.
Đặc điểm:
+ Trên hoặc gần mặt đất
+ Trên hoặc gần mặt nước
+ Hoạt động hoặc dấu hiệu tạo nên sự chú ý
+ Vật thể như " trinh sát" hoặc theo dõi những phương tiện Trái Đất ( Máy bay, Ô tô, tàu thuỷ,... trong một vài trường hợp, người đi bộ một mình bị bắt cóc)
Loại II
Vật thể lạ có dạng hình trụ đứng trên bầu trời, kèm theo một đám mây. Hiện tượng này thường được đặt cho nhiều cái tên như "điếu thuốc-mây" hay "khối cầu-mây".
Đặc điểm:
+ Chuyển động một cách bất thường trên bầu trời
+ Bất động và sinh ra các vật thể con (thường gọi là "vật thể vệ tinh")
+ Được nhiều vật thể con bao quanh.
Loại III
Vật thể lạ có dạng khối cầu, đĩa hay ellip.
Đặc điểm:
+ Chuyển động theo kiểu "lá rơi" xuống, hoặc lên và xuống hay đung đưa
+ Đang chuyển động liên tục thì đột ngột dừng lại, rồi chuyển động tiếp
+ Thay đổi hình dạng khi đang bay, chẳng hạn thay đổi độ sáng, sinh ra các vật thể con...
+ Dạng "cá đuối" hay đi thành đám nhiều vật thể ( Loại này thường bị nhầm với đám mây hình đĩa)
+ Đột ngột thay đổi quỹ đạo khi đang bay liên tục, chuyển thành bay chậm trên một khu vực nhất định, hoặc đột ngột chuyển hành trình ( Dễ dàng tìm thấy trong các báo cáo nhìn thấy Đĩa Bay của Phi công)
Loại III
Vật thể bay liên tục
Đặc điểm:
+ Bay liên tục ( như đã giải thích)
+ Quỹ đạo phụ thuộc vào chiếc máy bay ở gần ( thường thấy trong báo cáo của các phi công)
+ Bay theo một khối tổ chức
+ Quỹ đạo zig-zag
Loại IV
Vật thể lạ mờ ảo, ví dụ không rõ vật liệu, không hữu hình hoàn toàn, không có dạng vật chất đặc.
Đặc điểm:
+ Mờ ảo
+ Vật thể dạng điểm sáng như ngôi sao
+ Lướt nhanh qua bầu trời, có thể với quỹ đạo kỳ lạ
Vật Thể bay đã xác định:
Khoảng 90% các báo cáo nhìn thấy UFO cuối cùng đã được giải thích. Trong khi chỉ có một tỉ lệ nhỏ báo cáo là cố ý tung tin sai lệch, hầu hết là do nhầm lẫn trong khi quan sát các hiện tượng tự nhiên và nhân tạo. Tuy nhiên, tỷ lệ thực tế giữa UFO và IFO phụ thuộc vào người nghiên cứu và thay đổi lớn tùy theo tiêu chuẩn.
Những vật thể bay thường bị nhầm với UFO là:
+ Khí cầu ( Khí cầu dự báo thời tiết hay Khí cầu du lịch)
+ Máy bay quân sự ( do có gia tốc cao, hình dạng tam giác, khá giống với các báo cáo phổ biến về UFO )
+ Ánh đèn nhấp nháy của máy bay thông dụng khi hạ cánh
+ Máy bay đặc biệt hoặc kỹ thuật cao cấp (như SR-71 Blackbird, máy bay ném bom B-2 Steath)
+ Máy bay quảng cáo.
+ Diều
+ Pháo hoa
+ Trò đùa nghịch cố ý
Những nhầm lẫn thông thường khi quan sát hiện tượng tự nhiên là:
+ Mặt trăng, ngôi sao và các hành tinh.
+ Thời tiết bất thường
+ Những hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ
+ Sao băng ở khoảng cách gần hoặc kích cỡ lớn
+ Đám mây hình đĩa
+ Đàn chim
+ Đàn côn trùng
+ Sét Hòn
+ Cực Quang
Những cách giải thích UFO phổ biến:
Tùy thuộc vào tác giả ước đoán, có từ 3% đến 30% trong tổng số các trường hợp vẫn còn chưa thể giải thích nổi. Một vài trong số những giả thuyết phổ biến nhất cho những sự kiện UFO chưa thể giải thích nổi là:
+ Giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm (phổ biến nhất).
+ Giả thuyết huyền bí.
+ Giả thuyết cỗ máy thời gian hay khí cụ bay do tương lai gửi đến. ( Liên hệ bác Mon :v )
Tương tự, những người theo phe phản đối cũng đưa ra các giả thuyết:
+ Giả thuyết tâm lý xã hội ( Theo phong trào chém gió cho vui :v )
+ Giả thuyết các hiện tượng tự nhiên có thể giải thích được, ví dụ sét hòn
+ Giả thuyết khí cụ bay nhân tạo ( Máy bay không người lái, máy bay chiến đấu cấp cao với vận tốc nhanh, gia tốc lớn...)
Hiện tượng huyền bí
Lĩnh vực UFO không phải lúc nào cũng trùng với sự kiện huyền bí, mặc dù thường thì là như vậy. Một vài nhà nghiên cứu cho rằng có mối liên hệ trực tiếp giữa UFO và hiện tượng huyền bí. Tương tự, một số giáo phái đã đưa UFO thành phần trung tâm của tín ngưỡng họ. ( Đại khái là về mặt tâm linh)
Nhiều bức tranh tôn giáo rất cổ xưa mà cũng đã chứa hình ảnh về UFO và sinh vật ngoài Trái Đất. Cũng nhiều người tin rằng trong suốt lịch sử, sinh vật ngoài Trái Đất đã có ít nhiều ảnh hưởng đến phong tục tập quán nhiều khu vực.
Những âm mưu:
Đôi khi người ta gán cho UFO là một phần trong những âm mưu kỹ lưỡng mà chính phủ đang cố ý che giấu sự tồn tại của sinh vật ngoài Trái Đất (alien) hay cộng tác với chúng.
Cũng có suy đoán rằng sự kiện UFO là các thử nghiệm bay của những khí cụ bay, vũ khí cao cấp. Trong trường hợp UFO bị nhìn thấy thì đó là sự thất bại trong việc giữ bí mật, hoặc cố ý tìm cách xâm phạm thông tin tình báo. ( Tìm đọc lại bài " Vùng 51" của #Conan ( Edo) đăng trước đây)
Cũng có đề xuất cho rằng tất cả hay đa số kỹ thuật, văn hóa nhân loại được xây dựng từ cơ sở từ các liên lạc với nền văn minh ngoài Trái Đất.
Tái Bút: Bài viết có sử dụng nguồn từ internet, wikipedia, kiến thức cá nhân và sưu tầm. Nếu có nhu cầu mượn hoặc chỉnh sửa vui lòng liên hệ các Admin bằng cách comment bên dưới hoặc inbox. Cám ơn vì đã đọc!
Trí “tưởng tượng” về một D.B. Cooper
Một trong những câu chuyện về Cooper đặc biệt nhất là bà Elsie Rodgers, ở Nebraska. Bà kể với các cháu mình rằng một ngày vào những năm 1970 bà đã phát hiện thấy một đầu người ở gần sông Columbia, Washington trông giống D.B. Cooper.
Nhưng những đứa cháu đã chẳng mấy để tâm đến chuyện này vì nghĩ là bà mình lẩn thẩn cho đến khi bà chết, năm 2000, họ tìm thấy một chiếc đầu lâu trên phòng tầng thượng của nhà bà. FBI cho thử ADN nhưng kết quả chẳng có gì liên quan đến Cooper.
Cô kể rằng, vào 26-10-1971, 2 ngày sau vụ không tặc, cô đã nhìn thấy Cooper bị thương và nơi Cooper rơi xuống còn tạo thành một hố trũng trong ngôi vườn gần ngoại ô Longview. Cô đã tận tay chăm sóc chiếc chân gãy của Cooper và sau đó hai người yêu nhau.
Cô nói rằng Cooper khởi nguồn là dân Connecticut. Cooper đã rời bỏ gia đình và đi về phía tây, gia nhập một nhóm nhảy dù và nhen nhóm kế hoạch cướp máy bay. Cô khẳng định để thực hiện kế hoạch này, người đàn ông này đã phải đọc rất nhiều những cuốn sách về máy bay và nghiên cứu kỹ lưỡng lộ trình bay cũng như quy trình tiếp đất.
Cô nói rằng sau khi không tặc hai người sống trên đảo Long, New York và chuyển toàn bộ số tiền cướp được vào thành phố Atlantic và các sòng bạc Reno. Theo người phụ nữ này Cooper chết vào năm 1982 vì lý do sức khỏe. Nhưng FBI một lần nữa lại bác bỏ câu chuyện này vì các tình tiết không logic.
Việc Dan Cooper mất tích bí ẩn khiến vụ không tặc trở nên nổi tiếng. Và sau đó, có ít nhất 12 người từng công khai hoặc kín đáo tự nhận mình là Dan Cooper. FBI cũng cho biết, đã có ít nhất 10.000 tên người đã được đưa vào hồ sơ theo dõi, song không có ai được chứng thực là Dan Cooper.
Cooper chết hay vẫn còn sống? Câu hỏi này vẫn đang còn bỏ ngỏ. Nếu may mắn hắn còn sống hắn chừng 70 tuổi và nếu không thì thân xác hắn cũng đã tan tành thành từng mảnh 32 năm trước.
Manh mối vụ án
Theo tính toán của cảnh sát, cú nhảy mà Dan Cooper thực hiện cách Quốc lộ 5 khoảng 16 km về phía Đông, gần Ariel, bang Washington và đập hồ Merwin của sông Lewis. Tuy nhiên, chiến dịch lục soát và tìm kiếm tại đây đã không mang lại kết quả nào.
Thậm chí, có người còn trao giải thưởng 100.000 USD để đổi lấy một tờ tiền 20 USD có số serie được ghi lại, nhưng không ai đứng ra nhận giải. Số tiền thưởng 30.000 USD của hãng hàng không Northwest Orient và một tờ báo ở Seattle cũng như vậy. Nếu Cooper có đồng phạm, rõ ràng họ rất trung thành với tên không tặc “huyền thoại”.
TOP 12 bí ẩn con người vẫn chưa có lời giải
Bí ẩn thành phố vàng huyền thoại của người Inca
Tu sửa đền Parthenon
3. Núi Palpa Flat, đây là một trong những hiện tượng tự nhiên bí ẩn
được cho liệt vào danh sách "Những bí ẩn mãi mãi là bí ẩn", bởi không
ai có thể giải thích được. Có rất nhiều ngọn núi có ngọn phẳng như núi
Palpa nhưng núi Palpa được cho là một ngọn núi phẳng ấn tượng nhất với
những "đường băng" phẳng tuyệt đối cùng những bản vẽ cổ xưa ấn tượng.
(Nguồn List25)
Vụ MH370: Có một hành khách bí ẩn trên máy bay?
Thứ Tư, ngày 08/03/2017 19:00 PM (GMT+7)
Các tài liệu về chuyến bay của hãng hàng không Malaysia cho thấy có một người “bí ẩn” trên chuyến bay MH370, Express đưa tin.
Khi nào có thể mở lại cuộc tìm kiếm MH370?
MH370 lao xuống biển với tốc độ cực cao
Chính thức ngừng tìm kiếm, MH370 có thể mãi mãi mất tích
MH370 lao xuống biển với tốc độ cực cao
Chính thức ngừng tìm kiếm, MH370 có thể mãi mãi mất tích
Máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines mất tích 3 năm trước được cho là chở 239 người (Ảnh minh họa)
Máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines mất tích 3 năm trước
được cho là chở 239 người, bao gồm hành khách và thành viên phi hành
đoàn.Tuy nhiên, nhà điều tra tự nguyện và người sáng lập hãng công nghệ quốc phòng Unicorn Aerospace, ông Andrey Milne, tin rằng mình đã phát hiện dấu hiệu của một hành khách khác.
Trong phần cuối của một báo cáo chính thức về vụ MH370 - một bản liệt kê hàng hoá trên máy bay – thông tin ghi rằng có 228 hành khách lên máy bay.
Nhà điều tra Andrey Milne vừa đưa ra giả thuyết có một người "bí ẩn" trên máy bay
Ông Milne nói với Express: "228 là số chỗ được bán trong 2 giờ trước
khi bay. Con số 228 không bao gồm 2 trẻ em ngồi cùng cha mẹ."Từng có những bản tuyên bố nói rằng 4 người đã không lên máy bay. Điều đó có nghĩa là số ghế cuối cùng được sử dụng chỉ là 224.
"Thêm 2 đứa trẻ và bạn có 226 hành khách. Bây giờ thêm 12 thành viên phi hành đoàn. Bạn chỉ có 238 người mất tích, không phải là 239 như con số được công bố chính thức.
"Vì vậy, chúng tôi đang nghĩ rằng có một “người” nào đó khác trên chuyến bay MH370."
Ông Milne khẳng định người “bí ẩn” có thể là không tặc và gây ra vụ biến mất chưa có lời giải.
Ông nói thêm: "Hành khách này có thể hành động cùng với sự hỗ trợ lớn từ bên ngoài để chiếm quyền chỉ huy và kiểm soát buồng lái của MH370."
Con số chính thức của các nhà chức trách đưa ra là 227 hành khách trên máy bay
Trả lời giả thuyết trên, một phát ngôn viên của đội điều tra an toàn
bay MH370 nói: "Chúng tôi biết về sự khác biệt giữa các con số kể trên.
Tuy nhiên, số hành khách thực tế trên máy bay lúc đó chỉ là 227."Báo cáo đó được gửi đi khoảng 2 giờ trước khi máy bay cất cánh. Con số thực tế có thể khác với con số được in trên báo cáo vì những thay đổi vào phút chót”.
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra về vụ mất tích MH370.
Các chuyên gia tin vào siêu nhiên cho rằng người ngoài hành tinh có thể đã cho nổ tung máy bay. Nhiều người thì nói MH370 đã hạ cánh xuống một căn cứ của CIA gần đó.
Một số người thậm chí còn tuyên bố sự cố từng được tiên đoán bởi ca sĩ hát rap Pitbull trong lời bài hát “Get it started” năm 2012 của anh.
>>> Bấm xem thêm: Cơ trưởng MH370 đâm xuống biển để cứu hàng ngàn người?
Manh mối mới về địa điểm rơi của chiếc máy bay MH370, mất tích cách đây hơn 3 năm
Dù đã hơn 3 năm trôi qua, địa điểm rơi chính xác của chiếc máy bay MH370 vẫn là một dấu chấm hỏi. Mới đây, các phân tích trôi dạt đã chỉ ra vị trí mà có khả năng là nơi MH370 đã rơi xuống, chếch về hướng Bắc so với địa điểm tìm kiếm ban đầu.
Chiếc máy bay MH370
mất tích khi đang bay từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh vào năm 2014 với 239
người trên máy bay. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, cơ quan chức năng
ba quốc gia Malaysia, Trung Quốc và Úc đã ra thông báo chính thức dừng
tìm kiếm máy bay MH370 từ tháng 1/2017.
Tuy nhiên, các nghiên cứu phân tích vẫn được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Theo BBC đưa tin, dựa vào việc phân tích mô hình trôi dạt của phần cánh máy bay Boeing 777, các nhà khoa học đã chỉ ra một vị trị mới, được cho là nơi MH370 đâm xuống.
Vị trí này có vùng bán kính khoảng 25,000 km2, nằm ở phía Bắc của khu vực tìm kiếm ban đầu trên vùng biển N3am Ấn Độ Dương.
"Kiểm tra phần cánh thực tế giúp chúng tôi khẳng định chắc chắn hơn về địa điểm máy bay rơi như bản báo cáo từ tháng 12 năm ngoái", tiến sĩ David Griffin từ hiệp hội nghiên cứu công nghiệp và khoa học khối Thịnh Vượng chung của Australia cho biết.
Các nghiên cứu ban đầu đã sử dụng phần phiên bản mô phỏng lại cánh máy bay được tìm thấy từ đảo Reunion.
"Chúng tôi nhận ra rằng phần cánh máy bay thực sự trôi dạt về phía trái 20 độ và nhanh hơn mô hình, đúng như những gì chúng tôi nghĩ", tiến sĩ Griffin cho biết.
"Chính vì vậy, việc phần cánh của MH370 trôi dạt về phía đảo Reunion vào tháng 7/2015 là hoàn toàn hợp lý".
Năm ngoái, bộ trưởng bộ giao thông Australia cho biết những bản báo cáo về nơi có khả năng tìm thấy máy bay MH370 sẽ không được tiến hành triển khai tìm kiếm thực tế do không chỉ ra địa điểm chính xác. Phát biểu vào hôm thứ sáu vừa qua, tuy vẫn còn hoài nghi về địa điểm mới này nhưng ông đã gửi bản báo cáo cho phía Malaysia xem xét.
Tuy nhiên, các nghiên cứu phân tích vẫn được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Theo BBC đưa tin, dựa vào việc phân tích mô hình trôi dạt của phần cánh máy bay Boeing 777, các nhà khoa học đã chỉ ra một vị trị mới, được cho là nơi MH370 đâm xuống.
Các nhà khoa học cho rằng địa điểm máy bay MH370 rơi nằm ở phía Bắc của khu vực tìm kiếm ban đầu trên vùng biển Nam Ấn Độ Dương.
"Kiểm tra phần cánh thực tế giúp chúng tôi khẳng định chắc chắn hơn về địa điểm máy bay rơi như bản báo cáo từ tháng 12 năm ngoái", tiến sĩ David Griffin từ hiệp hội nghiên cứu công nghiệp và khoa học khối Thịnh Vượng chung của Australia cho biết.
Các nghiên cứu ban đầu đã sử dụng phần phiên bản mô phỏng lại cánh máy bay được tìm thấy từ đảo Reunion.
"Chúng tôi nhận ra rằng phần cánh máy bay thực sự trôi dạt về phía trái 20 độ và nhanh hơn mô hình, đúng như những gì chúng tôi nghĩ", tiến sĩ Griffin cho biết.
"Chính vì vậy, việc phần cánh của MH370 trôi dạt về phía đảo Reunion vào tháng 7/2015 là hoàn toàn hợp lý".
Năm ngoái, bộ trưởng bộ giao thông Australia cho biết những bản báo cáo về nơi có khả năng tìm thấy máy bay MH370 sẽ không được tiến hành triển khai tìm kiếm thực tế do không chỉ ra địa điểm chính xác. Phát biểu vào hôm thứ sáu vừa qua, tuy vẫn còn hoài nghi về địa điểm mới này nhưng ông đã gửi bản báo cáo cho phía Malaysia xem xét.
Máy bay MH370 mất tích - Bí ẩn 3 năm không lời giải
Thứ Bảy, 21/1/2017 07:25 GMT+7
(PLO) - Chính phủ ba nước Australia,
Malaysia và Trung Quốc đã chính thức ngừng chiến dịch tìm kiếm máy bay
MH370. Việc kết thúc chiến dịch tìm kiếm quy mô lớn và tốn kém nhất
trong lịch sử ngành hàng không thế giới tại vùng biển phía Nam Ấn Độ
Dương, được cho là nơi máy bay rơi đã khiến MH370 vẫn là một “ẩn số”.
Hành trình định mệnh của chuyến bay MH370
Ngày 17/1/2017, Chính
phủ Australia, Malaysia và Trung Quốc thông báo chiến dịch tìm kiếm máy
bay mất tích MH370 của Hãng hàng không Malaysia Airlines (MAS) đã chính
thức kết thúc sau 3 năm mà không đạt được kết quả.
Vô vọng
Tuyên bố của ba nước
nêu rõ máy bay MH370 đã không ở trong khu vực tìm kiếm rộng 120.000km2
của Ấn Độ Dương. Bất chấp mọi nỗ lực sử dụng các công nghệ tiên tiến và
khoa học hiện có, cũng như mọi giả thuyết và lời khuyên từ các chuyên
gia giỏi nhất trong lĩnh vực, công cuộc tìm kiếm đã không thể xác định
được chiếc máy bay. Do đó, việc tìm kiếm MH370 chính thức dừng lại.
Chính phủ Australia,
Malaysia và Trung Quốc nhấn mạnh việc ngừng chiến dịch tìm kiếm do
Malaysia đề xuất vào đầu tháng này là do cho tới thời điểm hiện tại,
không phát hiện thêm được thông tin mới nào để xác định được vị trí cụ
thể của máy bay. Ba nước bày tỏ hy vọng thông tin mới sẽ xuất hiện và
vào một thời điểm nào đó trong tương lai, chiếc máy bay xấu số sẽ được
tìm thấy.
