Ta như mặt ruộng nhớ cày Trời mưa nước lụt ngập lầy lệ đau Chứa chan đành với cỏ lau Loang loang váng đục một màu điêu linh Tuổi thơ ngơ ngác khóc tình Về già lạc lõng khóc mình cô đơn Nói khôn, người bảo mất hồn Lặng thinh uống rượu, thành ông bợm già Hừng hực mà chê thây ma Tưng bừng nhân ái lại ra cù lần! Ước gì hóa cảnh non hòn Bon sai mấy nhánh, vài hồn tiều phu Đất trời mới chớm màu thu Lão ông ngồi ngóng bạc đầu đìu hiu Một làn nước lách khe rêu Róc ra róc rách nỗi chiều buồn tênh...
Trần Hạnh Thu
TIẾNG CHUÔNG CHIỀU THU - Tô Vũ - Duy Trác - BP
Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Văn
1 2.164
Phân tích bài thơ Tràng giang lớp 11
Phân
tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận là tài liệu tham khảo hữu ích dành
cho các bạn, đặc biệt các bạn đang ôn thi Đại học môn Văn. Hy
vọng các bạn sẽ có thêm cảm nhận cũng như ý tưởng mới về tác phẩm sau
khi tham khảo tài liệu: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.
Phân tích bài thơ Tràng giang
Nhà
thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng
định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê
quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng
tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của
thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ
trụ ca", "Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông
đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng
đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa",
"Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế, một nét
thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng
Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận
trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được
sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh
mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, ám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi
trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa
có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu
mến cho người đọc.
Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp .... Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay
từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài
thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai
âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông,
không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng
giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường
giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng
sông của tâm tưởng. Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ
xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các
nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa
tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về
thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé
trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn
chứa một tinh thần hiện đại. Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ
bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng
trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát
ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng
khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói
lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc
lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn
khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động
trái tim người đọc. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ
đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên
này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang
đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn
đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa,
gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên
man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một
"con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là
thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng
"tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền
và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào
thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách
"thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên
trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng
từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn. Tâm hồn của
chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một
càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với
các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la.
"Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa
sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng"
nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi
nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người
đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi. Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ
tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u
sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể
cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới.
Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của
khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ
thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ
tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng. Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai
từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một
dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé
nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì
"đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn
côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một
câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi,
không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong
mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con
người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung
quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của
thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót, Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng
xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả
sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót"
là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp
hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng,
mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên
nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc
về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu". Vẻ
đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường
thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường
với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa. Nhà thơ lại
nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc
mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng
thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh
quẽ, đìu hiu:
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng, Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cần gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình
ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ
cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô
định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai
cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng
người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô
đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở
ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên
nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người,
không có sự giao hoà, nối kết:
Mênh mông không một chuyến đò ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác
giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn
những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì
gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín,
chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang,
phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn
chìm, trôi đi nơi nào. Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút
pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người
đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát
bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn
khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy
Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động,
có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng
là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ
điển quen thuộc. Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai
chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa
chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống
mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm
nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi
nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ
để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển. Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn
dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước
đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm
bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê
hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là
nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót
trước cảnh mất nước. Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ
điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của
Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy
Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm
rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của
nhà thơ hôm nay. Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang
nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm
phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các
thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là
cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính,
trầm mặc của thơ Đường. Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ
sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần
tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay
khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức
muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được. Bài
thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy
Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng
một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
Phân tích bài thơ Tràng Giang mẫu 2
Huy
Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những
tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng
tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách
mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển
biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí
hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ
“Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm
chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi
nổi lênh đênh. Bài thơi để lại trong long người đọc nhiều nỗi niềm khó
tả. Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư
tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói
là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người
ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung quốc. Nhưng chính tràng
giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc
tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài
tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế. Lời đề từ “Bâng khuâng
trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ
chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh
mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ
điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận. Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu tram ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Với
một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”,
lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã
lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời
thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ
điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền
xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên
dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy
ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh
càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là
hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền
về nước lại sầu tram ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự
chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá.
Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn
của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn
chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói
lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp
người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật
chội như thế này. Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai
câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng
của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay
không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở
ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả
một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy,
hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu
hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang
tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa
để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một
bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác
giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô đinh. Không
phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự
là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh
mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn
sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy. ở khổ thơ thứ ba, tác giả
muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như
thiên nhiêu không như long người mong ngóng:
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thương nhớ
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Sang
khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận
động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở
khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của
vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến
cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô đinh, trôi nổi khắp nơi, không có
nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng
biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến
đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn
tại nhưng dường như điều này là không thể. Mong ngóng gửi niềm
thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn
vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu. Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dung rất đắc điệu:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Có
thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ
này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng
them sầu, them buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều
sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có
thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã
hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống. Hai câu thơ
cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gủi
vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của HUy
Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi HIệu:
Trên sông khói sóng cho buồn long ai
Là sóng của sông hay là sóng trong long người
Bài
thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ
điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh.Qua đó khắc
họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê
hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.
Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận:
Tràng
Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu
biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con
người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng,
xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm
được lối ra, nên như kéo dài triền miên.
Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu
Hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu
thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của
con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng.
Dòng sông ấy có từ “ gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ.
Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên
nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu
song gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Điệp
từ “ điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng
triền miên. “ Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền
xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “ Xuôi mái” ở
trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “ song song” “ Thuyền
về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải
chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngã. Ở
câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “ cành
củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và
vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm
thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không
gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài
trong phong trào thơ mới của Huy Cận.
Phân tích 4 câu thơ đoạn 2
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức
pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn
tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn
mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ
có một cồn nhỏ điều hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con
người. “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ
nhận sự hiện diện của cuộc sống con người. Hai câu thơ cuối của
khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với
trời lên”, “ sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô
liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ
rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm
vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ
thơ tiếp theo gợi nên sự vô định” cánh bèo” không phải đơn thuần là
cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ
thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi. “Mênh mông không
một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có
bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người
nhưng tác giả đã nói là “ không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở
đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là
thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới.
Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy
Cận con người ở đây cô đơn bất an, gợn người.
Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ cuối
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ
thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “ đùn núi bạc” là không gian
hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng
lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta
thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ
đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang
một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng
hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới. Đến với hai
câu cuối của bài thơ “lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng
hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự
phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết
hơn, cháy bổng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ
láy “dợn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận. Kết bài Nhìn
chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãn
mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa
giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy
Cận “ sầu ảo não”. Bài thơ “ Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn
đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như
biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
Thơ tình về biển buồn
chứa chan tâm sự sau đây sẽ nói hộ tiếng lòng của bạn, của những người
đang yêu.Từ lâu trong thi thơ những thi nhân vẫn dùng hình ảnh bờ cát,
con sóng và biển để nói về những tình yêu dài lâu, hạnh phúc, tuy vậy,
thơ buồn cũng không ngoại lệ. Vậy biển và sóng đã đi vào những hồn thơ
tình buồn như thế nào? Mời các bạn xem qua vài bài thơ tình biển sóng
sau đây nhé !
Trên đây là chùm thơ tình về biển buồn chứa chan tâm sự. Tình
yêu là vậy, buồn vui luôn song hành, có những phút giây buồn vô cớ, có
những phút giây cô đơn không thể gọi thành tên nên người ta thường gửi
gắm qua những vần thơ đầy tâm trạng. Hãy cùng Gocbao.com chia sẻ bạn nhé !
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét