Tài liệu lịch sử y học đã ghi lại rất nhiều nghiên cứu, thí nghiệm kỳ
lạ mà gần như chắc chắn sẽ không bao giờ được áp dụng ngày nay. Lấy ví
dụ, vào đầu những năm 1900, nhà khoa học pháp y người Romania, Nicolae
Minovici, người muốn tìm hiểu cảm giác bị treo cổ. Vì vậy, ông đã tự
treo cổ mình nhiều hơn một lần (Thí nghiệm có trợ lý để đỡ nhà khoa học
xuống đất trước khi ông nghẹt thở đến chết).
Kể cả cho đến bây
giờ, khoa học luôn đi kèm với những ý tưởng điên rồ. Dưới đây là top 10
thí nghiệm kỳ lạ trong lịch sử y khoa thế giới:
1. Các tình nguyện viên tham gia nghiên cứu được cho uống say khướt:
Nghiên
cứu nhằm mục đích tìm hiểu việc sử dụng điện thoại khi tham gia giao
thông hay sử dụng chất có cồn khi tham gia giao thông nguy hiểm hơn.
Nghiên
cứu này được công bố năm 2006, trong cuốn tạp chí Human Factors. Các
tác giả chọn 40 đối tượng có tiền sử uống rượu thường xuyên và cho họ
tham gia bài kiểm tra lái xe 4 lần.
Ở lần kiểm tra đầu tiên, họ
phải sử dụng điện thoại cầm tay; lần kiểm tra thứ hai, sử dụng thiết bị
nghe từ xa để nghe điện thoại. Lần thứ 3, các tác giả cho họ uống rượu
nhưng chỉ đến khi nồng độ cồn trong máu còn hợp pháp. Cuối cùng, họ được
tham gia lần kiểm tra cuối trong trạng thái tỉnh táo, không có bất kỳ
yếu tố gây phân tâm nào.
Kết quả của cuộc nghiên cứu cho thấy sử
dụng bất kể loại điện thoại nào cũng đều có khả năng gây tai nạn nhiều
hơn với việc lái xe khi say rượu.
Trên thực tế, tham gia giao
thông có sử dụng điện thoại gây tai nạn nhiều gấp 5 lần so với tham gia
giao thông không có yếu tố gây phân tâm.
2. Bơm tinh trùng vào da:
Người ta có thể có những phản ứng kỳ lạ với quan hệ tình dục, nhưng người phụ nữ nước Anh này có thể là trường hợp kỳ lạ nhất.
Người
phụ nữ này, được biết bị dị ứng với quả hạch Brazil từ trước, đã phát
ban và lên cơn khó thở sau khi quan hệ tình dục với bạn trai của mình.
Trước đó 3 tiếng đồng hồ, anh bạn trai này đã ăn 1 hũ hạch trộn, trong
đó có 5 quả hạch Brazil.
Mặc dù anh bạn trai biết rõ cô bị dị ứng
và đã tắm giặt, đánh răng sạch sẽ nhưng người phụ nữ này vẫn có hàng
loạt những biểu hiện dị ứng. Và những triệu chứng này cũng không phải do
nhạy cảm với nhựa mủ, vì cặp đôi này không hề sử dụng bao cao su.
Buổi
xét nghiệm dị ứng đã tìm ra thủ phạm chính xác: bác sĩ tiêm vào da
người phụ nữ nước Anh này tinh trùng của bạn trai cô sau khi anh ta ăn
hạch Brazil 4 tiếng trước đó. Kết quả cho thấy cô có phản ứng dị ứng với
các phần tử nhỏ của hạch Brazil có trong tinh trùng của bạn trai.
3. Dùng tay của tử thi để đấm và tát:
Mục đích của nghiên cứu này là “nghiên cứu sự tiến hoá của con người”.