Tìm kiếm quy mô lớn
Chuyến bay mang số hiệu
MH370 khởi hành từ Kuala Lumpur của Malaysia, dự kiến tới Bắc Kinh,
Trung Quốc lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 8/3/2014 giờ địa phương (tức 22
giờ 30 phút ngày 7/3 theo giờ GMT). Trên máy bay khi đó chở 239 người,
bao gồm 227 hành khách và 12 thành viên phi hành đoàn. Trong số hành
khách có 153 người Trung Quốc, 38 người Malaysia, 12 người Indonesia, 7
người Australia, 4 người Mỹ, 2 người Canada, 2 người New Zealand, 2
người Ukraine và một số người từ các nước khác.
Tuy nhiên, 2 tiếng sau
khi khởi hành, vào khoảng 2 giờ 40 phút sáng ngày 8/3/2014 theo giờ địa
phương (tức 18 giờ 40 phút ngày 7/3/2014 giờ GMT), máy bay đã bất ngờ
mất liên lạc với Trạm kiểm soát lưu không Subang tại vị trí 6 độ 56 phút
Bắc, 103 độ 35 phút Đông, thuộc vùng biển cách mũi Cà Mau của Việt Nam
120 hải lý (khoảng 230 km) về phía Tây Nam. Ngay sau khi nhận được thông
báo chiếc máy bay mất tích, Việt Nam đã tích cực tham gia và dẫn đầu
nhóm tìm kiếm quốc tế trên khu vực thuộc lãnh hải Việt Nam nhưng không
ghi nhận kết quả khả quan nào.
Ngày 15/3/2014, Thủ
tướng Malaysia Najib Razak xác nhận máy bay mang số hiệu MH370 đã bay ít
nhất 7 giờ kể từ khi mất liên lạc với mặt đất. Chính quãng thời gian
bay nhiều giờ sau khi mất liên lạc đã khiến công tác khoanh vùng định vị
khu vực tìm kiếm chiếc máy bay MH370 càng thêm khó khăn. Việc tìm kiếm
hầu như phải dựa vào hình ảnh được chụp từ vệ tinh do các quốc gia chia
sẻ, mà vốn dĩ những hình ảnh này cũng không rõ ràng và chính xác. Tuy
nhiên, Malaysia và cộng đồng quốc tế vẫn không từ bỏ hy vọng giải đáp bí
ẩn về chiếc Boeing 777-200 này.
Từ Biển Đông, công tác
tìm kiếm cứu nạn sau đó đã được mở rộng tới phía Tây bờ biển Australia,
nơi mà các chuyên gia phát hiện hàng loạt tín hiệu liên lạc giữa MH370
với vệ tinh liên lạc Inmarsat, cùng với phỏng đoán của giới chức hàng
không về chuyến bay MH370 có thể đã đổi hướng bay và kết thúc hành trình
tại vùng biển phía Nam Ấn Độ Dương.
Chiến dịch tìm kiếm cứu
nạn do Australia dẫn đầu đã được thực hiện một cách quy mô và liên tục.
Rất nhiều tàu thuyền cùng với các trang thiết bị tối tân đã được đưa
vào sử dụng, trong đó có một số thuyền được trang bị công cụ hiện đại có
thể tìm kiếm ở độ sâu lên tới 6.000m dưới mực nước biển hay tàu ngầm
không người lái có khả năng tiếp cận các vách núi ngầm hoặc vực sâu.
Khoảng 120.000km2 dưới đáy biển Nam Ấn Độ Dương đã được khảo sát, tìm
kiếm, tuy nhiên vẫn không cho thấy một dấu hiệu khả quan nào. Nhiều giả
thuyết khác về chuyến bay đã được đưa ra, nhưng phần lớn số đó đều chưa
được kiểm chứng.
Ngày 29/1/2015, Chính
phủ Malaysia đã chính thức tuyên bố vụ máy bay của hãng hàng không quốc
gia thực hiện chuyến bay MH370 mất tích là một tai nạn, hành khách và
phi hành đoàn trên chuyến bay được coi là đã thiệt mạng. Hãng hàng không
Malaysia Airlines đã cam kết bồi thường thỏa đáng cho gia đình các nạn
nhân đồng thời hối thúc gia đình các nạn nhân, nộp đơn yêu cầu bồi
thường trước khi thời hạn nhận đơn 2 năm theo Công ước Montreal năm 1999
về hàng không kết thúc vào ngày 8/3/2016.
Bí ẩn không lời đáp
Những nỗ lực tìm kiếm
đã lóe lên tia hy vọng khi cuối tháng 7/2015, mảnh vỡ đầu tiên của máy
bay MH370 được tìm thấy trên đảo Reunion thuộc Pháp và các công tố viên
Pháp xác nhận đây là phần cánh của chiếc máy bay MH370.
Tháng 9/2015, mảnh vỡ
thứ hai cũng đã được tìm thấy trên đảo Pemba ngoài khơi bờ biển
Tanzania. Tháng 5/2016, một mảnh vỡ của chiếc máy bay xấu số MH370 trôi
dạt vào đảo quốc Mauritius và được tìm thấy. Theo phân tích của Cục An
toàn Giao thông Australia (ATSB), mảnh vỡ này phù hợp với phần lái ở
đuôi cánh máy bay, dựa trên phát hiện một phần mã số trên mảnh vỡ. Trong
khi đó, nhà sản xuất cánh máy bay cung cấp hồ sơ cho thấy mã số đặt
hàng này được in bên ngoài cánh máy bay Boeing 777 có mã dây chuyền sản
xuất 404, chính là chiếc máy bay với mã số đăng ký 9M-MRO (tức chuyến
bay số hiệu MH370).
Ngày 22/7/2016, Chính
phủ Malaysia, Australia và Trung Quốc đã thông báo ngừng tìm kiếm chiếc
máy bay trên sau khi các cuộc tìm kiếm tại khu vực được cho là máy bay
rơi không đạt kết quả.
Tháng 9/2016, Bộ trưởng
Giao thông Malaysia Liow Tiong Lai thông báo ít nhất 22 mảnh vỡ đã được
tìm thấy dọc bờ biển và ngoài khơi các nước Nam Phi, Mozambique,
Mauritius và Tanzania. Trong số đó, có một số mảnh nhiều khả năng thuộc
về chiếc máy bay thuộc hãng hàng không Malaysia bị mất tích. Dù nhiều
mảnh vỡ của MH370 đã được các nhà chức trách ba nước Malaysia, Australia
và Trung Quốc tìm thấy, nhưng đến nay vẫn chưa xác định được vị trí
cuối cùng của chiếc máy bay xấu số.
Gần 3 năm đã trôi qua kể từ ngày MH370 mất tích, hàng không thế giới vẫn chưa tìm được lời giải cho vụ mất tích đầy bí ẩn này.
4. Vụ mất tích của máy bay MH370, Đây chắc chắn là một trong những bí ẩn lớn nhất của thập kỷ
này, máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malays/ia biến mất
cùng với 239 hành khách và toàn bộ phi hành đoàn vào ngày 8/3/2014 năm
2014 khi đang trên đường tới Bắc Kinh từ Kuala Lumpur. Mặc dù các cuộc
tìm kiếm liên tục diễn ra với sự tham gia của một số quốc gia hùng mạnh
nhất thế giới, bao gồm Nga, Trung Quốc, Pháp, và Mỹ, chúng ta vẫn không
có bất cứ manh mối về những gì đã xảy ra ngày hôm đó. (Nguồn List25)
Dấu chân của quỷ: Bí ẩn "rợn tóc gáy"
Thứ Ba, ngày 17/06/2014 10:08 AM (GMT+7)
Sự kiện:
Bí ẩn thế giới
Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng
ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm,
tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
Mời độc giả tiếp tục khám phá những câu chuyện bí ẩn "rợn
tóc gáy":
5. Dấu chân của quỷ
Trên thế giới ghi nhận nhiều báo cáo về "dấu chân của quỷ" nhưng nổi tiếng nhất là ở Devon, Anh. Cụ thể, sau một trận bão tuyết vào buổi tối ngày 8-9/2/1855, người dân bản địa đã phát hiện một chuỗi những dấu vết như móng guốc xuất hiện trên nền tuyết trắng.
Những dấu chân này rộng khoảng từ 4-6,5cm và cách nhau khoảng 24cm, kéo dài hơn 160km, có những đoạn chuyển hướng nhưng đa phần là đi thẳng. Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm, tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
Lời đồn đại từ đó lan truyền đi khắp nơi và những
người dân trong khu vực bắt đầu trang bị vũ khí để bảo vệ
gia đình. Nhưng cuối cùng chẳng có chuyện gì xảy ra cho
đến đêm ngày 12/3/2009, dấu chân đó lại một lần nữa xuất
hiện. Một số dừng lại giữa chừng ở những nơi hoang vu và
không còn để lại bất kỳ dấu vết nào, một số khác thì tiếp tục
xuất hiện ở một nơi cách xa điểm đã dừng. Người dân địa phương đồn
thổi những dấu chân lạ lùng này chính là của quỷ dữ.
4. Felicia Felix-Mentor
Felicia Felix-Mentor được xác nhận là đã chết vào năm 1907, sau một cơn bạo bệnh. Tuy nhiên, năm 1936, cô lại bất ngờ xuất hiện trên đường phố và đi về phía một trang trại. Người phụ nữ quần áo rách rưới này khăng khăng rằng đó là tài sản thuộc về cha cô.
Những người bản địa sống lâu năm thảng thốt thừa nhận,
đây chính là Felicia Felix-Mentor – người ã chết cách
đó rất lâu. Thậm chí, chồng của Felix-Mentor cũng đã không
dám tin về điều này. Người ta cho rằng cô đã "đội mồ" sống
dậy mà không ai phát hiện từ trước.
Một bác sĩ chăm sóc cho Felicia đã miêu tả những hành vi của Felix-Mentor như sau:
“Thi thoảng cô ấy lại phá lên cười mà chẳng vì lý do gì, mặt cũng không biểu lộ cảm xúc. Cô ấy còn thường xuyên tự nói chuyện với mình, thậm chí còn tự mình đóng hai vai. Cô ấy mất hoàn toàn khái niệm về thời gian và tỏ ra cực kỳ xa lạ với những đồ vật xung quanh.”
3. Chupas
Chupas là một vật thể bí ẩn được cho là vật thể bay
UFO) bất ngờ được phát hiện trong đêm ở khu rừng phía
đông Brazil. Chúng được miêu tả là một vật thể kim loại,
nhỏ, bay trên đầu những ngọn cây, gây ra âm thanh giống như
tiếng kêu của tủ lạnh.
Vì hầu hết người dân sống trong khu vực đó đều rất nghèo nên họ thường xuyên ra ngoài vào buổi đêm để săn bắn hươu nai. Trong lúc trèo lên cây và nằm chờ con mồi xuất hiện, họ khẳng định đã nhìn thấy vật thể bay kì lạ phát ra một thứ ánh sáng màu trắng chói lòa.
Sau đó, khu vực này xảy ra một số vụ mất tích kỳ lạ. Nhiều người buộc tội những vật thể này đã bắt cóc rồi trả họ về với những vết thương dai dẳng kéo dài từ ngày này qua tháng khác, có khi là vài năm. Thậm chí có nhiều người còn bị chết bởi những tia sáng phát ra từ chupas. Cũng có người dùng súng thử bắn vào chupas nhưng chẳng đem lại kết quả gì.
Theo Hải Yến (Theo Listverse) (Khampha.vn)5. Dấu chân của quỷ
Trên thế giới ghi nhận nhiều báo cáo về "dấu chân của quỷ" nhưng nổi tiếng nhất là ở Devon, Anh. Cụ thể, sau một trận bão tuyết vào buổi tối ngày 8-9/2/1855, người dân bản địa đã phát hiện một chuỗi những dấu vết như móng guốc xuất hiện trên nền tuyết trắng.
Những dấu chân này rộng khoảng từ 4-6,5cm và cách nhau khoảng 24cm, kéo dài hơn 160km, có những đoạn chuyển hướng nhưng đa phần là đi thẳng. Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm, tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
4. Felicia Felix-Mentor
Felicia Felix-Mentor được xác nhận là đã chết vào năm 1907, sau một cơn bạo bệnh. Tuy nhiên, năm 1936, cô lại bất ngờ xuất hiện trên đường phố và đi về phía một trang trại. Người phụ nữ quần áo rách rưới này khăng khăng rằng đó là tài sản thuộc về cha cô.
Một bác sĩ chăm sóc cho Felicia đã miêu tả những hành vi của Felix-Mentor như sau:
“Thi thoảng cô ấy lại phá lên cười mà chẳng vì lý do gì, mặt cũng không biểu lộ cảm xúc. Cô ấy còn thường xuyên tự nói chuyện với mình, thậm chí còn tự mình đóng hai vai. Cô ấy mất hoàn toàn khái niệm về thời gian và tỏ ra cực kỳ xa lạ với những đồ vật xung quanh.”
3. Chupas
Vì hầu hết người dân sống trong khu vực đó đều rất nghèo nên họ thường xuyên ra ngoài vào buổi đêm để săn bắn hươu nai. Trong lúc trèo lên cây và nằm chờ con mồi xuất hiện, họ khẳng định đã nhìn thấy vật thể bay kì lạ phát ra một thứ ánh sáng màu trắng chói lòa.
Sau đó, khu vực này xảy ra một số vụ mất tích kỳ lạ. Nhiều người buộc tội những vật thể này đã bắt cóc rồi trả họ về với những vết thương dai dẳng kéo dài từ ngày này qua tháng khác, có khi là vài năm. Thậm chí có nhiều người còn bị chết bởi những tia sáng phát ra từ chupas. Cũng có người dùng súng thử bắn vào chupas nhưng chẳng đem lại kết quả gì.
Dấu chân của quỷ: Bí ẩn "rợn tóc gáy"
Thứ Ba, ngày 17/06/2014 10:08 AM (GMT+7)
Sự kiện:
Bí ẩn thế giới
Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng
ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm,
tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
2. SS Ourang Medan
Tháng 2/1948, rất nhiều cuộc gọi cứu nạn từ tàu chở
hàng Ourang Medan của Hà Lan báo về các tàu gần
Indonesia. Một trong những thông điệp rùng rợn được gửi đi
có đoạn: “Tất cả mọi người bao gồm cả thuyền trưởng
đã chết trong cabin và trên boong tàu. Có thể là toàn bộ
thủy thủ đoàn cũng đã chết.” Theo sau thông điệp
là một chuỗi các đoạn mã Morse không thể đọc được và
cuối cùng là lời nói…"Tôi chết mất".
Vài tiếng sau đó, khi tàu cứu hộ đầu tiên đến hiện trường, họ đã cố gắng gọi Ourang Medan nhưng không nhận được phản hồi nào. Cuối cùng, mọi người quyết định điều một chiếc máy bay đến kiểm tra. Kết quả là những gì mà họ nhìn thấy vô cùng kinh hoảng.
Tất cả những thuyền viên và thủy thủ đoàn trên tàu Ourang Medan đều đã chết trong trạng thái mắt mở to nhìn về phía mặt trời, những cánh tay dang rộng và nét mặt biểu lộ rõ sự sợ hãi, khủng hoảng.
Khi bước vào trong phòng hơi, thủy thủ trong đoàn cứu hộ bỗng cảm thấy ớn lạnh mặc dù nhiệt độ ở đó là gần 43,5 độ C. Khi đã có quyết định kéo thuyền về cảng thì bỗng nhiên có một luồng khói bốc lên từ phía thân tàu. Các thủy thủ đoàn cứu hộ phải rời tàu và gần như ngay lập tức, chiếc tàu Ourang Medan phát nổ và chìm dần xuống đáy đại dương.
Cho đến tận ngày hôm nay, số phận chính xác của Ourang Medan và các thuyền viên trên đó vẫn còn là một điều bí ẩn.
1. Gef
Tháng 9/1931, gia đình Irving gồm James, Margaret và cô con
gái Voirrey 13 tuổi đều quả quyết rằng họ đã nghe thấy
những tiếng cào, tiếng sột soạt vang lên đằng sau bức
tường bằng gỗ trong ngôi nhà đang sinh sống. Đầu tiên,
họ nghĩ đó là một con chuột, nhưng rồi sinh vật kì lạ đó
bắt đầu phát ra những âm thanh khác nhau như tếng rít của
một con chồn, tiếng gầm gừ của chó hay tiếng líu ríu của
một đứa bé.
Sau đó người ta phát hiện đây là một con cầy mangut biết nói– thường được gọi là Gef. Sinh vật này được cho là sinh ra ở New Delhi, Ấn Độ vào năm 1852.
Theo Voirrey, người duy nhất nhìn thấy rõ ràng sinh vật đó cho biết, nó có kích cỡ như một con chuột nhỏ với bộ lông vàng và cái đuôi rậm rạp (thực tế thì loài cầy Ấn Độ lớn hơn rất nhiều so với một con chuột và không có một cái đuôi rậm).
Trong một bài phỏng vấn cuối cùng của bà, Voirrey cho biết, Gef không phải là sản phẩm do bà tạo ra.
Theo Hải Yến (Theo Listverse) (Khampha.vn)Vài tiếng sau đó, khi tàu cứu hộ đầu tiên đến hiện trường, họ đã cố gắng gọi Ourang Medan nhưng không nhận được phản hồi nào. Cuối cùng, mọi người quyết định điều một chiếc máy bay đến kiểm tra. Kết quả là những gì mà họ nhìn thấy vô cùng kinh hoảng.
Tất cả những thuyền viên và thủy thủ đoàn trên tàu Ourang Medan đều đã chết trong trạng thái mắt mở to nhìn về phía mặt trời, những cánh tay dang rộng và nét mặt biểu lộ rõ sự sợ hãi, khủng hoảng.
Khi bước vào trong phòng hơi, thủy thủ trong đoàn cứu hộ bỗng cảm thấy ớn lạnh mặc dù nhiệt độ ở đó là gần 43,5 độ C. Khi đã có quyết định kéo thuyền về cảng thì bỗng nhiên có một luồng khói bốc lên từ phía thân tàu. Các thủy thủ đoàn cứu hộ phải rời tàu và gần như ngay lập tức, chiếc tàu Ourang Medan phát nổ và chìm dần xuống đáy đại dương.
Cho đến tận ngày hôm nay, số phận chính xác của Ourang Medan và các thuyền viên trên đó vẫn còn là một điều bí ẩn.
1. Gef
Sau đó người ta phát hiện đây là một con cầy mangut biết nói– thường được gọi là Gef. Sinh vật này được cho là sinh ra ở New Delhi, Ấn Độ vào năm 1852.
Theo Voirrey, người duy nhất nhìn thấy rõ ràng sinh vật đó cho biết, nó có kích cỡ như một con chuột nhỏ với bộ lông vàng và cái đuôi rậm rạp (thực tế thì loài cầy Ấn Độ lớn hơn rất nhiều so với một con chuột và không có một cái đuôi rậm).
Trong một bài phỏng vấn cuối cùng của bà, Voirrey cho biết, Gef không phải là sản phẩm do bà tạo ra.
Vụ thảm sát bí ẩn đeo bám cảnh sát Đức gần 100 năm
Trang Ly |
Vụ thảm sát khiến 6 người chết một cách bí ẩn tại "trang trại ma ám" Hinterkaifeck cho đến nay là bí ẩn gần 100 năm chưa thể giải mã trong lịch sử nước Đức.
Mặc dù đã qua hàng chục cuộc điều
tra quy mô lớn với hàng trăm kẻ tình nghi bị điều tra xét hỏi, nhờ đến
sự can thiệp của cả những nhà ngoại cảm nổi tiếng nhưng nguyên nhân và
hung thủ trong vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn là một ẩn số của Đức.
Hinterkaifeck, tên một trang trại lớn
nằm gần khu rừng Groebern nằm cách thành phố Munich (Đức) khoảng 70km,
đã trở thành cái tên đầy ám ảnh của cảnh sát và người dân Đức.
Với cái chết đầy bí ẩn của 6 người trong một gia đình trong thập niên 1920, "vụ án Hinterkaifeck" trở thành trường hợp bí ẩn nhất trong lịch sử án hình sự Đức.
Dù các chi tiết không được công bố rộng
rãi, nhưng vụ án này đã trở nên nổi tiếng. Rất nhiều bộ phim và tiểu
thuyết đã được xây dựng từ câu chuyện này và thu hút một lượng lớn khán
giả.
Poster của bộ phim lấy cảm hứng từ vụ án Hinterkaifeck
Thảm kịch bí ẩn bắt đầu...
Vào đầu những năm 1920, gia đình nhà Andreas Gruber đã đến Hinterkaifeck và trở thành chủ trang trại rộng lớn.