So
sánh với tay của khỉ, 1 người trưởng thành có gang tay và ngón tay ngắn
hơn nhưng có ngón cái dài hơn. Một số nhà khoa học tranh cãi rằng sự
khác biệt này không chỉ là lý do giúp con người có các động tác khéo léo
hơn, mà còn làm tăng lực của cú đấm.
Để chứng minh giả
thuyết này, các nhà khoa học đã thực hiện một thí nghiệm đáng sợ, sử
dụng 8 cái tay của 8 thi thể nam trưởng thành. Nghiên cứu này được công
bố trên tạp chí Experimental Biology vào năm 2015. Mỗi cánh tay được gắn
trên một tấm ván bằng gỗ và treo lơ lửng từ một con lắc. Vì vậy, nó có
thể tấn công tấm đệm với lực mạnh ở trạng thái nắm đấm hoặc tát bằng gan
bàn tay.
Kết quả cho thấy lực của nắm đấm gấp đôi so với lực của
gan bàn tay. Và nắm đấm chặt cũng tạo lực lớn hơn 55% so với nắm đấm
lỏng.
Nắm đấm chặt cũng có tác dụng bảo vệ các xương bàn tay khỏi chấn thương trong va đập.
Tuy
nhiên, rất nhiều ý kiến trái chiều nảy sinh xung quanh thí nghiệm này.
Họ cho rằng nếu bàn tay tiến hoá để đánh nhau thì mặt - mục tiêu chính
của một cú đấm - phải tiến hoá để có thể tự bảo vệ mình. Trong khi đó
thì khuôn mặt là nơi có nhiều khớp xương dễ tổn thương nhất.
4. Tự uống máu của mình:
Nghiên
cứu được công bố vào tháng 8 năm 2018 trên cuốn tạp chí European
Gastroenterology. Các đối tượng tham gia nghiên cứu phải uống chính máu
của bản thân với mục đích tìm ra phương pháp chẩn đoán các bệnh viêm
ruột (IBD), bao gồm Crohn và viêm loét dạ dày tá tràng.
Trong thí
nghiệm kỳ lạ này, 16 tình nguyện viên khoẻ mạnh phải uống 100ml - 300ml
máu của chính mình. Sau 1 tháng, họ quay lại và đổi nhóm.
Sau mỗi
lần uống, các nhà nghiên cứu đo nồng độ 1 loại protein tên là
calprotectin, loại protein xuất hiện trong phân khi có viêm nhiễm đường
tiêu hoá. Nhưng xuất huyết tiêu hoá cũng có thể khiến nồng độ protein
này tăng cao, gây khó khăn trong việc chẩn đoán của bác sĩ.
Thật
vậy, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng máu trong đường tiêu hóa nên là
một lý do gây tăng calprotectin nhẹ ở phân. Nồng độ calprotectin rất
cao có thể cho thấy người bệnh bị bệnh viêm ruột IBD
5. Nhà nghiên cứu tự nội soi đại tràng cho bản thân:
Vào
năm 2006, một bác sĩ chuyên khoa tiêu hoá, Akira Horiuchi, đã tự thực
hiện nội soi đại tràng cho bản thân nhiều lần. Sau đó, quá trình thực
hiện nội soi đại tràng của ông đã được công bố trên tạp chí
Gastrointestinal Endoscopy.
Horiuchi muốn chứng minh cho mọi người
thấy nội soi đại tràng thực sự không đau và đáng sợ như mọi người nghĩ.
Vì thế, ông sử dụng ống nội soi nhỏ để thực hiện nội soi đại tràng ở tư
thế ngồi.
Thủ thuật nội soi đại tràng bình thường được thực hiện khi bệnh nhân nằm nghiêng 1 bên và sử dụng ống nội soi cỡ to và dày.
Horiuchi
thực hiện thủ thuật này 4 lần trong vòng 2 tháng. Các lần ông đều sử
dụng phương pháp vệ sinh và nội soi như nhau. Nhưng cảm giác khó chịu
của mỗi lần lại khác nhau. Có lẽ đây là lí do mỗi người cảm thấy đau
khác nhau khi thực hiện thủ thuật này.
6. Mặc đồ lót ướt trong tiết trời lạnh:
Trong
một nghiên cứu nhỏ mà kết quả khá hiển nhiên, các nhà nghiên cứu ở Na
Uy nhận thấy mặc đồ lót ướt trong tiết trời lạnh rất khó chịu.
Nghiên
cứu này được công bố năm 1994, trong cuốn tạp chí Ergonomics. Họ cho 8
người đàn ông mặc đồ lót ngồi trong phòng có nhiệt độ 10 độ C trong 60
phút. Một số người mặc đồ lót ướt, phần còn lại mặc đồ lót khô. 4 loại
vải được sử dụng trong thí nghiệm bao gồm vải cotton, len, vải
polypropylene và vải trộn polypropylene và len.
Trong suốt thời
gian 60 phút trong phòng thí nghiệm, nhiệt độ ngoài da, nhiệt độ trực
tràng, và cân nặng của các tình nguyện viên được theo dõi cẩn thận. Cứ
10 phút một lần, những người đàn ông này tự đánh giá xem mình run rẩy,
đổ mồ hôi và cảm thấy không thoải mái như thế nào.
Thật “ngạc
nhiên” khi những người mặc đồ ướt cảm thấy lạnh hơn và ít thoải mái hơn.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng để giữ thoải mái trong điều kiện ẩm
ướt và lạnh, độ dày của đồ lót quan trọng hơn cả chất liệu vải của nó.
7. Bác sĩ tự cho ve vào tai của mình:
Ve
tai là loài sinh vật có khả năng gây nhiễm trùng nặng ở tai mèo và chó.
Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu một người bị nhiễm trùng cho ve tai? Một
bác sĩ thú y đã tình nguyện cho ve vào tai mình để tìm hiểu.
Bác
sĩ thú y, Robert Lopez, đến từ New York, đã mô tả thí nghiệm vào năm
1993 trên Tạp chí Hiệp hội Y học Thú y Hoa Kỳ. Lopez nhét ve tai từ một
con mèo bị nhiễm trùng vào tai trái của mình. Anh ngay lập tức nghe thấy
tiếng cào và di chuyển khi bọ ve khám phá ống tai của anh. Sau đó, anh
ngứa dữ dội, và những âm thanh cào lớn hơn khi những con ve tiến về
phía màng nhĩ của anh.
Lopez cho biết, phải mất một tháng để hội
chứng nhiễm trùng biến mất. Nhưng điều đó không ngăn cản anh lặp lại thí
nghiệm thêm hai lần nữa. Nhưng với mỗi lần nhiễm trùng tiếp theo, các
triệu chứng của anh trở nên ít nghiêm trọng và giải quyết nhanh hơn, cho
thấy anh đã phát triển khả năng miễn dịch đối với những sinh vật đáng
sợ này.
8. Ngồi trong phòng đầy khói thuốc lá:
Nếu
bạn đã từng ở cùng phòng những người hút thuốc lá, bạn có thể nhận thấy
mùi khói ám vào quần áo của bạn. Và năm ngoái, các nhà khoa học đã đặt
ra đề tài về hiện tượng này trong một nghiên cứu được công bố trên tạp
chí Indoor Air.
Để tìm hiểu xem nicotine có thể hấp thụ bao nhiêu
phần vào quần áo và da sau khi tiếp xúc với thuốc lá, 6 nhà nghiên cứu
nam, tất cả đều là những người không hút thuốc, ngồi trong một căn phòng
đầy khói thuốc lá (phả ra từ cỗ máy hút thuốc) trong 5 giờ đồng hồ.
Nồng độ nicotine trong phòng tương đương nồng độ nicotine trong các quán
rượu cho phép hút thuốc ở Anh.