Gia đình Andreas Gruber gồm 5 người, gồm
vợ chồng Andreas Gruber và Cazilia Gruber, cô con gái Viktoria và hai
người cháu họ của Cazilia (là bé Cäzilia (7 tuổi) và Joesef (2 tuổi)).
Vì trang trại cách xa đường phố và khu
dân cư nên rất ít người quan tâm đến nên cả gia đình Andreas Gruber đã
sống cô lập, không quan tâm đến thế giới bên ngoài.
Trang trại Hinterkaifeck nhuốm màu chết chóc
Cuộc sống thầm lặng của họ có lẽ vẫn trôi đi nhẹ nhàng nếu không có bi kịch giáng xuống đầu.
Dấu hiệu bất thường đầu tiên xuất hiện vào cuối năm 1921, người hầu gái trung thành của gia đình đột ngột bỏ việc vì cho rằng trang trại bị ma ám.
Đến tận cuối tháng 3/1922, gia đình Gruber mới tìm được người hầu mới tên là Maria Baumgartner.
Cũng trong thời gian này, những hiện
tượng lạ bắt đầu diễn ra liên tiếp. Andreas kể với hàng xóm rằng ông
thấy những dấu chân lạ từ rừng dẫn tới trang trại, nhưng điều kì quặc là
không thấy dấu chân quay trở lại rừng.
Sau đó, ông bắt đầu nghe thấy tiếng bước
chân trên gác xép. Không những thế, các hiện tượng kỳ lạ liên tiếp xảy
ra: Một chùm chìa khóa biến mất; một tờ báo không phải loại gia đình
Gruber đặt được tìm thấy gần đó.
Andreas Gruber đã tìm kiếm, lục soát toàn bộ căn nhà và khu trang trại nhưng không thấy bất cứ một dấu vết gì của người lạ.
Tài sản cũng như đồ đạc trong nhà không
có hiện tượng bị lục soát. Andreas Gruber vẫn nghĩ rằng có kẻ lạ mặt
đang lẩn trốn trong nhà nên ông ta ra sức tìm kiếm nhưng đều thất bại.
Cả gia đình nhà Andreas Gruber trở nên hoang mang tột độ
Và vào thứ 6 ngày 31/5
là ngày cuối cùng mà người ta nhìn thấy các thành viên trong gia đình
Andreas Gruber bởi những ngày sau đó không ai còn nhìn thấy bất cứ thành
viên nào trong gia đình của Andreas Gruber.
Ngày 4/4, sự vắng mặt của gia đình Gruber tại nhà thờ và trường học khiến hàng xóm bắt đầu lo ngại.
Người dân thị trấn bắt đầu đến khu trang
trại và tiến hành tìm kiếm. Ngay khi tìm đến, một cảm giác lạnh lẽo, u
ám bao trùm tất cả những người có mặt tại đó.
Theo kết quả tìm kiếm ban đầu thì, chưa ai tìm ra bất cứ một dấu vết gì của những thành viên trong gia đình Andreas Gruber.
Mọi đồ vật trong nhà vẫn ngay ngắn như
vốn dĩ chúng đã thế. Mọi người quyết định tìm kiếm bên trong nhà kho,
khi cánh cửa nhà kho mở ra thì một cảnh tượng hãi hùng ngoài sức tưởng
tượng của mọi người hiện ra:
Các thi thể được xếp chồng lên nhau và
phủ lên trên bởi đống cỏ khô. Đầu tiên là thi thể của Andreas Gruber, vợ
và con gái, tiếp theo là thi thể của người hầu gái và hai cháu bé trong
phòng ngủ.
Các xác chết bị vùi trong cỏ khô
Tất cả thi thể đều dính đầy vết máu khô.
Người dân thị trấn ngay lập tức gọi cảnh sát và trong vài giờ điều tra
của Sở Cảnh sát Munich tại hiện trường.
Vào ngày 5/4,
kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, cả gia đình Gruber đều bị giết bằng
cuốc chim. Các nạn nhân đều tử vong vào ngày 31/3/1922.
Nạn nhân bao gồm: Hai vợ chồng Andreas
Gruber (63 tuổi) và Cazilia Gruber (72 tuổi), cô con gái Viktoria
Garbiel (35 tuổi), bé Cäzilia (7 tuổi), Joesef (2 tuổi) và người hầu gái
Maria Baumgartner (44 tuổi).
Những bí ẩn khó hiểu tại hiện trường
Điều tra thêm, cảnh sát cho biết, tất cả các nạn nhân đều đang mặc quần áo ngủ, ngoại trừ bé Cazilia và Viktoria.
Bên cạnh đó, người hầu gái và cháu bé
hai tuổi bị chết trên giường, chứng tỏ rằng vụ giết người đã xảy ra vào
buổi tối muộn, khi các nạn nhân đang ngủ.
Nơi phát hiện 3 thi thể trong nhà
Theo nhận định của cảnh sát, có thể bọn
tội phạm đã tìm cách kéo Andreas Gruber, vợ và con gái vào nhà kho rồi
dùng cuốc chim giết chết họ, sau đó mới vào nhà để tiếp tục giết chết
những thành viên còn lại ngay tại giường ngủ.
Hung thủ giết người còn cố tình che đậy
các thi thể trong nhà kho bằng cỏ khô, những thi thể trong phòng ngủ
được che đậy bằng ga trải giường.
Có nhiều nhận định được đưa ra nhưng vẫn
chưa có một kết luận chính xác nhất bởi theo lời kể của một số nhân
chứng thì ngày người ta phát hiện ra các thi thể của gia đình nhà
Andreas Gruber.
Họ vẫn nhìn thấy khói bếp bốc ra từ trang trại chứng tỏ rằng ngôi nhà vẫn có người ở.
Bên cạnh đó, bàn ăn, giường ngủ còn được
nhận định rằng, có người vừa mới ăn và cũng vừa mới ngủ chứ không phải
là bàn ăn, giường ngủ đã vắng bóng người dùng.
Chưa hết, gia súc vẫn được cho ăn và
chăm sóc trong thời gian đó. Đồ ăn thừa còn khá mới được tìm thấy trong
bếp. Số tiền khá lớn mà gia đình Gruber tích trữ được vẫn còn nguyên.
Cuộc điều tra bế tắc
Cảnh sát điều tra đã gặp phải rất nhiều
khó khăn trong công việc điều tra để có thể tìm ra manh mối của vụ án.
Những cuộc tranh cãi liên tục xảy ra nhưng không thể tìm được một kết
luận chung.
Họ chỉ có thể kết luận rằng kẻ sát nhân đã giết gia đình Gruber và sau đó ở lại trang trại vài ngày trước khi biến mất.
Quan tài chứa thi thể những người trong gia đình Gruber. Ảnh: Historicmysteries
Thủ phạm là người biết cách điều hành
một trang trại, quen chăm sóc gia súc và không phải người lạ với chú chó
của gia đình Gruber, đủ khỏe để dùng cuốc chim giết người, không quan
tâm tới tiền bạc và có động cơ giết người hoàn toàn cá nhân.
Dù đã điều tra kĩ lưỡng trên quy mô lớn, họ vẫn không tìm được bất cứ kẻ tình nghi nào cho vụ án ở trang trại Hinterkaifeck.
Cảnh sát đã tuyệt vọng tới mức gửi xương
sọ của nạn nhân tới cho các nhà ngoại cảm để tìm manh mối, nhưng vẫn
không có kết quả gì.
Những gì còn lại trong vụ thảm sát 6 người chết là một loạt những câu hỏi không lời giải đáp:
Tại sao người hầu gái Maria đã bị ám ảnh
đến mức thần kinh hoảng loạn? Tại sao kẻ giết người lại ở lại ngôi nhà
gần một tuần, rồi ăn uống, ngủ nghỉ sau khi đã gây án giết chết toàn bộ
thành viên trong gia đình không ghê tay?
Mục đích của thủ phạm là gì thì vẫn chưa
ai có thể trả lời được. Nhiều người đã khẳng định trang trại
Hinterkaifeck đã bị ma ám chứ không có kẻ giết người nào lại cao siêu
đến vậy.
Giết người hàng loạt mà không để lại bất
cứ dấu vết nào tại hiện trường. Những dấu chân bí ẩn trên tuyết, những
tiếng động lạ trên căn gác vẫn không thể nào giải thích được.
Qua gần 100 năm, vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn chìm sâu trong bí ẩn cùng nỗi sợ hãi của người dân cùng thời.
*Bài viết tham khảo các nguồn: Wikipedia, ZingBí ẩn dịch bệnh "điệu nhảy tử thần" khiến tất cả giới khoa học bó tay
Cách đây hơn 500 năm tại Strasbourg (Pháp), một dịch bệnh kì lạ đã khiến hàng trăm người cùng nhau nhảy múa cho tới chết.
Nhắc tới cụm từ đại dịch, hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới những căn bệnh
đáng sợ cướp đi sinh mạng của rất nhiều người trong lịch sử. Đó là "Cái
chết đen" thời Trung Cổ, là HIV/AIDS cuối thế kỷ XX và mới đây nhất là Ebola ở châu Phi.
Tuy nhiên, có những dịch bệnh không
chỉ đáng sợ mà còn vô cùng bí ẩn đến mức cho tới nay, con người vẫn
chưa thể lý giải được nguyên nhân. Thảm kịch xảy ra vào tháng 7/1518 tại
Strasbourg (Pháp) là một trong những câu chuyện điển hình như vậy.
Bắt nguồn từ điệu nhảy điên cuồng của một người phụ nữ...
Mùa
hè tháng 7 năm 1518, người phụ nữ có tên Frau Troffea bước vào một con
hẻm nhỏ ở Strasbourg (Pháp). Trước sự chứng kiến của đám đông, cô bắt
đầu nhảy múa "dữ dội".
Không hề có tiếng nhạc,
cũng không lấy một cảm xúc trên khuôn mặt nhưng cô ấy cứ vô tư nhảy như
thể có cả dàn nhạc vây quanh. Đặc biệt hơn, Troffea nhảy liên tục cả
ngày lẫn đêm mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Cho tới ngày thứ sáu, điệu nhảy
đã dừng lại khi cô gái kiệt sức mà chết.
Ban
đầu, mọi người nghĩ rằng cô có vấn đề về thần kinh hay do bị quỷ ám nên
mới có những hành động bất thường như vậy. Nhưng sau khi Troffea nhảy
múa, một người khác bắt đầu nhảy theo, rồi thêm một người nữa. Một tuần
sau, người ta đếm được 34 người đã bắt chước hành động giống hệt như
Troffea tại khắp các con đường của thành phố.
Đường phố Strasbourg - nơi "điệu nhảy tử thần" tàn phá thành phố này.
Sự
việc càng ngày càng trở nên kì lạ khi chỉ sau một thời gian ngắn,
khoảng 400 người dân ở Strasbourg tham gia vào điệu nhảy này. Và giống
như những trường hợp trước, họ nhảy múa điên cuồng cho tới chết. Theo
các ghi chép của cơ quan y tế thời đó, các nạn nhân tử vong do đau tim
và kiệt sức.
Những
cư dân thời đó cho rằng, họ hoàn toàn có thể chữa được căn bệnh lạ có
tên gọi "dịch bệnh nhảy múa" trên bằng cách lấy độc trị độc. Vì vậy, họ
dựng các sân khấu bằng gỗ và mời nhạc công đến để giúp các nạn nhân nhảy
múa.
Kết quả là, họ không những không dập tắt
được "dịch bệnh", mà ngược lại còn khiến hàng chục người nhảy múa không
ngừng và tạm biệt cuộc sống vì nhồi máu cơ tim.
... tới những giả thuyết bí ẩn đằng sau đó
Thoạt
nghe, thảm kịch trên có vẻ giống những câu chuyện dân gian để dọa trẻ
em. Bởi trên lý thuyết, Frau Troffea và những người nhảy múa điên cuồng
đúng ra đã chết vì mất nước sau khi liên tục vận động như vậy. Theo các
bác sĩ, họ chỉ sống tối đa được ba ngày.
Thế
nhưng các tài liệu cổ lại khẳng định họ vẫn tiếp tục nhảy múa trong
nhiều ngày liền mà không hề ăn uống. Ngay cả những vận động viên điền
kinh, vận động viên marathon giỏi nhất hiện nay có lẽ cũng không thể làm
được điều đó.
Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt ra rất nhiều giả thuyết nhằm giải
đáp nghi vấn về dịch bệnh kì lạ trên. Phần đông mọi người đều cho rằng,
rất có thể Troffea và các nạn nhân đều đã mắc một chứng bệnh thần kinh
vì stress nặng và gây ảnh hưởng tới cả cộng đồng.
Tuy nhiên, nguyên nhân của chứng bệnh này được lý giải với nhiều căn cứ khác nhau.
Giả
thuyết đầu tiên cho rằng sở dĩ Troffea và những người khác mắc chứng
nhảy múa điên loạn tới chết là bởi quá đói nghèo. Vào thời điểm xảy ra
câu chuyện, Strasbourg đang chật vật trong nạn đói khủng khiếp.
Do
đó, nhiều người có thể đã bị stress quá nặng và mắc bệnh. Tuy nhiên,
lập luận này cũng có nhiều điểm sai sót, bởi mô tả từ các tài liệu cổ
đều khẳng định, nạn nhân rất khỏe mạnh chứ không hề có biểu hiện co
giật, vận động yếu ớt như bị đói.
Giả
thuyết thứ hai lại hướng tới khả năng các nạn nhân đã bị trúng độc. Cụ
thể, Troffea và những người khác đã ăn phải lúa mạch đen bị mọc nấm cựa
gà.
Khi ăn lúa mạch đen bị mốc sẽ khiến cơ thể
co giật như nhảy múa. Song nếu đây là sự thật thì lẽ ra các nạn nhân đã
qua đời ngay lập tức bởi nấm cựa gà cực độc, có thể gây chết người khi
ăn.
Giả
thuyết thứ ba do giáo sư John Waller Đại học bang Michigan đưa ra. Ông
cho rằng căn bệnh rối loạn tâm lý quần chúng này bắt nguồn tự sự mê tín
dị đoan.
Nạn nhân của chúng phần lớn đều là
những người đang chết đói, họ chẳng còn gì, không biết nương tựa vào đâu
ngoài tín ngưỡng, sự sợ hãi tràn ngập trong tâm trí họ. Vì vậy, có thể
họ đã nhảy múa với mong muốn được Đấng Tối cao giúp đỡ cho tới khi qua
đời.
*
Cho tới nay, tranh luận về câu chuyện này vẫn còn chưa ngã ngũ. Và dịch
bệnh "Điệu nhảy tử thần" vẫn còn nằm lại trong kho tàng những bí ẩn
chưa lời giải đáp của nhân loại.
Nguồn: Wikipedia, Historic Mysteries
Những vụ phát điên tập thể kỳ lạ nhất thế giới
Thứ sáu, 30/01/2015 11:07
Trong lịch sử từng ghi nhận khá nhiều vụ phát
điên tập thể của hàng ngàn người mà đến nay khoa học vẫn chưa có câu trả
lời đích xác.
Nhắc tới cụm từ đại dịch, hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới những căn bệnh đáng sợ cướp đi sinh mạng của rất nhiều người trong lịch sử. Đó là "Cái chết đen" thời Trung Cổ, là HIV/AIDS cuối thế kỷ XX và mới đây nhất là Ebola ở châu Phi.
Tuy nhiên, có những dịch bệnh không chỉ đáng sợ mà còn vô cùng bí ẩn đến mức cho tới nay, con người vẫn chưa thể lý giải được nguyên nhân. Đó chính là "đám đông điên loạn" hay "phát điên tập thể".
Đây là một thuật ngữ mô tả tình huống trong đó các triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý xuất hiện hàng loạt và lây lan nhanh chóng trên khắp các cộng đồng, các làng xóm, thị trấn, và thậm chí còn lan qua nhiều quốc gia.
Trong mỗi đợt bùng phát, một cá nhân có thể có triệu chứng nói cười mất kiểm soát, chóng mặt, cơ bắp rã rời, ngất xỉu hoặc những triệu chứng khác mà không phải do bất kỳ tác động cơ học nào. Nhiều trường hợp điên loạn đã được ghi chép lại từ nhiều thế kỷ qua trên khắp thế giới.
Tới thời trung cổ, người ta thay thế lý thuyết này và đổ lỗi cho phù thủy, ma quỷ chiếm xác, hoặc do bệnh điên thực sự. Trong khi các triệu chứng đám đông điên loạn tiếp tục khiến cộng đồng y học bối rối, ngày nay người ta thường cho rằng hiện tượng đó có liên quan tới khả năng căng thẳng về cảm xúc và thần kinh.
Nhảy múa điên loạn thời Trung Cổ (thế kỷ XIII - XVII)
Mùa hè tháng 7/1518, người phụ nữ có tên Frau Troffea bước vào một con hẻm nhỏ ở Strasbourg (Pháp). Trước sự chứng kiến của đám đông, cô bắt đầu nhảy múa "dữ dội".
Tranh khắc của Hendrik Hondius mô tả ba người phụ nữ mắc “chứng khiêu vũ” –
(Dancing Plague), dựa vào bức tranh của Peter Brueghel, người được cho là nhân
chứng đã chứng kiến căn bệnh bùng phát ở Flanders vào 1564.
Không hề có tiếng nhạc, cũng không lấy một cảm xúc trên khuôn mặt nhưng cô ấy cứ vô tư nhảy như thể có cả dàn nhạc vây quanh. Đặc biệt hơn, Troffea nhảy liên tục cả ngày lẫn đêm mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Cho tới ngày thứ sáu, điệu nhảy đã dừng lại khi cô gái kiệt sức mà chết.
Ban đầu, mọi người nghĩ rằng cô có vấn đề về thần kinh hay do bị quỷ ám nên mới có những hành động bất thường như vậy. Nhưng sau khi Troffea nhảy múa, một người khác bắt đầu nhảy theo, rồi thêm một người nữa. Một tuần sau, người ta đếm được 34 người đã bắt chước hành động giống hệt như Troffea tại khắp các con đường của thành phố.
Chứng nhảy múa điên loạn nhanh chóng lan rộng khắp nơi.
Sự việc càng ngày càng trở nên kì lạ khi chỉ sau một thời gian ngắn, khoảng 400 người dân ở Strasbourg tham gia vào điệu nhảy này. Và giống như những trường hợp trước, họ nhảy múa điên cuồng cho tới chết. Theo các ghi chép của cơ quan y tế thời đó, các nạn nhân tử vong do đau tim và kiệt sức.
Những cư dân thời đó cho rằng, họ hoàn toàn có thể chữa được căn bệnh lạ có tên gọi "dịch bệnh nhảy múa" trên bằng cách lấy độc trị độc. Vì vậy, họ dựng các sân khấu bằng gỗ và mời nhạc công đến để giúp các nạn nhân nhảy múa.
Kết quả là, họ không những không dập tắt được "dịch bệnh", mà ngược lại còn khiến hàng chục người nhảy múa không ngừng và tạm biệt cuộc sống vì nhồi máu cơ tim.
Chứng Bệnh Nhảy này xảy ra ở Châu Âu nhiều lần vào thời Trung Cổ, bùng phát ở Ý, Luxembourg, Pháp, Đức, Hà Lan, và Thụy Sĩ. Đầu tiên bệnh được cho là do lời nguyền từ một vị thánh có tên là John The Baptist, hoặc là thánh Vitus.
Rất nhiều người chết vì bệnh này.
Cái tên này sau cũng được dùng để gọi cho tình trạng này. Những người mắc chứng này phải đi tới những nơi thờ phượng những vị thánh nói trên để cầu xin được giải thoát khỏi các phiền não. Và có vẻ như phương cách này đã có hiệu quả giúp nhiều người thời đó phục hồi lại một cơ thể khỏe mạnh.
GS John Waller Đại học bang Michigan cho rằng căn bệnh rối loạn tâm lý quần chúng này bắt nguồn tự sự mê tín dị đoan. Nạn nhân của chúng phần lớn đều là những người đang chết đói, họ chẳng còn gì, không biết nương tựa vào đâu ngoài tín ngưỡng, sự sợ hãi tràn ngập trong tâm trí họ. Vì vậy, có thể họ đã nhảy múa với mong muốn được Đấng Tối cao giúp đỡ cho tới khi qua đời.
Nữ tu Pháp kêu như mèo (Thế kỷ XIX)
Trong quyển sách viết năm 1844 “Dịch bệnh thời kỳ Trung Cổ” của J.F.C. Hecker, có kể về một trường hợp các nữ tu kêu như mèo ở một tu viện ở Pháp.
Trước năm 1900 cũng có nhiều báo cáo về sự phát cuồng tập thể diễn ra bên trong các cơ sở tôn giáo. Đặc biệt, các nữ tu viện châu Âu thường là nơi bùng phát hiện tượng này. Trong một vụ, các triệu chứng bệnh được thể hiện bằng một hành động tập thể kỳ quặc. Một nguồn tin từ năm 1844 đưa tin rằng “một nữ tu sĩ, tại một nữ tu viện rất lớn ở Pháp, bắt đầu kêu meo meo như mèo; không lâu sau đó, các nữ tu sĩ khác cũng kêu meo meo không ngừng”.
Ít nhất, tất cả các nữ tu sĩ cũng cùng nhau kêu meo meo mỗi ngày, vào một thời điểm nhất định trong nhiều giờ liền. Việc kêu như mèo tiếp diễn cho tới khi những người hàng xóm lên tiếng phàn nàn và các binh sĩ được triệu đến, đe dọa đánh roi các nữ tu sĩ cho tới khi họ ngừng kêu tiếng mèo.
Trong thời kỳ này, niềm tin vào sự chiếm hữu (ví dụ như bị động vật hay quỷ ám) rất phổ biến và mèo đặc biệt bị nghi kỵ là có liên quan đến quỷ Satan. Các vụ bùng phát gây tiếng kêu hoặc cử chỉ như động vật thường kéo dài một vài ngày tới vài tháng, mặc dù một số trường hợp tiếp diễn tới hàng năm.
Bệnh cười ở Tanganyika (1962)
Chứng bệnh cười ở Tanganyika bắt đầu vào ngày 30/1/1962, tại một trường nữ sinh do các nữ tu quản lý ở Kashasha, Tanzania.
Chứng bệnh cười bắt đầu từ ba nữ sinh nhưng nhanh chóng lây lan ra toàn trường, kéo dài nhiều giờ, thậm chí hàng tuần, dẫn tới việc trường phải đóng cửa vào ngày 18/4/1962.
Nhưng không dừng ở đó, sau khi trường bị đóng cửa, chứng loạn thần kinh lây lan ra các ngôi làng gần đó. Hàng ngàn trẻ em bị ảnh hưởng, và 14 trường học buộc phải đóng cửa. Chứng loạn thần kinh cuối cùng cũng kết thúc 18 tháng sau đó.
Phiên tòa phù thủy Salem (1692 – 1693)
Một trong những trường hợp ghê rợn nhất của chứng loạn thần xảy ra ở Salem (Massachusett, Hoa Kỳ) năm 1692. Hàng chục nữ sinh có triệu chứng la hét và nhăn nhó, làm dấy lên những cáo buộc phù thủy ở địa phương.
Kết quả là hàng loạt phiên tòa hành hình những người bị cáo buộc có dính dáng tới ma thuật phù thủy, gọi là "Những phiên tòa phù thủy" ở Salem. Có 25 người đã bị chết ở Salem và các thị trấn lân cận.
Các phiên tòa phù thủy ở Salem, vốn rất có ảnh hưởng trong lịch sử Hoa kỳ, đã được dùng trong chính trị và văn chương để nhấn mạnh về sự nguy hiểm của chủ nghĩa cô lập, cực đoan tôn giáovà kẽ hở của tư pháp.
Theo Khỏe & Đẹp
Bí ẩn hơn 40 năm qua của tín hiệu "Wow!" đã được giải mã
Phong Nguyen Spiderum |
1977 là năm đầu tiên chúng ta nhận được một tín hiệu vô tuyến đến từ bên ngoài Trái Đất và nghe được bằng tai thường. Nhà thiên văn học Jerry Ehman khi sử dụng kính viễn vọng vô tuyến (radio telescopes) Big Ear của Đại học Ohio, đã phát hiện ra các tín hiệu “Wow!” đến từ không gian.
Hết sức xin lỗi các fan hâm mộ khoa học viễn tưởng và người ngoài hành tinh
Big
Ear là một máy nhận sóng vô tuyến có khả năng khuyếch đại, ghi lại và
xác định hướng của các sóng vô tuyến ngoài không gian.
Thời
điểm đó khi hướng máy vào một nhóm các ngôi sao gọi là Chi Sagittarii
trong chòm sao Cung Thủ (Sagittarius) và quét xung quanh các ngôi sao,
Ehman đã bắt được một chu kỳ sóng kéo dài 72 giây: ông dịch ngược và
viết "Wow!:” vào ngay bên cạnh, rồi nó trở thành tên của tín hiệu nổi tiếng suốt 40 năm qua.
Ehman
đã bắt được một chu kỳ sóng kéo dài 72 giây: ông dịch ngược và viết
"Wow!:" vào ngay bên cạnh, rồi nó trở thành tên của tín hiệu nổi tiếng
suốt 40 năm qua.
40 năm qua, tín hiệu
luôn được lấy ra làm bằng chứng cho việc chúng ta không phải là những
kẻ cô đơn giữa thiên hà. Các chuyên gia vũ trụ và những nhà văn viễn
tưởng bỗng nhiên cùng chung một niềm tin rằng chúng ta có hi vọng về
cuộc sống ngoài hành tinh.
Bí ẩn được giải
Tuy
nhiên giờ đây, GS thiên văn học Antonio Paris ở Đại học St Petersburg,
đã khám phá ra lời giải thích phù hợp cho “bằng chứng” này: một cặp sao chổi đã tạo ra tín hiệu Wow. Công bố đã được xuất bản trên tạp chí Washington Academy of Sciences.
Cặp
sao chổi được biết dưới tên 266P/Christensen và 335P/Gibbs, đã tạo ra
những đám mây khí hydro xung quanh chúng với đường kính hàng triệu cây
số. Tín hiệu Wow! được phát hiện ở tần số 1420 MHz, đơn giản là tần số
radio được phát ra từ khí hydro khi thay đổi trạng thái năng lượng trong
tự nhiên.
Tín
hiệu Wow! được phát hiện ở tần số 1420 MHz, đơn giản là tần số radio
được phát ra từ khí hydro khi thay đổi trạng thái năng lượng trong tự
nhiên.
Đáng chú ý, nhóm nghiên cứu đã
xác minh được các sao chổi nằm trong vùng lân cận vào thời điểm đó, và
họ báo cáo rằng các tín hiệu radio đang phát ra từ 266/P Christensen
trùng khớp với những “tín hiệu Wow!” khi xưa.
Bài
báo vấp phải một số nghi ngờ từ các nhà khoa học khác vì chưa từng phát
hiện bức xạ 1420 Mhz từ một sao chổi hay 266/P Christensen tương đối ít
hoạt động ngay cả ở điểm gần mặt trời nhất tuy nhiên nhóm của Paris đã
kiểm nghiệm lại khi quan sát các dữ liệu thiên văn và kết luận không
thay đổi.
Tuy gây đôi chút thất vọng
cho những fan hâm mộ điện ảnh về người ngoài hành tinh, nhưng với việc
giải mã được tín hiệu mạnh nhất từ không gian, là một bước tiến minh
chứng cho khả năng nhận và giải mã chính xác các tín hiệu từ vũ trụ của
con người.
Điều này cho chúng ta hi
vọng và động lực để giải mã hàng trăm tín hiệu "quái dị, ngoài hành
tinh" đến từ những ngôi sao khác được quan sát gần đây, từ các tay chơi
nghiệp dư cho đến những tín hiệu được phát hiện bởi Viện Tìm kiếm Nền văn minh ngoài trái đất (SETI).
Những dự án của tương lai
SETI
sử dụng hệ thống kính viễn vọng vô tuyến để tìm tín hiệu, và dự án tham
vọng nhất của họ cho đến nay là “Dự án Phoenix”, với mục tiêu tìm kiếm
trí tuệ ngoài trái đất một cách “chi tiết và toàn diện nhất thế giới”.
Họ
sử dụng ba kính viễn vọng vô tuyến lớn nhất thế giới: kính Parkes ở Úc
đường kính 64 mét, đài thiên văn vô tuyến quốc gia ở West Virginia -
đường kính 40 mét và Đài quan sát Arecibo ở Puerto Rico đường kính 300
mét.
Họ cũng đã xây dựng nên kính viễn vọng vô tuyến Allen Array với sự hỗ trợ tài chính từ Paul Allen – đồng sáng lập Microsoft
Trong
khi công nghệ dò tìm các thông điệp vũ trụ đứng im trong nhiều năm qua,
những phương tiện giao tiếp, liên lạc của chúng ta bằng vệ tinh vẫn
đang tiến triển rất nhanh. Các ý tưởng khả thi hơn đã xuất hiện, bao gồm
thông tin bằng cách truyền tín hiệu laser vào vũ trụ và thiết lập ra
một mạng vệ tinh không gian.
theo Trí Thức Trẻ
10 âm thanh bí ẩn khoa học không thể giải thích
Tín hiệu Wow, âm thanh của các hành tinh, Slow down, ... là những âm thanh bí ẩn mà đến nay khoa học vẫn chưa thể giải thích.
Slow DownNgày 19/5/1997, Bộ cảm biến âm thanh dưới nước ở vùng Xích đạo Thái Bình Dương của Cục quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ (NOAA) phát hiện một âm thanh kỳ lạ. Các nhà khoa học gọi nó là "Slow Down" (giảm dần) vì tần số âm thanh giảm dần theo chu kỳ 7 phút. Đến nay, con người vẫn chưa xác định được nguồn phát của Slow Down. Một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là âm thanh băng ở Bắc cực di chuyển từ từ. Tuy nhiên, họ không có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận về Slow Down.
EVP - âm thanh của linh hồn
EVP là hiện tượng giọng nói điện tử, ghi âm giọng nói của thế giới tinh thần. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng kỳ bí cho rằng họ đã phát hiện những cuộc trò chuyện kỳ lạ khi tua đi tua lại nhiều lần các cuộn băng ghi âm, máy ghi kỹ thuật số hoặc video.
EVP có thể là một từ, cụm từ, câu hoặc cả đoạn hội thoại. Một số người tin đây là tiếng nói của các linh hồn. Nhưng một số khác cho rằng đây chỉ là hiện tượng nhiễu âm thanh do tự nhiên. Giả thuyết apophenia (ảo quan) cho rằng EVP xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Còn theo giả thuyết pareidolia (ảo giác bổ sung), EVP sinh ra từ việc não người cố biến những âm thanh vô nghĩa thành có nghĩa.
Quacker - tiếng vịt kêu
Tàu ngầm của quân đội Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh |
Âm thanh của hành tinh
Các hành tinh không thể tạo ra âm thanh, hay ít nhất, âm thanh không thể truyền qua các hành tinh vì giữa chúng là môi trường chân không. Tuy nhiên, sóng radio lại có thể truyền đi trong vũ trụ. Trong quá trình các tàu vũ trụ phát sóng radio gửi thông tin về trái đất, một số âm thanh lạ lẫn vào trong đó.
Nhiều người cho rằng các hành tinh và mặt trăng đã phát ra âm thanh tương tự như tiếng huýt sáo hoặc tiếng hú. Các thiết bị thu âm trên tàu vũ trụ ghi lại chúng, chuyển thành sóng âm khiến con người có thể nghe được. Dù vậy, những âm thanh này vẫn là điều bí ẩn.
Tiếng hú bí ẩn
Tiếng hú bí ẩn
Tiếng hú bí ẩn phát ra từ sâu bên trong một khu rừng gần thị trấn nhỏ Conklin, tỉnh Alberta, Canada.
Âm thanh tương tự cũng xuất hiện ở thị trấn Pass, tỉnh Manitoba. Những âm thanh này gây ra nhiều cuộc tranh cãi với hàng loạt các ý kiến khác nhau. Nhiều người nghĩ đây là tiếng nhạc, số khác lại tin đây là tiếng hú từ ngoài trái đất, thậm chí, có ý kiến cho rằng nó là âm thanh của địa ngục. Người dân ở thành phố Glasgow (Scotland), Chicago (Mỹ) và Đan Mạch cũng ghi lại được những tiếng hú tương tự. Tuy nhiên, khoa học vẫn chưa xác định được nguồn gốc của chúng.
Mistpouffer
Mistpouffer là tên gọi chung cho những âm thanh kỳ lạ và ngẫu nhiên phát ra từ những vùng nước lớn như Great Lakes (Hồ Lớn) ở Bắc Mỹ, sông Hoàng Hà ở Ấn Độ. Một số người cho biết chúng nghe như tiếng sấm. Tuy nhiên, Mistpouffer lại phát tại thời điểm không có bão.
Mistpouffer có thể tạo ra sóng xung kích mà con người đứng cách xa nhiều dặm vẫn cảm nhận được. Các nhà khoa học đã đưa ra hàng loạt giả thuyết về nguồn gốc của Mistpouffer như do khí nén, hang động dưới nước sụp đổ, các thiên thạch rơi xuống hay do áp suất không khí tăng nhanh. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra lý giải thích hợp.
Âm thanh bí ẩn ở Trung tâm Thương mại Một Thế giới
Âm thanh bí ẩn ở Trung tâm Thương mại Một Thế giới
Âm thanh kỳ quái phát ra từ Trung tâm Thương mại Một Thế giới
Bloop
Jack Đồ tể: Sát nhân bí ẩn bị lộ mặt sau 120 năm trong bóng tối?
Trang Ly |
Sau hơn 120 năm kể từ ngày gây nên nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thành London, cái tên "Jack Đồ tể" vẫn luôn là đề tài hấp dẫn của giới nghiên cứu tội phạm học.
Trong hồ sơ tội phạm thế giới, Jack Đồ tể (Jack the Ripper) là một trong những sát nhân hàng loạt bệnh hoạn và bí ẩn nhất trong lịch sử.
Từng sát hại dã man 11 nạn nhân với cách
thức giết người "không thể tin được" vào những năm 1880 tại London
(Anh), qua hàng trăm năm, Jack Đồ tể vẫn là đối tượng nghiên cứu, điều
tra hàng đầu của giới cảnh sát và các nhà khoa học.
Jack the Ripper - Cơn ác mộng thực sự của thành London những năm 1880. Hình minh họa.
Jack Đồ tể - Sát nhân hàng loạt đầu tiên trong lịch sử
Câu chuyện về cái tên Jack Đồ tể bắt đầu
từ hàng loạt các vụ án giết người bệnh hoạn nhưng đầy bí ẩn. Trong suốt
thời gian từ năm 1888 đến 1891, 11 nạn nhân, trong đó phần lớn là phụ
nữ, lần lượt bị giết hại với cách thức dã man.
Dù đã mở rất nhiều cuộc điều tra, thẩm
vấn hàng trăm đối tượng tình nghi, nhưng cảnh sát London thời bấy giờ
vẫn không thể nào tìm được đích danh kẻ sát nhân hàng loạt bí ẩn này.
Như muốn trêu ngươi và thách thức cảnh
sát cũng như truyền thông Anh, kẻ sát nhân còn ngạo nghễ gửi một bức thư
"xưng tội" kể về cách thức giết người và thừa nhận trách nhiệm về tội
ác mà mình gây ra viết bằng chính máu của các nạn nhân.
Bức thư thách thức viết bằng máu mà Jack Đồ tể gửi cho cảnh sát.
Đáng buồn thay, dù đã có trong tay "mối
liên hệ" duy nhất với kẻ sát nhân, các nhà điều tra vẫn không sao lần
được chút manh mối nào của kẻ tự nhận là Jack the Ripper - "tác giả" của
hàng loạt các vụ án không được khép lại của hồ sơ.
Sự tàn độc trong cách thức giết người,
những bí mật đen tối không thể giải mã và việc công khai thách thức cảnh
sát Anh thời bấy giờ của Jack Đồ tể là chủ đề cho giới truyền thông
London khai thác triệt để.
Cái tên Jack Đồ tể nhanh chóng trở thành
nỗi sợ hãi tột cùng của người dân London. Cả khu vực Whitechapel ở East
End, nơi Jack gây án, trở nên hoảng loạn điên cuồng.
Lần đầu tiên trong lịch sử tội phạm học, Jack Đồ tể trở thành kẻ giết người hàng loạt được ghi nhận.
4 kẻ tình nghi lớn nhất
Những thi thể bị sát hại đầy kinh dị gần như bóp nghẹt tinh thần của người dân thành London gần cuối thế kỷ 19.
Khi không có được kết luận chính thức từ
cảnh sát, người ta rỉ tai nhau về Jack Đồ tể. Kẻ đứng sau mặt nạ máu bí
ẩn kia có thể là một bác sĩ y khoa điên rồ, một kẻ tâm thần không ổn
định, hay một gã từng có tuổi thơ bị lạm dụng...
Cảnh sát lúc đó gần như bất lực trong
việc tìm ra chân tướng thủ phạm. Trong bản hồ sơ còn dang dở, chỉ có 4
nhân vật tình nghi là Jack the Ripper lớn nhất, gồm: Francis J. Tumblety, Montague John Druitt, Michael Ostrog và Kosminski.
5 nạn nhân đầu tiên của Jack Đồ tể đều là nữ giới, sống ở các khu ổ chuột trong thành London.
Kẻ nằm trong danh sách tình nghi thứ hai là Montague John Druitt, một luật sư kiêm giáo viên. Vào tháng 12/1888, Druitt đã tự tử tại nhà riêng.
Kẻ thứ ba là Michael Ostrog. Kẻ này chuyên sống bằng nghề trộm cắp và lừa đảo. Kosminski là
kẻ bị tình nghi thứ 4. Hắn là một người Ba Lan gốc Do Thái sống tại khu
ổ chuột Whitechapel (một trong những địa bàn hoạt động của Jack Đồ tể).
Vì không có bất cứ bằng chứng cụ thể
nào, nên cuối cùng, 4 kẻ nằm trong danh sách bị tình nghi lớn nhất này
vẫn chỉ là... tình nghi.
Jack Đồ tể ngạo nghễ nhìn cảnh sát Anh loay hoay phá án. Hình minh họa.
Sau nhiều năm điên đầu điều tra, cảnh sát đã khép lại hồ sơ với đáp án bỏ ngỏ. Jack the Ripper chưa bao giờ bị mang ra xét xử.
Nhận dạng Jack Đồ tể sau hơn 120 năm
Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt của Jack Đồ tể luôn thu hút sự chú ý của dư luận, các nhà điều tra và tội phạm học.
Với mong muốn đưa Jack ra ánh sáng và
xóa bỏ đi bức màn đen vốn che đậy hắn bấy lâu, nhiều chuyên gia đã
nghiên cứu và đưa ra những nhận dạng về kẻ sát nhân hàng loạt bí ẩn này.
Hàng loạt các nghiên cứu dưới đây thể
hiện mối quan tâm sâu sắc đến hồ sơ vẫn được coi là bí ẩn bậc nhất
trong giới tội phạm học:
Nhận dạng tính cách
Dựa trên các phân loại của FBI (Cục Điều
tra Liên bang Mỹ) về tội phạm giết người hàng loạt, Jack Đồ tể thuộc
loại giết người "không suy tính trước".
Kẻ giết người loại này thường có các vấn
đề về thần kinh, kém giao tiếp và kỹ năng xã hội. Theo ý kiến của các
nhà tâm lý tội phạm, Jack Đồ tể là kẻ có xu hướng sống khép kín và không
thể kiểm soát hành vi khi gặp đúng "con mồi".
Bằng chứng được thể hiện trên các vết cắt, rạch dã man của Jack trên các cơ thể nạn nhân.
Nhận dạng khuôn mặt
Năm 2011, thám tử Trevor Marriott đã trình tập hồ sơ dày hàng nghìn trang về trường hợp của Jack Đồ tể lên sở cảnh sát London.
Với quyết tâm đưa Jack the Ripper ra ánh
sáng, Trevor Marriott đã nghiên cứu tất cả các tư liệu, giấy tờ điều
tra về trường hợp của Jack từ năm 1888 đến 1912.
Theo vị thám tử này, kẻ tình nghi số 1
mang bí danh Jack the Ripper là Carl Feigenbaum. Năm 1894, Carl
Feigenbaum bị kết tội giết người và phải chịu án tại nhà tù Sing Sing ở
New York (Mỹ).
Carl Feigenbaum - Kẻ được cho là Jack the Ripper. Ảnh BBC.
Theo Trevor Marriott, kẻ này đã từng ở
Anh và thực hiện loạt tội ác man rợ tại các khu ổ chuột của London trước
khi chạy trốn sang Mỹ. Từ tư liệu thu thập được, Trevor Marriott đã
dựng hình ảnh của tên tội phạm được cho là Jack Đồ tể.
Kết luận của Trevor Marriott nhận được
nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà điều tra về Jack. Họ cho rằng, hình
ảnh về Carl Feigenbaum không phải là kết luận cuối cùng về tên đồ tể.
Nhận dạng nơi ở
Vào năm 2014, Tiến sĩ Kim Rossmo và
Steve Le Comber thuộc Đại học London (Anh) đã sử dụng thuật toán và tư
duy logic để truy tìm nơi ở của Jack Đồ tể.