Bốn nhà nghiên cứu chỉ mặc quần
đùi, trong khi hai người kia mặc quần áo sạch. Hai tuần sau đó, 2 người
mặc quần áo sạch mặc bộ họ mặc trước đó, trong khi 4 người trần ngực tắm
ngay sau thí nghiệm.
Mặc dù các nhà khoa học đã nghĩ rằng da tạo
một rào cản tốt chống lại nicotine, nhưng nghiên cứu này cho thấy da của
người không hút thuốc có thể hấp thụ nicotine từ khói thuốc lá ở mức
tương tự nồng độ nicotine khi hít qua phổi. Chất này mất vài ngày để
giải phóng khỏi cơ thể.
Tắm ngay sau khi tiếp xúc với khói thuốc hay thay quần áo ngay có thể làm giảm nồng độ nicontine hấp thụ vào da.
9. Các tình nguyện viên phải hôn nhau trong 2 phút:
Nghiên cứu này được công bố năm 2013, trên tạp chí Forensic Science International: Genetics.
Các
nhà nghiên cứu ở Slovakia đã phát hiện ra rằng DNA nam giới có thể phát
hiện được trong nước bọt của người phụ nữ 10 phút sau một lần hôn dữ
dội; và có thể tìm thấy vật liệu di truyền trong ít nhất 60 phút sau khi
hôn.
Trong thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã yêu cầu
12 cặp đôi hôn nhau nồng nhiệt trong ít nhất 2 phút. Các nhà khoa học đã
kiểm tra nước bọt của người phụ nữ để lấy bằng chứng về DNA nam ngay
lập tức và 5, 10, 30 phút sau khi các cặp dừng lại.
Các tác giả
cho biết kết quả nghiên cứu này có thể áp dụng trong việc điều tra tội
phạm. Việc thu thập nhanh chóng nước bọt của một người phụ nữ có thể là
bằng chứng có giá trị để xác định các nghi phạm trong các trường hợp tấn
công tình dục và hãm hiếp.
10. Để ong đốt rất nhiều:
Bị
ong đốt thực sự rất đau, nhưng nhà côn trùng học Micheal Smith đã để
ong đốt nhiều chỗ khác nhau để thực hiện thí nghiệm của mình.
Để
tìm ra vị trí bị đốt sẽ đau nhất, Smith cho loài ong châu Âu đốt từ đầu
xuống chân trong 38 ngày. Có 25 bộ phận cơ thể khác bị đốt như má,
nách, ngón tay, sườn, bụng, và cẳng chân.
Dựa vào đánh
giá mức độ đau của chính ông, Smith nhận thấy có 3 điểm đốt đau nhất.
Trong đó lỗ mũi là vị trí đau nhất, sau đó đến nách, cuối cùng là dương
vật. Vị trí ít đau nhất là ở đầu, ngón chân và phần cánh tay.
Ông Smith cho biết, thí nghiệm này chỉ thử nghiệm trên duy nhất 1 người đàn ông vì vậy không thể đánh giá mức độ đau ở giới nữ.
Nguồn: howstuffworks.com
Khu
vực dọc theo biên giới Brazil - Peru là nhà của khá nhiều bộ lạc biệt
lập. "Không hẳn là các bộ lạc hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài
- họ vẫn kết nối với các bộ lạc khác, thậm chí kết bạn và kết hôn liên
bộ lạc," Evan Killick - giảng viên nhân chủng học tại Đại học Sussex
chuyên nghiên cứu về các bộ lạc địa phương - tiết lộ.
"Lí do họ sống cách biệt là vì lịch sử giao tranh bạo lực và bị lạm dụng," ông Killick nói.
Không
giống những bộ lạc biệt lập khác, những thổ dân này đã tự tìm cách liên
hệ với thế giới bên ngoài. Một đoạn video từ Quỹ Quốc gia Brazil cho
thấy các thổ dân sống tại Peru tự rời khỏi lãnh thổ của mình để xin
chuối từ dân làng gần đó.