Vị trí 5 nạn nhân nữ đầu tiên bị Jack Đồ tể sát hại.
Theo các nhà khoa học, dựa trên 5 địa
điểm thực hiện tội ác này, họ cho rằng, Jack Đồ tể sinh sống gần với các
khu Flower và Dean Street.
Theo logic, Jack chọn thời điểm hoạt
động là ban đêm. Trước khi ra tay, hắn phải nắm được lịch trình của các
nạn nhân. Để làm được điều nó, hắn phải là người thông thạo địa bàn nơi
đây.
Do đó, có nhiều khả năng Jack là người
sống ở các khu vực này. Hai nhà nghiên cứu cho biết, đây là mấu chốt
quan trọng để lần theo dấu vết của Jack. Tuy nhiên, đáng tiếc thay, cảnh
sát London bấy giờ đã bỏ sót chi tiết này.
Tạm kết
Hơn 120 năm kể từ chuỗi ngày đen tối mà
Jack the Ripper gây ra tại Anh, đã có hàng trăm nghiên cứu về tên tội
phạm bí ẩn bậc nhất trong lịch sử này.
Tuy nhiên, vì sự việc đã xảy ra quá lâu
cộng với việc các nhà điều tra chỉ thực hiện từ trên hồ sơ giấy tờ nên
những bí ẩn về Jack the Ripper đến nay vẫn chưa hoàn toàn được giải mã.
Nhưng không vì thế mà các nhà điều tra
tội phạm học ngừng công việc này. Hi vọng, trong tương lai, cái tên Jack
Đồ tể không còn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử tội
phạm.
*Nguồn: Historytoday, Telegraph, Wikipedia
theo Trí Thức Trẻ
Xác định danh tính kẻ giết người hàng loạt Jack the Ripper khét tiếng
Thứ Hai, 08/09/2014 15:15 GMT+7
(Thethaovanhoa.vn) –
Sau 126 năm, dấu hỏi về danh tính Jack the Ripper – gã đồ tể man rợ
chuyên giết hại phụ nữ ở Anh hồi năm 1888, cuối cùng đã có lời giải.
Tờ Daily News đưa tin rằng trong cuốn sách mới Naming Jack the Ripper,
doanh nhân và là người yêu thích điều tra trinh thám Russel Edwards đã
công bố những tiết lộ mới nhất về danh tính kẻ giết người hàng loạt có
biệt danh Jack the Ripper. Gã sát thủ này thường nhắm vào các cô gái
hành nghề mại dâm ở khu Whitechapel nghèo khổ gần thủ đô London. Các nạn
nhân hầu như đều bị cắt lưỡi, đánh đập dã man.
Chân dung phác thảo về kẻ giết người hàng loạt Jack the Ripper.
Sau
hơn một thập kỷ điều tra, với hàng loạt lý thuyết được đưa ra bởi những
chuyên gia hàng đầu, đến ngày hôm nay danh tính thực sự của sát thủ này
mới được xác định. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Jari Louhelainen, một
chuyên gia di truyền (DNA) nổi tiếng thế giới, Jack the Ripper là một gã
nhập cư 23 tuổi người Ba Lan có tên Aaron Kosminski. Louhelainen nói
rằng hoạt động xét nghiệm DNA mẫu máu lấy từ chiếc khăn choàng của nạn
nhân Catherine Eddowes đã cho kết quả trùng khớp với DNA của Kosminski.
Một trong những hung khí gây án của Jack the Ripper
Chiếc
khăn đã được truyền qua nhiều thế hệ trong gia đình Eddowes và cuối
cùng đã được đem bán đấu giá 7 năm trước. Russel Edwards là người mua
được vật chứng này và ông đã tiến hành một cuộc điều tra mang tính quyết
định để đưa ra kết luận về danh tính tên sát nhân bí ẩn.
“Tôi đã có chứng cứ pháp lý duy nhất trong toàn bộ lịch sử vụ án. Tôi đã dành 14 năm tìm hiểu và giải quyết dứt điểm những bí ẩn về tên đồ tể Jack. Cảm ơn Chúa đã ban cho chúng tôi chiếc khăn chưa bao giờ được rửa sạch và vì thế vẫn giữ trong đó bằng chứng quan trọng” - ông nói.
“Tôi đã có chứng cứ pháp lý duy nhất trong toàn bộ lịch sử vụ án. Tôi đã dành 14 năm tìm hiểu và giải quyết dứt điểm những bí ẩn về tên đồ tể Jack. Cảm ơn Chúa đã ban cho chúng tôi chiếc khăn chưa bao giờ được rửa sạch và vì thế vẫn giữ trong đó bằng chứng quan trọng” - ông nói.
Tranh minh họa về một cuộc điều tra hiện trường của cảnh sát Anh năm 1888.
Edwards đã nhờ Louhelainen tiến hành xét nghiệm
mẫu ADN và ông đã so sánh mẫu ADN thu được với mẫu của Kosminski, kẻ tự
sát trong một bệnh viện tâm thần vào năm 1899. Kết quả cho thấy
Kosminski chính là kẻ giết người hàng loạt, đã gây ra cái chết cho 11
phụ nữ một cách tàn bạo và bệnh hoạn chỉ trong vòng 3 tháng.
Phân tích của một cảnh sát cho rằng Kosminski chính là hung thủ giết người man rợ.
Theo
tờ Mirror của Anh, thực tế từ lâu Kosminski đã bị đưa vào diện nghi vấn
là Jack the Ripper. Nghiên cứu của Russel Edwards và cộng sự đã giúp
xác nhận nghi vấn này là đúng.
Hải Yến
Theo Daily News
Những sự cố UFO kỳ bí nhất
Cho tới hiện tại,
bất chấp việc những tiến bộ khoa học và công nghệ đã hé lộ nhiều điều
từng được coi là bí ẩn đối với loài người, chúng ta vẫn chưa có được các
câu trả lời thỏa đáng cho một số sự cố liên quan đến những vật thể bay
không xác định (UFO) xuất hiện gần đây.
Các vụ UFO kỳ dị nhất nhất thế giới
1. Các quả cầu lửa kỳ lạ trên bầu trời
Trong suốt Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các phi công lái máy bay chiến đấu của Mỹ, Anh, Đức và Pháp đều thông báo nhìn thấy những quả cầu phát sáng lớn,
kỳ lạ trên bầu trời. Mặc dù một số nhân chứng cho rằng đó có thể là các
vũ khí bí mật của kẻ thù - phát xít Đức, nhưng quân Đồng minh chưa bao
giờ lý giải được hiện tượng này. Phần lớn thông tin về vụ việc cũng chưa
từng được các cơ quan tình báo của liên quân hé lộ.
2. Sự cố Hopeh, Trung Quốc
Bức ảnh này được chụp vào năm 1942 và
sau đó được phát hiện trong một album ảnh. Chủ sở hữu của album tuyên bố
đã mua bức ảnh đặc biệt này từ một nhiếp ảnh gia đường phố ở Trung
Quốc. Theo lời một số người, vật thể bay không xác định (UFO) trông
giống như một chiếc mũ hoặc một con chim trong khi những người khác nói
đó là một đĩa bay.
3. Người đàn ông vận đồ đen
Năm 1947, một thủy thủ tuyên bố đã nhìn
thấy 6 UFO hình chiếc bánh rán đang bay trên bầu trời phía trên đảo
Maury, ngoài khơi vùng đất trũng Puget Sound ở Washington, Mỹ. Một trong
các vật thể lạ đã thả rơi mảnh vỡ xuống boong tàu phía
dưới, làm bị thương con trai của người thủy thủ nọ và giết chết con chó
của anh ta. Sáng hôm sau, người thủy thủ kể có một người đàn ông vận đồ
đen, lái một chiếc xe Buick màu đen xuất hiện trước cửa nhà anh và có
những cử chỉ hàm ý đe dọa rằng, gia đình người thủy thủ sẽ gặp nguy hiểm
nếu anh ta đã nói chuyện về sự cố vừa qua với bất kỳ ai.
4. Thông báo đĩa bay đầu tiên
Chỉ một vài ngày sau sự cố "người đàn ông vận đồ đen", Kenneth Arnold thông báo đã nhìn thấy 9 UFO bay trên vùng trời gần núi Ranier, Washington. Báo chí đặt ra thuật ngữ "đĩa bay"
để mô tả các vật thể này. Arnold khăng khăng câu chuyện của mình và trở
thành một người nổi tiếng trong thế giới của những điều huyền bí.
5. Sự biến mất của Felix Moncla
Trong khi theo đuổi một UFO phía trên hồ Superior
vào năm 1953, phi công thuộc Không quân Mỹ Felix Moncla đã biến mất
không để lại dấu vết. Trạm kiểm soát mặt đất đã ghi được hình ảnh của cả
Moncla và UFO trên màn hình radar, và các nhân chứng kể cả hai đã "sáp nhập, rồi biến mất".
Năm 1968, các bộ phận của một máy bay
được tìm thấy trong hồ Superior, nhưng chưa bao giờ được xác thực chúng
có thuộc máy bay của phi công Moncla xấu số hay không.
6. Sự cố Kecksburg
Vào đêm ngày 9/12/1965, cư dân ở
Kecksburg, bang Pennsylvania, Mỹ thông báo có một cái gì đó khá lớn đã
đâm xuống khu rừng trong vùng. Đó là một vật thể hình quả sồi với các chữ viết tượng hình
ở xung quanh thân. Quân đội Mỹ nhanh chóng bao vây khu vực. Năm 2005,
Cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) lên tiếng giải thích rằng, vật thể bị rơi (được
tái mô phỏng ở trên) có thể là mảnh vỡ từ một vệ tinh của Nga, nhưng
các nhân chứng quả quyết lý giải này không phù hợp với những gì họ nhìn
thấy.
7. Tổng thống Mỹ phát hiện UFO
Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
kể đã nhìn thấy một vật thể màu sáng trắng, sau đó chuyển màu từ xanh
tới đỏ, đen rồi trở lại thành trắng trước khi lùi xa dần về phía Leary,
bang Georgia (Mỹ) năm 1969. Mặc dù sau này ông tuyên bố không bao giờ
nghĩ vật thể đó là một tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh nhưng Tổng thống Carter vẫn quả quyết: "Có
một điều chắc chắn, tôi sẽ không bao giờ nhạo báng những người nói họ
đã nhìn thấy các vật thể bay không xác định trên bầu trời".
Năm 1976, một năm trước khi ông đắc cử chức tổng thống Mỹ (1977 - 1981), ông Caters từng quả quyết: "Nếu
trở thành tổng thống, tôi sẽ công khai mọi thông tin mà nước Mỹ có về
việc quan sát được UFO cho công chúng và các nhà khoa học".
8. Người đàn ông kỳ dị
Lần đầu tiên được phát hiện sau một sự cố UFO ở bang New Jersey, "Người đàn ông cười nhăn nhở" bắt đầu xuất hiện khắp nơi ở Mỹ tiếp sau các vụ việc tương tự khác và nói với các nhân chứng tên ông ta là "Indrid lạnh giá".
Các nhân chứng cũng mô tả người đàn ông này trông giống con người, cao
lớn nhưng không có mũi hoặc tai. Khuôn mặt chỉ có mắt duy nhất và một nụ
cười ngoác rộng.
9. Sân bay quốc tế O'Hare
Vào thứ Ba, ngày 7/11/2006, Cục quản lý
hàng không Mỹ (FAA) nhận được các báo cáo rằng, 12 nhân viên hàng không
tại phi trường O'Hare ở Chicago đã phát hiện một tàu bay hình đĩa kim loại
trôi lởn vởn phía trên một trong những cổng khởi hành. Theo lời các
nhân chứng, đĩa bay bay liệng khoảng 2 phút, nhưng khi mọi người ra
ngoài để xem xét thì nó đột ngột bay xuyên qua các đám mây. FAA kết
luận, đó là ảo giác do thời tiết tạo ra trong mắt người dân, nhưng các
nhân chứng tiếp tục khẳng định đó là một UFO.
10. Sự cố UFO ở Thổ Nhĩ Kỳ
Năm 2008, một người gác đêm ở Thổ Nhĩ Kỳ
có tên Yalcin Yalman đã quan sát được rất nhiều UFO trong khi trực và
quyết định ghi lại những gì mình nhìn thấy. Yalman đã cung cấp đoạn băng
ghi hình dài 2 tiếng rưỡi về các vật thể bay lạ thường cho Trung tâm
nghiên cứu không gian UFO Sirius, thúc giục cơ quan này gọi đoạn video
đó là "những hình ảnh UFO quan trọng chưa từng có" mặc dù tính chân thực của nó vẫn chưa được chứng minh.
11. Đốm sáng Lubbock kỳ dị
Một trong các vụ nổi tiếng nhất là sự cố các đốm sáng Lubbock kỳ dị ở Taxas, Mỹ được 3 vị giáo sư phát hiện vào ngày 30/8/1951. Theo báo cáo, các nhân chứng đang ngồi ở sân sau nhà của một giáo sư khi nhìn thấy 20 - 30 đốm sáng bay liệng phía trên đầu.Vi phim về các đốm sáng Lubbock kỳ dị. (Ảnh: USAF)
USAF kết luận, nhiều khả năng nhất các đốm sáng này do một loài chim có tên gọi là chim choi choi gây ra, vì phần ngực màu trắng của có thể phản xạ ánh sáng từ các thành phố phía dưới. Tuy nhiên, đây vẫn hoàn toàn là một phỏng đoán.
12. Nghi án UFO ở Oklahoma
Nghi án UFO ở Oklahoma cho tới nay vẫn chưa có lời giải đáp. (Ảnh: Wikipedia)
"Chúng bay theo một hình chéo, trải dài khoảng 8km từ đầu tới cuối và giật lắc thất thường. Ông Arnold ước tính chúng di chuyển với vận tốc hơn 1.609km/h khi bay từ núi Rainier tới núi Adams. Ông ấy mô tả các vật thể lạ giống như một chiếc đĩa lúc bạn ném chúng qua mặt nước. Thuật ngữ đĩa bay vì thế bắt nguồn từ mô tả chuyển động của vật thể lạ, thay vì hình dạng của chúng.
Đã có rất nhiều cách lý giải cho vụ việc, từ ảo ảnh, máy bay bí mật tới sự di trú của bồ nông, nhưng chúng đều không thuyết phục. Đây vẫn là một bí ẩn hóc búa", ông Watson viết.
UFO ở Roswell: một sự thật bị che đậy?
Mọi chuyện
bắt đầu từ buổi sớm ngày 25/6/1947, khi phi công Kenneth Arnold báo cáo
về căn cứ trung tâm phát hiện một vật thể lạ trên vùng Mt Rainier,
Washington. Kể từ lúc đó, thời đại của UFO chính thức ra đời.
(Ảnh: karenlyster) |
Đầu tháng 7/1947, sau khi đọc các bài báo về Arnold,
ông chủ trang trại Mac Brazel tức tốc tìm gặp Cảnh sát trưởng Hạt Chaves
để “khoe” mảnh kim loại kỳ lạ nhặt được trong khu đất nhà mình - mà theo ông quả quyết chắc chắn là một mẩu lớn văng ra từ “đĩa bay”.
Thông tin này ngay lập tức được cảnh sát trưởng George Wilcox báo cáo lên Lực lượng không quân Roswell (Roswell AAF).
Không chậm trễ, thiếu tá tình báo Jessie Marcel lãnh
trách nhiệm điều tra tỉ mỉ nội tình vụ việc. Mảnh vỡ được quân cảnh thu
hồi tại nhà Wilcox, đưa về Căn cứ không quân số 8 ở Fort Worth, Texas
rồi sau đó “bay” sang Washington D.C.
4 giờ chiều cùng ngày hôm ấy, mùng 7/7/1947, Lydia
Sleppy - nhân viên đài phát thanh KSWS của Roswell - dùng máy điện báo
truyền tin “đĩa bay rơi ở trang trại Foster” về tổng đài, tuy nhiên đường truyền này vô cớ bị gián đoạn, chắc hẳn có bàn tay can thiệp của FBI.
Sáng ngày 8/7, Đại tá Blanchard của Roswell AAF yêu
cầu Trung úy Walter Haut phát đi bản thông cáo báo chí, tuyên bố Quân
đội đã bắt được những phần rơi rớt lại của đĩa bay. Liền sau đó, nhất
loạt báo chí cả nước lấy lại thông tin này. Dân tình nước Mỹ được phen
chấn động với thông tin “từ một nguồn không thể kém tin cậy hơn”.
"Mảnh vỡ" của đĩa bay (Ảnh: magma)
Ngay trong chiều hôm ấy, Tổng Tư lệnh Clemence
McMullen ở Washington hội đàm khẩn cấp qua điện thoại với Ngài đại tá
Thomas DuBose - chỉ huy Căn cứ Không quân Fort Worth, ra lệnh nhanh
chóng dập tắt câu chuyện rùm beng về chiếc đĩa bay và gửi ngay “mảnh vỡ kỳ lạ” về Washington để xác minh sáng tỏ.
Vậy là chiều muộn hôm 8/7/1947, một cuộc họp báo gấp
rút diễn ra tại Sở chỉ huy Lực lượng không quân số 8 tại Fort Worth,
đích thân tướng Roger Ramey tuyên bố: vụ đĩa bay rơi ở trang trại Foster
chỉ là 1 sự nhầm lẫn đáng tiếc; mảnh vỡ đĩa bay chẳng qua chỉ là quả
khí cầu đo thời tiết mang radar được làm bằng nhôm và gỗ balsa. Để lời
che đậy thêm phần thuyết phục, ông này đã đưa ra một miếng vỡ nát vụn và
khẳng định đó là vật thu thập được ở hiện trường.
Thông cáo báo chí của AAF trên tờ Roswell Daily Record ngày 8/7/1947
(Ảnh: rense)
(Ảnh: rense)
Chicago Daily News, Los Angeles Herald Express, San Francisco Examiner và Roswell Daily Record là những tờ báo lớn duy nhất có cơ hội đăng tải bản thông cáo “sai lệch” kia của AAF vì là báo ra buổi tối. Những báo uy tín khác như New York Times, Washington Post hay Chicago Tribune ra lò sáng sớm hôm sau đành ngậm ngùi đưa lên câu chuyện đã được che đậy kĩ càng.
Một cách khó hiểu, cho đến nay không ai có thể tìm
lại bản gốc của bản thông cáo báo chí tai tiếng năm 1947 đó nữa. Cũng
may, việc AAF “hiệu đính” nhầm lẫn đã nhanh chóng “hạ sốt” cho dân tình. Đến cuối tuần, tin “đĩa bay Roswell” gần như không còn độc tôn vị trí đầu trang, và cuối năm đó thì sự việc “lặn tăm” như thể chưa bao giờ người ta nhắc đến nó.
Về phần nông dân Mac Brazel, anh này sau đó bị quản
thúc trong Căn cứ quân sự suốt 1 tuần, một thời gian sau đó trở về nhà
với sự giám sát chặt chẽ của nhân viên an ninh. Cũng từ đó trở đi,
Brazel không bao giờ kể về câu chuyện “đĩa bay xuất hiện trong trang trại”, thậm chí còn nói rằng đó là sự nhầm lẫn gây tai tiếng.
Một số hình ảnh "người ngoài hành tinh Roswell"
(Ảnh: people.com.cn)
(Ảnh: ufocasebook)
(Ảnh: iwasabducted)
(Ảnh: iwasabducted)
Hải Minh
10. Đĩa bay Kenneth Arnold, ngày24/6/1947, Kenneth Arnold tuyên bố ông
đã nhìn thấy một chuỗi gồm 9 vật thể bay không xác định bay qua núi
Rainier. Mô tả của Arnold về những đối tượng vật thể bay không xác định
này cũng khiến báo chí bắt đầu sử dụng thuật ngữ "đĩa bay". Cho đến tận
bây giờ, cụm từ "đĩa bay" vẫn được sử dụng rộng rãi cho các phát hiện về
UFO không lời giải đáp. (Nguồn List25)
UFO là chữ viết tắt của cụm từ " Unidentified Flying Object" tức " Vật Thể Bay Không Xác Định", đây là một cụm từ tiếng Anh dùng để chỉ những vật thể bay hoặc hiện tượng thị giác bay lơ lửng trên trời mà không thể xác định được đó là gì, thậm chí sau khi được qua nhiều quá trình nghiên cứu kỹ càng.
Trong nhiều trường hợp, UFO mang đặc tính lạ như có thể lơ lửng trong không trung mà không phát ra âm thanh ( Điều này nền văn minh của Trái Đất vẫn chưa đạt đến được), có gia tốc cực lớn mà không có thiết bị máy móc nào ở Trái Đất hiện nay có thể đạt đến được,... Vì thế, nhiều người cho rằng UFO đến từ một nền văn minh ngoài Trái Đất với công nghệ tiên tiến hơn công nghệ chúng ta rất nhiều. Tuy nhiên vẫn chưa có chứng cứ nào trong lĩnh vực Khoa Học Tự Nhiên có thể chứng minh rằng tàu vũ trụ có thể tồn tại như vậy, dù đã qua nhiều chứng cứ dấu vết được tranh cãi trong cộng đồng.
Nhiều nhà nghiên cứu UFO cho rằng chính phủ đang che dấu những chứng cứ tồn tại nhằm tránh sự sợ hãi lan rộng và sự chia rẽ nếu để lộ những thông tin như vậy.
[Lịch sử]
Từ những sự kiện bắt nguồn từ xa xưa....
Trong lịch sử, có rất nhiều vụ mục kích sở thị UFO ở trên bầu trời lẫn mặt đất được ghi lại:
+ Cuốn kinh Cựu Ước Ezekiel đã mô tả hình ảnh tựa như sự lên xưống của một vật thể trên bầu trời với khói và các bánh xe lồng vào nhau.
+ Trong suốt thời kỳ ngự trị của Pharaoh Thutmose III khoảng những năm 1450 trước công nguyên, đã lời mô tả về nhiều "vòng tròn lửa" sáng hơn cả mặt trời, kích thước chừng 5 mét xuất hiện trong nhiều ngày . Cuối cùng chúng biến mất sau khi bay cao lên trời.
+ Nhà thơ La Mã Julius Obsequens đã viết như thế này vào năm 99 trước công nguyên: "ở Tarquinia lúc chạng vạng tối, một vật thể tròn giống một khối cầu, một cái khiên tròn, bay lên bầu trời từ hướng tây sang hướng đông".
+ Quân đội của Alexander Đại đế năm 329 TCN khi băng qua một con sông để tới Ấn Độ đã từng nhìn thấy "hai cái khiên bằng bạc" trên bầu trời. Năm 322 trước công nguyên, khi Alexander đang vây hãm Týros ở Phoenicia, một "cái khiên bằng bạc" khác lại chuyển động theo dạng tam giác nhỏ hơn "những cái khiên" đã xuất hiện nhưng khả năng câu chuyện này đã được thần hóa là rất cao.
+ Trong những ghi chép La Mã cổ thỉnh thoảng cũng đề cập đến "những cái khiên" hay thậm chí "những tên lính" được nhìn thấy trên bầu trời.
+ Ngày 24 tháng 11 năm 1235, đại tướng Yoritsume và quân lính nhìn thấy những quả cầu sáng bay theo đội hình bất thường trên bầu trời ban đêm gần Kyoto, Nhật Bản. Quân sư của ông nói rằng ông đừng bận tâm - đó chỉ đơn thuần là gió thổi làm các ngôi sao đung đưa mà thôi.
+ Một bản báo cáo riêng đã được dâng lên Nhật hoàng, và những sự xuất hiện khác cũng xảy ra tương tự ở Nhật Bản vào năm 1361.
+ Ngày 14 tháng 4 năm 1561, bầu trời vùng Nürnberg bị che phủ bởi nhiều vật thể hình khối trụ và cầu, hệt như một trận chiến trên không trung. Sự kiện này đã được hàng trăm người làm chứng, nó cũng giống như sự kiện ở Basel năm 1566, khi mà vô số quả cầu đen, cháy sáng rực xuất hiện
Những hiện tượng đó đều được gán cho là điềm báo tương lai, về mặt tôn giáo tâm linh, những hiện tượng ấy được gán với những vị thần hay sự hiển linh của thánh... Theo một số nhà nghiên cứu, chúng gần như tương đồng với những báo cáo về UFO hiện nay.
.... cho đến những báo cáo đầu tiên ở thời hiện đại....
Trước khi thuật ngữ " Đĩa bay" hay " UFO" ra đời, đã có nhiều vụ chứng kiến về hiện tượng kỳ lạ trên không trung xuyên suốt thế kỷ 19 và 20:
+ Tháng 7 năm 1868 được coi là báo cáo lần đầu tiên trong thời hiện đại về UFO, ghi nhận ở thành phố Copipapo, Chile.
+ Ngày 25 tháng 1 năm 1878, nhật báo Denison đăng tin một nông dân địa phương là John Martin đã nhìn thấy một vật thể rất lớn, tối, hình tròn giống như một cái khí cầu bay với tốc độ "kinh khủng".
+ Ngày 17 tháng 11 năm 1882, nhà thiên văn E.W.Maunder của đài thiên văn Greenwich mô tả trên báo cáo quan sát "một vị khách từ bầu trời" với "dạng đĩa", "hình cá đuối". Nó có nhiều đặc điểm khác so với một quả sét hòn. Nhiều năm sau, Maunder viết rằng nó trong y hệt khí cầu Zeppelin. Vật thể lạ đó cũng được nhiều nhà thiên văn châu Âu quan sát thấy.
+ Năm 1896–1897, những con tàu bay bí ẩn được ghi nhận ở Mỹ, mặc dù một vài trong số các báo cáo này ngày nay đã biết là do những trò đùa cố ý. Bí ẩn đĩa bay cũng xuất hiện ở Anh trong suốt Thế chiến thứ nhất. Nó được cho là những khí cầu do thám của Đức trước khi tham chiến trên bộ. Nỗi sợ hãi tương tự cũng có ở New Zealand và Úc năm 1909.
+ Có rất nhiều báo cáo về những con tàu biết bay bí ẩn ở các nước vùng Scandinavia vào những năm 1930. Ở châu Âu, suốt Thế chiến thứ hai, "Foo-fighter" (những quả bóng sáng chói trong đêm tối đuổi theo máy bay) được phi công của cả phe Đồng Minh và phe Trục báo cáo. Năm 1946, có một "làn sóng" xôn xao về những chứng kiến "những quả rocket ma" xuất hiện trên bầu trời vùng Scandinavia.
+ Giai đoạn UFO hiện đại bắt đầu với sự kiện thương gia người Mỹ Kenneth Arnold khẳng định rằng mình đã tận mắt trông thấy UFO gần đỉnh Rainier, tiểu bang Washington. Arnold nói rằng ông ta đã nhìn thấy chín vật thể bay với "tốc độ không thể tin nổi" và ở độ cao ít nhất cũng phải 10.000 ft (3.000 m). Tuy nhiên, những UFO mà Arnold miêu tả chưa hoàn toàn đúng là dạng đĩa, ông ta miêu tả sự chuyển động của nó tương tự như cái đĩa nhảy vụt lên khỏi mặt nước, đó là nguồn gốc của thuật ngữ đĩa bay.
Một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu UFO đó là sự ra đời của quyển sách " Chariots of the Gods " vào năm 1970 của tác giả " Erich von Däniken ". Quyển sách đã nói rằng " Những sinh vật ngoài hành tinh và UFO đã từng viếng thăm Trái Đất rất nhiều năm trước đây" và đưa ra dẫn chứng từ thời Ai Cập cổ đại đã có nhiều hình ảnh " giống UFO" được lấy từ nhiều tư liệu khảo cổ " bí ẩn đến mức không thể giải thích nổi" ( chẳng hạn như quá trình xây và dựng nên những Kim Tự Tháp Ai Cập với những con số Toán học cực kỳ chính xác ).
Giả thuyết " Những Nhà Du Hành Vũ Trụ Cổ Xưa" đã tạo cảm hứng cho nhiều người đọc, mở ra cho họ những suy diễn tiếp theo, trong đó có một quyển sách với tựa đề " Kinh Thánh và Đĩa Bay" ( The Bible and Flying Saucers) của Barry Dowing đã làm sáng tỏ được nhiều hiện tượng kỳ lạ trên không trung được ghi lại trong Kinh Thánh mà thực tế có thể đây là những dấu vết đã từng tiếp xúc với người ngoài hành tinh. Cũng có nhiều giả thuyết cho rằng người ngoài hành tinh là chất xúc tác để tạo nên quá trình tiến hoá của con người ( nôm na là abcxyz với người cổ đại ấy).
Từ Nguyên:
Ngày 25 tháng 1 năm 1978, nhật báo Deninson viết rằng John Martin, một nông dân địa phương, ngày hôm trước đã báo cáo về sự kiện mình nhìn thấy một vật thể to, đen, dạng đĩa bay giống với cái khí cầu đang bay "với vận tốc kinh khủng", và cũng sử dụng từ "cái đĩa" để miêu tả vật thể bay không xác định. Khoảng 70 năm sau đó, năm 1947, phương tiện truyền thông sử dụng thuật ngữ "đĩa bay" để miêu tả những vật thể bay không xác định như Kenneth Arnold đã thấy.
Chín vật thể mà Kenneth Arnold đã nói tới chưa hẳn là có hình dạng "đĩa bay". Arnold lúc đầu miêu tả và vẽ hình tám vật thể mỏng, phẳng, phía đầu thuôn tròn còn phía sau vát cụt trở thành một điểm.
Hình vẽ vật thể thứ chín, có phần to hơn, dạng boomerang hoặc hình lưỡi liềm. Dù sao đi nữa, nhiều năm sau, Arnold đã đề nghị sửa cụm từ "giống một cái đĩa" thành "đĩa bay".
( Trong tiếng Anh, một thuật ngữ khác được dùng để mô tả đĩa bay là Flying Disks , nó cũng đồng nghĩa với Flying Saucers )
"Đĩa bay" là thuật ngữ thông dụng dùng cho hầu hết mọi vật thể bay không xác định trên không trung suốt từ cuối thập niên 1940 đến thập niên 1960, thậm chí ngay cả khi chúng không thật sự có dạng đĩa. Thuật ngữ này càng trở nên phổ biến hơn vào cuối thập niên 1960. Việc sử dụng "UFO" thay cho "đĩa bay" được đề nghị lần đầu tiên năm 1952 bởi Edward J.Ruppelt - chủ biên Project Blue Book của không quân Hoa Kỳ, ông ta cảm thấy "đĩa bay" không đủ khả năng nắm bắt mọi khác biệt trong các hiện tượng đang nói tới. Đề nghị của ông ta nhanh chóng được lực lượng không quân chấp nhận.
Thuật ngữ UFO đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về ngữ nghĩa. Những người hoài nghi cho rằng "UFO" chỉ đơn giản nghĩa là vật thể "không xác định" khi quan sát chứ không phải là không thể giải thích được, như vậy thì ít liên quan đến sự sống ngoài Trái Đất. Ngược lại, có nhà nghiên cứu lại cho rằng thuật ngữ trên hoàn toàn đã giới hạn trong những gì nhìn thấy, mở ra đòi hỏi phải nghiên cứu tiếp, đặt ra thách thức cho những lời giải thích thông thường.
Trong qui chế của không quân Mỹ năm 1954, có định nghĩa về UFOB (Undentified Flying Obbject) là các vật được chuyên chở bằng máy bay trong những nhiệm vụ, có tính khí động học hoặc có những điểm đặc biệt, không chuyên dụng cho máy bay, tên lửa hiện hành, không được nhận diện chính xác như các loại thông thường, hơn nữa UFOB dành riêng cho mục đích bí mật quốc gia và chắc chắn "mang tính chất chuyên môn". Rõ ràng UFBO không thể áp dụng để giải thích những sự kiện nhìn thấy UFO, chẳng hạn hiện tượng ảo giác tự nhiên hay vật thể nhân tạo, ngoại trừ, có lẽ máy bay chưa từng được biết đến có nguồn gốc từ nước khác.
Như vậy, chữ "U" trong UFO, thay vì "không xác định (unidentified) thì thích hợp hơn phải là chưa thể giải thích được (unexplained) hay bất thường (unconventional).
Trong tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp, thuật ngữ tương ứng với UFO là OVNI (tiếng Tây Ban Nha: Objeto Volador No Identificado; tiếng Bồ Đào Nha:Objeto Voador Não Identificado; tiếng Pháp: Objet Volant Non Identifié).
Về phát âm:
Ruppelt đề nghị rằng "UFO" nên được phát âm thành một từ – "you-foe". Điều này chỉ phổ biến ở Anh, còn ở Mỹ, người ta thích đọc theo cách viết tắt hơn, rõ từng chữ một: "U.F.O.". Nhà vật lý Eward Condon đề nghị nên phát âm là "ooh-foe", song điều này hầu như bị bác bỏ.
UFO và Văn Hoá:
Không cần đợi đến những lời giải thích cuối cùng, UFO đã trở thành một hiện tượng văn hóa toàn thế giới. Kể từ giữa những năm thập niên 1900, UFO đã là một chủ đề rộng rãi của nhiều cuốn sách, điện ảnh, bài hát, phim tài liệu và các phương tiện truyền thông khác. Chủ đề UFO là chủ đề phổ biến sớm nhất trên phương tiện truyền thông máy tính. Hàng triệu người có những mức độ ưa thích khác nhau về chủ đề này.
UFO đóng một phần vai trò trong du lịch, chẳng hạn ở Roswell, New Mexico, nơi một UFO có thể bị rơi vào năm 1947. ( Bài này đã được đăng rất nhiều lần trong page, các bạn có thể tìm lại và đọc)
Một báo cáo thống kê năm 1996 chỉ ra rằng 71% người Mỹ tin rằng chính phủ đang che giấu thông tin về UFO. Một kết quả báo cáo khác năm 2001 nói rằng 33% số người được hỏi tin rằng "người ngoài Trái Đất đã từng viếng thăm Trái Đất một vài lần trong quá khứ". Hai kết quả khảo sát dường như đã làm lộn xộn và mâu thuẫn khi xem xét rằng chỉ có giả thuyết sự sống ngoài Trái Đất mới là lời giải thích cho UFO.
Năm 2002, khảo sát do kênh truyền hình Sci Fi thực hiện cho kết quả tương tự nhưng tăng thêm số người tin UFO là khí cụ bay ngoài Trái Đất. Lại có khoảng 70% cảm thấy chính phủ không chia sẻ mọi thông tin mà họ biết về UFO và sự sống ngoài Trái Đất. 56% nghĩ UFO là thật và 48% tin UFO đã từng viếng thăm Trái Đất. Dường như người càng trẻ lại càng có niềm tin đó.
UFO trong Khoa Học:
UFO học là ngành khoa học khảo sát, nghiên cứu các báo cáo, nhân chứng về UFO.
Trong khi đa số mọi người đều muốn lờ đi về vấn đề này thì một số khác, trong đó có một số nhà khoa học nghiệp dư ( không chuyên), những người đam mê ( điển hình là Admin và đồng bọn) và những nhà khoa học chuyên nghiên cứu về UFO vẫn còn tiếp tục nghiên cứu mặc cho dư luận mỉa mai. Tuy nhiên, chất lượng của những người nghiên cứu không chuyên nghiệp lại không đồng đều.
Có một lỗi phổ biến khi cho rằng chỉ có một câu hỏi duy nhất được đặt ra trong chủ đề này là liệu sự xuất hiện của UFO có phải là đại diện cho sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất hay không (như thế sẽ làm thu hẹp lĩnh vực này và hạn chế tranh luận). Đặt tính xác đáng vật lý của UFO ra một bên, khi nghiên cứu UFO trong lĩnh vực văn học dân gian và nhân chủng học thì ít nhất cũng có thể tìm thấy những khám phá mới trong lĩnh vực tâm lý học (cá thể và xã hội).
Từ cuối thập niên 1940, mọi người trên khắp thế giới đã trở nên quen thuộc với báo cáo về UFO. Các báo cáo có phạm vi rộng lớn với nhiều trường hợp, gồm có các hành tinh, ngôi sao, hệ thống sắp xếp các đám mây, sét hòn, trò đùa cố ý, thử nghiệm máy bay chiến đấu, ảo giác và tàu vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất. Bất chấp số lượng lớn các báo cáo và sự chú ý của dư luận, cộng đồng khoa học rất ít quan tâm đến UFO. Một phần là do trên thực tế không có những quỹ hỗ trợ cộng đồng hay chính phủ nhằm trợ giúp việc nghiên cứu UFO lẫn sự bác bỏ, chê cười của dư luận lên những nhà nghiên cứu này. ( Đừng ai dạy con cái rằng những cái như đĩa bay hay ma quỷ là không tồn tại, đôi khi bản thân bạn giết chết 1 nhà khoa học thiên tài tương lai đấy :3 )
UFO là chủ đề của nhiều nghiên cứu khác nhau trong suốt nhiều năm và đang được mở rộng phạm vi sang khoa học chính xác. Một số cơ quan chính phủ và quân đội của Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Thụy Điển, Bỉ, Brasil, Mexico, Tây Ban Nha và Liên bang Xô Viết đã nhiều lần đưa ra các báo cáo nghiên cứu UFO. Mặc dù gặp vô cùng bối rối trong nhiều trường hợp, song không chính phủ nước nào dám công khai đề xuất rằng UFO đại diện cho dạng sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất.
Bất chấp nhiều trường hợp không giải thích được, ý kiến nói chung của cộng đồng khoa học là có thể tất cả mọi chứng kiến về UFO, về cơ bản là kết quả do nhầm lẫn khi quan sát hiện tượng tự nhiên hay nhân tạo, trò đùa cố ý hoặc hiện tượng tâm lý như ảo giác hoặc bệnh lý trong giấc ngủ (thường giải thích hiện tượng thấy bị người ngoài Trái Đất bắt cóc). Thống kê của lực lượng Không quân Hoa Kỳ cho biết những giải thích như thế chỉ chiếm 1% trong tổng số các trường hợp. Song vẫn còn nhiều giảng viên, giáo sư cảm thấy chủ đề này thật là lãng phí thời gian, các chứng cứ thiếu độ tin cậy, vì thế thường bỏ qua những chi tiết này.
Mặc dù vậy, cũng có ít giáo sư, giảng viên đang tự nghiên cứu chủ đề này. Theo một cuộc khảo sát, do việc ít tìm hiểu, nghiên cứu chủ đề đã làm tăng số người theo phe phản đối, đồng thời tạo nên một xu hướng "không chịu chấp nhận".
Có lẽ giả thuyết nổi trội hơn cả giữa những người ủng hộ là giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm mặc dù giả thuyết huyền bí về UFO cũng có khi được đưa ra.
Dưới đây là những trích dẫn, thể hiện thái độ coi thường về vấn đề này:
+ Lý luận rằng sinh vật ngoài Trái Đất không thể có lúc đó bởi lẽ khoảng cách và năng lượng đòi hỏi cho việc di chuyển qua không gian, giữa các hành tinh trong thời gian hợp lý (theo như các định luật vật lý đã biết hiện nay).
+ Nhiều báo cáo không đáng tin cậy hoặc thiếu thỏa đáng về mặt vật lý nói riêng và khoa học nói chung.
Nhiều hoàn cảnh có thể dẫn đến nhầm lẫn khi quan sát vật thể thông thường, chẳng hạn khi nhìn qua một khoảng cách trên bầu trời - cách tiếp cận như thế có thể gây nên ấn tượng mạnh ngay từ cái liếc nhìn ban đầu.
+ Sự cảm tính nói chung bao trùm khắp chủ đề, trong đó có thể kể đến cách nhìn nhận của nhiều người nghiên cứu nghiệp dư thiếu những trang bị kiến thức khoa học đúng đắn.
Nhiều nhà khoa học đồng ý rằng hình ảnh tàu vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất là không có thật, lại có ý kiến cho rằng thái độ báo cáo thiếu suy luận cá nhân mà chỉ hiểu được nguyên theo giả thuyết đó. Tại sao, ví dụ, hiện tượng xuất hiện với tần số lớn trong hàng thập kỷ mà lại không thấy nỗ lực cố gắng của sinh vật ngoài Trái Đất nhằm thể hiện sự xuất hiện mơ hồ của chúng? Hay là, nếu một nền văn minh ngoài Trái Đất đã dự định vẽ bản đồ hoặc khảo sát Trái Đất, như giả thuyết, tại sao nó phải thực hiện trong thời gian dài đến thế, trong khi với kỹ thuật của chúng lúc nay, chẳng hạn vệ tinh, có thể làm việc đó rất nhanh chóng?
+ Phần nhiều trong số lý lẽ nghi ngờ chỉ dựa vào việc đoán chừng, giả thuyết về ý đồ và kỹ thuật của sinh vật ngoài Trái Đất. Tại sao chúng phải che giấu sự tồn tại của chúng? Tại sao mối quan tâm của chúng chỉ hạn chế hướng vào các quan sát vật lý đơn giản? Tại sao việc di chuyển giữa các hành tinh gần như không thể, tóm lại, về căn bản chỉ biết thừa nhận kỹ thuật và khoa học của chúng hiện đại, cao cấp hơn nhiều so với nhân loại ngày nay.