"Một trong những người đó hỏi quan chức
Brazil: 'rani mi mulher?' (những người phụ nữ đâu?)," Giancarlo Rolando,
một nhà nhân chủng học tại Đại học Virginia dịch lại. "Trong những
video đó, có thể thấy một nam thổ dân trẻ cầm khẩu súng thu được từ
những người bên ngoài".
"Tại vùng Amazon, các thổ dân sử dụng cung
tên để săn bắn. Họ cũng làm nông, chủ yếu là ngô, ngoài ra họ còn trồng
cây yucca và chuối. Các thổ dân cũng khai thác và thu hoạch lâm sản như
nấm, hoa quả, cây thuốc và lá cọ để lợp mái. Theo truyền thống, họ sống
trên nhà gỗ dáng dài, xây trên đồi."
Kể từ cuộc gặp gỡ nói trên, người Xinane đã được các cán bộ Brazil chuyển tới định cư ở một khu gần đó.
Cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa bộ lạc biệt lập với người Brazil
Bộ lạc Waorani
Năm
1987, một giáo sĩ Công giáo và một nữ tu với ý định giảng đạo đã gặp
tai nạn còn kinh hoàng hơn công dân Chau. Những người tấn công họ là thổ
dân Waorani, một nhóm người Mỹ bản địa ở Ecuador.
Giáo sĩ
Alejandro Lavaca và xơ Ines Arango đã bị các thổ dân giết hại dã man
bằng 21 cây giáo. Theo tờ Washington Post, thổ dân Waorani còn nhét lá
vào các vết thương để ngăn máu lưu thông.
Hầu hết các bộ lạc sau
này đều phải chuyển nơi sinh sống vì hoạt động tham dò dầu mỏ trên đảo.
Bộ lạc Waorani thường xuyên giao tranh với bộ lạc Taromenane - một nhánh
nhỏ của Waorani - và nhiều vụ án mạng đẫm máu đã xảy ra.
Bộ lạc Ayoreo
Rất
nhiều thổ dân Ayoreo đã hòa nhập vào thế giới hiện đại, nhưng vẫn còn
những thành viên còn sống trên các hòn đảo biệt lập ở Nam Mỹ.
Bệnh dịch là mối đe dọa lớn đối với các nhóm thổ dân biệt lập trên khắp thế giới.
"Chúng
tôi muốn nói tới bệnh cúm và bệnh sởi bởi những thổ dân không hề có
miễn dịch hoặc kháng thể, vậy nên những bệnh này gây ra tỉ lệ chết cao,"
một chuyên gia nói. Hàng chục người Ayorea đã chết vì bệnh hô hấp trong
những năm 1980.
Những tổ chức như Survival International đã cố
gắng đưa thông tin về các bộ lạc này cho thế giới bên ngoài, để hạn chế
những hoạt động lấn chiếm đất do nông nghiệp, khai thác rừng và bạo lực.
Mặc
dù bộ lạc Sentinel được bảo vệ bởi pháp luật Ấn Độ - cấm người ngoài
đặt chân lên đảo - những bộ lạc khác không được may mắn như vậy. Lãnh
thổ của họ thường xuyên bị quấy rầy bởi những người lạ mặt.
"Thách
thức quan trọng nhất ở đây là bảo vệ lãnh thổ của họ. Đây là điều đặc
biệt thiết yếu. Nếu họ giữ được lãnh thổ, thì họ sẽ tiếp tục sinh tồn và
phát triển được," ông Mazower nói.
|
Tàu hộ vệ USS Albuquerque trước khi được chuyển cho Liên Xô năm 1945. Ảnh: US Navy.
|
Đầu năm 1945, khi phát xít Đức sắp bại trận, quân Đồng minh chuyển hướng
sang mặt trận Thái Bình Dương để đánh bại đế quốc Nhật Bản. Nhằm thuyết
phục Liên Xô hỗ trợ, Mỹ đã bí mật chuyển giao 180 tàu chiến để giúp
nước này tấn công vùng lãnh thổ Viễn Đông của Nhật Bản, theo War History.