+ Một số lý lẽ thiếu sự hiểu biết. Rất nhiều các hiện tượng, ví dụ "ánh sáng kỳ lạ trên bầu trời", có thể dễ dàng là do nhầm lẫn đơn giản, còn cấu trúc vật thể thay đổi ở mức độ hẹp, thường do hiệu ứng vật lý
Theo một cuộc khảo sát chính thức năm 1977 của Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ (American Astronomical Society) thì đa số người trả lời (1356 người, hơn một nửa số thành viên cơ quan) nghĩ UFO xứng đáng được nghiên cứu và tỏ ý muốn đóng góp thời gian và chuyên môn cho cho việc nghiên cứu. Dưới đây là chi tiết cụ thể:
+ 53% cảm thấy UFO chắc chắn hoặc có thể là một chủ đề đáng được nghiên cứu khoa học trong tương lai, đối lập với 20% cảm thấy chắc chắn hay có lẽ không phải vậy.
+ 80% bày tỏ thiện chí đóng góp trong việc giải đáp bí ẩn UFO.
+ Việc thiếu kiến thức đã làm cho những người theo phe phản đối thiếu ham muốn nghiên cứu. Chỉ 29% trong số người dành ít hơn 1 giờ để đọc chủ đề cảm thấy nghiên cứu sâu hơn nữa là hợp lí, đối lập với 68% số người đã dành trên 300 giờ.
+ Những nhà khoa học trẻ có đam mê hơn những nhà khoa học lớn tuổi.
+ Số người theo phe phản đối chống giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm tăng cao. Có lẽ cách giải thích thông thường như trò lừa đảo hoặc máy bay thông dụng/không thông dụng hay hiện tượng tự nhiên đã tăng số người theo phe hoài nghi từ 30% đến 23%, đối lập với 3% tin UFO thực sự là phi thuyền của sinh vật ngoài Trái Đất.
Một khảo sát khác thực hiện năm 1973 trên 400 thành viên Viện Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ, khoảng 2/3 nghĩ rằng UFO có thể có thật, có lẽ hoặc nhất định là một vấn đề có ý nghĩa khoa học. 5% nói rằng họ đã từng chứng kiến UFO, 10% nghĩ UFO đến từ vũ trụ.
Tác giả khảo sát đã trên chú ý tính chất nghiêm túc trong những người trả lời, có thể họ sợ sự chỉ trích từ phía các đồng nghiệp và danh tiếng bị nhạo báng. Nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu UFO nhưng thích làm việc yên tĩnh một mình hơn bởi sợ bị nhạo báng.
Những ghi chép về hình dạng tiêu biểu của UFO:
+ Dạng đĩa, phía trước thóp nhỏ.
+ Những ánh sáng chuyển động nhanh - mà đã được ghi nhận sớm nhất rằng chuyển động của nó như "chiếc đĩa nhảy vụt lên khỏi mặt nước". Đĩa bay đôi khi được ghi nhận là có chuyển động "lảo đảo" ở tốc độ thấp.
+ Dạng hình tam giác lớn hoặc nguồn sáng hình tam giác
+ Hình điếu thuốc với những cửa sổ sáng.
+ Các dạng khác: hình chữ V, hình cầu, vòm, hình thoi, khối không có hình dạng xác định màu đen, hình trứng và hình trụ.
Dưới đây là phân loại theo Valee:
Loại I:
Bao gồm những vật thể lạ hình cầu, đĩa hoặc dạng khối hình khác, đáp trên hoặc gần mặt đất (chừng độ cao cây, hoặc thấp hơn, có thể đi kèm dấu vết như nhiệt độ cao, chói sáng hoặc có hiệu ứng lên máy móc.
Đặc điểm:
+ Trên hoặc gần mặt đất
+ Trên hoặc gần mặt nước
+ Hoạt động hoặc dấu hiệu tạo nên sự chú ý
+ Vật thể như " trinh sát" hoặc theo dõi những phương tiện Trái Đất ( Máy bay, Ô tô, tàu thuỷ,... trong một vài trường hợp, người đi bộ một mình bị bắt cóc)
Loại II
Vật thể lạ có dạng hình trụ đứng trên bầu trời, kèm theo một đám mây. Hiện tượng này thường được đặt cho nhiều cái tên như "điếu thuốc-mây" hay "khối cầu-mây".
Đặc điểm:
+ Chuyển động một cách bất thường trên bầu trời
+ Bất động và sinh ra các vật thể con (thường gọi là "vật thể vệ tinh")
+ Được nhiều vật thể con bao quanh.
Loại III
Vật thể lạ có dạng khối cầu, đĩa hay ellip.
Đặc điểm:
+ Chuyển động theo kiểu "lá rơi" xuống, hoặc lên và xuống hay đung đưa
+ Đang chuyển động liên tục thì đột ngột dừng lại, rồi chuyển động tiếp
+ Thay đổi hình dạng khi đang bay, chẳng hạn thay đổi độ sáng, sinh ra các vật thể con...
+ Dạng "cá đuối" hay đi thành đám nhiều vật thể ( Loại này thường bị nhầm với đám mây hình đĩa)
+ Đột ngột thay đổi quỹ đạo khi đang bay liên tục, chuyển thành bay chậm trên một khu vực nhất định, hoặc đột ngột chuyển hành trình ( Dễ dàng tìm thấy trong các báo cáo nhìn thấy Đĩa Bay của Phi công)
Loại III
Vật thể bay liên tục
Đặc điểm:
+ Bay liên tục ( như đã giải thích)
+ Quỹ đạo phụ thuộc vào chiếc máy bay ở gần ( thường thấy trong báo cáo của các phi công)
+ Bay theo một khối tổ chức
+ Quỹ đạo zig-zag
Loại IV
Vật thể lạ mờ ảo, ví dụ không rõ vật liệu, không hữu hình hoàn toàn, không có dạng vật chất đặc.
Đặc điểm:
+ Mờ ảo
+ Vật thể dạng điểm sáng như ngôi sao
+ Lướt nhanh qua bầu trời, có thể với quỹ đạo kỳ lạ
Vật Thể bay đã xác định:
Khoảng 90% các báo cáo nhìn thấy UFO cuối cùng đã được giải thích. Trong khi chỉ có một tỉ lệ nhỏ báo cáo là cố ý tung tin sai lệch, hầu hết là do nhầm lẫn trong khi quan sát các hiện tượng tự nhiên và nhân tạo. Tuy nhiên, tỷ lệ thực tế giữa UFO và IFO phụ thuộc vào người nghiên cứu và thay đổi lớn tùy theo tiêu chuẩn.
Những vật thể bay thường bị nhầm với UFO là:
+ Khí cầu ( Khí cầu dự báo thời tiết hay Khí cầu du lịch)
+ Máy bay quân sự ( do có gia tốc cao, hình dạng tam giác, khá giống với các báo cáo phổ biến về UFO )
+ Ánh đèn nhấp nháy của máy bay thông dụng khi hạ cánh
+ Máy bay đặc biệt hoặc kỹ thuật cao cấp (như SR-71 Blackbird, máy bay ném bom B-2 Steath)
+ Máy bay quảng cáo.
+ Diều
+ Pháo hoa
+ Trò đùa nghịch cố ý
Những nhầm lẫn thông thường khi quan sát hiện tượng tự nhiên là:
+ Mặt trăng, ngôi sao và các hành tinh.
+ Thời tiết bất thường
+ Những hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ
+ Sao băng ở khoảng cách gần hoặc kích cỡ lớn
+ Đám mây hình đĩa
+ Đàn chim
+ Đàn côn trùng
+ Sét Hòn
+ Cực Quang
Những cách giải thích UFO phổ biến:
Tùy thuộc vào tác giả ước đoán, có từ 3% đến 30% trong tổng số các trường hợp vẫn còn chưa thể giải thích nổi. Một vài trong số những giả thuyết phổ biến nhất cho những sự kiện UFO chưa thể giải thích nổi là:
+ Giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm (phổ biến nhất).
+ Giả thuyết huyền bí.
+ Giả thuyết cỗ máy thời gian hay khí cụ bay do tương lai gửi đến. ( Liên hệ bác Mon :v )
Tương tự, những người theo phe phản đối cũng đưa ra các giả thuyết:
+ Giả thuyết tâm lý xã hội ( Theo phong trào chém gió cho vui :v )
+ Giả thuyết các hiện tượng tự nhiên có thể giải thích được, ví dụ sét hòn
+ Giả thuyết khí cụ bay nhân tạo ( Máy bay không người lái, máy bay chiến đấu cấp cao với vận tốc nhanh, gia tốc lớn...)
Hiện tượng huyền bí
Lĩnh vực UFO không phải lúc nào cũng trùng với sự kiện huyền bí, mặc dù thường thì là như vậy. Một vài nhà nghiên cứu cho rằng có mối liên hệ trực tiếp giữa UFO và hiện tượng huyền bí. Tương tự, một số giáo phái đã đưa UFO thành phần trung tâm của tín ngưỡng họ. ( Đại khái là về mặt tâm linh)
Nhiều bức tranh tôn giáo rất cổ xưa mà cũng đã chứa hình ảnh về UFO và sinh vật ngoài Trái Đất. Cũng nhiều người tin rằng trong suốt lịch sử, sinh vật ngoài Trái Đất đã có ít nhiều ảnh hưởng đến phong tục tập quán nhiều khu vực.
Những âm mưu:
Đôi khi người ta gán cho UFO là một phần trong những âm mưu kỹ lưỡng mà chính phủ đang cố ý che giấu sự tồn tại của sinh vật ngoài Trái Đất (alien) hay cộng tác với chúng.
Cũng có suy đoán rằng sự kiện UFO là các thử nghiệm bay của những khí cụ bay, vũ khí cao cấp. Trong trường hợp UFO bị nhìn thấy thì đó là sự thất bại trong việc giữ bí mật, hoặc cố ý tìm cách xâm phạm thông tin tình báo. ( Tìm đọc lại bài " Vùng 51" của #Conan ( Edo) đăng trước đây)
Cũng có đề xuất cho rằng tất cả hay đa số kỹ thuật, văn hóa nhân loại được xây dựng từ cơ sở từ các liên lạc với nền văn minh ngoài Trái Đất.
Tái Bút: Bài viết có sử dụng nguồn từ internet, wikipedia, kiến thức cá nhân và sưu tầm. Nếu có nhu cầu mượn hoặc chỉnh sửa vui lòng liên hệ các Admin bằng cách comment bên dưới hoặc inbox. Cám ơn vì đã đọc!
Không tặc D.B Cooper – Vụ mất tích bí ẩn nhất của FBI (Phần 2)
13:47 | 04/04/2015
D.B Cooper, đó thực ra
chỉ là bí danh dư luận đặt cho một tên không tặc vô danh khống chế một
chiếc Boeing 727 đang trên đường từ Portlang tới Oregon và Seattle vào
ngày 24-11-1971. Hắn đòi số tiền 200,000 USD (khoảng 4,27 tỉ đồng) và
sau khi nhận được số tiền đó, hắn lấy dù và nhảy khỏi máy bay. Đó là lần
cuối cùng mọi người nhìn thấy Cooper.
Tên không tặc khôn ngoan
Khi đã đáp ứng đúng yêu cầu của hắn, Cooper nhanh chóng thực hiện kế
hoạch. Hắn cho phép 36 hành khách đi cùng chuyến bay và nữ tiếp viên
Saphina rời khỏi máy bay bằng một cầu thang. Hắn không chịu thả Tina
Mucklow cũng như ba người đàn ông trong buồng lái: Scott, Rataczak và
Anderson.
Kẻ không tặc này sau đó dùng điện thoại trong cabin của buồng lái để
đưa ra lệnh hướng dẫn phi công về cách bay và nơi để bay đến. Hắn ra
lệnh bay ở độ cao không quá 304m với tốc độ bay không vượt quá 240km mỗi
giờ.
Những chiếc máy bay lớn hơn không thể duy trì tốc độ thấp như vậy. Nhưng Cooper biết rằng chiếc 727 là loại máy bay nhẹ (chỉ 50 tấn khi chưa nạp nhiên liệu) có thể bay chậm ở mức 128 km/giờ trong điều kiện độ cao 304m.
Những chiếc máy bay lớn hơn không thể duy trì tốc độ thấp như vậy. Nhưng Cooper biết rằng chiếc 727 là loại máy bay nhẹ (chỉ 50 tấn khi chưa nạp nhiên liệu) có thể bay chậm ở mức 128 km/giờ trong điều kiện độ cao 304m.
Thậm chí ngay cả khi nạp đầy nhiên liệu chiếc máy bay này cũng hoàn
toàn có thể duy trì tốc độ 160 km/giờ. Những người nhảy dù thích tốc độ
bay chậm hơn để giảm bớt sự rung lắc do tác động của bên ngoài. Nhưng
nhảy xuống ở tốc độ 240 km/giờ thì cũng hoàn toàn là điều có thể với
người nhảy có kinh nghiệm.
Cooper nói với phi hành đoàn rằng hắn muốn đi tới thành phố Mexico
nhưng Rataczak nói rằng máy bay này chỉ bay được 1.609km tại độ cao so
với mặt biển và tốc độ mà kẻ không tặc yêu cầu là rất khó khăn dù đã nạp
đủ 52.000 gallon nhiên liệu.
Khoảng 8 giờ tối, tên này chạy tới phía đuôi máy bay. Tại đuôi mỗi
chiếc máy bay Boeing 727 đều được thiết kế một cầu thang. Đèn cảnh báo
của máy bay lập tức phát sáng, cho thấy cửa sau của máy bay đã bị mở.
Tên không tặc nhảy dù ở cửa sau máy bay
Cơ trưởng thông qua máy bộ đàm, lên tiếng hỏi: “Anh có yêu cầu gì cần
giúp đỡ không?”, “Không!”, đây chính là câu nói cuối cùng của Dan Cooper
trên máy bay. Khoảng 8 giờ 24 phút, Dan Cooper nhảy ra khỏi máy bay
mang theo cặp tài liệu và túi tiền có chứa 200.000 USD trên lưng, nhanh
chóng biến mất giữa màn đêm trên bầu trời bangWashington.
Tuy nhiên, mọi người trên máy bay không biết hắn đã nhảy ra khỏi máy
bay lúc nào. Hắn được dự đoán là đã rơi xuống đâu đó gần Vancouver,
Washington mang theo cả vali chứa bom và những thứ liên quan. Kỳ lạ hơn,
đó cũng chính là lần cuối cùng Cooper không bao giờ xuất hiện lần nữa,
không một mảnh quần áo hay dù nào được tìm thấy.
Triển khai lực lượng vây bắt
Trong lúc này, cảnh sát đã cử hai máy bay tiêm kích F-106 bám sát chiếc
máy bay dân sự để canh cú nhảy của Cooper. Ngay sau khi nhận được tin
báo từ hai chiếc máy bay tiêm kích, FBI đã nhanh chóng huy động lực
lượng triển khai một cuộc tìm kiếm quy mô lớn ở khu vực mặt đất dự kiến
tên không tặc nhảy dù xuống.
Tuy nhiên, địa hình nơi này rất phức tạp, núi dốc, nước chảy siết, mật
độ những cây đại thụ dày đặc, trong rừng có nhiều loài thú nguy hiểm như
sư tử châu Mỹ và gấu đen.
Mọi người hy vọng sẽ tìm thấy một dấu vết nhỏ của Cooper. Nhưng sau mấy
tháng tìm kiếm, thậm chí còn huy động cả một chiếc tầu ngầm sục sạo
những hồ gần đó, đội quân hùng hậu của FBI đành phải ra về trắng tay.
Đồng thời cảnh sát cũng xác nhận cái tên Dan Cooper, cùng các giấy tờ
đăng ký ở sân bay chỉ là đồ giả. Theo những con tin, Dan Cooper là một
người rất nhã nhặn. Trong suốt quá trình khống chế máy bay, tống tiền,
Dan Cooper không có bất cứ hành động thô lỗ nào, ngược lại rất tình cảm.
Mọi người miêu tả hắn cao hơn 1m8, dáng người xấp xỉ 80kg, mắt nâu, tóc
ngắn.
Theo FBI, Cooper có thể là một tay lính dù chuyên nghiệp trong quân
đội, rất có thể y từng phục vụ trong lực lượng lính dù và là người khá
hiểu rõ về máy bay chở khách dân dụng. Hắn biết được rằng, máy bay
Boeing 727 là loại máy bay duy nhất có cửa ở phía đuôi. Căn cứ theo đó,
FBI và Cảnh sát Washington ngay lập tức mở cuộc điều tra và tìm kiếm kéo
dài trong 18 ngày, nhưng không có kết quả.
So với cửa bên của các loại máy bay khác thì độ nguy hiểm từ việc nhảy
dù từ phía đuôi của loại máy bay này nhỏ hơn nhiều. Đặc điểm này đã được
tên D.B.Cooper lợi dụng một cách triệt để.
Thành viên phi hành đoàn trên chuyến bay bị Dan Cooper tấn công.
Căn cứ theo miêu tả của nữ tiếp viên Saphina về D.B.Cooper, FBI đã phác
họa ra chân dung của hắn, và cho công bố lệnh truy nã trên phạm vi toàn
nước Mỹ. FBI nhận định rằng, người này rất có thể là một tay nhảy dù
chuyên nghiệp, bằng chứng là y đã yêu cầu tới hai chiếc dù và không cho
phép máy bay bay quá tốc độ và độ cao.
Trí “tưởng tượng” một D.B. Cooper
Sau khi vụ cướp được cho là táo tợn nhất trong lịch sử nước Mỹ kết
thúc, D.B. Cooper đã trở thành cái tên bị truy lùng nhiều nhất
Nhiều năm qua, hàng nghìn người Mỹ đã tình cờ nói ra những đặc điểm của
bạn bè, họ hàng hay đồng nghiệp của mình mà theo đó rất giống với chân
dung DB Cooper. FBI cho biết khoảng 10.000 cái tên dường như đang cần
tìm đã lọt đến tai cơ quan này. Nhiều người trong số đó đã được cảnh sát
"kiểm chứng". Nhưng tất cả những trường hợp được cảnh sát xác minh đều
không phải là đối tượng mà FPI đang cần tìm.
Chẳng hạn vào năm 1995, Duane Weber, một nhà buôn đồ cổ ở Florida,
người đã chết vì bệnh thận, một lần đã nói với vợ anh ta rằng "Anh chính
là D.B. Cooper." Sau khi Weber chết, vợ người đàn ông này đã tìm thấy
một chiếc ví được giấu kín và chiếc ví này đã chỉ ra rằng Duane Weber
trước đây có một cuộc sống và nhân thân khác với cái tên John C.
Collins.
Một tờ tiền trong số 200.000 USD được thu lại sau 3 năm
Qua điều tra, cảnh sát thấy người này có một tiểu sử cũng chẳng lấy gì
làm sạch sẽ: bị hải quân sa thải vì đạo đức không tốt và 6 bản án tù,
một trong số đó là bị giam giữ tại nhà tù cách sân bay Sea-Tac 32km.
Người goá phụ nhớ lại rằng vào năm 1979, hai vợ chồng bà đã du ngoạn tới
một vùng hẻo lánh ở rừng Clark County, Washington.
Bà khẳng định rằng chồng bà rất giống với bức họa chân dung D.B.
Cooper, như: hút thuốc, uống rượu whisky ngô và thỉnh thoảng khi mơ ngủ
lại nhắc đến những bậc thang ở máy bay và các dấu vân tay.
(còn tiếp)
Hòa Thu
Không tặc D.B Cooper – Vụ mất tích bí ẩn nhất của FBI (Phần 3)
19:27 | 04/04/2015
Hơn 40 năm đã qua, mhưng
Cơ quan điều tra Liên bang Mỹ (FBI) và cả người dân nước này vẫn luôn
tìm kiếm và ám ảnh bởi cái tên Dan Cooper (hay còn gọi là D.B. Cooper) –
kẻ cướp và đe dọa cho nổ tung một máy bay Boeing727 chở khách nếu Hãng
hàng không Northwest Orient không trả cho y 200.000 USD. Và ít ai biết
rằng, vụ tấn công chuyến bay ngày Lễ Tạ ơn (Thanksgiving Day) năm 1971
chính là sự kiện làm nên danh tiếng của tên không tặc này.
Trí “tưởng tượng” về một D.B. Cooper
Một trong những câu chuyện về Cooper đặc biệt nhất là bà Elsie Rodgers, ở Nebraska. Bà kể với các cháu mình rằng một ngày vào những năm 1970 bà đã phát hiện thấy một đầu người ở gần sông Columbia, Washington trông giống D.B. Cooper.
Nhưng những đứa cháu đã chẳng mấy để tâm đến chuyện này vì nghĩ là bà mình lẩn thẩn cho đến khi bà chết, năm 2000, họ tìm thấy một chiếc đầu lâu trên phòng tầng thượng của nhà bà. FBI cho thử ADN nhưng kết quả chẳng có gì liên quan đến Cooper.
Một tờ tiền 20 USD được tìm thấy
Nhưng câu chuyện phức tạp nhất chính là cuốn sách: "D.B. Cooper: Điều
gì đã thực sự xảy ra", một cuốn sách xuất bản năm 1985 của Max Gunther
dựa trên 6 cuộc điện đàm vào năm 1982 với một phụ nữ có tên là "Clara".Cô kể rằng, vào 26-10-1971, 2 ngày sau vụ không tặc, cô đã nhìn thấy Cooper bị thương và nơi Cooper rơi xuống còn tạo thành một hố trũng trong ngôi vườn gần ngoại ô Longview. Cô đã tận tay chăm sóc chiếc chân gãy của Cooper và sau đó hai người yêu nhau.
Cô nói rằng Cooper khởi nguồn là dân Connecticut. Cooper đã rời bỏ gia đình và đi về phía tây, gia nhập một nhóm nhảy dù và nhen nhóm kế hoạch cướp máy bay. Cô khẳng định để thực hiện kế hoạch này, người đàn ông này đã phải đọc rất nhiều những cuốn sách về máy bay và nghiên cứu kỹ lưỡng lộ trình bay cũng như quy trình tiếp đất.
Cô nói rằng sau khi không tặc hai người sống trên đảo Long, New York và chuyển toàn bộ số tiền cướp được vào thành phố Atlantic và các sòng bạc Reno. Theo người phụ nữ này Cooper chết vào năm 1982 vì lý do sức khỏe. Nhưng FBI một lần nữa lại bác bỏ câu chuyện này vì các tình tiết không logic.
Việc Dan Cooper mất tích bí ẩn khiến vụ không tặc trở nên nổi tiếng. Và sau đó, có ít nhất 12 người từng công khai hoặc kín đáo tự nhận mình là Dan Cooper. FBI cũng cho biết, đã có ít nhất 10.000 tên người đã được đưa vào hồ sơ theo dõi, song không có ai được chứng thực là Dan Cooper.
Cooper chết hay vẫn còn sống? Câu hỏi này vẫn đang còn bỏ ngỏ. Nếu may mắn hắn còn sống hắn chừng 70 tuổi và nếu không thì thân xác hắn cũng đã tan tành thành từng mảnh 32 năm trước.
Manh mối vụ án
Theo tính toán của cảnh sát, cú nhảy mà Dan Cooper thực hiện cách Quốc lộ 5 khoảng 16 km về phía Đông, gần Ariel, bang Washington và đập hồ Merwin của sông Lewis. Tuy nhiên, chiến dịch lục soát và tìm kiếm tại đây đã không mang lại kết quả nào.
Phác họa tên cướp DB Cooper
Đến ngày 10-2-1980, một cậu bé 8 tuổi bới cát bên bờ sông Columbia đã
phát hiện 3 bó tiền nát trị giá 5.800 USD, tất cả đều loại tiền 20 USD,
với số serie phù hợp với số tiền mà Cooper yêu cầu. Địa điểm đó cách 50
km so với nơi mà theo cảnh sát, Cooper đã thực hiện cú nhảy.
Sau khi kiểm tra tại phòng thí nghiệm, số tiền này đã được chôn tại bờ
sông vào tháng 8-1974, tức là gần 3 năm sau khi Cooper nhảy dù khỏi máy
bay. Một chiến dịch tìm kiếm được phát động cho đến khi một trận núi lửa
phun trào vào ngày 18-5-1975.
Nhiều người lo ngại nham thạch có lẽ đã phá hủy toàn bộ những bằng
chứng mà Cooper để lại. Thậm chí, có mật vụ FBI còn khẳng định Cooper đã
chết sau cú nhảy. Song giả thuyết này không bao giờ được xác nhận sau
vụ núi lửa phun trào.
FBI đã xác định được đây chính là một phần trong số tiền 200.000 USD mà
D.B.Cooper đã lấy được từ tay cảnh sát. Một số người thấy vậy cho rằng,
D.B.Cooper đã bị thiệt mạng khi nhảy dù ra khỏi máy bay. Vụ án này dần
dần được đưa vào danh sách “hồ sơ chết” của FBI và không ai còn nhắc tới
nó nữa.
Về số tiền 200.000 USD mà Cooper đòi, FBI đã chuyển một bản danh sách
dài 34 trang ghi lại 100.000 số serie của từng tờ tiền mà họ đã đưa cho
Cooper. Ngoài vài bó tiền tìm thấy bên sông, cho đến nay người ta vẫn
chưa hề phát hiện một tờ nào được tiêu.
Thậm chí, có người còn trao giải thưởng 100.000 USD để đổi lấy một tờ tiền 20 USD có số serie được ghi lại, nhưng không ai đứng ra nhận giải. Số tiền thưởng 30.000 USD của hãng hàng không Northwest Orient và một tờ báo ở Seattle cũng như vậy. Nếu Cooper có đồng phạm, rõ ràng họ rất trung thành với tên không tặc “huyền thoại”.
Thám tử tham gia vụ truy tìm tên không tặc Cooper
Gần đây nhất, vào ngày 25-5-2002, một người đàn ông có tên Augusto
Lakandula, với những vấn đề tài chính nghiêm trọng, đã mang theo một quả
lựu đạn và một khẩu súng để cướp tiền của 277 hành khách trên một máy
bay của hãng hàng không Philippines Airlines, rồi nhảy dù tự chế ở độ
cao 1,8km.
Thi thể của anh ta sau đó được tìm thấy ở một khu rừng cách Manila
khoảng 40 dặm về phía Đông. Dù rằng D.B. Cooper không phải là tên không
tặc đầu tiên cũng như cuối cùng, song theo thời gian, tấm màn bí ẩn
quanh vụ cướp khét tiếng này vẫn bao trùm và trở thành mối quan tâm của
không ít người, đặc biệt những người muốn trở thành thám tử tại Mỹ.
Tất cả mọi người, từ những điều tra viên nghiêm túc và kiên định nhất
đến những thám tử nghiệp dư ham chơi đều luôn nghiền ngẫm, soi kỹ từng
chi tiết của vụ án, hy vọng một cách ảo tưởng rằng sẽ phát hiện một số
khía cạnh bị bỏ qua - những khía cạnh che dấu một đầu mối có thể là
nguyên nhân dựng nên những rào chắn không thể vượt quan trong việc giải
mã vụ án. Tuy vậy vụ án vẫn đi vào bế tắc suốt gần 40 năm sau, và D.B.
Cooper đã trở thành "tượng đài lớn" của giới tội phạm, người đã trốn
tránh một cách tài tình cuộc điều tra lâu dài, rộng lớn và tốn kém bậc
nhất trong lịch sử ngành tư pháp Mỹ của thế kỷ 20./.
Hòa Thu
Hồ sơ tuyệt mật: “Mật mã Dyatlov” và cái chết bí ẩn của 9 sinh viên trẻ
Tai nạn đèo Dyatlov. Năm 1959, 10 sinh viên trẻ đi trượt tuyết trong kỳ nghỉ ở dãy núi Ural, Nga và không bao giờ trở lại. Cuối cùng, thi thể của họ được tìm thấy ở khoảng cách khá xa, mang trên mình vết thương bí ẩn.
Chuyến khám phá định mệnh
Năm 1959, một nhóm 10 nhà khoa học làm việc tại Viện Bách khoa Ural, nay là Đại học Kỹ thuật quốc gia Ural (Nga), lên ý tưởng thực hiện một cuộc thử nghiệm về tác động của độ cao và thời tiết khắc nghiệt đối với cơ thể người.
Họ tổ chức leo lên ngọn núi Kholat Syakhl (dân địa phương gọi là "Ngọn núi tử thần”) có độ cao 1.895m, nằm về phía bắc của dãy Ural.
Sáng ngày 1.2, nhóm thám hiểm bắt đầu thực hiện việc leo núi. Theo kế hoạch, cả nhóm sẽ cố leo đến một ngọn núi ở độ cao 565m ngay trong ngày và cắm trại qua đêm tại đây.
Nếu tôi có thể cầu xin Chúa một điều thì đó sẽ là câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã thực sự xảy ra với các bạn tôi vào cái đêm định mệnh đó?”, Yury Yudin, thành viên thứ 10 của cuộc thám hiểm, do bị ốm nên đã quay về vài ngày sau khi khởi hành chuyến đi. Số phận những người bạn ông vẫn còn là một bí ẩn đau thương.
Yudin và 9 người bạn khởi hành chuyến đi vào ngày 23.1.1959. Đích đến của họ là đỉnh Otorten ở phía bắc Ural. Anh và 8 sinh viên khác đến từ Đại học Bách khoa Ural ở Ekaterinburg, nằm trong khu vực Sverdlovsk, cách Moscow 1.900 km về phía đông. Hồi đó, thành phố này vẫn được gọi là Sverdlovsk, là nơi Sa hoàng và gia đình ông đã chết sau cuộc Cách mạng Nga.
Nhóm sinh viên trường Bách khoa Ural là các thành viên có kinh nghiệm của CLB Du lịch thể thao do Igor Dyatlov, 23 tuổi, dẫn đầu và thực hiện chuyến thám hiểm bằng trượt tuyết và leo núi. Lộ trình của họ sẽ dẫn tới đỉnh Otorten ở độ cao hơn 1.100m trên mực nước biển, được gọi là “Tuyến 3” – lộ trình nguy hiểm nhất vào thời gian đó của năm.
Đến ngày 23.1, nhóm 10 người bắt đầu chuyến thám hiểm dự kiến kéo dài 3 tuần xuyên quốc gia. Họ đi tàu hỏa đến Ivdel vào ngày 25.1, sau đó chuyển sang xe tải tới Vizhai, là điểm dừng chân cuối cùng ở vùng đồng bằng trước khi bắt đầu leo núi Otorten. Họ bắt đầu leo núi ngày 27.1. Tuy nhiên, đến ngày 28.1 thì Yudin bị bệnh và phải quay về nên 9 người còn lại tiếp tục cuộc hành trình mà không có anh. Yudin không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy các bạn của mình còn sống.
Theo kế hoạch, cả nhóm sẽ trở lại Vizhai vào ngày 12.2.1959 và từ địa điểm đó Dyatlov sẽ gửi một bức điện tín đến câu lạc bộ Thể thao của trường để thông báo rằng họ đến nơi an toàn. Chẳng ai nghi ngờ rằng sẽ không có bức điện tín đó như dự định vì các thành viên của nhóm đều là những vận động viên trượt tuyết rất kinh nghiệm.
Đến ngày 20.2, vì những người thân của các sinh viên tỏ ra rất lo lắng nên nhà trường cử một đội tìm kiếm và cứu hộ bao gồm các giáo viên và sinh viên tình nguyện của trường, tiếp theo đó là lực lượng cảnh sát và quân đội vào cuộc, cùng với máy bay và trực thăng
Sau gần một tuần tìm kiếm trong thời tiết lạnh giá, khắc nghiệt, đến ngày 26.2, những người cứu hộ đã đến được địa điểm hạ trại của nhóm thám hiểm.
Sau 2 tháng kiếm tìm vô vọng, ngày 4.5, sự ấm áp của mùa xuân đã phá tan băng, tuyết. Công cuộc tìm kiếm trở nên dễ dàng hơn. Trong cuộc ra quân này, đoàn cứu hộ đã phát hiện thêm những nạn nhân tiếp theo bị vứt dưới những khe núi cách xa lều hàng km
Đầu tiên, đoàn phát hiện Doroshenko và Krivonischenko bị treo trên những nhánh thông cổ thụ dưới một khe núi. Tiếp theo là giảng viên Alexander Zolotaryov, kỹ sư Nicolas Thibeaux- Brignollel, sinh viên Alexander Kolevatov và Ludmila Dubinina bị vùi sâu dưới hàng chục mét băng tuyết. Những nghiên cứu thi thể cho thấy: các nạn nhân chết vì bị chấn thương rất nặng. Hộp sọ của Slobodin và Thibeaux Brignollel có dấu hiệu bị đập vỡ bằng một vật nặng.
Một điều khác lạ so với những nạn nhân trước là những thi thể này đều có đầy đủ quần áo. Tuy nhiên, có những xáo trộn đặc biệt trang phục giữa các thành viên. Thậm chí, họ còn chưa kịp cài khuy, lên dây kéo… Điều này chứng tỏ, những người này đã mặc y phục trong tình trạng hoảng loạn.
Mặc dù còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, cuộc điều tra đã khép lại vào cuối tháng và hồ sơ vụ này được gửi đến cơ quan lưu trữ bí mật. Câu chuyện còn kỳ bí hơn khi những người trượt tuyết và các nhà thám hiểm khác bị cấm vào khu vực này trong 3 năm tiếp sau đó.
Theo Minh An (Khoevadep)Năm 1959, một nhóm 10 nhà khoa học làm việc tại Viện Bách khoa Ural, nay là Đại học Kỹ thuật quốc gia Ural (Nga), lên ý tưởng thực hiện một cuộc thử nghiệm về tác động của độ cao và thời tiết khắc nghiệt đối với cơ thể người.
Họ tổ chức leo lên ngọn núi Kholat Syakhl (dân địa phương gọi là "Ngọn núi tử thần”) có độ cao 1.895m, nằm về phía bắc của dãy Ural.
Sáng ngày 1.2, nhóm thám hiểm bắt đầu thực hiện việc leo núi. Theo kế hoạch, cả nhóm sẽ cố leo đến một ngọn núi ở độ cao 565m ngay trong ngày và cắm trại qua đêm tại đây.
Người kỹ sư trẻ, trưởng nhóm, Igor Dyatlov
Tuy nhiên, do gặp bão tuyết nên họ bị mất phương hướng và đi lạc đến
một đèo nằm ở phía bên kia sườn của ngọn Kholat. Và khi biết bị nhầm,
nhóm trưởng Dyatlov ra lệnh cho cả nhóm hạ trại qua đêm tại đây.Nếu tôi có thể cầu xin Chúa một điều thì đó sẽ là câu trả lời cho câu hỏi chuyện gì đã thực sự xảy ra với các bạn tôi vào cái đêm định mệnh đó?”, Yury Yudin, thành viên thứ 10 của cuộc thám hiểm, do bị ốm nên đã quay về vài ngày sau khi khởi hành chuyến đi. Số phận những người bạn ông vẫn còn là một bí ẩn đau thương.
Yudin và 9 người bạn khởi hành chuyến đi vào ngày 23.1.1959. Đích đến của họ là đỉnh Otorten ở phía bắc Ural. Anh và 8 sinh viên khác đến từ Đại học Bách khoa Ural ở Ekaterinburg, nằm trong khu vực Sverdlovsk, cách Moscow 1.900 km về phía đông. Hồi đó, thành phố này vẫn được gọi là Sverdlovsk, là nơi Sa hoàng và gia đình ông đã chết sau cuộc Cách mạng Nga.
Câu chuyện đã được dựng thành phim.
Thập kỷ 1950 chứng kiến sự bùng nổ trào lưu “du lịch thể thao” ở Nga,
khi đất nước bắt đầu thoát khỏi thời kỳ hậu chiến với chính sách thắt
lưng buộc bụng. Sự kết hợp du lịch với các môn thể thao như trượt tuyết,
leo núi, phiêu lưu mạo hiểm là một cách giúp cư dân Xô Viết cũ thoát ra
những gánh nặng lo toan của cuộc sống hàng ngày, gần gũi với thiên
nhiên và dành thời gian bên những người bạn thân thiết.Nhóm sinh viên trường Bách khoa Ural là các thành viên có kinh nghiệm của CLB Du lịch thể thao do Igor Dyatlov, 23 tuổi, dẫn đầu và thực hiện chuyến thám hiểm bằng trượt tuyết và leo núi. Lộ trình của họ sẽ dẫn tới đỉnh Otorten ở độ cao hơn 1.100m trên mực nước biển, được gọi là “Tuyến 3” – lộ trình nguy hiểm nhất vào thời gian đó của năm.
Đến ngày 23.1, nhóm 10 người bắt đầu chuyến thám hiểm dự kiến kéo dài 3 tuần xuyên quốc gia. Họ đi tàu hỏa đến Ivdel vào ngày 25.1, sau đó chuyển sang xe tải tới Vizhai, là điểm dừng chân cuối cùng ở vùng đồng bằng trước khi bắt đầu leo núi Otorten. Họ bắt đầu leo núi ngày 27.1. Tuy nhiên, đến ngày 28.1 thì Yudin bị bệnh và phải quay về nên 9 người còn lại tiếp tục cuộc hành trình mà không có anh. Yudin không bao giờ ngờ rằng đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy các bạn của mình còn sống.
Theo kế hoạch, cả nhóm sẽ trở lại Vizhai vào ngày 12.2.1959 và từ địa điểm đó Dyatlov sẽ gửi một bức điện tín đến câu lạc bộ Thể thao của trường để thông báo rằng họ đến nơi an toàn. Chẳng ai nghi ngờ rằng sẽ không có bức điện tín đó như dự định vì các thành viên của nhóm đều là những vận động viên trượt tuyết rất kinh nghiệm.
Đến ngày 20.2, vì những người thân của các sinh viên tỏ ra rất lo lắng nên nhà trường cử một đội tìm kiếm và cứu hộ bao gồm các giáo viên và sinh viên tình nguyện của trường, tiếp theo đó là lực lượng cảnh sát và quân đội vào cuộc, cùng với máy bay và trực thăng
Khu lều rách nát của nhóm leo núi
Những điều kỳ lạ trong cái chết của 9 nhà khoa họcSau gần một tuần tìm kiếm trong thời tiết lạnh giá, khắc nghiệt, đến ngày 26.2, những người cứu hộ đã đến được địa điểm hạ trại của nhóm thám hiểm.
Sau 2 tháng kiếm tìm vô vọng, ngày 4.5, sự ấm áp của mùa xuân đã phá tan băng, tuyết. Công cuộc tìm kiếm trở nên dễ dàng hơn. Trong cuộc ra quân này, đoàn cứu hộ đã phát hiện thêm những nạn nhân tiếp theo bị vứt dưới những khe núi cách xa lều hàng km
Đầu tiên, đoàn phát hiện Doroshenko và Krivonischenko bị treo trên những nhánh thông cổ thụ dưới một khe núi. Tiếp theo là giảng viên Alexander Zolotaryov, kỹ sư Nicolas Thibeaux- Brignollel, sinh viên Alexander Kolevatov và Ludmila Dubinina bị vùi sâu dưới hàng chục mét băng tuyết. Những nghiên cứu thi thể cho thấy: các nạn nhân chết vì bị chấn thương rất nặng. Hộp sọ của Slobodin và Thibeaux Brignollel có dấu hiệu bị đập vỡ bằng một vật nặng.
Thi thể của 9 nạn nhân được tìm thấy và không rõ nguyên nhân gây ra cái chết.
Trong khi đó, lồng ngực của Zolotarev và Dubunina bẹp dúm, toàn bộ
xương sườn bị bẻ gãy, lục phủ ngũ tạng vỡ nát. Riêng Dubunina, ngoài bộ
ngực bẹp dúm, cái xác của cô cũng chiếc lưỡi. những nỗ lực tìm kiếm phần
thi thể khiếm khuyết không bao giờ có kết quả. Tuy nhiên, cơ thể các
nạn nhân không hề xuất hiện dấu vết của sự xung đột. Ngoài những vết
thương dẫn đến cái chết tức thì, cơ thể họ không có các vết xước, bầm…Một điều khác lạ so với những nạn nhân trước là những thi thể này đều có đầy đủ quần áo. Tuy nhiên, có những xáo trộn đặc biệt trang phục giữa các thành viên. Thậm chí, họ còn chưa kịp cài khuy, lên dây kéo… Điều này chứng tỏ, những người này đã mặc y phục trong tình trạng hoảng loạn.
Một xác chết bị vùi trong tuyết lạnh
Những nạn nhân sau khi chết, dù được phát hiện trước hay sau, dù khi
sống có màu da, tóc khác nhau nhưng sau khi chết da họ cùng có màu cam
bất thường, tóc chuyển sang màu xám tro. Đặc biệt, những cái xác được
khẳng định bị nhiễm xạ ở mức độ nặng. Những cái chết thương tâm gieo rắc
vào lòng người sống những nỗi sợ vô hình, những bí hiểm không lời giải
đã trở thành lời thách thức không khoan nhượng đối với nền khoa học.Mặc dù còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, cuộc điều tra đã khép lại vào cuối tháng và hồ sơ vụ này được gửi đến cơ quan lưu trữ bí mật. Câu chuyện còn kỳ bí hơn khi những người trượt tuyết và các nhà thám hiểm khác bị cấm vào khu vực này trong 3 năm tiếp sau đó.
Nhận xét
Đăng nhận xét