Sau cuộc giao tranh đẫm máu ở khu vực Khalkhin-Gol, Mông Cổ vào năm
1939, Liên Xô và Nhật Bản từ năm 1941 quyết định tránh đối đầu nhau để
tập trung vào các mặt trận khác nhau. Liên Xô chống cuộc xâm lược của
phát xít Đức ở châu Âu, trong khi Nhật Bản tập trung đối phó quân Đồng
minh ở mặt trận Thái Bình Dương.
Cuối năm 1944, Nhật Bản vẫn còn khoảng nửa triệu quân ở Trung Quốc để
đảm bảo các tuyến đường tiếp tế thiết yếu. Tổn thất nặng nề sau cuộc tấn
công đảo Okinawa khiến phe Đồng minh hiểu rằng họ cần sự giúp đỡ của
Liên Xô. Tại hội nghị Yalta diễn ra từ ngày 4/2 đến 11/2/1945, các nước
phương Tây đã thuyết phục được Moskva tham chiến.
Liên Xô từng tiến hành một số chiến dịch hải quân quy mô nhỏ ở bán đảo
Crimea, nhưng không có kinh nghiệm tiến hành các chiến dịch chiếm đảo
kiểu nhảy cóc như Mỹ ở Thái Bình Dương, cũng như thiếu cả nhân lực và
vật lực để tiến hành các chiến dịch đổ bộ hải quân.
Chuẩn đô đốc Clarence E. Olsen, phó chỉ huy phái đoàn quân sự Mỹ tại
Moskva, đề xuất huấn luyện thủy thủ Liên Xô cùng lúc với việc bàn giao
từng loại tàu chiến.
Giữa tháng 2/1945, Mỹ chính thức khởi động chương trình huấn luyện và
chuyển giao tàu chiến cho Liên Xô với tên gọi "Dự án Hula". Toàn bộ kế
hoạch được tiến hành bí mật để tránh khiêu khích Nhật Bản và khiến nước
này chủ động tấn công Liên Xô.
|
Thủy thủ Liên Xô (trái) và thủy thủ Mỹ trong một buổi huấn luyện. Ảnh: US Navy.
|
Tổng cộng 15.000 thủy thủ Liên Xô đã được Mỹ huấn luyện và 180 tàu chiến
được bàn giao cho Liên Xô trong giai đoạn giữa năm 1945. Uy lực nhất
trong số tàu chiến này là 30 khinh hạm lớp Tacoma, mỗi chiếc có lượng
giãn nước 1.415 tấn, trang bị ba pháo 76 mm, nhiều pháo phòng không và
ống phóng bom chìm. Ngoài ra, Washington cũng chuyển cho Moskva các tàu
quét mìn lớp Admirable, tàu săn ngầm, tàu phóng lôi vỏ gỗ và tàu đổ bộ
có thể chở 200 binh sĩ.
Ngày 8/8/1945, Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Ba ngày sau, Liên
Xô dùng các tàu mới được Mỹ cung cấp để tấn công Bắc Sakhalin và quần
đảo Kuril đang nằm dưới sự kiểm soát của quân Nhật.
Ngày 4/9/1945, cuộc chiến kết thúc với phần thắng thuộc về Hồng quân
Liên Xô. Nước này sau đó bắt đầu trao trả số tàu chiến trên cho Mỹ,
nhưng Chiến tranh Lạnh khiến quá trình liên tục bị chậm trễ. Khi hầu hết
chiến hạm tới tay Mỹ, chúng xuống cấp đến mức hải quân Mỹ phải đánh
chìm hoặc tháo dỡ sắt vụn.
Duy Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét